Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

tiểu luận: vấn đề sử dụng tài chính công ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.35 KB, 17 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
PHẦN I: KHÁI QUÁT CHUNG
I.
II.

KHÁI NIỆM TÀI CHÍNH CÔNG
CÁC BỘ PHẬN CỦA TÀI CHÍNH CÔNG

PHẦN II: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÔNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
I.

THỰC TRẠNG VỀ SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ

II.

NƯỚC
THỰC TRẠNG VỀ SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÝ CÁC QUỸ TÀI CHÍNH

III.

NGOÀI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
THỰC TRẠNG VỀ SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH, ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP

PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẢI CÁCH QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÔNG
Ở VIỆT NAM
I.
II.
III.


SỰ CẦN THIẾT CẢI CÁCH TÀI CHÍNH CÔNG
YÊU CẦU VỀ CẢI CÁCH TÀI CHÍNH CÔNG
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẢI CÁCH TÀI CHÍNH CÔNG (CHỦ YẾU
BÀN VỀ TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÔNG) TRONG
THỜI GIAN TỚI

KẾT LUẬN


LỜI NÓI ĐẦU
Tài chính công là một phạm trù gắn với thu nhập và chi tiêu của nhà nước. Nó vừa
là nguồn lực để nhà nước thực hiện tốt chức năng của mình , vừa là công cụ để
thực hiện các dịch vụ công, chi phối, điều chỉnh các mặt hoạt động khác của đất
nước. Trong tiến trình đổi mới, thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia, Đảng
và nhà nước ta coi đổi mới quản lý tài chính công là một trong những nội dung
quan trọng hàng đầu. Nhận thức một cách đầy đủ, có hệ thống về tài chính công là
đòi hỏi bức thiết trong công tác nghiên cứu, học tập cũng như hoạt động thực tiễn
cho cán bộ ở mọi ngành, mọi cấp, đặc biệt là trong thời kỳ đẩy mạnh cải cách hành
chính hiện nay ở nước ta. Mặt khác trong giai đoạn hiện nay, khi mà nước ta đang
trong giai đoạn phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, cuộc cải cách cơ bản tài chính nhà nước được thực hiện theo hướng
“phải nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất phát triển, huy động và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực, tăng tích luỹ để tạo vốn cho đầu tư phát triển; đáp ứng những nhu
cầu chi thường xuyên thật sự cần thiết, cấp bách; bảo đảm quản lý thống nhất nền
tài chính quốc gia, giảm bội chi ngân sách, góp phần khống chế và kiểm soát lạm
phát. Xử lý đúng đắn các mối quan hệ như : tích luỹ và tiêu dùng; tài chính nhà
nước, tài chính doanh nghiệp và tài chính dân cư ,ngân sách trung ương và ngân
sách địa phương; chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển, chi bảo đảm quốc
phòng an ninh, huy đổng vốn trong nước và vốn bên ngoài, vay và trả nợ ” 1. Vì thế
tài chính công là một lĩnh vực vô cùng quan trọng đối với nhà nước và việc quản lý

nó đòi hỏi phải chính xác và khoa học. Tài chính công và quản lý tài chính công là
vấn đề còn tương đối mới cả về nhận thức lý luận lẫn hoạt động thực tiễn ở nước
ta, nên việc tìm hiểu về vấn đề này sẽ có những khó khăn nhất định đòi hỏi phải
tìm hiểu thật kỹ trước khi bắt tay vào viết nó. Do sự hạn chế về trình độ cũng như
1 (Trích từ : Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị quốc gia,
1996, tr.102-103).


thời gian nên bài viết của em không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong được cô chỉ
bảo và sửa chữa giúp. Em xin chân thành cám ơn!


PHẦN I: KHÁI QUÁT CHUNG
I.

KHÁI NIỆM TÀI CHÍNH CÔNG
Tài chính công là một phạm trù gắn với các hoạt động thu và chi bằng tiền

của nhà nước, phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị trong
quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của nhà nước nhằm phục vụ việc
thực hiện những chức năng vốn có của nhà nước đối với xã hội (không vì mục tiêu
thu lợi nhuận).
II.

CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH TÀI CHÍNH CÔNG

Tài chính công bao gồm:
-

Ngân sách nhà nước (NSNN) từ trung ương đến địa phương; dự trữ nhà


-

nước; tín dụng nhà nước; ngân hàng nhà nước;
Tài chính của các cơ quan hành chính nhà nước;
Tài chính của các đơn vị nhà nước cung cấp dịch vụ công (các đơn vị sự

-

nghiệp nhà nước; tài chính phục vụ hoạt động công ích do nhà nước tài trợ);
Các quỹ tài chính ngoài ngân sách của nhà nước phục vụ lợi ích công cộng.
Trong đó, NSNN được xem là bộ phận quan trọng nhất, chi phối đến các
thành tố khác.
NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước đã được cơ quan nhà

nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Như vậy, xét về khía cạnh kinh tế,
hoạt động thu - chi của NSNN thể hiện quá trình phân phối và phân phối lại một bộ
phận giá trị tổng sản phẩm xã hội. Quy mô phân phối lại phụ thuộc vào mức độ
động viên của NSNN.
Về chức năng, NSNN có 3 chức năng cơ bản. Đó là: công cụ thực hiện việc
phân bổ nguồn lực trong xã hội; thực hiện chức năng tái phân phối thu nhập và
chức năng điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Với các chức năng đó, NSNN
tác động trực tiếp và gián tiếp tới hầu hết các chủ thể, các đơn vị và các tổ chức


trong xã hội. Điều này cũng giải thích tại sao NSNN lại là thành tố quan trọng nhất
của tài chính công.
Quỹ tài chính nhà nước ngoài NSNN (gọi tắt là quỹ ngoài NSNN), có vai
trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước

từng thời kỳ. Theo quy định của Nhà nước, các địa phương, bộ, ngành, doanh
nghiệp (DN) nhà nước được quyền chủ động thu, chi, quản lý loại quỹ này theo các
quy định của pháp luật hiện hành. Dù các quỹ được thiết lập với mục đích khác
nhau nhưng đều nhằm thực hiện sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế.
Nguồn tài chính hình thành các quỹ ngoài NSNN, một phần trích từ NSNN
theo quy định của Luật NSNN (tạo vốn ban đầu cho quỹ hoạt động), một phần huy
động từ các nguồn tài chính trong xã hội, chủ yếu là nguồn tài chính tạm thời nhàn
rỗi của các tổ chức kinh tế, xã hội và các tầng lớp dân cư. Nhìn chung, độ lớn của
các quỹ ngoài NSNN phụ thuộc vào thực trạng của nền kinh tế. Hơn nữa, dù cho
nguồn lực của xã hội có được tập trung vào quỹ ngoài NSNN thì đó thực sự vẫn là
chuyển giao nguồn lực từ khu vực tư cho khu vực công, từ hàng hóa cá nhân sang
hàng hóa công và thực hiện các chương trình phân phối lại thu nhập của Nhà nước.
Tài chính các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp: các cơ quan hành
chính, đơn vị sự nghiệp thuộc bộ máy nhà nước là những đơn vị có nhiệm vụ cung
cấp các dịch vụ công cộng cho xã hội. Nguồn tài chính cho các đơn vị này hoạt
động chủ yếu dựa vào những khoản cấp phát theo chế độ từ NSNN. Ngoài ra, còn
một số khoản thu khác có nguồn gốc từ NSNN, các khoản thu do đơn vị tự khai
thác, hoặc từ quyên góp, tặng, biếu không phải nộp NSNN.
Giữa NSNN, các quỹ tài chính nhà nước và tài chính các cơ quan hành
chính, đơn vị sự nghiệp luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó NSNN có vai
trò quan trọng và chi phối các thành tố khác. Một bộ phận rất lớn của chi NSNN
được các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp sử dụng trực tiếp, do đó, hiệu quả
tài chính của các khu vực này có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả chi NSNN.


