Tải bản đầy đủ (.pdf) (163 trang)

Sự kế thừa và luận giải mới của phan bội châu về các tư tưởng nho giáo trong tác phẩm khổng học đăng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 163 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

----------***----------

LUYỆN THỊ MINH THƢ

SỰ KẾ THỪA VÀ LUẬN GIẢI MỚI CỦA
PHAN BỘI CHÂU VỀ CÁC TƢ TƢỞNG NHO GIÁO
TRONG TÁC PHẨM KHỔNG HỌC ĐĂNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội, 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

----------***----------

LUYỆN THỊ MINH THƢ

SỰ KẾ THỪA VÀ LUẬN GIẢI MỚI CỦA
PHAN BỘI CHÂU VỀ CÁC TƢ TƢỞNG NHO GIÁO
TRONG TÁC PHẨM KHỔNG HỌC ĐĂNG
Chuyên ngành: Triết học


Mã số: 62 22 03 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC :
PGS.TS. LÊ THỊ LAN

Hà Nội, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Lê Thị Lan. Các tư liệu sử
dụng trong luận án hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ
rõ ràng. Những kết quả của luận án chưa được công bố trong bất
cứ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

LUYỆN THỊ MINH THƢ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 2
Chƣơng I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI ...................................................................................................................... 6
1.1. Các công trình nghiên cứu về cơ sở của việc luận giải tư tưởng Nho giáo
trong tác phẩm Khổng học đăng của Phan Bội Châu ............................................. 6
1.2. Các công trình nghiên cứu về những nội dung tư tưởng Nho giáo được Phan Bội
Châu kế thừa và diễn giải mới trong tác phẩm Khổng học đăng ............................. 14
1.3. Các công trình nghiên cứu về giá trị, hạn chế và ý nghĩa của sự kế thừa và luận

giải mới của Phan Bội Châu về tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng 17
1.4. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết .................................................... 24
Chƣơng II. CƠ SỞ SỰ KẾ THỪA VÀ LUẬN GIẢI MỚI CỦA PHAN BỘI
CHÂU VỀ CÁC TƢ TƢỞNG NHO GIÁO TRONG KHỔNG HỌC ĐĂNG ..... 26
2.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX .. 26
2.2. Bối cảnh văn hóa, tư tưởng của sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội
Châu về các tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng ........................ 34
2.3. Thân thế, sự nghiệp của Phan Bội Châu và tác phẩm Khổng học đăng ............ 49
Chƣơng III. NHỮNG NỘI DUNG TƢ TƢỞNG NHO GIÁO ĐƢỢC PHAN
BỘI CHÂU KẾ THỪA VÀ LUẬN GIẢI MỚI TRONG TÁC PHẨM
KHỔNG HỌC ĐĂNG ............................................................................................. 57
3.1. Sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về Trời và con người trong
Khổng học đăng .................................................................................................... 57
3.2. Sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về vấn đề kinh tế và chính trị
trong Khổng học đăng........................................................................................... 67
3.3. Sự kế thừa và diễn giải mới của Phan Bội Châu về đạo đức và giáo dục trong
tác phẩm Khổng học đăng .................................................................................... 90
Chƣơng IV. GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA SỰ KẾ
THỪA VÀ LUẬN GIẢI MỚI CỦA PHAN BỘI CHÂU VỀ CÁC TƢ TƢỞNG
NHO GIÁO TRONG TÁC PHẨM KHỔNG HỌC ĐĂNG ................................ 115
4.1. Giá trị và hạn chế của Phan Bội Châu khi luận giải tư tưởng Nho giáo trong
tác phẩm Khổng học đăng .................................................................................. 115
4.2. Ý nghĩa của việc Phan Bội Châu kế thừa và luận giải mới về Nho giáo trong
tác phẩm Khổng học đăng .................................................................................. 132
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC
GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .............................................................. 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 152

1



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân tộc Việt Nam có truyền thống lịch sử dựng nước, giữ nước lâu đời, hết
sức vẻ vang, được nhiều dân tộc trên thế giới tôn trọng, mến mộ. Một dân tộc như
vậy tất yếu phải có hệ thống tư tưởng ở trình độ nhất định, có nền văn hóa mang
bản sắc độc đáo. Đó là những giá trị vô cùng quý báu, là hành trang quan trọng để
Việt Nam hội nhập quốc tế thành công.
Sau 30 năm đổi mới, với việc thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tích cực hội nhập với khu vực và thế giới, nền
kinh tế nước ta đã từng bước ổn định và phát triển. Những thành tựu mà chúng ta đạt
được về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục,... là điều không thể phủ nhận và
rất đáng tự hào. Tuy nhiên, việc đẩy mạnh giao lưu văn hoá, hội nhập kinh tế quốc tế
cũng ẩn chứa những nguy cơ, thách thức không nhỏ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Xét trên góc độ văn hóa, với tâm lý sùng ngoại, một bộ phận không nhỏ người
Việt Nam đã xem nhẹ những giá trị văn hoá dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng
phương Tây. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia
đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp. Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo
đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ quyền
cao chức trọng. Tất cả những điều đó đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân
tộc, đến cốt cách và bản lĩnh con người Việt Nam. Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước hiện nay, cùng với việc tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại,
hơn bao giờ hết, chúng ta phải biết giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống, nhằm
xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để giải quyết tốt nhiệm vụ
đó, việc nghiên cứu, xác định đầy đủ các giá trị tư tưởng dân tộc thông qua nghiên cứu
tư tưởng của các nhà văn hóa lớn là rất cần thiết.
Trong số các nhà tư tưởng Việt Nam, Phan Bội Châu (1867 - 1940) được
đánh giá là nhà văn hoá, nhà tư tưởng lớn có vị trí quan trọng và ảnh hưởng sâu
sắc đối với các tầng lớp xã hội nước ta thời cận đại. Ông được coi là dấu nối giữa

tư tưởng văn hóa truyền thống với tư tưởng văn hóa hiện đại của nước nhà.
Trong cuộc đời hoạt động của mình, ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị cao
về tư tưởng. Là một môn đồ ưu tú của chốn “cửa Khổng sân Trình”, ông đã

2


thấm nhuần những tư tưởng tích cực của Nho giáo. Giống như nhiều nhà tư
tưởng cùng thời, để kết hợp yêu nước với duy tân, Phan Bội Châu đã phải chia
tay với đạo lý thánh hiền ở nhiều điểm nhưng trong quá trình tiếp nhận tư tưởng
mới, ông đã phải nhìn lại và chịu không ít những ràng buộc với tư tưởng Nho
giáo. Vì vậy, vào thời gian cuối đời, ông đã viết hai bộ sách lớn về Nho giáo,
trong đó có cuốn Khổng học đăng. Đây là tác phẩm có giá trị, thể hiện rõ ý thức
trách nhiệm của một nhà yêu nước chân chính, với tâm huyết giữ gìn và phát huy
các giá trị tư tưởng truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trong tác phẩm này,
những kinh điển chủ yếu của Nho giáo đã được Phan Bội Châu giải thích lại
thông qua lăng kính của một nhà nho tiến bộ, qua đó giúp người đọc thấy được
những tinh hoa của Nho giáo trong toàn bộ lịch sử và đối với thời đại của Phan
Bội Châu. Với Khổng học đăng, chúng ta thấy Phan Bội Châu “luôn trân trọng
giữ gìn tinh thần chân chính của Khổng học và nhắc mỗi chúng ta biết coi trọng
tinh thần nền tảng của văn hoá cội nguồn phương Đông” [37, tr. 350]. Đây là
việc làm có ý nghĩa hết sức sâu sắc của ông trong bối cảnh “gió Á mưa Âu” ở
Việt Nam buổi giao thời.
Trong bối cảnh đất nước ta hiện nay, khi quá trình hội nhập kinh tế, văn hóa
toàn cầu đang diễn ra ngày càng sâu rộng thì đã xuất hiện nhiều đặc điểm dường như
lặp lại có tính biện chứng so với những đặc điểm của xã hội Việt Nam cách đây gần
100 năm - thời kỳ tác phẩm Khổng học đăng ra đời. Vì vậy, nghiên cứu sự kế thừa,
luận giải mới của Phan Bội Châu về các tư tưởng Nho giáo trong Khổng học đăng là
một việc làm cần thiết. Nó không chỉ giúp chúng ta đánh giá một cách đúng đắn nhất
về tư tưởng và những cống hiến của Phan Bội Châu đối với dân tộc Việt Nam, mà còn

gợi mở nhiều bài học sâu sắc về sự kế thừa và phát huy các giá trị tư tưởng truyền
thống trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước hiện nay.
Trên thực tế đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong và
ngoài nước về Phan Bội Châu trên các góc độ khác nhau với từng mảng tư tưởng của
ông. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về tư
tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng của Phan Bội Châu.
Vì những lý do trên, nghiên cứu sinh quyết định chọn đề tài: “Sự kế thừa và
luận giải mới của Phan Bội Châu về các tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm
“Khổng học đăng” làm nội dung luận án tiến sĩ Triết học của mình.

