HỌC VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ PHÁT TRIỂN
BỘ MÔN CHÍNH SÁCH CÔNG
HỌC VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ PHÁT TRIỂN
BÀI NGHIÊN CỨU
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN
VIỆT NAM TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY
Họ và tên sinh viên: NGUYỄN THỊ YẾN THƯƠNG
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG
NGUYỄN THỊ DUNG
TRỊNH THỊ THẮM
BÙI THỊ VÂN ANH
Lớp: KTĐN4B
Hà nội, tháng 11 năm 2015
MỤC LỤC
Mục Lục
Lời mở đầu
Chương I : Thực trạng của chính sách
Phần I: Giới thiệu chung
1. Chính sách tiền tệ
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
3. Căn cứ pháp lý để triển khai chính sách tiền tệ
Phần II :Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của NHNN và tác động của nó tới
nền kinh tế từ năm 2008 đến nay
1. Năm 2008
2. Năm 2009
3. Năm 2010-2015
Phần III: Phân tích chính sách
Phần VI: Đánh giá chính sách
1. Kết quả đạt được
2. Hạn chế của chính sách
Chương II: Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách
Kết luận
LỜI MỞ ĐÂU
Chính sách tiền tệ là một trong những điều tiết nền kinh tế vĩ mô cực kỳ quan trọng
của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các biến số
vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát… Để đạt được các mục
tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản,
quyết định.
Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ
của nó đang từng bước hình thành,hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với nền
kinh tế. với đặc điểm và vai trò của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn các
công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nên kinh tế luôn là vấn
thường xuyen phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và
điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là
trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu
về chính sách tiền tệ cụ thể là các công cụ chính sách của nó là một vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Với mục đích trau dồi kiến thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về chính
sách tiền tệ, chúng em quyết định chọn đề tài “Chính sách tiền tệ của Ngân hàng
trung ương Việt Nam từ năm 2008 đến nay”. Trong quá trình nghiên cứu, chúng
em không thể tránh khỏi những sai sót. Mong thầy cô và các bạn góp ý thêm để bài
nghiên cứu của chúng em được hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn.
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG CỦA CHÍNH SÁCH
Phần I: Giới thiệu chung
1. Giới thiệu chung về chính sách tiền tệ
1.1.Khái niệm
Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương khởi thảo
và thực thi, thông qua các công cụ, biện pháp của mình nhằm đạt mục tiêu: ổn định
giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế.
Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia mà chính sách tiền tệ có thể
được xác lập theo 2 hướng:
Chính sách tiền tệ mở rộng ( tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh
doanh, giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng – chính sách tiền tệ chống thất
nghiệp ).
Chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất đầu tư vào sản xuất kinh
doanh từ đó giảm lạm phát nhưng thất ngiệp tăng,- chính sách tiền tệ ổn định giá trị
đồng tiền.
1.2. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ
1.2.1. Mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng tiền.
NHTW thông qua CSTT có thể tác động tới sự tăng giảm giá trị đồng tiền của
nước mình. Giá trị đồng tiền được ổn định được xem cét trên 2 mặt: sức mua đối
nội của đồng tiền ( chỉ số giá cả hàng hóa và dịch vụ trong nước) và sức mua đối
ngoại ( tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ ). Tuy nhiên, CSTT hướng
tới ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là ty lệ lạm phát bằng không, vì vậy
nền kinh tế không thể phát triển được. Trong điều kiện nền khing tế trì trệ thì kiểm
soát lạm phát ở một tỷ lệ hợp lý sẽ kích thích tăng trưởng trở lại.
1.2.2. Mục tiêu tạo công ăn việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp
CSTT mở rộng hay thắt chặt có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng hiệu quả các
nguồn lực xã hội, kinh mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất
nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghiệp giảm thì pahir chấp nhận một
tỷ lệ lạm phát gia tăng.
1.2.3. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định các
chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc
biệt là việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng, nó thể hiện lòng tin của
dân chúng với Chính phủ. Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên
đạt được một cách hài hòa.
1.2.4. ổn định thị trường tài chính
Tình hình khủng hoảng kinh tế có thể làm giảm khả năng của thị trường tài chính
trong việc tạo kênh dẫn vốn cho người có cơ hội đầu tư vào sản xuất, qua đó làm
giảm quy mô hoạt động kinh tế.Bởi vậy, việc tạo ra hệ thống tài chính ổn định hơn,
tránh được các cuộc khủng hoảng tài chính là mục tiêu quan trọng của NHTW.
Sự ổn định thị trường tài chính được hỗ trợ bởi sự hỗ trợ bởi sự ổn định lãi suất,
bởi vì sự biến động của lãi suất tạo ra sự bất định lớn cho các định chế tài chính.
Sự ra tăng lãi suất tạo ra các tổn thất lớn về vốn cho trái phiếu dài hạn và các
khoản cho vay cầm cố, cũng như những tổn thất này có thể làm cho các định chế
tài chính nắm giữ nó sụp đổ.
1.2.5. ổn định thị trường hối đoái
Với tầm quan trọng ngày càng tăng của tỷ giá hối đoái trong thương mại quốc tế,
ổn định tỷ giá là mục tiêu mong muốn của CSTT. Tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng
đến sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ trong nước so với nước ngoài. Ngoài
ra, ổn định tỷ giá giúp các doanh nghiệp và cá nhân trao đổi hàng hóa với nước
ngoài dễ dàng lập kế hoạch.
1.2.6. ổn định thị trường lãi suất
Sự biến động của lãi suất có thể tạo ra tính bất định trong nền kinh tế và khó khăn
cho lập kế hoạch cho tương lai. Biến động của lãi suất ảnh hưởng tới lượng dự trữ,
mức chi tiêu của người dân và đồng thời ảnh hưởng tới khả năng mở rộng sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp.
Giữa các mục tiêu trên có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau, không tách rời.
Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với
nhau thậm trí triệt tiêu lẫn nhau. Vậy để đạt được các mục tiêu trên một cách hài
hòa thì NHTW trong khi thực hiện CSTT thì phải có sự phối hợp với các chính
sách kinh té vĩ mô khác.
1.3. Công cụ để triển khai chính sách tiền tệ
1.3.1. Công cụ trực tiếp
•
Kiểm soát hạn mức tín dụng
Mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các tổ chức tín dụng tuân thủ
khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Để hạn chế việc tạo tiền quá mức của NHTW,
NHTW qua định hạn mức tín dụng tối đa cho các NHTM.
Ưu điểm: là công cụ quan trọng khi các công cụ truyền thông kém hiệu quả.
