Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

tieu luan vai trò của truyền thông đại chúng với giáo dục giới tính tuổi vị thành niên ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 32 trang )

Đề tài: Vai trò của truyền thông đại chúng với giáo dục giới
tính tuổi vị thành niên ở nước ta hiện nay.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài.
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Những vấn đề đóng góp
7. Cấu trúc của đề tài.
NỘI DUNG.
CHƯƠNG 1: Một số khái niệm có liên quan.
1.1.

Truyền thông đại chúng là gì?

1.1.1. Truyền thông là gì?
1.1.2. Truyền thông đại chúng?
1.2.

Giáo dục giới tính là gì?

1.2.1. Giáo dục là gì?
1.2.2. Giáo dục giới tính?
1.3.

Giáo dục giới tính tuổi vị thành niên?

1.3.1. Tuổi vị thành niên?



1.3.2. Giáo dục giới tính tuổi vị thành niên?
1.4.

Vai trò giáo dục giới tính của truyền thông

CHƯƠNG 2: Thực trạng và vai trò của truyền thông đại chúng với
giáo dục giới tính tuổi vị thành niên hiện nay.
2.1. Những yếu tố tác động đến công tác giáo dục giới tính cho vị
thành niên ở nước ta hiện nay.
2.1.1. Đặc điểm tâm lý sinh lý.
2.1.2. Các yếu tố của hệ thống TTĐC.
2.2. Vai trò giáo dục giới tính của TTĐC với vị thành niên ở nước ta
hiện nay.
2.2.1 Vai trò nâng cao hiểu biết về giới tính
2.2.2 Vai trò tư vấn giải quyết những vấn đề về giới tính
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong khoảng thời gian gần đây, dân số và phát triển trở thành một
trong những vấn đề cấp bách của thời đại. Hiện tượng “bùng nổ dân số” đã
gây sức ép nặng nề đến đời sống xã hội, làm ảnh hưởng tới chất lượng cuộc
sống ở cả cấp vi mô lẫn vĩ mô. Đứng trước những thử thách lớn lao của sự
gia tăng dân số, Đảng và Nhà nước ta đã xem “công tác dân số- kế hoạch
hóa gia đình là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là
một trong những vấn đề kinh tế- xã hội hàng đầu ở nước ta, là một yếu tố cơ
bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn

xã hội”.
Giáo dục giới tính là một chương trình nhằm cung cấp những kiến
thức thích hợp về giới tính của người dưới góc độ sinh lý học, tâm lý học,
văn hóa- xã hội và đạo dức. Giáo dục giới tính tập trung sự chú ý một cách
chọn lọc về cá thể trong các chủ đề về tự biết mình, về các quan hệ cá nhân,
về quá trình phát triển giới tính và các hoạt động tình dục cũng như sinh sản.
Nhưng làm thế nào để các nội dung giáo dục giới tính đi vào chiều
sâu, có tác động mạnh mẽ đến toàn xã hội là một vấn đề lớn cần được giải
quyết. Giáo dục giới tính có thể được lồng ghép vào trong chương trình học
ở nhà trường, sự giáo dục của gia đình, học hỏi bạn bè, qua các phương tiện
thông tin đại chúng…

Và trong các hình thức đó thì phương tiện thông

tin đại chúng có tác động rộng lớn nhất đối với cả xã hội. Nó đóng vai trò
quan trọng trong việc cung cấp các thông tin, kiến thức, kinh nghiệm thực
tiễn cần thiết giúp nâng cao nhận thức, từ đó tác động trong việc thay đổi
hành vi của mọi người, bảo vệ sức khỏe, sức khỏe sinh sản. Một trong
những đối tượng mà truyền thông đại chúng chú ý nhất là tuổi vị thành niên.


Tuổi vị thành niên là giai đoạn phát triển quan trọng của con người. Trong
lĩnh vực sức khỏe sinh sản thì độ tuổi này gồm những người có khả năng
phát triển về tính dục, chuẩn bị lập gia đình, sinh con. Đây cũng là lứa tuổi
dễ bị những cám dỗ xã hội lôi kéo vào các tệ nạn ma túy, mại dâm, quan hệ
tình dục thiếu an toàn để lây nhiễm các bệnh liên quan đến đường tình dục
hoặc HIV/ AIDS. Trước vấn đề đó công tác truyền thông giáo dục ngày càng
có ý nghĩa quan trọng. Công tác tuyên truyền giáo dục có kết quả tới đối
tượng này giúp họ có hiểu biết, có nhận thức đúng đắn về vấn đề, điều chỉnh
hành vi của mình và ra những quyết định đúng đắn cho bản thân.