3


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ sự kế thừa và luận giải mới về Nho giáo của Phan Bội Châu trong tác
phẩm Khổng học đăng, từ đó đưa ra những đánh giá về giá trị, hạn chế và ý nghĩa của
việc luận giải Nho giáo đối với thời đại ông và hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ tình hình hình nghiên cứu về sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội
Châu về các tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng, chỉ ra những nội dung
kế thừa của các tác giả khác và xác định rõ hướng nghiên cứu của luận án.
- Trình bày, phân tích những điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề tư tưởng dẫn
đến sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về tư tưởng Nho giáo trong tác
phẩm Khổng học đăng.
- Trình bày, phân tích những nội dung tư tưởng Nho giáo được Phan Bội
Châu kế thừa và luận giải trong tác phẩm Khổng học đăng.
- Đánh giá những giá trị, hạn chế, ý nghĩa hiện thời của sự kế thừa và diễn giải
mới của Phan Bội Châu về tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu: Sự diễn giải của Phan Bội Châu về Nho giáo
trong tác phẩm Khổng học đăng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Các tư tưởng của Nho giáo được Phan Bội Châu
luận giải trong tác phẩm Khổng học đăng như: Vấn đề Trời, Mệnh trời, con người;
vấn đề kinh tế, chính trị; vấn đề đạo đức, giáo dục.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về lịch sử triết học, lịch sử tư tưởng Việt Nam.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu
triết học như: phương pháp lôgic – lịch sử, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương
pháp so sánh, hệ thống hóa... kết hợp với phương pháp văn bản học, tiểu sử học.
5. Đóng góp của luận án:
- Làm sáng tỏ được những điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề tư tưởng

4


dẫn đến sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về tư tưởng Nho giáo
trong tác phẩm Khổng học đăng.
- Phân tích và làm rõ được sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về
những nội dung tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng.
- Làm rõ được những giá trị, hạn chế và ý nghĩa hiện thời của sự kế thừa và
luận giải mới của Phan Bội Châu về tư tưởng Nho giáo trong Khổng học đăng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận án góp tìm hiểu, hệ thống hóa những nội dung tư
tưởng Nho giáo được Phan Bội Châu kế thừa và luận giải mới trong tác phẩm Khổng
học đăng, từ đó góp phần tìm hiểu tư tưởng của nhà Nho, nhà chí sĩ cách mạng Phan
Bội Châu. Trên cơ sở đó, luận án rút ra một số bài học thực tiễn và lý luận về việc kế

thừa, phát triển tinh hoa văn hóa dân tộc để vận dụng vào sự nghiệp xây dựng, phát
triển đất nước hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu và giảng dạy môn Lịch sử Triết học, Lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu
những vấn đề có liên quan đến đề tài.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương, 12 tiết.
Chương I: Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Chương II: Cơ sở sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về các
tƣ tƣởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng
Chương III: Những nội dung tƣ tƣởng Nho giáo đƣợc Phan Bội Châu kế
thừa và luận giải mới trong tác phẩm Khổng học đăng
Chương IV: Giá trị, hạn chế và ý nghĩa hiện thời của sự kế thừa và
luận giải mới của Phan Bội Châu về các tƣ tƣởng Nho giáo trong tác phẩm
Khổng học đăng

5


Chƣơng I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
Phan Bội Châu là người có vị trí quan trọng trong lịch sử Việt Nam cận đại,
nên từ rất sớm, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về ông dưới nhiều góc độ tiếp
cận khác nhau như Văn học, Sử học, Triết học, ... Nghiên cứu Phan Bội Châu trên
các phương diện của các tác giả trong và ngoài nước là vô cùng phong phú, đa dạng
và đã đạt được những thành công nhất định. Với giới hạn phạm vi nghiên cứu của
luận án, chúng tôi chú trọng vào những khuynh hướng nghiên cứu chủ yếu về Phan
Bội Châu có liên quan trực tiếp đến nội dung đề tài như sau:

1.1. Các công trình nghiên cứu về cơ sở của việc luận giải tƣ tƣởng Nho
giáo trong tác phẩm Khổng học đăng của Phan Bội Châu
Ở nước ta, việc nghiên cứu sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về
các tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng chưa được đề cập với tư cách
là một nội dung độc lập mà thường chỉ được bàn tới một phạm vi hẹp hoặc thông qua
các nội dung căn bản khác của ông. Tuy vậy, những nhận định được đưa ra từ những
nghiên cứu này cũng có tác dụng định hướng cho tác giả khi nghiên cứu đề tài.
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về bối cảnh kinh tế, xã hội, văn
hóa, tƣ tƣởng của việc luận giải tƣ tƣởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học
đăng của Phan Bội Châu
Về bối cảnh kinh tế, xã hội, trước hết phải kể đến những phân tích của tác giả
Trần Văn Giàu trong cuốn Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến
Cách mạng tháng Tám, tập 2 (Nxb Khoa học Xã hội, HN, 1975). Tác giả đã phân
tích điều kiện chính trị, xã hội dẫn tới sự khủng hoảng của Nho giáo ở Việt Nam
những năm đầu thế kỷ XX; đồng thời miêu tả một cách chi tiết về biểu hiện của
cuộc khủng hoảng này trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. Từ những
phân tích đó, tác giả cho rằng: “Cái thời giữa hai cuộc chiến tranh này, lạ thay, lại
chứng kiến một số sự kiện giống như chuyện một ngọn đèn phụt lên để rồi tắt. Như:
hầu hết các kinh truyện Nho giáo, kể cả Kinh Dịch rất khó hiểu, đều được dịch, giải
thích, in ra; như có những bài và những sách trình bày Nho giáo một cách có hệ
thống, trình bày tư tưởng và lịch sử của Nho gia trứ danh, ở bên Trung Quốc và ở
Việt Nam; lại như những loạt bài báo và những sách phê bình Nho giáo một cách

6


khá kịch liệt và đôi khi sâu sắc... Có thể nói rằng ở nước ta trước kia chưa từng có
lúc nào thảo luận nhiều và sâu về Nho giáo như lúc này” [50, tr. 310, 311]. Bằng
quan điểm duy vật, tác giả cuốn sách đã giải thích nguyên nhân dẫn tới những bàn
luận “nhiều và sâu” về vấn đề Nho giáo và văn hóa dân tộc ở nước ta thời kỳ này.

Ông viết: “Sở dĩ như vậy, xét đến cùng, không phải vì lẽ gì khác hơn là thời thế;
những năm 20, 30 là thời kỳ chuyển mình của cách mạng Việt Nam, khiến các mặt
đấu tranh tư tưởng đều nổi lên gần cùng một nhịp với đấu tranh kinh tế và chính trị.
Những con người tham gia cuộc tranh luận lúc này không giống nho gia đầu thế kỷ,
mà là những con người hoặc ít hoặc nhiều biết học thuật Tây phương hiện đại, sự sử
dụng chữ quốc ngữ, số độc giả đông đều là những điều kiện thuận lợi, cho nên lập
luận thường rành rọt, lô-gich, chi li, nói chung là sâu sắc hơn vài ba chục năm về
trước” [50, tr. 311]. Những bàn luận trên của tác giả giúp chúng ta hiểu rằng các
hoạt động bảo vệ, chấn hưng Nho giáo ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX là kết
quả tất yếu của các cuộc đấu tranh kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng trong buổi
giao thời. Ở đây, chúng ta không thấy Trần Văn Giàu bàn trực tiếp về cơ sở dẫn tới
việc Phan Bội Châu viết tác phẩm Khổng học đăng, nhưng cần hiểu rằng đây là một
tác phẩm nằm trong phong trào diễn dịch, giải thích các kinh truyện Nho giáo được
tác giả nhắc đến trong bài viết. Vì vậy, những phân tích trên của tác giả có tác dụng
định hướng chúng tôi khảo sát các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng ở
Việt Nam và thế giới giai đoạn đầu thế kỷ XX với tư cách là cơ sở dẫn tới sự kế
thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về các tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm
Khổng học đăng.
Ở góc độ trực tiếp hơn, trong bài Một số suy nghĩ về vấn đề Phan Bội Châu và
Nho giáo (In trong kỷ yếu Phan Bội Châu – Con người và sự nghiệp của trường Đại
học KHXH & NV, 1997), tác giả Đỗ Thị Hoà Hới đã nhắc đến tình hình xã hội Việt
Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất nhằm giúp độc giả hiểu rõ hơn động cơ, mục
đích của Phan Bội Châu khi viết Khổng học đăng. Tác giả cho rằng, sau chiến tranh
thế giới lần thứ nhất, chính quyền thực dân đẩy mạnh chính sách khai thác thuộc địa
lần thứ hai khiến xã hội Việt Nam có những biến đổi nhiều mặt theo hướng thực dân
hóa. Chúng tìm mọi cách để cắt đứt ảnh hưởng tốt đẹp của văn hóa truyền thống dân
tộc trong đó có văn hóa Nho giáo chân chính, nhằm “Tây hóa” một cách thô bạo nền
văn hóa lâu đời của Việt Nam. Theo tác giả, “không thể nói chính sách đó không gây