Nhược điểm: khống chế hạn mức tín dụng làm lãi suất thị trường tăng, làm giảm
cạnh tranh giữa các NHTM.
•
Quản lý lãi suất của các NHTM
NHTW có thể trực tiếp quy định khung lãi suất của các NHTM .
Ưu điểm: tác động nhanh, trực tiếp tới lãi suất của các NHTM, nhờ đó tác động tới
tăng trưởng tín dụng của hệ thống nhân hàng. Đây là công cụ quan trọng khi các
công cụ gián tiếp kém hiệu quả.
Nhược điểm: là một công cụ cứng nhắc, kiểm soát lãi suất triệt tiêu cạnh tranh giữa
các NHTM, dễ gây tác động xấu tới tiết kiệm và đầu tư. Vì vậy, nó thường chỉ
được sử dụng trong điều kiện nền kinh tế vĩ mô ổn định chưa được thiết lập, hay
các yếu tố thị trường chưa phát triển hoàn chỉnh. Ngoài ra, các NHTM có thể
ngầm không tuân theo khung lãi suất quy định của NHTW.
1.3.2. Công cụ gián tiếp
•
Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là việc NHTW bán các giấy tờ có giá trị ngắn hạn trên thị
trường tiền tệ, chủ yếu là tín phiếu kho bạc, nhằm làm tăng hoặc giảm lượng tienf
cung ứng. Đây là công cụ quan trọng nhất của NHTW trong việc điều tiết lượng
tiền cung ứng.
Hàng hóa: (tiến phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, trái phiếu chính
phủ)
Cơ chế tác động:
-Bán các giấy tờ có giá: thu hẹp tín dụng
-Mua các giấy tờ có giá : mở rộng tín dụng
Ưu điểm:
-NHTW có thể kiểm soát hoàn toàn lượng nghiệp vụ thị trường mở
-Linh hoạt và chính xác cao
-NHTW có thể dễ dàng đảo ngược tình thế của mình
-Nhanh chóng , ít tốn kém chi phí và thời gian
Nhược điểm: là công cụ được thực hiện qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc
vào chủ thể khác trên thị trường. Ở Việt Nam do thị trường chứng khoán chính
phủ chưa phát triển nên NHNN phát hành tín phiếu NHNN để điều tiết việc cung
ứng tiền tệ. Tuy nhiên do thị trường tín phiếu này chỉ diễn ra một bên là NHTW và
NHTM nên hiệu quả điều tiết không cao, chỉ chủ yếu tác động vào dự trữ của các
NHTM. Hiện nay trên thị trường mở chủ yếu là kỳ hạn 7 ngày, các kỳ hạn dài hơn
chưa có.
•
Chính sách chiết khấu
Chính sách chiết khấu là công cụ của NHTW trong việc thực thi chính sách tiền tệ,
bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng kinh doanh.
Cơ chế tác động: NHTW tăng giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu phụ
thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ là nới lỏng hay thắt chặt.
Ưu điểm: NHTW là người cho vay cuối cùng, kiểm tra chất lượng tín dụng của các
NHTM, bơm tiền vào nền kinh tế, NHTM sẽ có chỗ dựa cho NHTW.
Nhược điểm: NHTW thường bị động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng.
NHTW chỉ có thể thay đỗi lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt các NHTM đến
vay chiết khấu ở NHTW.
•
Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải giữ lại mà không được
dùng để cho vay hay đầu tư. Mức dự trữ của NHTW quy định và bằng một tỉ lệ
nhất định so với toongt tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng.
-
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến cơ chế tạo bội số tiền gửi của NHTM.
NHTW tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm hệ số tạo tiền thu hẹp
hoặc tăng lên.
-
-
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến lãi suất cho vay của NHTW. Khi tỷ lệ
này tăng, đòi hỏi NHTM tăng lãi suất cho vay, khả năng cho vay của NHTM
giảm, lượng tiền cung ứng giảm.
Ưu điểm:
ảnh hưởng một cách bình đẳng đến tất cả các ngân hàng.
Là công cụ có ảnh hưởng rất mạnh đến lượng tiền cung ứng.
Nhược điểm:
Phức tạp, kém linh hoạt, không thể thực hiện những thay đổi nhỏ trong
lượng tiền cung ứng bằng công cụ dự trữ bắt buộc.
ảnh hưởng đến lợi nhuận của NHTM.
Dự trữ bắt buộc đóng vai trò kém quan trọng.
Phần II. Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của NHNN và tác động của
nó tới nền kinh tế từ năm 2008 tới nay.
1.
•
Năm 2008
Theo nhận định của nhiều chuyên gia tài chính trong và ngoài nước, việc
điều hành chính sách tiền tệ trong những năm 2008 đã thực sự thành công,
NHNN đã có những quyết định hết sức nhanh nhạy, kịp thời trong điều kiện
lãi suất và tỷ giá… và những liệu pháp đó đã nhanh chóng thành công có tác
động điều tiết rõ rệt đối với thị trường. có thể điểm lại một số công cụ sau:
Lãi suất
Lãi suất cơ bản là công cụ có sức công phá lớn và có vai trò quan trọng trong
điều hành CSTT của NHNN Việt Nam. Năm 2008, NHNN đã có những điều
hành linh hoạt lĩa suất phù hợp diễn biến kinh tế vĩ mô. Cụ thể:
Trong 8 tháng đầu năm 2008, trước bối cảnh lạm phát và nhập siêu tăng mạnh,
đe dọa đến sự ổn định kinh tế vĩ mô, cùng với giải pháp thắt chặt tiền tệ, NHNN
đã từng bước điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản và mức lãi suất khác cho phù hợp
với mục tiêu kiểm soát chặt chẽ tiền tệ. lãi suất cơ bản tăng 8.28% /năm lên
8.75%/năm rồi 12%, 14%/năm. Đồng thời, từ ngày 19/5/2008 thay đổi cơ chế
điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với Luật NHNN và Bộ luật Dân sự, các tổ
chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh bằng VND đối với khách hàng không
vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong thời kỳ đó. Lãi suất tái
cấp vốn tăng từ 6.5%/năm lên 7.5%/năm; 13%và 15%/năm, lĩa suất tái chiết
khấu tăng từ 4.5%/năm lên 6%; 11% rồi 13%/năm.