Ngược lại, quy mô và hiệu quả của NSNN cũng sẽ quyết định, chi phối tiềm lực và
hiệu quả tài chính các đơn vị hành chính, sự nghiệp.


PHẦN II: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÔNG Ở

VIỆT NAM HIỆN NAY
I.

THỰC TRẠNG VỀ SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC
Trong những năm gần đây, NSNN liên tục thâm hụt, bội chi NSNN của Việt

Nam luôn ở mức cao và có xu hướng tăng lên qua các năm. Bội chi NSNN không
chỉ có tác động làm tăng lạm phát, gia tăng nợ công, sức ép tỷ giá mà còn ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân dân khi phải nộp thuế nhiều hơn trong khi
chi cho mục tiêu an sinh xã hội lại giảm đi.

Có 2 nhóm nguyên nhân cơ bản gây ra bội chi NSNN: tác động của chu kỳ
kinh doanh, tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà nước.
*Ngoài ra còn một số nguyên nhân phân thành chủ quan và khách quan
khác:
-Các nguyên nhân khách quan: Do nền kinh tế suy thoái mang tính chu kỳ; do
thiên tai, tình hình bất ổn chính trị


-Các nguyên nhân chủ quan: Do quản lý và điều hành ngân sách bất hợp lý; do nhà
nước chủ động sử dụng bội chi như một công cụ sắc bén của chính sách tài khóa;
do cách đo lường bội chi
Tuy nhiên, chúng ta cần nhìn nhận thẳng thắn hơn về nguyên nhân dẫn đến
bội chi NSNN ở Việt Nam hiện nay.

Dựa vào bảng cân đối NSNN năm 2014 mà bộ Tài chính công bố, ta thấy:
Thứ nhất, nguồn thu ngân sách liên tục giảm do tăng trưởng GDP của Việt
Nam đang chậm lại; cơ cấu nguồn thu có nhiều khoản không bền vững và phụ



thuộc vào các yếu tố bên ngoài (thu từ viện trợ, thu từ dầu thô…). Việc đưa các
khoản thu này vào cơ cấu thu ngân sách chỉ làm bảng cân đối kế toán đẹp lên chư
chắc đã phản ánh đúng rủi ro của bội chi ngân sách.
Thứ hai, chi ngân sách không hợp lý. Cụ thể, chi cho đầu tư đã giảm từ 9,3%
(giai đoạn 2007-2010) xuống còn 6,3% (giai đoạn 2013-2015), trong khi chi
thường xuyên nhằm duy trì các hoạt động của nhà nước lại tăng. Thêm vào đó
nhiều khoản chi từ trái phiếu chính phủ cho đầu tư, giáo dục lại không được hạch
toán vào bảng cân đối thu chi Chính phủ nên con số bội chi đưa ra chưa phản ánh
được thực trạng thu chi NSNN của Việt Nam.
II.

THỰC TRẠNG VỀ SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÝ CÁC QUỸ TÀI CHÍNH
NGOÀI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Số lượng quỹ ngoài NSNN
Chưa có tài liệu nào thống kê chính xác, đầy đủ các Quỹ ngoài NSNN. Theo

Tạp chí Tài chính, hiện nay có 36 Quỹ ngoài NSNN; trong đó: có 21 quỹ do Thủ
tướng có quyết định thành lập và quy định tổ chức hoạt động của quỹ; 09 quỹ do
Chính phủ có nghị định thành lập và quy định tổ chức hoạt động của quỹ; 06 quỹ
do các bộ, ngành có quyết định thành lập. Các địa phương ngoài việc thành lập các
Quỹ ngoài NSNN theo quy định pháp luật, căn cứ đặc thù, tình hình của địa
phương đã thành lập thêm các quỹ như: Quỹ nạn nhân chất độc da cam/dioxin;
Quỹ Cứu trợ; Quỹ hỗ trợ học sinh nghèo hiếu học; Quỹ hỗ trợ cho tù chính trị bị
địch bắt tù đày; Quỹ điện công cộng; Quỹ mái ấm Công đoàn...
2. Những vấn đề đặt ra