7



ra những di hại cho nền văn hóa dân tộc” và đó là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời
Khổng học đăng của Phan Bội Châu. Tác giả viết: “Phan Bội Châu bị bắt và bị an trí
ở Huế, mặc dầu sống trong hoàn cảnh hết sức khó khăn bị o ép đủ bề, nhưng với tấm
lòng thương dân, yêu nước, với ý thức trách nhiệm cao đối với sự phục hưng đất
nước, trước thực tế mới với độ mẫn cảm của một bậc đại chân nho sớm nhận thấy ảnh
hưởng tai hại của chính sách làm đứt đoạn nền văn hóa truyền thống lúc ấy, ông đã có
ý thức bảo tồn, chuyển dịch tinh hoa của văn hóa phương Đông cho hậu thế, với thiện
chí có thể hướng bước chuyển của dân tộc từ truyền thống sang hiện đại một cách
thuận chiều, ít đổ vỡ” [37, tr. 342].
Về bối cảnh văn hóa, tư tưởng, trong Luận án tiến sĩ Triết học “Tư tưởng
triết học và chính trị của Phan Bội Châu” (Viện Triết học, 2006), TS. Nguyễn Văn
Hòa đã khẳng định thái độ đúng đắn của Phan Bội Châu trong việc kế thừa di sản tư
tưởng của dân tộc và tinh hoa của nhân loại và cho rằng chính sự tiếp xúc với văn
minh phương Tây đã giúp Phan Bội Châu có được thái độ đúng đắn này. Tác giả
viết: “Phan Bội Châu là một trong những người đại diện cho buổi giao thời của sự
tiếp xúc Á – Âu hồi cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Ông đã hăm hở đón nhận và
tiếp xúc với các trào lưu tư tưởng tư sản phương Tây được chuyển tải qua Tân thư,
Tân văn” [57, tr. 45]. Theo tác giả, chính sự tiếp xúc với văn minh phương Tây đã
giúp Phan Bội Châu đối chiếu, kiểm nghiệm lại vốn hành trang tư tưởng của mình,
đưa lại cho ông một cách nhìn mới mẻ về thế giới. Ở đây, tác giả chỉ bàn đến Tân
văn, Tân thư với tư cách là tiền đề lý luận quan trọng của chủ trương điều hòa Đông
– Tây, Kim – cổ của Phan Bội Châu. Tuy nhiên, cần hiểu rằng, việc Phan Bội Châu
kế thừa và luận giải mới các tư tưởng Nho giáo trong Khổng học đăng chính là bằng
chứng tiêu biểu nhất cho chủ trương dung hợp đó. Vì vậy, những lập lập, phân tích
hợp lý của tác giả Nguyễn Văn Hòa sẽ được chúng tôi kế thừa và phát triển để làm
rõ tiền đề tư tưởng dẫn đến Khổng học đăng của Phan Bội Châu.
Tác giả Nguyễn Thọ Đức trong bài Tìm hiểu xu hướng hiện đại hóa tư tưởng
Nho giáo trong Khổng học đăng của Phan Bội Châu (Tạp chí Hán Nôm, số 6, 2011,

tr. 37 – 57), đã phân tích sự ra đời của Khổng học đăng như là kết quả tất yếu của
phong trào “chấn hưng và hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo” ở Việt Nam những năm
30 của thế kỷ XX. Từ việc phân tích sự khủng hoảng sâu sắc của Nho giáo ở các
quốc gia Đông Á trước cuộc xâm lược của các nước đế quốc phương Tây cuối thế

8


kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tác giả đã bàn về phong trào chấn hưng và hiện đại hóa tư
tưởng Nho giáo ở Trung Quốc và Việt Nam trong giai đoạn này. Trên cơ sở đó, tác giả
làm rõ sự ra đời của Khổng học đăng: “Phong trào chấn hưng và hiện đại hóa tư tưởng
Nho giáo ở Trung Quốc bắt đầu từ những năm đầu thập niên ba mươi thế kỉ XX, phát
triển mạnh mẽ và liên tục thành một dòng tư tưởng lớn trong lịch sử tư tưởng hiện đại
Trung Quốc - trào lưu Tân Nho học hiện đại. Thập niên ba mươi, bốn mươi, ở Việt
Nam diễn ra hoạt động chấn hưng Nho giáo khá rầm rộ của những người theo “khuynh
hướng truyền thống”... Khổng học đăng của Phan Bội Châu là một trong những trước
tác tiêu biểu của hoạt động chấn hưng Nho giáo giai đoạn này thể hiện khá rõ xu hướng
hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo” [48, tr. 38]. Mặc dù chưa phân tích chi tiết về nội dung
phong trào chấn hưng và hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo ở Trung Quốc và Việt Nam,
nhưng tác giả đã giúp chúng tôi hiểu rằng những phong trào này chính là bối cảnh tư
tưởng quan trọng dẫn tới sự ra đời Khổng học đăng của Phan Bội Châu.
Có thể thấy, mặc dù có rất ít công trình nghiên cứu về cơ sở của sự kế thừa
và luận giải mới của Phan Bội Châu về các tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm
Khổng học đăng nhưng vấn đề này đã bước đầu được tiếp cận và phân tích ở góc độ
trực tiếp hoặc gián tiếp. Những lập luận của các tác giả trên đã phần nào giúp chúng
ta thấy được mối quan hệ giữa sự biến đổi về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, tư
tưởng ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX (dưới sự xâm lược của thực dân Pháp)
với sự ra đời Khổng học đăng của Phan Bội Châu. Nhờ có những công trình nghiên
cứu đó mà chúng ta nhìn nhận rõ hơn về cuộc khủng hoảng Nho giáo ở Việt Nam,
cùng với nhu cầu bảo vệ các giá trị truyền thống của dân tộc trước sự lấn át của văn

minh phương Tây. Đây được xem là điều kiện quan trọng dẫn tới việc Phan Bội
diễn dịch lại các tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm của mình.
Thứ hai, về thân thế, sự nghiệp của Phan Bội Châu
Vấn đề này được rất nhiều các tác giả quan tâm nghiên cứu và được thể hiện
không chỉ trong các công trình chuyên khảo về Phan Bội Châu mà cả trong các tài
liệu khác viết về Lịch sử Việt Nam, Danh nhân văn hoá Việt Nam...
Về thân thế của Phan Bội Châu, trước tiên phải kể đến cuốn Phan Bội Châu
niên biểu (do Phan Bội Viết năm 1929). Đây là tập hồi ức của Phan Bội Châu mang
đậm dấu ấn cá tính và bút pháp tác giả, trong đó ghi lại toàn bộ cuộc đời ông. Tập
hồi ký hơn 200 trang này giúp người đọc biết được Phan Bội Châu sinh ra ở Nam