Trong những tháng cuối năm 2008, lạm phát có xu hướng giảm dần đồng thời
trong khi đó thì tăng trưởng kinh tế đã có sự suy giảm mạnh so với năm 2007
do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. tình hình này đòi hỏi NHNN
phải có những bước đi thận trọng nhằm tiếp tục kiểm soát lạm phát nhưng đồng
thời góp phần tăng đầu tư sản xuất, kinh doanh để ngăn chặn đà suy giảm kinh
tế. Trong bối cảnh, NHNN 5 lần điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản từ 14%xuống
13%; 12%;11%;9.5% và 8.5%/năm. Lãi suất tái cấp vốn từ 15% xuống
14%;13%;12%;11% và 9.5%/năm. Lãi suất tái chiết khấu từ 13% xuống
12%;11%;10%;9% và 7.5%/năm.
1/1
8.25
1/2
8.75
19/5
12
11/6
15
21/10
14
5/11
12
Lãi
suất cơ
bản
Lãi
7.5
13
14
13
11
suất tái
cấp
vốn
Lãi
6
11
13
12
10
suất tái
chiết
khấu
Biểu đồ biểu diễn lãi suất chủ chốt trong năm 2008(%)
•
21/11
11
22/12
9.5
10
8.5
9
7.5
Dự trữ bắt buộc
Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, tháng 2/2008, NHNN điều chỉnh tăng
1% tỷ lệ DTBB đối với tất cả các loại kỳ hạn, áp dụng cho cả tiền gửi VND và
ngoại tệ đối với hầu hết các TCTD. Đồng thời mở rộng diện phải DTBB đối với
tiền gửi có kỳ hạn 24 tháng trở lên nhằm nâng cao khả năng điều tiết công cụ
DTBB. Những tháng cuối năm 2008, để hỗ trợ cac TCTD tăng cung ứng vốn
cho nền kinh tế, ngăn chặn suy giảm kinh tế, NHNN đã thực hiện 5 lần điều
chỉnh giảm tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới
12 tháng từ 11%-10%-8%-6%-3%, kỳ hạn 12 tháng trở lên điều chỉnh giảm từ
2% xuống 1%; 2 lần điều chỉnh giảm tỷ lệ DTBB đối với ngoại tệ từ 11%-9%7%
Cùng với việc điều chỉnh tỷ lệ DTBB, NHNN còn linh hoạt điều chỉnh lãi suất
tiền gửi DTBB bằng VND của các TCTD tại NHNN, điều chỉnh tăng lãi suất
tiền gửi DTBB từ 1.2% lên 3.6%-5%-10%/năm sau đó điều chỉnh giảm từ 10%
xuống 8.5%-3.5%/năm. Việc điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi DTBB tạo điều
kiện cho TCTD hạ lãi suất huy động cho vay.
Diễn biến Dự trữ bắt buộc năm 2008
Đơn vị %
2008(5 lần thay đổi)
Lần 1
Lần 2
Tỷ lệ DTBB
- Không kỳ
hạn
và
dưới 12
tháng
+VND
11
+Ngoại tệ
11
-12-24 tháng
+VND
5
+Ngoại tệ
5
Ngoài ra, NHNN còn phát
NHTM.
•
10
9
Lần 3
Lần 4
Lần 5
8
9
6
7
5
7
4
2
2
1
3
3
3
3
hành trên 20000 tín phiếu bắt buộc đối với các
Nghiệp vụ thị trường mở
Một trong những công cụ quan trọng không thể không nhắc đến của CSTT là
nghiệp vụ thị trường mở.
Kết quả giao dịch OMO 2008:
Loại gia dịch
Tổng
kiến
số
Mua có kỳ
hạn(260
phiên)
Bán hẳn(133
phiên)
Bán có kỳ
hạn(9 phiên)
Tổng số
979.800
dự Khối
lượng Khối
lượng LS trúng thầu
đăng ký
trúng thầu
b.quân
(%/năm)
3.883.089
947.205
12,92
368.000
135.553
76.837
4,6
12.022
12.022
12.022
14,91
1.359.822
1.030.673
1.036.066
Năm 2008 ngiệp vụ thị trường mở đảo chiều so với năm 2007 với tổng số phiên
gaio dịch là 402 phiên, tăng 47 phiên so với năm 2007, doanh số giao dịch đạt
1.036.066 tỷ đồng, tăng 148% so với năm 2007, trong đó dân số mua 91.42%
và gấp 15 lần so với 2007, doanh số bán giảm 4.6%. Đặc biệt, mức lãi suất đặt
thầu trong một số phiên mua kỳ hạn trong quý 1 năm 2008 ở mức lãi suất cao
có lúc lên tới 40%/năm vì vậy NHTW đã áp dụng phương thức đấu thầu khối
lượng, lãi suất thống nhất cho tất cả các kỳ hạn giao dịch( từ 9-15%/năm) để ổn
định lãi suất thị trường. diễn biến này phản ánh những biến động bất thường của
thị trường tiền tệ năm 2008 và khó khăn về thanh khoản của các TCTD. Kết
quả giao dịch từng quý thể hiện như sau:
Giao
dịch
Quý 1
LS(% KL(tỷ)
)
Mua
12,18 190.21
kỳ hạn
4
Bán
8,5
1.867
hẳn
Bán
14,91 12.022
kỳ hạn
Quý 2
LS(% KL(tỷ)
)
11,88 445.00
0
1.578 1.578
Quý 3
LS(% KL(tỷ)
)
15
283.10
0
Quý 4
LS(% KL(tỷ
)
)
13,6
28.891
4,5
74.986
Trong quý I, trên thị trường mở diễn ra cả 2 loại giao dịch mua và bán nhưng kết
quả mua là chủ yếu ( khoảng 93%) và áp dụng cả 2 phương pháp đấu thầu là đấu
thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng, thời hạn giao dịch phổ biến là 7 và 14 ngày
trong nghiệp vụ Mua kỳ hạn trên thị trường mở. từ tháng 2/2008, do tình hình lãi
suất đấu thầu và thắng thầu cao, NHTM chỉ sử dụng phương pháp đấu thầu khối
lượng, mức lãi suất thống nhất được sử dụng trong tuần đầu tiên là 15% nhằm tạo
định hướng cho thị trường, trong các tuần tiếp theo lãi suất được điều chỉnh giảm
xuống 14%;13%;10% và 9% cho phù hợp với lãi suất cơ bản do NHNN công bố.
Sang quý II, để đảm bảo tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, NHNN một
mặt áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ nhưng mặt khác vẫn hỗ trợ thanh khoản
cho các TCTD qua kênh OMO. Lượng vốn bơm ra thị trường trong thời kỳ này đạt
kỷ lục là 445.000 tỷ đồng, chiếm 99.65% tổng khối lượng giao dịch OMO trong
quý II. NHNN tiếp tục áp dụng hình thức đấu thầu khối lượng với mức lãi suất
thống nhất được điều chỉnh tăng dần từ 9%-12%/năm.