- Về công tác thu: (i) Một số quỹ mở tài khoản tiền gửi tại các ngân hàng cổ
phần có lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thấp hơn một số ngân hàng thương mại cổ
phần thuộc hệ thống Ngân hàng Nhà nước, làm giảm thu nhập của quỹ; chưa thực

hiện việc đối chiếu xác nhận các khoản phải nộp của các DN có nghĩa vụ đóng góp


với quỹ; (ii) Một số địa phương tiếp tục thu từ các DN thực hiện cổ phần hóa
nhưng chưa nộp về quỹ Trung ương theo quy định tại Nghị định số 187/2004/NĐCP hay xác định thiếu số thu về quỹ đối với các khoản lãi cho vay vốn, giá trị DN;
báo cáo thiếu vốn cổ tức nhà nước, chưa xác định số lãi chậm nộp; (iii) Chưa phản
ánh vào số thu của quỹ đối với các khoản đã thu thực hiện đầu tư không đúng, như
cấp vốn cho các DN, góp vốn liên doanh hoặc phản ánh vào số thu NSNN của địa
phương; (iv) Hạch toán khoản hỗ trợ từ quỹ chưa có sự thống nhất với Bộ Tài
chính; cơ cấu nguồn thu không được đảm bảo, chủ yếu là nguồn thu từ ngân sách;
(vi) Việc ghi chép sổ theo dõi tiền gửi tại kho bạc không đầy đủ, tài khoản sử dụng
chung nhiều nguồn nhưng không tách thu, chi từng nguồn tiền gửi hàng tháng,
năm.
- Về công tác chi: (i) Một số quỹ sử dụng vốn sai mục đích như cho DN
ngoài quỹ vay không hợp đồng và ý kiến của cơ quan có thẩm quyền; cho DN vay
vốn ưu đãi sai mục đích; (ii) Còn có quỹ chi chưa đúng quy định, chưa đôn đốc thu
hồi tạm ứng đối với các khoản nợ tồn đọng; chưa hoàn thiện thủ tục, chế độ quy
định về việc sử dụng quỹ để khen thưởng phúc lợi; (iii) Một số DN chưa báo cáo
số dư và chưa trích lập quỹ trợ cấp mất việc làm nên làm tăng số phải hỗ trợ từ quỹ
lao động dôi dư hay đề nghị cấp tiền hỗ trợ để chi trả cho các lao động không đúng
quy định; (iv) Một số địa phương chi quỹ sắp xếp DN chưa tuân thủ quy định tại
Quy chế quản lý Quỹ của Bộ Tài chính; chi quỹ không đúng mục đích như chi cho
vay, cấp vốn; chi bổ sung ngân sách tỉnh; chi cho Quỹ Bảo lãnh tính dụng DN vừa
và nhỏ; chi quỹ hỗ trợ xuất khẩu; (vi) Việc sử dụng khoản tiền chi từ quỹ hỗ trợ
xuất khẩu không thống nhất, quyết toán không rõ ràng dẫn đến việc hạch toán khác
nhau; có đơn vị hạch toán tiền thưởng kim ngạch vào thu nhập, nhưng có một số
đơn vị lại hạch toán vào Quỹ khen thưởng, phúc lợi… Một số đơn vị sử dụng tiền
hỗ trợ xúc tiến thương mại chưa đúng đối tượng, hạch toán tiền thưởng vượt kim
ngạch không đúng.