9


Đàn, Nghệ An trong một gia đình “Thanh nho”, “đời đời theo nghiệp đọc sách”.
Cha ông là Phan Văn Phổ - “một người thông nho”, sống bằng nghề dạy học và có
công lớn trong việc mở rộng kiến thức cho Phan Bội Châu bằng cách giảng giải sử
sách, kinh truyện, sự nghiệp của các danh nhân, hiền triết,... Mẹ ông là Nguyễn Thị
Nhàn, một người hết mực hiền hậu, hiểu biết và cũng có dòng dõi Nho học. Bên
cạnh việc cung cấp cho độc giả những thông tin đầy đủ về thân thế của Phan Bội
Châu, tập hồi ký còn giúp người đọc thấy được một con người có tư chất thông
minh, tràn đầy nhiệt huyết, yêu nước chân thành và suốt đời phấn đấu, hy sinh cho
nền độc lập của dân tộc. Tác phẩm này là cơ sở quan trọng cho các nhà nghiên cứu
về sau trình bày, phân tích một cách chi tiết về quê hương, gia đình và bản thân
Phan Bội Châu, trên cơ sở đó đánh giá sự ảnh hưởng của các yếu tố trên đến sự
nghiệp chính trị, tư tưởng của ông sau này.
Qua việc tìm hiểu rất nhiều tập sách chuyên khảo, luận án, luận văn, bài báo
khoa học về Phan Bội Châu của các tác giả đã kể trên, chúng tôi nhận thấy, vấn đề
thân thế của Phan Bội Châu đều được đề cập khá kỹ với những nhận xét, đánh giá
mang tính thống nhất cao. Về hoàn cảnh xuất thân, các tác giả đều nhận định Phan

Bội Châu được sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học tại vùng quê
giàu truyền thống yêu nước; được đào luyện từ “cửa Khổng sân Trình” và là bậc đại
nho luôn có trách nhiệm với vận mệnh của đất nước. Về đặc điểm bản thân, các tác
giả đều đánh giá ông là con người tài năng, có tư tưởng cấp tiến, có lòng yêu nước
nhiệt thành và suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Chẳng
hạn, trong Lời giới thiệu của cuốn Phan Bội Châu (1867 – 1940) – con người và sự
nghiệp (NXB Hà Nội, 1997), tác giả Phùng Hữu Phú cho rằng: “Sinh ra và lớn lên
trong một gia đình nhà nho, giữa miền quê Nghệ An giàu truyền thống yêu nước,
Phan Bội Châu ngay từ hồi trẻ đã nổi tiếng là một người mẫn tiệp, có chí hơn
người” [37, tr. 5]. Trong luận án tiến sĩ Triết học Thế giới quan Phan Bội Châu (Đại
học KHXH & NV, 2001), tác giả Lê Ngọc Thông cũng nhận xét: “Được sinh ra và
được nuôi dưỡng trong một gia đình như vậy, Phan Bội Châu đã trở thành một người
con trác việt của dân tộc Việt Nam” [117, tr. 38]. Ở một góc độ sâu sắc hơn, trong
luận án tiến sĩ Triết học Tư tưởng triết học và chính trị của Phan Bội Châu (Viện
Triết học, 2006), trên cơ sở phân tích một cách khái quát về hoàn cảnh xuất thân và
đặc điểm bản thân của Phan Bội Châu, tác giả Nguyễn Văn Hòa cho rằng: “Sinh ra

10


trong một gia đình như vậy, nên tư tưởng Nho giáo đã sớm ăn sâu vào Phan Bội Châu
từ tấm bé” [57, tr. 52]. Tác giả còn khẳng định tài năng và đức độ của Phan Bội Châu
“một mặt đã giúp cho ông thuyết phục, tập hợp được đông đảo quần chúng đi theo
con đường cứu nước của mình; mặt khác, còn giúp cho ông biết chắt lọc, kế thừa và
tiếp thu những tinh hoa triết học, văn hóa của phương Đông và phương Tây để làm
giàu cho trí tuệ của mình” [57, tr. 53]. Gần đây, trong cuốn Phan Bội Châu, nhà yêu
nước, nhà văn hóa (Nxb Văn hóa Thông tin, 2012), tác giả Chương Thâu nhận
định: “Nhờ hoàn cảnh gia đình, điều kiện giáo dục, nhà trường Nho học, nhờ sự tiếp
xúc với đời sống và giao dịch với nhiều nhà yêu nước khác, đặc biệt nhờ sự tác
động của văn chương tiến bộ trong và ngoài nước mà một thế giới quan mới đã

được dần dần hình thành trong Phan Bội Châu” [115, tr. 186], ... Những nhận xét
trên còn được lặp lại trong rất nhiều công trình nghiên cứu về Phan Bội Châu sau này.
Chúng tôi đồng tình với những phân tích, đánh giá, nhận xét của các nhà nghiên cứu
đi trước và sẽ tiếp thu, kế thừa trong quá trình thực hiện đề tài luận án của mình.
Theo chúng tôi, đó là điều kiện về gia đình và là những nhân tố chủ quan cơ bản
dẫn đến sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về các tư tưởng Nho giáo
trong tác phẩm Khổng học đăng.
Về sự nghiệp của Phan Bội Châu, trong các công trình nghiên cứu về ông,
hầu hết các tác giả đều chia sự nghiệp của ông thành bốn chặng lớn (giống với cách
mà ông tự chia trong Phan Bội Châu niên biểu), đó là: Từ đầu cho đến 1900, khi
ông đỗ Giải nguyên thi Hương trường Nghệ; từ khi đỗ Giải nguyên cho đến trước
khi xuất dương (1905); từ lúc xuất dương cho đến khi bị Pháp bắt ở Thượng Hải
(1925) và cuối cùng là 15 năm bị giam lỏng ở Bến Ngự. Đánh giá về sự nghiệp của
ông, trước đây, các nhà nghiên cứu đều nhất trí coi Phan Bội Châu là một chiến sĩ cách
mạng kiên cường bất khuất, một nhà yêu nước lớn của Việt Nam đầu thế kỷ XX. Sự
đánh giá đó rất đúng nhưng chưa toàn diện bởi mới chỉ dựa vào những vai trò và cống
hiến của nhà chí sĩ về mặt chính trị cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Sau này,
khi các tác phẩm của cụ được công bố nhiều hơn và ngày càng có nhiều công trình
nghiên cứu về Phan Bội Châu trên các lĩnh vực Văn, Sử, Triết thì những nhận định về
Phan Bội Châu đã ở mức độ bao quát hơn, đầy đủ hơn và sâu sắc hơn. Chẳng hạn như
trong bài Phan Bội Châu – nhà cách mạng dân tộc, nhà văn yêu nước, nhà tư tưởng dân
chủ lớn nhất Việt Nam đầu thế kỷ XX (In trong cuốn Phan Bội Châu trong dòng thời

11


đại, Nxb Nghệ An, 2007), tác giả Trần Văn Giàu có viết: “Phan Bội Châu là một chính
khách nổi tiếng, một nhà văn lớn, đồng thời cũng là một nhà tư tưởng lỗi lạc nhất nước ta
trong vài chục năm đầu thế kỷ” [113, tr. 50]. Trong cuốn Phan Bội Châu, nhà yêu
nước, nhà văn hoá (Nxb Văn hóa Thông tin, 2012), tác giả Chương Thâu nhận

định: “Trong khi dấn thân vào sự nghiệp cứu nước, Phan Bội Châu cũng đồng thời
có một sự nghiệp sáng tác văn thơ tuyên truyền yêu nước, coi đó là một mặt hoạt
động không thể thiếu trong cuộc đấu tranh cách mạng, góp phần đắc lực trong sự
mưu cầu tiến bộ của nhân quần xã hội. Văn chương của cụ thể hiện trên mọi thể
loại: thơ văn, khảo cứu lịch sử, chính trị, tư tưởng, triết học, đạo đức, chủ thuyết,
tôn giáo,... đáng được các thế hệ người đương thời và con cháu mai sau vinh danh là
“một nhà yêu nước, nhà văn hóa lớn”” [115, tr, 11]. Trong cuốn Tư tưởng Phan
Bội Châu về con người (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013), tác giả Doãn Chính
và Cao Xuân Long cũng khẳng định: “Phan Bội Châu không chỉ là nhà văn, nhà
nhơ, nhà yêu nước mà còn là nhà tư tưởng, nhà triết học, xã hội học... Trên lĩnh vực
tư tưởng, ông là người có tư tưởng tiến bộ ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống kinh tế
- xã hội, và là tư tưởng tiêu biểu cho một giai đoạn lịch sử đầy biến động ở Việt
Nam nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX” [27, tr, 350]...
Bên cạnh những ý kiến thống nhất trên, trong các công trình nghiên cứu về
cuộc đời và sự nghiệp của Phan Bội Châu còn xuất hiện sự bất đồng, đặc biệt là
trong những đánh giá về 15 năm cuối đời của cụ.
Trong cuốn Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại (Nxb Văn hoá thông
tin, Hà Nội, 1995), nhận xét về 15 năm cuối đời của Phan Bội Châu, tác giả Trần
Đình Hượu viết: “Nhiều người vì tình cảm không nỡ nói đến 15 năm cuối cùng của
Ông già Bến Ngự. Không có lý do chính đáng nào để che giấu sự thật. Hai mươi năm
của cuộc đời hoạt động cứu nước của cụ đã đủ giành cho cụ vị trí vinh quang. Mặt
khác về ý nghĩa làm chứng cho thời đại, 15 năm cuối đời mới cho ta thấy chỗ dừng
lại của một nhà nho và nỗ lực của cụ tiếp tục vươn lên một cách bất lực, đồng thời
mới cho ta thấy đầy đủ ý nghĩa lớn của 20 năm trước. Phan Bội Châu kết thúc cuộc
đời của mình, như cụ tự nói là một người thất bại, hơn thế như một người cô độc, như
một người trở lại là nhà nho. Cả cuộc đời cụ là bằng chứng vô giá cho một cuộc thí
nghiệm không bao giờ nên lặp lại là dùng những quan điểm Nho giáo hay cách nhìn
Nho giáo mà giải quyết các vấn đề của thế giới hiện đại” [62, tr. 275. 276].