Quý III, tình hình vốn trên thị trường bớt căng thẳng, NHNN tiếp tục tổ chức mua
kỳ hạn trên thị trường mở và duy trì hình thức đấu thầu khối lượng với mức lãi suất
được điều chỉnh tăng lên 15%/năm cho phù hợp với định hướng điều hành lãi suất
và kiềm chế lạm phát của NHNN.
Quý IV, lạm phát được kiềm chế và Chính phủ uuw tiên cho mục tiêu chống suy
giảm kinh tế, nguồn vốn khả dunhj của các TCTD đã được cái thiện đáng kể. hình
thức đấu thầu khối lượng nhưng lãi suất đấu thầu được điều chỉnh giảm dần từ
15%/năm xuống 9%/năm. Kết quả, lượng vốn đưa ra qua kênh mua chỉ bằng
38,35% so với lượng vốn hút qua kênh bán.
Với hiệu quả rõ rệt của nghiệp vụ thị trường mở, số lượng thành viên tham gia
nghiệp vụ này tăng từ mức 44 TCTD trong năm 2007 lên 56TCTD trong năm
2008, tỷ lệ thành viên tham gia giao dịch cũng tăng từ mức 21 TCTD lên mức 35
TCTD.
•
Về tỷ giá
Năm 2008, thị trường tỷ giá biến động rất phức tạp.
Quý I, trên thị trường liên ngân hàng, tỷ giá USD/VND có xu hướng giảm
nhưng không quá mạnh, từ mức 16.112 USD/VND vào ngày 21/1/2008 xuống
còn 15.960 VND/1USD vào ngày 27/3/2008, còn trên thị trường tự do, mức giá
lúc đó chỉ còn từ 15.700-15.800 VND/USD. Đồng thời NHNN 0Việt Nam điều
chỉnh tăng biên độ tỷ giá từ -0.75%->+0.75% đầu năm 2008 lên -1 ->+1%
ngày 10/3/2008. Trong quý I năm 2008, tỷ giá giảm do lượng kiều hối dồn về
nhiều từ cuối năm 2007 đến tháng 2/2008, áp lực từ việc nhà đầu tư nước ngoài
mua trái phiếu Chính phủ khoảng 1.4 tỷ USD, doanh nghiệp xuất khẩu vay
USD chuyển đổi ra VND sản xuất kinh doanh, các NHTM bán USD để có trạng
thái đoản.
Đến quý II, do ảnh hưởng của nhiều yếu tố: thâm hụt cán cân thương mại(7,22
tỷ USD trong 3 tháng từ tháng 4-6); nhu cầu ngoại tệ trả các khoản nợ của cả
doanh nghiệp xuất khẩu đến hạn cao, tăng nhập khẩu vàng do chênh lệch lớn
giữa giá vàng trong nước và quốc tế; nhad đầu tư nước ngoài rút vốn khoie Việt
Nam bằng việc bán trái phiếu Chính phủ ròng chuyển ngoại tệ về nước do ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, tỷ giá có xu hướng tăng. Ngày 1/4/2008
tỷ giá bình quân liên ngân hàng là 15.960 VND/USD liên tục tăng nhẹ lên mức
16.514 VND/USD. Ngày 30/6/2008 từ 16.514 VND/USD. NHNN đã quyết
định nới biên độ dao động từ +-1leen +-2%( từ ngày 26/6/2008) đồng thời khai
triển hàng loạt các biện pháp khác: kiểm soát chặt chẽ các đại lý thu đổi ngoại
tệ, tăng cường truyền thông,… Nhờ đó, tỷ giá dần dịu lại và duy trì ở mức gần
16.500 cho đến quý 3/08. Thế nhưng, từ tháng 9, tỷ giá USD biến động bất
thường, đầu tiên giảm từ mức 16515 ngày 1/10/08 xuống 16494 ngày 24/12 rồi
tăng lên mức 16.969 VND/USD. Còn trên thị trường tự do, tỷ giá đã thiết lập
trên mốc 17000 VND/1USD từ khá lâu. Từ ngày 7/11/2008, biên độ tỷ giá giao
dịch USD/VND được mở rộng từ mức 2% lên 3% so với tỷ giá bình quân liên
ngân hàng do NHNN công bố. biên độ tỷ giá tiếp tục tăng từ +-2%lên +-3% vào
ngày 7/11/2008.
Từ cuối năm 2008, suy thoái kinh tế đã tác động đến nguồn cung ngoại tệ của
Việt Nam. Theo nghiên cứu, chỉ trong tháng 9 và 11/2008, khối đầu tư nước
ngoài đã bán ròng 0,7 tỷ USD của các ngân hàng nức ngoài vẫn cao. Thêm vào
đó, thâm hụt thương mại có dấu hiệu tăng trở lại. chỉ trong 2 tháng 10 và
11/2008, thâm hụt thương mại lên tới 1,17 tỷ USD. Ngoài ra, một áp lực nữa
làm cho USD tăng là do Nhà nước không cho nhập khẩu vàng, làm tăng cầu
USD tăng để nhập khẩu lậu vàng. Cộng thêm tâm lý gặm giữ ngoại tệ của dân
cư đã dẫn tới tình trạng khan hiếm ngoại tệ, làm cho tỷ giá ngoại tệ luôn nóng,
phổ biến ở mức gần 1800. NHNN đã thêm lần nữa điều chỉnh biên độ giao động
tỷ giá và triển khai một số công cụ khác. Vì vậy, tỷ giá ngoại tệ dần ổn định,
nhu cầu ngoại tệ trong thanh toán những mặt hàng thiết yếu được đáp ứng đầy
đủ.
2. Năm 2009
Bước vào năm 2009, một năm mà CSTT đã phải đối mặt với nhiều thách
thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của
khủng hỏang tài chính và suy thoái kinh tế. Nhìn nhận một cách khách quan có thể
thấy, lạm phát cao năm 2008, cùng với sự đảo chiều của vốn đầu tư nước ngoài và
thâm hụt mạnh cán cân thương mại (12,783 tỉ USD) đã có tác động mạnh đến tâm
lí các nhà đầu tư trên thị trường ngoại hối, gây những biến động khó lường đến tỉ
giá. Thêm vào đó, giải pháp hỗ trợ lãi suất có tác động tích cực hỗ trợ doanh
nghiệp phục hồi sản xuất, làm khởi sắc thị trường chứng khoán, bất động sản và thị
trường tín dụng, nhưng cũng gây sức ép tăng kối lượng tiền trong nền kinh tế, tín
dụng tăng trưởng cao và áp lực giảm giá VNĐ.