Việc tổ chức các quỹ tiền tệ thuộc tài chính công theo cơ chế nhiều quỹ thành quỹ
NSNN và các quỹ ngoài NSNN là phù hợp với việc thực hiện phân cấp, phân công
quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước. Điều đó đảm bảo phát huy tính tích cực, chủ
động sáng tạo của các địa phương, các ngành, các đơn vị trong quản lý kinh tế, xã
hội và là điều kiện thực hiện chuyên môn hoá lao động trong quản lý tài chính
công đảm bảo cho việc quản lý đó được chặt chẽ hơn, có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, nguồn tài chính để tạo lập các quỹ ngoài NSNN đều có nguồn gốc (ít
hoặc nhiều) từ NSNN nên tổ chức sao hợp lý về số lượng và quy mô các quỹ ngoài
NSNN là điều cần được tính toán, cân nhắc nhằm tránh phân tán nguồn lực của tài
chính công. Các quỹ ngoài NSNN không chịu sự điều chỉnh trực tiếp bởi Luật
NSNN mà được quản lý theo các quy định riêng. Điều này vừa gây ra khó khăn
cho hoạt động quản lý Nhà nước đối với các quỹ, làm hạn chế tính đầy đủ, chính
xác của việc phân tích đánh giá chi tiêu công, hạn chế tính minh bạch của ngân
sách. Do đó, vấn đề xây dựng một hệ thống khung pháp luật thống nhất điều chỉnh
hoạt động của các quỹ ngoài ngân sách trở thành đòi hỏi cần thiết và cấp bách.
III.

THỰC TRẠNG VỀ SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH, ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
Theo Bộ Tài chính, sau hơn 7 năm thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP

ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực
hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công
lập, bên cạnh những kết quả đạt được, việc sử dụng, quản lý tài chính công tại các
cơ quan hành chính, các đơn vị sự vẫn nghiệp còn những tồn tại, hạn chế như: việc
cấp phát của NSNN còn bình quân chưa gắn kết giao nhiệm vụ cho đơn vị theo số
lượng, khối lượng dịch vụ sự nghiệp công tương ứng với giao kinh phí; vẫn còn
tình trạng trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà nước, không khuyến khích đơn
vị tăng thu, giảm chi NSNN cấp, không tạo động lực đổi mới đối với đơn vị sự

nghiệp công lập.


Một số sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp công của Nhà nước vẫn duy trì chính
sách định giá thấp hơn chi phí cần thiết cung cấp dịch vụ (như học phí, viện phí...)
dẫn đến Nhà nước hỗ trợ qua giá đối với tất cả các đối tượng sử dụng dịch vụ sự
nghiệp công, không phân biệt đối tượng giàu, nghèo, có mức thu nhập khác nhau.
Mặt khác, do thu thấp hơn chi phí nên các đơn vị không có điều kiện hạch toán đầy
đủ chi phí và có tích lũy để tái đầu tư phát triển, nâng cao khả năng cung cấp dịch
vụ sự nghiệp công.
Số lượng cán bộ, viên chức của các đơn vị sự nghiệp công lập trong thời
gian qua tăng nhanh do chưa xác định theo định mức lao động, vị trí việc làm. Đơn
vị được giao bổ sung biên chế đề nghị ngân sách bổ sung kinh phí chi hoạt động
thường xuyên, tạo gánh nặng cho NSNN chi trả tiền lương cho đơn vị là nguyên
nhân làm chậm tiến độ cải cách tiền lương.
Một số đơn vị sự nghiệp công lập có nguồn kinh phí hoạt động chủ yếu từ
các khoản thu phí, lệ phí. Do tỷ lệ để lại chi còn cao nên khoản chênh lệch thu, chi
cuối năm lớn, có nguồn chi trả thu nhập tăng thêm cao hơn so với mặt bằng chung
của các đơn vị sự nghiệp công lập khác...


PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẢI CÁCH QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÔNG
Ở VIỆT NAM
I.

SỰ CẦN THIẾT CẢI CÁCH TÀI CHÍNH CÔNG

Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, cải cách tài chính công là một đòi hỏi
khách quan và phù hợp với các điều kiện đảm bảo tính khả thi của cải cách. Nó
xuất phát từ thực trạng tài chính công hiện nay và yêu cầu về cải cách hành chính