12



Khác với quan điểm trên, trong bài Nhà yêu nước Phan Bội Châu (1867 – 1940)
(In trong cuốn Phan Bội Châu, con người và sự nghiệp, Nxb Hà Nội, 1997), tác giả
Đinh Xuân Lâm cho rằng: “Phan Bội Châu là nhà yêu nước lớn suốt đời không ngừng
phấn đấu hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, không phải chỉ trong thời kỳ “đắc
ý” của những năm đầu thế kỷ XX, mà ngay cả khi bị kẻ thù bắt cóc, rồi đem về giam
lỏng tại Bến Ngự sống trong vòng kiểm soát khắt khe vẫn tìm cách hoạt động – chủ
yếu là dùng ngòi bút làm vũ khí – để góp phần cổ vũ, giáo dục đồng bào. Vì lẽ đó mà
nếu như trước đây có ý kiến cho rằng từ sau khi tổ chức Việt Nam Quang Phục hội tan
rã thì Phan Bội Châu đã đứng trên bờ của dòng thác cách mạng, e rằng nhận định đó có
phần khắt khe và không phù hợp với thực tế lịch sử lúc bấy giờ” [37, tr. 9].
Nhận định trên thống nhất với nhận định của nhiều nhà nghiên cứu về Phan
Bội Châu sau này như Trần Ngọc Vương, Imai Akio (Đại học Tokyo, Nhật Bản),
Hoàng Kim Kính,... Trong bài “Mấy đặc điểm loại hình nhân cách nhà cách mạng
Phan Bội Châu” (In trong cuốn Phan Bội Châu trong dòng thời đại, Nxb Nghệ An,
2007), tác giả Trần Ngọc Vương nhấn mạnh: “Riêng 15 năm cuối đời, Phan Bội
Châu tự cho là “đồ bỏ”, là “sống thừa”, không có gì đáng chép, nhưng với người
nghiên cứu thì vẫn có nhiều điều để bàn bạc và suy ngẫm” [113, tr. 145]. Ý kiến này
cũng được tác giả Imai Akio (Đại học Tokyo, Nhật Bản) khẳng định trong bài Tư
tưởng và văn học của Phan Bội Châu thời kỳ ở Huế (Tạp chí Nghiên cứu văn học,
số 5 – 2014). Theo tác giả, giai đoạn từ khi Phan Bội Châu bị bắt về quản thúc ở
Huế đến khi mất là “thời kỳ rất đáng được lưu tâm bởi nó là giai đoạn cực kỳ phong
phú về mặt tư tưởng và văn học” [1, tr. 11]. Đặc biệt, trong bài“Vị trí tác phẩm
Khổng học đăng trong tư tưởng Phan Bội Châu” (In trong cuốn Phan Bội Châu
trong dòng thời đại), nhà nghiên cứu Hoàng Kim Kính khẳng định: “Không thể nói
giai đoạn sau 1925 Phan Bội Châu không có gì đóng góp lớn hay có biểu hiện thịnh
trị về mặt tư tưởng so với giai đoạn trước đó” [113, tr. 427]. Theo ông, “với việc từ
một nhà nho yêu nước tiến tới tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản và việc diễn giải
Khổng, Mạnh theo tư tưởng mới ở Phan Bội Châu đã là một bước tiến dài trong lịch

sử tư tưởng Việt Nam nói chung và trong tư tưởng ông nói riêng” [113, tr. 427].
Chúng tôi cho rằng nhận định này là hợp lý, chỉ tiếc rằng, trong khuôn khổ của một
bài nghiên cứu, các tác giả Đinh Xuân Lâm, Trần Ngọc Vương, Hoàng Kim Kính
và Imai Akio đều chưa luận bàn một cách chi tiết, hệ thống và đủ sức thuyết phục

13


về nhận định của mình. Vì vậy, có thể coi đây là một gợi ý quan trọng cho việc đi
sâu nghiên cứu và làm sáng tỏ công lao, đóng góp của Phan Bội Châu trong những
năm cuối đời mình thông qua những trước tác được ông viết vào giai đoạn này,
trong đó có Khổng học đăng.
Như vậy, bằng việc nghiên cứu khá kỹ về cuộc đời, thân thế và sự nghiệp
của Phan Bội Châu gắn liền với những biến cố lịch sử Việt Nam giai đoạn cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, hầu hết các tác giả đều có chung nhận định rằng dù có ở
góc độ là nhà cách mạng, nhà văn, nhà thơ hay nhà triết học thì cả cuộc đời mình, từ
lúc tuổi thơ cho đến khi từ giã cõi đời, Phan Bội Châu đã giành hết tâm sức cho sự
nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do của Tổ quốc. Các tác giả cũng chỉ ra rằng, do
những hạn chế tất yếu của điều kiện lịch sử và của giai cấp xuất thân chi phối nên
cho đến cuối cuộc đời, cụ vẫn chưa thực hiện được hoài bão cao cả của mình, tuy
vậy những bài học được rút ra từ cuộc đời và sự nghiệp của cụ cũng có ý nghĩa to
lớn đối với hậu thế. Chúng tôi đồng tình với những nhận định sâu sắc trên và chú ý
sử dụng các kết quả mà các nhà nghiên cứu đã đạt được để làm rõ những yếu tố chủ
quan dẫn đến sự ra đời Khổng học đăng của Phan Bội Châu.
1.2. Các công trình nghiên cứu về những nội dung tƣ tƣởng Nho giáo đƣợc
Phan Bội Châu kế thừa và diễn giải mới trong tác phẩm Khổng học đăng
Qua khảo sát một khối lượng đồ sộ công trình nghiên cứu về Phan Bội Châu
của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, chúng tôi nhận thấy những công trình
nghiên cứu về nội dung tư tưởng Nho giáo được Phan Bội Châu kế thừa và diễn giải
mới trong tác phẩm Khổng học đăng chiếm một số lượng khá khiêm tốn. Tuy nhiên,

không phải vì thế mà thiếu những nhận định có giá trị về vấn đề này.
Năm 1997, trong bài Một số suy nghĩ về vấn đề Phan Bội Châu và Nho
giáo (In trong kỷ yếu Phan Bội Châu – Con người và sự nghiệp, Nxb Hà Nội),
tác giả Đỗ Thị Hoà Hới cho rằng: “Trong kho tàng Khổng học gồm Tứ thư, Ngũ
Kinh, chúng ta nhận thấy Phan Bội Châu chú trọng học thuyết Nhân đức – Tính
thiện của Khổng – Mạnh. Ông dành phần lớn số trang của cả 2 tập sách, phân
tích học thuyết nhân từ nghĩa gốc trong Luận ngữ và được phát triển thêm bởi
Mạnh Tử và các nhà nho đời sau” [37, tr. 342 – 343]. Theo tác giả, vì mục tiêu
quan trọng của Phan Bội Châu khi viết Khổng học đăng là thuyết phục hậu thế
tin tưởng vào tính chân lý hiển nhiên của đạo lý Nhân – Đức, tính thiện của