Trước những tác động bất lợi như vậy, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã
thực thi CSTT một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để
giữ bình ổn thị trường. Từ đầu năm 2009 đến nay, để tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp và dân cư trong xã hội tiếp cận được với vốn vay của hệ thống ngân hàng
theo tinh thần của các goi giải pháp kích cầu của chính phủ cũng như tạo điều kiện
cho các NHTM hoạt động ổn định và hiệu quả, NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo
từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỉ lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%. Thị trường tiền
tệ từng bước được bình ổn, tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối
có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu, lo ngại rủi ro biến động tỉ giá, các doanh nghiệp có tâm lí găm giữ ngoại tệ.
Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VNĐ và việc
điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VNĐ, nhiều doanh nghiệp không muốn vay
ngoại tệ mà chuyển sang vay VNĐ để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ
tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng. Để tăng nguồn cung và
ổn định thị trường ngoại tệ, NHN đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp như mở
rộng biên độ ấn định tỉ giá mua bán USD/VNĐ của các NHTM từ +/-3% lên +/-5%
so với tỉ giá bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp với các biện pháp điều tiết
cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các
mặt hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hòa ngoại tệ trên thị
trường ngoại tệ trên ngân hàng.
Đồng thời trình Thủ tướng chính phủ giao Bộ Tài chính bán nguồn ngoại tệ
thu được từ phát hành trái phiếu Chính phủ cho NHNN; đề nghị một số doanh
nghiệp nhập khẩu lớn chuyển từ mua ngoại tệ sang vay bằng ngoại tệ; phối hợp
chặt chẽ với Bộ Công thương trong việc kiểm soát nhập siêu và đáp ứng các nhu
cầu ngoại tệ thiết yếu của nền kinh tế. Các biện pháp chấn chỉnh hoạt động ngoại
hối cũng được tăng cường như phối hợp với các bộ, ngành kiểm tra, xử lí phạm vi
đối với các hành vi quảng cáo, niêm yết giá hàng hóa bằng ngoại tệ, mua, bán
ngoại tệ trái phép; tăng cường kiểm tra hoạt động mua bán ngoại tệ của các NHTM
và hoạt động của các đại lí đổi ngoại tệ, xử lí nghiêm các vi phạm.
Đặc biệt, áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lí găm giữ của các doanh
nghiệp và người dân như đẩy mạnh công tác tuyên truyền và công bố công khai,
rộng rãi các thông tin về tình hình ngoại hối, tỉ giá; yêu cầu các NHTM nhà nước
giảm lãi suất cho vay và huy động bằng ngoại tệ ( lãi suất cho vay giảm từ mức 66,5%%/năm xuống không quá 4%/năm kể từ ngày 15/4/2009 và giảm tiếp xuống
mức không quá 3%/năm kể từ ngày 01/06/2009, lãi suất huy động giảm xuống mức
không quá 1,5%/năm kể từ ngày 01/06/2009). Đồng thời đề nghị Hiệp hội ngân
hàng yêu cầu các NHTM cổ phần đồng thuận giảm lãi suất huy động và ch vay
bằng ngoại tệ như các NHTM nhà nước kể từ ngày 08/06/2009. Các biện pháp trên
đã có tác động giảm áp lực thiếu cung ngoại tệ trên thị trường, giữ được thị trường
ổn định.
Tuy nhiên diễn biến kinh tế những tháng cuối năm vẫn tiếp tục là thách thức
cho thực thi CSTT như thâm hụt cán cân thương mại không được cải thiện mà vẫn
tiếp tục gia tăng (theo số liệu của Tổng cục Hải quan 11 tháng tổng kim ngân
hàngạch xuât nhập khẩu cả nước đạt 113,6 tỉ USD, giảm 14,7% so với cùng kì năm
2008, trong đó, xuất khẩu là 51,33 tỉ USD, giảm 11,5% và nhập khẩu là 62,28 tỉ
USD, giảm 17%. Cán cân thương mại hàng hóa 11 tháng thâm hụt 10,95 ti USD
bằng 21,3% xuất khẩu, nguồn bù đắp cho thâm hụt này suy giảm như nguồn đầu tư
trực tiếp nước ngoài giảm sút mạnh so với năm 2008, đầu tư gián tiếp nước ngoài
không tăng mà còn giảm; nguồn kiều hối cũng giảm do khủng hoảng kinh tế toàn
cầu.. do vậy dẫn đến thâm hut cán cân thanh toán, tình hình này tiếp tục gây bất lợi
cho việc ổn định tỉ giá. Thêm vào đó, thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 mức
thâm hụt ngân hàng ở mức 6,5% GDP buộc ngân sách phải vay nợ nhiều, qua đó
gâp áp lực giảm giá VNĐ. Trên thị trường tiền tệ xuất hiện những hiện tượng bất
cập, mâu thuẫn nhau: Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, nhưng chưa đáp ứng đủ nhu
cầu vay vốn của doanh nghiệp, VNĐ vẫn khan hiếm, biểu hiện ở áp lực tăng lãi
suất, thanh khoản VNĐ mỏng manh. Sự khan hiếm tiền đồng về mặt lí thuyết là
làm cho VNĐ lên giá. Nhưng chính sách điều tiết vĩ mô thì lãi suất lại thấp ( lãi
suất cho vay hỗ trợ, trần lãi suất cho vay..) gây áp lực giảm giá VNĐ, đồng thời
kích thích nhu cầu sử funjg tiền đồng tăng nhu cầu tín dụng, gây ra vòng xoáy khan
hiếm tiền đồng, gây áp lực cho NHNN phải cung ứng thêm tiền đồng. Điều này
tiếp tục gây áp lực giảm giá VNĐ. Đồng thời sự biến động mạnh của giá vàng
cũng có những tác động bất lợi đến tỉ giá. Trước tình hình này, ngày 26/11, NHNN
đã kịp thời điều chỉnh tỉ giá, nâng tỉ giá công bố lên 17.980 VND/USD, tăng 5,4%
so với ngày trước đó, thu hẹp biên độ tỉ giá từ +/-5% xuống còn +/-3%, đồng thời
yêu cầu các tổ chức tí dụng thực hiện nghiêm biên độ tỉ giá. Bên cạnh đó, các tổ
chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống lại được NHNN bán ngoại
tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng cam kết cung cấp đủ ngoại tệ cho các
doanhnghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt ưu tien những mặt hàng nhập khẩu phục vụ
sản xuất. Đồng thời với điều chỉnh tỉ giá, NHNN đã thực hiện nâng các mức lãi
suất chỉ đạo lên thêm 1%. Đây là giải pháp có tính đồng bộ, phù hợp với tình hình
thực tế vừa có tác dụng tiếp tục duy trì tăng trưởng của nền kinh tế đồng thời chủ
động ngăn chặn nguy cơ lạm phát và trước mắt ổn định thị trường ngoại hối.