nhà nước trong những năm tới.
Thứ nhất, đối với thực trạng tài chính công hiện nay, bên cạnh một số kết
quả bước đầu đạt được, tài chính công vẫn đang còn những hạn chế cần sớm khắc
phục, đó là:
Đối với lĩnh vực NSNN: do chưa xây dựng khuôn khổ tài chính trung hạn
nên hạn chế tính chiến lược của ngân sách và không phù hợp với việc quản lý các
dự án tài chính lớn cần thực hiện trong nhiều năm. Bố trí ngân sách còn bị động, co
kéo với các mục tiêu ngắn hạn. Cơ cấu chi ngân sách còn bất hợp lý, vẫn còn
những khoản chi mang tính bao cấp. Phạm vi chi ngân sách chưa được xác định rõ
nên khó giảm được gánh nặng chi ngân sách trong khi quy mô ngân sách còn nhỏ.
Mặt khác, việc chi bao cấp, bao biện đã tạo tư tưởng ỷ lại, làm giảm động lực phát
triển và cản trở việc thu hút đầu tư xã hội vào việc cung cấp dịch vụ công. Việc
phân bổ, quản lý và sử dụng ngân sách còn kém hiệu quả, sử dụng lãng phí. Công
tác kiểm soát chi vẫn nặng nề về số lượng, chưa chú ý đúng mức đến chất lượng,
hiệu quả khoản chi...
Đối với tài chính các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp: Định mức, chế
độ chi tiêu lạc hậu, thiếu cụ thể, không đồng bộ. Cơ chế quản lý biên chế, quản lý
kinh phí ngân sách còn bất cập, chưa tạo động lực khuyến khích sử dụng kinh phí
tiết kiệm, hiệu quả, dẫn đến tình trạng lãng phí khá phổ biến.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu cải cách hành chính nhà nước và những thể
chế mới về NSNN cũng đặt ra yêu cầu về cải cách tài chính công một cách cấp
thiết, cụ thể:
Luật NSNN (năm 2002) vừa tạo ra cơ sở pháp lý cho cải cách căn bản về tài
chính công, vừa dẫn đến những yêu cầu về cải cách tài chính công như: cơ cấu lại
chi ngân sách, đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách....


Mục tiêu tổng thể về cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 đã
đặt ra yêu cầu cải cách tài chính công. Đó là: Tạo điều kiện cho chính quyền địa
phương chủ động xử lý các công việc ở địa phương; phân biệt cơ quan hành chính

công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; đổi mới cơ chế phân bổ ngân
sách, chuyển từ cấp kinh phí theo biên chế sang cấp kinh phí căn cứ vào kết quả và
chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu ra, tăng quyền chủ động của đơn
vị sử dụng ngân sách...
YÊU CẦU VỀ CẢI CÁCH TÀI CHÍNH CÔNG
Những kết quả bước đầu của cải cách tài chính công ở Việt Nam thời gian
gần đây đòi hỏi phải tiếp tục cải cách mạnh mẽ hơn nữa trong giai đoạn tới. Đồng
thời, đó cũng là những bước đi mang tính thử nghiệm, nó cho phép khẳng định khả
năng cải cách tài chính công ở nước ta.
Nhận thấy cải cách tài chính công và cải cách hành chính nhà nước có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, những biến động của bộ phận này luôn tác động kéo
theo sự thay đổi của bộ phận kia. Do vậy, cải cách tài chính công phải đặt trong
mối quan hệ tổng thể của chương trình cải cách hành chính nhà nước, phải đáp
ứng được các yêu cầu của cải cách hành chính và hỗ trợ cho quá trình này. Theo
đó, cải cách tài chính công phải đáp ứng các yêu cầu sau:
* Phải tạo điều kiện tập trung nguồn lực tài chính nhà nước để giải quyết các
nhiệm vụ quan trọng, đúng với chức năng của nhà nước; sử dụng tập trung nguồn
lực cho các ưu tiên chiến lược với chính sách nhất quán, thống nhất và thực tế.
* Phải nâng cao được tính chủ động, quyền hạn và trách nhiệm của các đơn
vị trong việc quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách và với vấn đề tài chính của
mình.
* Phải nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước, bao gồm
hiệu quả quản lý, hiệu quả sử dụng NSNN trên bình diện vĩ mô và hiệu quả sử
dụng kinh phí ngân sách ở các đơn vị trực tiếp sử dụng ngân sách.
* Phải hướng tới mục tiêu cuả cải cách hành chính nhà nước, đó là: nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, nâng cao chất lượng các dịch vụ công
được cung cấp.
II.