14


Khổng – Mạnh, cho nên ông rất chú trọng làm rõ nội dung chữ Nhân trong tác
phẩm này. Từ những phân tích của mình về chữ Nhân trong luận giải của Phan
Bội Châu, tác giả đánh giá: “Qua cách trình bày của Phan Bội Châu, ta thấy ý
nghĩa của chữ Nhân của Khổng giáo rất sâu sắc, ảnh hưởng của nó rất to lớn”
[37, tr. 346]. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra hạn chế của Phan Bội Châu khi luận
giải chữ Nhân trong Nho giáo, đó là “chưa thể vượt ra khỏi cách nhìn của Nho
gia khi cho tất cả vấn đề Nhân – Đức – Tính thiện có nguồn gốc tiên thiên, tiên
nghiệm và hoàn thiện chỉ thuộc về phạm vi chủ thể” [37, tr. 343].
Ở một góc độ sâu sắc hơn, trong bài Tìm hiểu xu hướng hiện đại hóa tư
tưởng Nho giáo trong Khổng học đăng của Phan Bội Châu” (Tạp chí Hán Nôm, số
6, 2011, tr. 37 – 57), tác giả Nguyễn Thọ Đức đã làm rõ một nội dung tư tưởng Nho
giáo được luận giải trong Khổng học đăng, bao gồm: phạm trù Nhân; tư tưởng “dân
chủ”, “dân quyền” và tư tưởng kinh tế. Phân tích luận giải của Phan Bội Châu về
phạm trù Nhân trong Khổng học đăng, tác giả cho rằng “Phan Bội Châu lạc quan tin
tưởng “Nhân” có giá trị thường hằng, phổ quát, là đạo lí tốt đẹp nhất, cao cả nhất
của nhân loại” [48, tr. 44] và “dường như Phan Bội Châu muốn khẳng định giá trị

của đạo “Nhân” trong học thuyết Nho giáo không chỉ còn bó hẹp trong phạm vi các
nước vốn sở hữu văn hóa Nho giáo truyền thống, mà nó hoàn toàn có khả năng vượt
qua biên giới của quốc gia, vượt qua thời gian quá khứ, để trở thành khuôn mẫu và
mô phạm của nhân loại trên toàn thế giới trong tương lai” [48, tr. 44]. Bàn về vấn đề
kinh tế trong Khổng học đăng, tác giả cho rằng: “Một trong những tư tưởng của
Nho giáo bị phê phán gay gắt là tư tưởng “trọng nông ức thương”, coi thường phát
triển kinh tế... Phan Bội Châu cho rằng đó là quan điểm sai lầm về tư tưởng Khổng
- Mạnh, thực ra tư tưởng Khổng - Mạnh có bao hàm cả tư tưởng kinh tế” [48, tr.
46]. Tác giả còn trích dẫn một số lập luận của Phan Bội Châu về chế độ “tỉnh điền”,
“tự do mậu dịch” trong Khổng học đăng và cho rằng: “Người đời nay phê phán
Mạnh Tử không biết chính sách làm cho nước giàu lên, còn Phan Bội Châu thì
khẳng định sách Mạnh Tử là cuốn cẩm nang kinh tế dân giàu nước mạnh “đáng xem
làm sách phú cường”” [48, tr. 47]. Về tư tưởng “dân chủ”, tác giả bài báo cho rằng,
nếu như từ trước đến nay, mọi người đều cho rằng Nho giáo khiếm khuyết tư tưởng
dân chủ, dân quyền thì trong Khổng học đăng, Phan Bội Châu đã chứng minh cho
người đọc thấy được “Nho giáo hàm chứa đầy đủ những tư tưởng đó” [48, tr. 45].

15


Trên cơ sở phác họa một số nội dung hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo trong Khổng
học đăng như trên, tác giả nhấn mạnh: “Với Phan Bội Châu, Nho giáo không chỉ là
học thuyết có giá trị đạo đức thường hằng phổ biến ưu việt hơn so với các tôn giáo
khác, là phương thuốc hữu hiệu chữa trị căn bệnh văn hóa vật chất phương Tây, mà
còn hội đủ những tư tưởng quan trọng căn bản theo “tiêu chuẩn” phương Tây thời
hiện đại như: dân chủ, khoa học, kinh tế...” [48, tr. 12].
Nhận định trên của tác giả Nguyễn Thọ Đức cũng giống với nhận định của
tác giả Imai Akio (Đại học Tokyo, Nhật Bản) khi bàn về xu hướng “tái giải thích
Nho giáo” trong Khổng học đăng. Trong bài Tư tưởng và văn học của Phan Bội Châu
thời kỳ ở Huế (Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 5, 2014, tr. 11 – 17), Imai Akio đã

dành một mục để trình bày về việc Phan Bội Châu tái giải thích Nho giáo. Bằng
việc so sánh quan niệm của Phan Bội Châu với Phan Khôi và Trần Trọng Kim, tác
giả đã nêu lên những nét đặc sắc trong luận giải của Phan Bội Châu về chính trị và
kinh tế. Về chính trị, tác giả nhận định: “Phan Khôi cho rằng đạo Khổng vốn đề cao
tôn quân - trung quân nên không thích hợp cho thể chế dân chủ hiện đại. Trần Trọng
Kim lại cho rằng “quân quyền” cũng chính là chủ quyền quốc gia, nên nếu người
dân trung thành với “quân quyền” thì chính thể mới vững chắc... Riêng Phan Bội
Châu lại cho rằng trong tư tưởng Nho giáo đã bao hàm các yếu tố của “chủ nghĩa
dân chủ”. Về kinh tế, theo tác giả, nếu như Phan Khôi dẫn chứng thái độ xem thường
thực nghiệp như một ví dụ cho ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo thì Phan Bội Châu
lại ca ngợi “Chủ nghĩa kinh tế bình dân” của Mạnh Tử như là nguồn cội của chủ
nghĩa xã hội. Tác giả nhấn mạnh: “Về mặt kinh tế, tác phẩm ủng hộ chế độ công hữu
chứ không phải chế độ tư hữu và coi trọng chủ nghĩa bình quân, bình đẳng” [1, tr.
17]. Tác giả cũng cho rằng với Khổng học đăng, Phan Bội Châu đã giúp người đọc thấy
được trong tư tưởng Nho giáo đã bao hàm tư tưởng dân chủ, tư tưởng kinh tế chứ không
hề mâu thuẫn với “dân chủ” và khiếm khuyết tư tưởng kinh tế như quan niệm của nhiều
người, đặc biệt là những người theo khuynh hướng Tây học. Tuy nhiên, trong phạm vi
một bài tạp chí, tác giả chưa có những phân tích và trích dẫn kinh điển cần thiết để chứng
minh cho những nhận định của mình.
Ở góc độ gián tiếp, trong cuốn Tư tưởng Phan Bội Châu về con người (Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013), tác giả Doãn Chính và Cao Xuân Long cũng
dành một phần nhỏ bàn về một số nội dung trong Khổng học đăng liên quan đến

16


vấn đề giải phóng con người như: vấn đề “dưỡng dân”, vấn đề “giáo dân”, vai trò
và sức mạnh của nhân dân. Các tác giả của cuốn sách khẳng định trong tác phẩm
Khổng học đăng “Phan Bội Châu đã cho rằng nhân dân có một sức mạnh vô cùng
to lớn, nhân dân là trời cho nên ý muốn, nguyện vọng của nhân dân là ý muốn và

nguyện vọng của trời” [27, tr. 148].
Như vậy, những nội dung tư tưởng Nho giáo được Phan Bội Châu luận giải
trong Khổng học đăng đã được một số tác giả đề cập ở góc độ trực tiếp hoặc gián
tiếp, song mới dừng lại ở những tiếp cận ban đầu trong một phạm vi nghiên cứu
hẹp. Tuy vậy, những nhận định hợp lý của các tác giả trên lại có tác dụng gợi ý cho
chúng tôi khảo sát một cách chi tiết về nội dung tư tưởng Nho giáo được Phan Bội Châu
kế thừa và phát triển trong tác phẩm Khổng học đăng của ông, qua đó rút ra những bài
học bổ ích để vận dụng vào quá trình xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay.
1.3. Các công trình nghiên cứu về giá trị, hạn chế và ý nghĩa của sự kế
thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về tƣ tƣởng Nho giáo trong tác phẩm
Khổng học đăng
Thứ nhất, về giá trị của việc luận giải Nho giáo trong Khổng học đăng của
Phan Bội Châu
Năm 1990, trong cuốn Phan Bội Châu toàn tập, tập 9 (Nxb Thuận Hóa, Huế),
tác giả Chương Thâu cho rằng Khổng học đăng là bộ sách biên khảo có giá trị bậc nhất
của Phan Bội Châu trong những năm sống ở Bến Ngự. Tác giả viết: “Diễn dịch lại Tứ
thư theo quan điểm mới có quan hệ với lịch sử Trung Quốc, Việt Nam và với một số
nước khác trên thế giới, đồng thời chỉ ra cái hay, cái tích cực, phê phán những cái tiêu
cực có liên quan đến tư tưởng Nho giáo, rút ra bài học kinh nghiệm, đem ứng dụng vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam, đó chính là nội dung quan trọng nhất của bộ sách Khổng
học đăng cũng là những điều tâm đắc nhất, tâm huyết của Phan Bội Châu, là thiện chí
của nhà chí sĩ muốn gửi lại cho đời và cho các thế hệ con cháu mai sau” [17, tr. 9].
Năm 1997, trong bài Phan Bội Châu - nhà văn hoá (In trong cuốn Phan Bội
Châu con người và sự nghiệp, Nxb Hà Nội, 1997), tác giả Nguyễn Đình Chú cho
rằng: “Với Khổng học đăng, Phan Bội Châu đã để lộ hai điều thật là đáng quý hiếm
trong học thuật, sự ham hiểu cặn kẽ, sâu sắc Khổng học và tư thế học thuật vững chãi
đầy bản lĩnh đối với những giá trị văn hoá tinh thần của phương Đông cổ truyền” [37,
tr. 244 - 245]. Đặt trong sự so sánh với nhiều công trình khác của các tác giả khi viết