3. Năm 2010
Năm 2010, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận
trọng, phù hợp với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và bám sát tình
hình thực tế, góp phần quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, cụ thể
là:
Với mục tiêu duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh
tế bền vững trong năm 2010, chủ động đối phó với diễn biến phức tạp của thị
trường tài chính và kinh tế thế giới, NHNN đã quyết định điều chỉnh lãi suất cơ
bản tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, tăng lãi suất tái cấp vốn tăng từ 7%/năm lên
8%/năm, lãi suất chiết khấu tăng từ 5%/năm lên 6%/năm áp dụng từ 1/12/2009.
Phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương triển khai Nghị định số 41/2010/NĐ-CP
ngày 12/4/2010 về chính sách tí dụng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông
thôn, trong đó quy định hộ sản xuất và hợp tác xã vay vốn từ 50-500 triệu đồng
không phải thế chấp, cầm cố tài sản; ban hành cơ chế khuyến khich các tổ chức tín
dụng mở rộng cho vay vốn đối với nông nghiệp và nông thôn với lãi suất thấp hơn
lĩnh vực khác, thông qua giảm dự trữ bắt buộc cho vay tái cấp vốn mở lãi suấtộn
mạng lưới TCTD. Bên cạnh đó, NHNN chỉ đạo các TCTD tập trung vốn cho vay
đối với xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, khắc phục hậu quả thiên tai. Tín dụng
đối với nền kinh tế tăng 27,65% (giảm dần trong 3 tháng cuối năm ); tín dụng đối
với nông nghiệp và nông thôn tăng 23,2%, cao hơn năm 2009 (18,8%).
Trong 10 tháng đầu năm, lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn ổn định ở mức
8%/năm, kết hợp với điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và giám sát việc
thực hiện các tỉ lệ an toàn của TCTD, đã điều tiết lãi suất huy động và cho vay
giảm dần theo chỉ đạo của Chính phủ (đến cuối tháng 10, lãi suất huy động VND
bình quân 10,44%/năm, cho vay 13,18%/năm).
Hai tháng cuối năm, NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản và tái cấp vốn tăng 1%/năm,
kết hợp với điều hành chặt chẽ lượng tiền cung ứng, quy định trần lãi suất huy
động VND 14%/năm để ổn định thị trường tiền tệ, đã làm tăng lãi suất thị trường
và giảm cầu tín dụng (cuối tháng 12, lãi suất huy động VND bình quân
12,44%/năm, cho vay nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu 12-14%/năm; lãi suất thị
trường nội tệ liên hàng 9,5-12%/năm. Điều chỉnh tỉ giá mua bán ngoại tệ của các
TCTD tăng 5,52%; thực hiện các biện pháp ổn định thị trường tiền tệ, như kết hợp
ngoại tệ đối với 7 tập đoàn, tổng công ty nhà nước, quy định trần lãi suất tiền gửi
của tổ chức kinh tế bằng USD 1%/năm, bán ngoại tệ cho nhập khẩu mặt hàng thiết
yếu, chỉ đạo các TCTD hạn chế cho vay nhập khẩu mặt hàng không thiết yếu và
không khuyến khích. Thị trường ngoại tệ và tỉ giá tương đối ổn định trong hơn 9
tháng đầu năm; từ tháng 10, tỉ giá thị trường tăng phù hợp với các điều kiện kinh tế
vĩ mô.
Thực hiện các giải pháp kiểm soát chặt chẽ thị trường vàng ngay từ đầu năm. Đóng
cửa sàn giao dịch vàng và chấm dứt kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài;
điều hành xuất nhập khẩu vàng phù hợp với nhu cầu thị trường; ban hành Thông tư
số 22/2010/TT-NHNN ngày 29/10/2010 thu hẹp huy động và cho vay bằng vàng;
phối hợp với các bộ, ngành chống đầu cơ, buôn lậu vàng. Giá vàng trong nước tăng
bám sát giá thế giới, hiện tượng tâm lí đám đông và đầu cơ có xu hướng giảm.
Giám sát chặt chẽ diễn biến thị trường tiền tệ và thực hiện các giải pháp đảm bảo
an toàn hệ thống. Hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM; ban hành quy định mới phù
hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và điều kiện thực tế của hệ thống TCTD nước
ta về tỉ lệ an toàn, cấp giấy phép thành lập và hoạt động NHTM cổ phần, sáp nhập,
hợp nhất, mua lại TCTD, quản trị kinh doanh của NHTM; giãn tiến độ tăng vốn
điều lệ của các TCTD theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP đến cuối năm 2011; Cơ
quan Thanh tra giám sát, NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố tăng cường thanh tra,
kiểm tra các TCTD. Năm 2010, tài sản có của hệ thống TCTD tăng 28%, tỉ lệ an
toàn kinh doanh phù hợp với quy định của NHNN, tỉ lệ nợ xấu khoảng 2,5%; tình
hình thanh khoản và lãi suất thị trường tiền tệ trong nửa cuối tháng 12 tương đối ổn
định.
4. Năm 2011
Lãi suất có xu hướng tăng cao từ đầu năm 2011 do áp lực của lạm phát. Tuy nhiên,
trong quý 3/2011, lãi suất cho vay VND có xu hướng giảm nhưng không nhiều, do
can thiệp của NHNN buộc các ngân hàng thực hiện nghiêm chỉnh quy định về trần
lãi suất và thành lập nhóm 12 ngân hàng lớn để ổn định thị trường. Lãi suất liên
ngân hàng so với cuối năm 2011, tăng mạnh trong quý 1/2011, sau đó giảm nhẹ
trong 2 quý tiếp theo và đột ngột tăng cao vào thời điểm cuối năm 2011.Tín dụng
tăng ở mức 12%, so với mức 29,8% của năm 2010 và cung tiền tăng ở mức 10% so
với mức 25,3% của năm 2010. Tuy nhiên trong tháng 8/2011, cung tiền đã bất
ngân hàngờ tăng tới 5,56% so với tháng trước
Nhưng sau đó với động thái bơm ròng 22000 tỷ đồng qua nghiệp vụ thị trường
mở, lãi suất liên ngân hàng đã giảm trong tháng 9/2011. Và vào thời điểm cuối
năm khi nhu cầu thanh toán tăng lên lãi suất liên ngân hàng đã tăng cao trở lại. Có
một hiện tượng đáng chú ý là đường cong lãi suất bị đảo ngược đối với lãi suất liên
ngân hàng kì hạn 6 tháng và 12 tháng.