III.


MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẢI CÁCH TÀI CHÍNH CÔNG (CHỦ YẾU
BÀN VỀ TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÔNG) TRONG
THỜI GIAN TỚI


Thứ nhất, phân cấp rõ ràng về quản lý ngân sách, bảo đảm cho các cấp
chính quyền địa phương có sự chủ động lớn hơn về nguồn thu và thẩm quyền
quyết định chi ngân sách, trên cơ sở đó chủ động bố trí và thực hiện kế hoạch hoạt
động quản lý nhà nước và công tác chuyên môn tại địa phương mình.
Cần tiệm cận việc phân cấp cho từng cấp chính quyền có nguồn thu độc lập
tương đối. Khi có được nguồn thu độc lập, ổn định theo khu vực hành chính của
mình, mỗi cấp sẽ tích cực và chủ động hơn trong việc bồi dưỡng và khai thác
nguồn thu. Khoản thu độc lập, có tính ổn định cao sẽ giúp chính quyền địa phương
chủ động bố trí các khoản chi tiêu cố định của mình, không bị lệ thuộc quá nhiều
vào cấp trên.
Việc phân bổ tỷ lệ điều tiết theo từng sắc thuế giữa trung ương và địa
phương làm cho việc tính toán trở nên khá phức tạp và không khuyến khích địa
phương thu các sắc thuế do trung ương được hưởng hoặc có tỷ lệ phân bổ cho địa
phương thấp. Vì vậy, có thể sử dụng một tỷ lệ điều tiết chung giữa trung ương và
địa phương tính trên tổng số thu từ tất cả các loại thuế. Tỷ lệ này có thể được điều
chỉnh theo từng vùng để tạo ra sự phân bổ ngân sách hợp lý giữa các vùng phù hợp
với định hướng phát triển của vùng đó. Tỷ lệ điều tiết ngân sách được quyết định 3
năm một lần để tạo sự chủ động cho địa phương trong bố trí các khoản chi.
Thứ hai, tăng cường quản lý chu trình ngân sách. Quản lý tốt hơn chu trình
ngân sách giúp cho các cơ quan, đơn vị khớp nối giữa kế hoạch hoạt động với kế
hoạch tài chính, từ đó có đầy đủ và kịp thời các nguồn lực tài chính để chủ động
thực thi các nhiệm vụ. Cần đổi mới các hoạt động từ lập dự toán ngân sách cho đến
chấp hành và quyết toán ngân sách có tính khoa học và phù hợp hơn với thực tế.
Cụ thể là cần tiếp tục đổi mới các căn cứ và quy trình lập dự toán ngân sách, hoàn

thiện thủ tục và cơ chế chấp hành ngân sách, cũng như đổi mới phương thức quyết
toán ngân sách. Đặc biệt, cần chuyển các định mức phân bổ ngân sách cho các lĩnh
vực dựa trên đầu vào sang căn cứ vào kết quả đầu ra.
Thứ ba, hoàn thiện các chế độ, định mức chi tiêu. Các định mức chi tiêu
hợp lý giúp các cơ quan, đơn vị tính toán chính xác hơn các nguồn lực tài chính
cần thiết cũng như có căn cứ khoa học để chi tiêu kinh phí một cách tiết kiệm và
thích hợp. Cần tiếp tục hoàn thiện các định mức chi tiêu cụ thể - đặc biệt trong lĩnh