17



về Nho giáo như Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Duy Cần,
Lê Văn Quán, tác giả đi đến nhận định: “cho đến nay, cùng với Nho giáo của Trần
Trọng Kim, Khổng học đăng của Phan Bội Châu vẫn là hai công trình học thuật qui
mô nhất và cũng là đáng tin cậy nhất về Nho giáo ở nước ta” [37, tr. 245].
Trong bài Một số suy nghĩ về vấn đề Phan Bội Châu và Nho giáo (In trong
cuốn Phan Bội Châu – Con người và sự nghiệp, Nxb. Hà Nội, 1997), trên cơ sở làm
rõ động cơ, mục đích của Phan Bội Châu khi viết Khổng học đăng, tác giả Đỗ Thị
Hoà Hới đã nhận định: “Tại thời điểm viết Khổng học đăng thì ông có ý tưởng
muốn trở về với hằng số giá trị nhân loại chân chính trong học thuyết Khổng –
Mạnh, ông cho rằng có thể lấy đó làm chỗ dựa để phục hưng văn hóa dân tộc, là
một việc có ý nghĩa nhất định” [37, tr. 343] và “bằng tất cả tâm chí, Phan Bội Châu
trân trọng giữ gìn tinh thần chân chính của Khổng học, nhắc mỗi chúng ta cần phải
coi trọng tinh thần nền tảng của văn hoá cội nguồn phương Đông [37, tr. 350].
Trong Luận án tiến sĩ Triết học Tư tưởng chính trị và triết học của Phan Bội
Châu (Viện Triết học, 2006), tác giả Nguyễn Văn Hòa cho rằng: “Phan Bội Châu là
một nhà Nho uyên bác. Vì vậy, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy mặc dù ông
sống trong cảnh tù túng vào những năm cuối đời ở Bến Ngự (Huế), nhưng Phan Bội
Châu đã hoàn thành một cách xuất sắc một số công trình biên khảo đồ sộ có độ tin
cậy cao và có giá trị lớn đối với triết học phương Đông – những công trình mà cho
đến nay chúng ta không khỏi thán phục trước sự am hiểu sâu sắc của ông” [57, tr.
38]. Khổng học đăng là một trong những công trình “biên khảo đồ sộ có độ tin cậy
cao và có giá trị lớn đối với triết học phương Đông” mà tác giả nhắc đến ở trên.
Cùng đánh giá về giá trị của Khổng học đăng, tác giả Hoàng Kim Kính có bài
Vị trí tác phẩm Khổng học đăng trong tư tưởng Phan Bội Châu (In trong cuốn Phan
Bội Châu trong dòng thời đại). Tác giả cho rằng trong tác phẩm Khổng học đăng,
Phan Bội Châu đã “vạch rõ những cái hay, cái tích cực ở Khổng – Mạnh đồng thời
cũng đả phá những cái dở, cái hủ lậu của nó” [113, tr. 426] và “Thông qua việc phân
tích, phê phán, Phan Bội Châu muốn cải biến những tư tưởng tích cực của Khổng Mạnh cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại” [113, tr. 426]. Từ sự phân tích đó, tác giả

kết luận: “Nếu nhiệm vụ của tư tưởng triết học nói chung và của tư tưởng chính trị xã
hội nói riêng là cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và tư duy con người, thì tác phẩm
Khổng học đăng trên một phương diện nào đó đã giải quyết được nhiệm vụ của tư

18


tưởng chính trị - xã hội mà Phan Bội Châu đã đặt ra. Đó là nhiệm vụ giáo dục, hướng
dẫn mọi người theo con đường tu dưỡng tinh thần, cải tạo bản thân để trở thành
những con người có đức, có tài đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ xây dựng một xã
hội tốt đẹp” [113, tr. 427] và “việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Phan Bội Châu trong
tác phẩm Khổng học đăng vẫn là một việc cần thiết” [113, tr. 427 – 428].
Ở góc độ sâu sắc hơn, trong bài Tìm hiểu xu hướng hiện đại hóa tư tưởng Nho
giáo trong Khổng học đăng của Phan Bội Châu (Tạp chí Hán Nôm số 6, 2011), từ
việc làm rõ một số nội dung hiện đại hóa Nho giáo trong Khổng học đăng, tác giả
Nguyễn Thọ Đức đã đánh giá rất cao những nỗ lực của Phan Bội Châu. Theo tác giả,
qua việc khẳng định những ưu điểm của Nho giáo, ông đã giúp người đọc nhận ra
rằng “Nho giáo không những không xung đột và cản trở tiến trình hiện đại hóa đất
nước, mà trái lại, nó chính là tư tưởng, nền tảng của công cuộc hiện đại hóa của
chúng ta” [48, tr. 53].
Ở nước ngoài, mặc dù có rất nhiều học giả nghiên cứu về Phan Bội Châu
nhưng hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và sâu sắc về
tư tưởng Nho giáo của cụ. Qua khảo sát, chúng tôi thấy đáng chú ý nhất là nhận định
của tác giả Imai Akio (Đại học Tokyo, Nhật Bản) được thể hiện trong bài Tư tưởng
và văn học của Phan Bội Châu thời kỳ ở Huế (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 5 –
2014). Theo tác giả, giai đoạn từ khi Phan Bội Châu bị bắt về quản thúc ở Huế đến
khi mất là “thời kỳ rất đáng được lưu tâm bởi nó là giai đoạn cực kỳ phong phú về
mặt tư tưởng và văn học” [1, tr. 11]. Từ quan điểm “Bằng việc tiếp xúc với tư tưởng
xã hội chủ nghĩa, Phan Bội Châu đã tiến bước hơn trong việc giải thích lại Nho giáo”,
tác giả cho rằng việc chấp bút hai quyển sách liên quan chủ yếu đến Nho học, trong

đó có Khổng học đăng là “sự trở về với Nho học, song thật sự thì nó không chỉ là sự
“quay lại” mà còn là sự tái bàn luận tư tưởng Nho học của bản thân Phan Bội Châu
sau khi đã hấp thu các luồng tư tưởng Đông Tây kim cổ” [1, tr. 13 - 14].
Có thể thấy, các học giả đã đạt được sự thống nhất khá lớn trong việc khẳng
định giá trị của việc luận giải tư tưởng Nho giáo trong Khổng học đăng, đó là vạch rõ
những cái hay, cái tích cực của Nho giáo và cải biến những tư tưởng tích cực của
Nho giáo cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Những nhận định mà các tác giả đưa
ra có thể cần phải được luận giải, minh chứng một cách cụ thể hơn, song trong chừng
mực nào đó, những nhận định ấy đã có tác dụng nhất định. Một là, điều chỉnh lại ý