Tỉ giá nhìn chung đươc duy trì ổn định hơn trong năm 2011, sau lần điều chỉnh
tăng 9,3% vào tháng 2/2011, đến cuối năm 2011 tỉ giá liên ngân hàng chỉ tăng
0,7%, thấp hơn so với tăng 5,5% của năm 2010. Thị trường ngoại hối tiếp tục giữ
ổn định trong tháng 1/2012.
5. Năm 2012
NHNN duy trì áp dụng biện pháp hành chính là áp trần lãi suất huy động. Lãi suất
tái cấp vốn đã giảm từ 15% xuống còn 10%, lãi suất tái chiết khấu đã giảm từ 13%
xuống còn 8%, và trần lãi suất huy động kì hạn ngắn ngày giảm từ 14% xuống còn
9%.
Song song với động thái kéo giảm trần lãi suất huy động, NHNN cũng đã áp trần
lãi suất cho vay đối với 4 lĩnh vực ưu tiên: Phục vụ lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn; Thực hiện phương án, dự án sản xuất- kinh doanh hàng xuất khẩu, Phục vụ
sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa; Phát triển ngành công nghiệp
hỗ trợ; hay kêu gọi đưa lãi suất cho vay cũ về mức 15%...
Trong những ngày đầu tháng 2/2012, NHNN đã ban hành Chỉ thị 01/CT-NHNN và
Công văn 674/NHNN-CSTT về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ năm 2012.
Trong đó đáng chú ý nhất là cơ quan này ấn định chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng tín
dụng năm 2012 đối với các TCTD theo 4 nhóm: nhóm 1 tăng trưởng tối đa 17%,
nhóm 2 tăng trưởng tối đa 15%, nhóm 3 tăng trưởng tối đa 8% và nhóm 4 không
được tăng trưởng. Thoạt đầu việc phân loại này tỏ ra hiệu quả khi có tác dụng
khoanh vùng nhóm đối tượng để quản lí. Tuy vậy, sau một thời gian, một số ngân
hàng đã được NHNN nâng hạn mức tín dụng lên đến 25-27% (gấp 1,5- 2 lần hạn
và e ngân hàngại nợ xấu tăng cao.
Thông tư số 21/2012/IT-NHNN ban hành những quy định đối với hoạt động liên
ngân hàng đã ra đời và có hiệu lực từ ngày 01/09/2012. Giao dịch trên thị trường
liên ngân hàng sau đó được ghi nhận kém sôi động hơn, trước một số nội dung khá
chặt chẽ như hình thức tiền gửi được chuyển thành tiền vay, TCTD bị hạn chế đi
vay nếu có khoản nợ quá hạn từ 10 ngày trở lên hay yêu cầu trích lập dự phòng rủi
ro đối với các giao dịch…
Thời điểm 25/11/2012 được xem là cột mốc quan trọng đối với thị trường vàng khi
NHNN yêu cầu các TCTD phải chấm dứt các hoạt động huy động mới và cho vay
vốn bằng vàng. Chỉ có các TCTD gặp khó khăn về thanh khoản mới được gia hạn
huy động, nhưng kì hạn không vượt quá ngày 30/06/2013. Cơ chế quản lí kinh
doanh vàng của NHNN cũng dần lộ diện rõ nét hơn như: vàng miếng SJC trở thành
thương hiệu quốc gia và NHNN sẽ độc quyền sản xuất vàng SJC. Hoạt động huy
động- cho vay vốn bằng vàng sẽ được chuyển qua giữ hộ và quan hệ mua-bán.
Nhưng người dân hoàn toàn bị động trong việc tiếp cận thông tin và hành động;
trong khi đó các công ty sản xuất và kinh doanh vàng miếng dường như đang là
người chủ động điều khiển cuộc chơi. Chênh lệch giữa giá vàng thương hiệu SJC
và vàng thế giới hiện vẫn cao hơn mức 3 triệu đồng/lượng, thậm chí có lúc lên 4
triệu đồng/lượng. Tương tự, chênh lệch giá vàng thương hiệu SJC và một số loại
vàng thương hiệu khác như Thăng Long, Agribank cũng rất lớn, dao động trong
khoảng từ 1-3 triệu đồng/lượng.
Tỉ giá USD/VND ổn định xuyên suốt cả năm 2012, tỉ giá liên ngân hàng vẫn ở
mức 20,828 VND/USD.
6. Năm 2013
Điều hành đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, kết hợp giữa điều hành theo lãi
suất và điều hành lượng tiền cung ứng nhằm kiểm soát các chỉ tiêu tiền tệ, vừa góp
phần ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, đảm bảo thanh khoản của các TCTD,
vừa góp phần kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô: lãi suất và nghiệp vụ thị
trường mở được sử dụng chủ yếu, điều chỉ linh hoạt, kịp thời theo cả 2 chiều mua,
bán kết hợp với phát hành tín phiếu NHNN để kiểm soát các chỉ tiêu tiền tệ theo
mục tiêu lạm phát, hỗ trợ thanh khoản, giảm mặt bằng lãi suất, ổn định tỉ giá và thị
trường ngoại hối trong điều kiện NHNN thực hiện mua ngoại tệ để tăng dự trữ
ngoại hối nhà nước, đấu thầu tăng nguồn cung vàng cho nền kinh tế và thực hiện
tất toán huy động vàng. Chỉ tiêu tổng phương diện thanh toán tiếp tục tăng ở mức
phù hợp với mục tiêu định hướng 14-16% đặt ra từ đầu năm, đến ngày 12/12/2013,
tăng 14,64% so với cuối năm 2012; huy động vốn tăng 15,61%, trong đó bằng
ngoại tệ tăng 13,7%, bằng VNd tăng khá cao 15,93% so với năm 2012.
Trong năm 2013, NHNN giảm 2%/năm các mức lãi suất điều hành; giảm 3%/năm
lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với các lĩnh vực ưu tiên; giảm
1%/năm lãi suất tối đa áp funjg đối với tiền gửi bằng VND, từ cuối 6 tháng cho
phép các TCTD tự ấn định lãi suất tiền gửi VND có kì hạn từ 6 tháng trở lên. Với
các giải pháp trên kết hợp với điều hành linh hoạt cung ứng tiền, mặt bằng lãi suất
tiếp tục giảm 2-5%/năm nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn
định thị trường tiền tệ. Thanh khoản VND của hệ thống các TCTD được giữ vững
và tiếp tục cải thiện, đảm bảo khả năng thanh toán và chi trả của hệ thống. Tính kỉ
luật thị trường được tăng cường, đường cong lãi suất đã dần được hình thành theo
đó kì hạn ngắn có lãi suất thấp, kì hạn dài có lãi suất cao hơn.