vực hành chính, trên cơ sở khách quan và sát hợp hơn với thực tế, theo hướng tạo
ra sự chủ động cho cơ quan, đơn vị và khuyến khích tiết kiệm.
Thứ tư, tăng cường tính chủ động về tài chính của các đơn vị hành chính sự
nghiệp trên cơ sở gắn chi tiêu tài chính với việc cải tiến cơ chế quản lý của các đơn
vị này. Việc khoán biên chế và chi phí hành chính đối với các cơ quan hành chính
và quyền tự chủ về tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu cần được hoàn
chỉnh và áp dụng mở rộng trong thời gian tới.
Thứ năm, mở rộng và hoàn thiện kiểm toán ngân sách, góp phần chấn trỉnh
kỷ luật tài chính công, phát hiện và ngăn chặn tình trạng lãng phí, tham nhũng.
Tăng cường cả kiểm toán nội bộ và kiểm toán của cơ quan kiểm toán nhà nước,
làm cho kiểm toán trở thành một hoạt động thường xuyên đối với các cơ quan, đơn
vị sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước. Hoạt động kiểm toán phải góp phần
đánh giá tính kinh tế, hiệu quả trong sử dụng các nguồn lực tài chính của nhà nước,
kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hành vi lãng phí, tham nhũng, từ đó chấn chỉnh
kỷ luật tài chính trong các cơ quan, đơn vị.
Thứ sáu, tăng cường sử dụng ngân sách có hiệu quả, từ đó dành một khoản
chi thoả đáng cho tiền lương trên cơ sở tiếp tục cải cách chính sách tiền lương gắn
với kết quả thực thi nhiệm vụ. Yêu cầu quan trọng bậc nhất trong cải cách tiền
lương là xây dựng được một hệ thống thang bảng lương và cơ chế nâng lương hợp
lý có tác dụng khuyến khích những người làm việc có hiệu quả.
Thực hiện tốt những cải cách trên đây về tài chính công sẽ tác động trực tiếp

đến hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, làm tăng tính tự chủ của các đơn
vị gắn với sự chủ động về tài chính; tạo ra cơ chế tài chính khuyến khích các đơn
vị chi tiêu có hiệu quả, hướng vào kết quả đầu ra và tiết kiệm ngân sách, trên cơ sở
đó tăng cường thu nhập cho người lao động. Đó chính là những động lực thúc đẩy
các cơ quan trong bộ máy nhà nước đổi mới về tổ chức, phương thức hoạt động và
nâng cao năng lực của đội ngũ CB,CC, làm cho bộ máy nhà nước hoạt động có
hiệu lực và hiệu quả hơn.


KẾT LUẬN
Tài chính công không phải là câu chuyện của riêng Nhà nước mà còn là vấn
đề mà tất cả chúng ta cần quan tâm, theo dõi. Tuy nhiên, hoạt động sử dụng và
quản lý tài chính công những năm gần đây còn rất nhiều hạn chế, sai sót, dẫn đến
những hậu quả không tốt. Do đó, việc sử dụng và quản lý tài chính công cần được
giám sát chặt chẽ hơn để mang lại lợi ích cho toàn xã hội.
Giải pháp được đưa ra để tăng cường hiệu quả sử dụng và quản lý tài chính
công ở Việt Nam đó là cải cách. Cải cách tài chính công không chỉ mang lại lợi ích
cho nhà nước, cho các bộ, ngành, địa phương, đơn vị trực tiếp sử dụng các nguồn
lực tài chính công mà còn mang lại lợi ích cho mọi tầng lớp nhân dân, những người
có quyền giám sát việc sử dụng các nguồn lực tài chính công, đồng thời là người
thụ hưởng dịch vụ công được cung cấp bởi những nguồn lực tài chính công. Tuy
nhiên, cải cách tài chính công là vấn đề nhạy cảm, luôn tiềm ẩn những khó khăn,
thách thức, vì vậy, cần phải được quan tâm chỉ đạo và có biện pháp thực hiện một
cách thường xuyên, có chương trình, kế hoạch cho từng giai đoạn, với những biện
pháp cụ thể. Có thể nói, đó là những công việc đầy khó khăn nhưng phải vượt qua
để góp phần quan trọng vào quá trình cải cách hành chính nhà nước, để tài chính
công xứng đáng với vai trò, vị trí của nó trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước trong thời kỳ mới.




×