19


kiến của một số nhà nghiên cứu trước đây cho rằng, do chịu ảnh hưởng sâu đậm của
Nho giáo nên Phan Bội Châu đã giữ lại những quan điểm không còn đúng nữa của
Nho giáo trong khi tiếp thu hệ tư tưởng tư sản. Hai là, phần nào thể hiện thái độ
không đồng tình với nhận định có phần cực đoan của GS. Vũ Khiêu khi cho rằng:
“Tác phẩm Khổng học đăng của Phan Bội Châu chính là ngọn đèn tàn của Nho giáo
đã bùng lên trong giai đoạn cuối cùng của nó và nhường chỗ cho sự soi rọi của tư
tưởng mới của thời đại” [99, tr. 17]. Ba là, góp phần xoá bỏ một số quan điểm còn
mơ hồ về Phan Bội Châu, cho rằng đoạn đời 15 năm cuối của cụ Phan thì về tư tưởng
cụ đã bị thời đại vượt qua khá xa.
Thứ hai, về hạn chế của việc luận giải Nho giáo trong Khổng học đăng của
Phan Bội Châu
Bàn về những hạn chế của Khổng học đăng, trước hết, chúng ta phải nhắc tới
những nhận định sâu sắc của tác giả Đỗ Thị Hòa Hới trong bài Một số suy nghĩ về
vấn đề Phan Bội Châu và Nho giáo. Tác giả cho rằng: “Phan Bội Châu chưa thoát
ra được khuynh hướng Nho hóa các triết thuyết khác” [37, tr. 346]. Theo tác giả, đó
là một khuynh hướng chủ đạo từng phát huy được tác dụng trước đây nhưng đến
thời điểm Phan Bội Châu viết Khổng học đăng, nhất là đến ngày nay thì “chúng ta

khó có thể chấp nhận cách nhìn như vậy” [37, tr. 347]. Một hạn chế nữa của Khổng
học đăng được tác giả đưa ra trong bài nghiên cứu của mình là “mặc dù ông đã đưa
thêm vào Khổng học một cách có ý thức một số kiến thức triết học và khoa học
phương Tây cận đại, nhưng nó chưa có hệ thống và đủ liều lượng cần thiết để tái
sinh lại Khổng giáo đủ đáp ứng yêu cầu của xã hội hiện đại” [37, tr. 350].
Những nhận định sâu sắc trên cũng được nhà nghiên cứu Nguyễn Thọ Đức
nhắc đến trong bài Tìm hiểu xu hướng hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo trong Khổng
học đăng của Phan Bội Châu. Trong cái nhìn đối sánh với Tân Nho gia hiện đại
Trung Quốc, tác giả chỉ ra hai hạn chế của Khổng học đăng, đó là “chỉ so sánh và
Nho hóa một cách giản đơn các triết thuyết khác” [48, tr. 50] và tuy được làm mới
bởi tư tưởng dân chủ, dân quyền, khoa học…, nhưng “Khổng học đăng chưa xây
dựng được một hệ lí luận chặt chẽ và thuyết phục” [48, tr. 43]. Tác giả nhấn mạnh:
“Việc Nho giáo hóa và đồng nhất tư tưởng Nho giáo với các tôn giáo và triết thuyết
khác, nhằm khẳng định giá trị, sự uy nghiêm và vĩ đại của Nho giáo, trong những
trường hợp nhất định không phải là không hiệu quả. Tuy nhiên, sự so sánh khiên

20


cưỡng và thổi phồng vô lí về tính ưu việt, hoàn bị và viên mãn của Nho giáo cũng sẽ
gây ra ảnh hưởng tiêu cực, làm hỗn loạn và gây nhiễu trong nhận thức của tầng lớp tri
thức, nhất là tri thức trẻ đương thời” [48, tr. 52]. Theo tác giả, cả hai hạn chế đó đều
thể hiện ở thao tác hiện đại hóa Nho giáo mà Phan Bội Châu đã thực hiện và đó cũng
là điểm khác biệt cơ bản trong thao tác hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo giữa Khổng
học đăng với Tân Nho gia hiện đại Trung Quốc [48, tr. 50].
Những đánh giá trên của cả hai tác giả đều hợp lý, thỏa đáng nhưng theo
chúng tôi thì vẫn chưa đầy đủ. Vì vậy, trong luận án của mình, một mặt, chúng tôi
sẽ chú ý kế thừa, làm rõ những nhận định trên; mặt khác, bổ sung và chứng minh
một số hạn chế khác của Khổng học đăng để có được sự đánh giá khách quan và
toàn diện nhất về tác phẩm này.

Thứ ba, về ý nghĩa hiện thời của việc luận giải Nho giáo trong Khổng học
đăng của Phan Bội Châu
Với số lượng khiêm tốn công trình nghiên cứu về Khổng học đăng của Phan
Bội Châu, để tìm ra những luận bàn về các bài học rút ra từ sự kế thừa và luận giải
mới của ông về các tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm này là một việc không dễ.
Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy vấn đề này chỉ được bàn đến trong hai bài nghiên
cứu của tác giả Đỗ Thị Hòa Hới và Nguyễn Thọ Đức.
Trong bài Một số suy nghĩ về vấn đề Phan Bội Châu và Nho giáo, tác giả
Đỗ Thị Hòa Hới cho rằng: “Khổng học đăng là một lời khẳng định rằng muốn có
những bước vào hiện đại phải tôn trọng và chú ý tìm hiểu truyền thống, để có thể
có được sự tự tin vững vàng, tránh được những sai lầm của người xưa” [37, tr.
351]. Ở góc độ sâu sắc hơn, trong bài Tìm hiểu xu hướng hiện đại hóa tư tưởng
Nho giáo trong Khổng học đăng của Phan Bội Châu, nhà nghiên cứu Nguyễn
Thọ Đức khẳng định: “Phải “kế thừa một cách sáng tạo” đối với truyền thống và
“tiếp thu có chọn lọc” đối với hiện đại, để dung hợp Đông Tây - “đời xưa” và
“đời nay” - kết hợp tư tưởng Nho giáo đã được Phan Bội Châu hiện đại hóa với
“dân chủ” và “khoa học” phương Tây” [48, tr. 48].
Tóm lại, tổng hợp nghiên cứu của các tác giả về những nội dung liên quan
đến đề tài, có thể khái quát kết quả nghiên cứu đó ở các nội dung sau:
Thứ nhất, về cơ sở của sự kế thừa và luận giải mới của Phan Bội Châu về các
tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng

21


Qua những công trình nghiên cứu về tư tưởng Phan Bội Châu nói chung, Khổng
học đăng nói riêng, chúng tôi nhận thấy vấn đề này đã bước đầu được tiếp cận và phân
tích ở góc độ trực tiếp hoặc gián tiếp. Tuy nhiên, các học giả mới chủ yếu đề cập đến
sự khủng hoảng Nho giáo ở Việt Nam, cùng với hoàn cảnh xuất thân của Phan Bội
Châu với tư cách là điều kiện quan trọng dẫn tới việc Phan Bội diễn dịch lại các tư

tưởng Nho giáo trong tác phẩm của mình. Những chuyển biến về kinh tế, chính trị, văn
hóa ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX (dưới sự xâm lược của thực dân Pháp) tuy
có được một số tác giả đề cập nhưng chưa có những phân tích, lập luận để giúp người
đọc thực sự thấy được mối quan hệ giữa sự chuyển biến này với sự ra đời Khổng học
đăng của Phan Bội Châu. Một số vấn đề khác như: tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX; những cuộc tranh luận học thuật sôi nổi; sự ảnh hưởng của Tân văn,
Tân thư trong đời sống tư tưởng Việt Nam; xu hướng canh tân, đổi mới đất nước cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở nước ta... đều có liên quan mật thiết đến đến sự ra đời của
Khổng học đăng nhưng lại chưa được tác giả nào luận giải nhằm chứng minh cho tính
tất yếu của việc diễn dịch lại các tư tưởng Nho giáo của Phan Bội Châu trong tác phẩm
này. Đây là những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu.
Thứ hai, về những nội dung tư tưởng Nho giáo được Phan Bội Châu kế thừa và
diễn giải mới trong tác phẩm Khổng học đăng, các tác giả đã chỉ ra luận giải của Phan
Bội Châu về chữ Nhân, dân, vấn đề dân chủ và kinh tế, từ đó đưa ra một số kết luận có
giá trị. Tuy nhiên, do chủ yếu xuất hiện trong phạm vi một bài nghiên cứu hoặc bài báo
khoa học cho nên các dẫn chứng, lập luận đưa ra chưa đủ để làm rõ nội dung nào được
Phan Bội Châu kế thừa, nội dung nào được ông phát triển. Mặt khác, nghiên cứu
Khổng học đăng, chúng tôi nhận thấy còn nhiều vấn đề khác được Phan Bội Châu luận
giải, qua đó gợi mở những bài học có giá trị, nhưng lại chưa được công trình nào đề
cập tới. Đó là: những luận giải về Trời, Mệnh trời, con người; luận giải về đường lối trị
nước; luận giải về các phạm trù đạo đức khác như trung, hiếu, lễ, nghĩa... và những
luận giải về về đối tượng, nội dung, phương pháp giáo dục. Tất cả những nội dung trên
sẽ được chúng tôi phân tích một cách có hệ thống trong quá trình thực hiện luận án.
Thứ ba, về giá trị, hạn chế và ý nghĩa hiện thời của việc luận giải tư tưởng
Nho giáo trong tác phẩm Khổng học đăng của Phan Bội Châu
Về giá trị, hạn chế: Các tác giả đã đạt được sự thống nhất khá lớn trong việc
khẳng định giá trị, hạn chế của những luận giải về Nho giáo trong tác phẩm Khổng học

22



×