Tín dụng toàn hệ thống TCTD đối với nền kinh tế đã tăng 8,83% sơ với cuối năm
2012. Cơ cấu tín dụng được tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các
lĩnh vực ưu tiên; cho vay đối với lĩnh vực không khuyến khích giảm dần cả về số
tuyệt đối và tỉ trọng.
7. Năm 2014
Ngân hàng nhà nước đã thực hiện 2 lần cắt giảm lãi suất điều hành như sau:
Lần 1, thực hiện vào ngày 17/03/2014: lãi suất tái cấp vốn từ 7%/năm xuống
6,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 5%/năm xuống 4,5%/năm; lãi suất cho vay qua
đêm từ 8%/năm xuống 7,5%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kì
hạn và có kì hạn dưới 1 tháng giảm từ 1,2% xuống 1%/năm; lãi suất tối đa áp dụng
đối với tiền gửi kì hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ 7%/năm xuống
6%/năm. Từ thời điểm này, NHNN không khống chế lãi suất tiền gửi có kì hạn từ
6 tháng trở lên như trước đó mà các TCTD chủ động ấn định trên cơ sở cung-cầu
vốn thị trường. lãi suất cho vay ngắn hạn 5 lĩnh vực ưu tiên giảm từ 9%/năm xuống
8%/năm.
Lần 2: thực hiện vào ngay 29/10/2014: lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND từ mức
6%/năm xuống 5,5%/năm đối với tiền gửi có kì hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng;
giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa các lĩnh vực ưu tiên từ mức 8%/năm xuống
còn 7%/năm; giảm lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD từ mức 1%/năm
xuống 0,75%/năm.
Cùng vơi việc điều chỉnh giảm đồng bộ các mức lãi suất điêu hành của NHNN,
hoạt động điều tiết thanh khoản trên thị trường OMO và thị trường liên ngân hàng
đã giúp mặt bằng lãi suất huy động và cho vay nền kinh tế bằng tiền đồng trong
năm 2014 đã giảm 1-1,5% so với cuối năm 2013.
Diễn biến thị trường vàng tương đối ổn định, giá vàng trong nước dao động phù
hợp với giá vàng trên thị trường quốc tế xoay quanh mức 36 triệu đồng/lượng và
có xu hướng giảm tới mốc 35 triệu đông/lượng. NHNN không phải tổ chức đấu
thầu bán vàng miếng, nhờ đó hạn chế việc sử dụng ngoại tệ của Quỹ Bình ổn tỉ giá
và giá vàng để nhập khẩu vàng quốc tế.
8. 6 tháng đầu năm 2015
Tỉ giá biến động mạnh trong 6 tháng đầu năm 2015: Đồng USD tiếp tục tăng giá
nhanh so với 1 số đồng ngoại tệ mạnh khác. Tâm lí của thị trường sau khi
Vietcombank mua vào 1 tỉ USD trái phiếu Chính phủ- đây là lần đầu tiên Chính
phủ phát hành trái phiếu riêng lẻ bằng đồng ngoại tệ; đồng thời Chính phủ yêu cầu
đề xuất cơ chế cho ngân sách ngoại tệ từ nguồn dự trữ ngoại tệ. Theo đó, tỉ giá trên
thị trường đã liên tục tăng cao đặc biệt từ ngày 4/5/2015. Trước tình hình này,
NHNN đã điều chỉnh tăng tỉ giá thêm 1% lên mức 21.673 VND/USD. Tỉ giá giao
dịch tại các ngân hàng được phép dao động trong khoảng 21.456-21.890 đồng một
đôla Mỹ.
Tuy nhiên khác với những lần điều chỉnh tỉ giá trước dây, giá USD thay vì ổn định
và chưng lại ở 1 ngân hàng, ở lần này chỉnh này, chỉ trong vòng 1 tuần sau điều
chỉnh, tỉ giá lại tiếp tục áp sát trần giao dịch mới áp dụng. Giá bán ra tăng từ
21.740 đồng vào ngày 13/05 lên 21.770 đồng ngày 14/05 và 21.805 đồng ngày
15/05. Đợt sóng tỉ giá tiếp theo diễn ra vào hạ tuần tháng 5, mức giá phổ biến ở
21.860-21.870 USD/VND, chênh lệch 2 chiều mua-bán kéo dãn 70-80 đồng. Tính
đến ngày 15/6/2015, tỉ giá tại các NHTM tiếp tục bán ra ở mức cao, trung bình
khoảng 21.830 đồng/USD.
Lãi suất tăng nhẹ sau thời gian giảm liên tục: từ cuối tháng 5, đầu tháng 6/2015,
các NHTM đã có sự điều chỉnh tăng lãi suất huy động, chủ yếu là các kì hạn dài để
đảm bảo cân đối nguồn vốn.Về cơ cấu nguồn vốn, thời gian qua, các ngân hàng
huy động kì hạn ngắn hạn nhiều hơn, thậm chí chiếm tới 60-70% tổng huy động
vốn, nhưng thời hạn cho vay lại dài hơn, trong 5 tháng đầu năm cho vay trung và
dài hạn chiếm 53-54% trên tổng dư nợ. Việc các ngân hàng tăng lãi suất kì hạn dài
2-3 năm trở lên là nhắm khắc phục tình trạng mất cân đối kì hạn giữa huy động và
cho vay. Với lãi suất như vậy, người dân đã tăng phần tiền gửi kì hnaj dài 6 tháng
trở lên, chủ yếu là 9 tháng đến 1 năm, chiếm đến gần 70%. Hiện mặt bằng lãi suất
huy động bằng VND phổ biến ở mức 0,8-1%/năm đối với tiền gửi không kì hạn và
có kì hạn dưới 1 tháng; 4,5-5,4%/năm đối với tiền gửi có kì hạn từ 1 tháng đến
dưới 6 tháng; 5,4-6,5%/năm đối với tiền gửi có kì hạn từ 6 tháng đến dưới 12
tháng; kì hạn trên 12 tháng ở mức 6,4-7,2%/năm. Trong khi đó, lãi suất cho vay
duy trì ở mức cũ (từ năm 2014), cụ thê: lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu
tiên phổ biến ở mức 7-8%/năm; cho vay lĩnh vực sản suất, kinh doanh khác khoảng
9-10,5%/năm đối với ngắn hạn; 11-12,5%/năm đối với trung và dài hạn; trong đố 1
số doanh nghiệp có tình hình tài cính lành mạnh, minh bạch, sản xuất kinh doanh
hiệu quả, lãi suất cho vay chỉ 6-7%/năm .