Với những lý do trên và nhu cầu của nhóm muốn tìm hiểu, nghiên cứu
thêm về giáo dục giới tính tuổi vị thành niên và vai trò của công tác truyền
thông đại chúng đối với vấn đề này, nhóm chúng tôi quyết định lựa chọn đề
tài: “Vai trò của truyền thông đại chúng với giáo dục giới tính tuổi vị
thành niên ở nước ta hiện nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu
- Khảo sát thực trạng giáo dục giới tính tuổi vị thành niên của các
phương tiện truyền thông đại chúng ở nước ta hiện nay ( qua điều tra chọn
mẫu ở hai vùng: thành phố và nông thôn) .
-Tìm hiểu các yếu tố làm hạn chế vai trò của truyền thông đại chúng
với vấn đề giáo dục giới tính tuổi vị thành niên.
- Từ đó đề xuất một số khuyến nghị về giải pháp làm cho giáo dục
giới tính cho vị thành niên trên các phương tiện thông tin đại chúng đạt hiệu
quả. Đồng thời cũng trang bị cho lứa tuổi này những kiến thức cơ bản về
giới tính, sức khỏe sinh sản giới tính… qua đó có thái độ và hành vi đúng
với chuẩn mực và lứa tuổi của mình.


b. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Chỉ ra được vai trò giáo dục giới tính của truyền thông đại chúng
hiện nay
- Chỉ ra được thực trạng của công tác giáo dục giới tính cho vị thành
niên trên các phương tiện truyền thông đại chúng hiện nay.
- Chỉ ra những yếu tố làm cản trở việc vị thành niên tiếp cận với
truyền thông đại chúng về lĩnh vực này.
- Từ kết quả điều tra, nghiên cứu đưa ra một số khuyến nghị nhằm
nâng cao vai trò của truyền thông đại chúng với giáo dục giới tính vị thành
niên ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng , khách thể và phạm vi nghiên cứu.

a. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của truyền thông đại chúng với giáo dục giới tính tuổi vị thành
niên ở nước ta hiện nay.
b. Khách thể nghiên cứu.
- Các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay (báo in, đài, ti vi,
Internet…).
- Lứa tuổi vị thành niên (10- 19 tuổi).
c. Phạm vi nghiên cứu.
- Thời gian: Thông tin điều tra được ở tháng 4 và tháng 5 năm 2011.
- Không gian: 2 trường THPT ở hai vùng:
+ Thành phố: THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm - Hà Nội.
+ Nông thôn : THPT Thịnh Long - Hải Hậu - Nam Định.
4. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết.
a. Giả thuyết nghiên cứu.
-

Hầu hết nội dung về giáo dục giới tính cho lứa tuổi vị thành niên đều
được các phương tiện thông tin đại chúng đề cập.


- Các phương tiện truyền thông đại chúng đã phát huy được tối đa vai
trò của mình trong vấn đề này, đạt được hiệu quả cao.
- Đa số những thông tin về giới tính, sức khỏe sinh sản giới tính, các
bệnh lây lan… đều được vị thành niên tiếp cận từ các phương tiện
thông tin đại chúng.
b. Khung lý thuyết

Môi trường kinh tế- xã hội

Nâng


Đặc

Vai trò

điểm
tâm sinh


của

lứa tuổi
vị thành
niên

TTĐC
với

Vai trò nâng cao sự hiểu

cao vai

biết về giới tính.

trò
TTĐC

GDGT
tuổi


với

vị

thành
niên

Vai trò tư vấn giải quyết

GDGT

những vấn đề giới tính

tuổi
VTN

nươcnư
ớc
hiện

ta
Chính sách dân số và phát triển

nay.

- Biến độc lập:
+ Về các phương tiện thông tin đại chúng:


• Các loại hình phương tiện: Sách, báo in, đài phát thanh, ti vi, Internet,

tranh ảnh cổ động…
• Các loại hình này đều có nội dung đề cập đến giáo dục giới tính vị
thành niên.
+ Về vị thành niên: Đặc điểm cá nhân
• Tuổi
• Đặc điểm tâm sinh lý
• Học vấn
- Biến phụ thuộc: Vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng với
giáo dục giới tính cho tuổi vị thành niên
+ Nhận thức của vị thành niên với những kiến thức trong nội dung giáo
dục giới tính.
+ Thái độ tiếp cận của vị thành niên với vấn đề này trên các phương tiện
thông tin đại chúng.
+ Phương pháp giáo dục giới tính của truyền thông đại chúng hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp định tính:
- Phân tích tài liệu: Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các
đề tài nghiên cứu các vấn đề liên quan đến giáo dục giới tính và vị
thành niên.
- Phỏng vấn sâu: Đề tài thực hiện phỏng vấn sâu với vị thành niên của
2 trường THPT đại diện cho hai vùng thành phố và nông thôn.
b. Phương pháp nghiên cứu định lượng
Đề tài tiến hành điều tra 100 phiếu với lứa tuổi vị thành niên ở hai vùng
thành phố (50 phiếu) và nông thôn (50 phiếu).


6. Những vấn đề đóng góp
- Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài nghiên cứu góp phần đưa ra những phát hiện
về thực trạng của vai trò truyền thông đại chúng với giáo dục giới tính
tuổi vị thành niên và những mong muốn từ phía vị thành niên đối với

truyền thông đại chúng về vấn đề này. Kết quả nghiên cứu góp phần
trong việc thúc đẩy hơn nữa vai trò của truyền thông đại chúng với
giáo dục giới tính tuổi vị thành niên.
- Ý nghĩa lý luận: Góp phần bổ sung và làm phong phú thêm những lý
luận trong nghiên cứu về giáo dục giới tính tuổi vị thành niên và
truyền thông đại chúng.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài nghên
cứu được trình bày như sau:
A- MỞ ĐẦU
B- NỘI DUNG
Chương 1: Một số khái niệm có liên quan.
Chương 2: Thực trạng và vai trò của truyền thông với giáo dục giới tính
tuổi vị thành niên hiện nay
C- KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ


Chương 1
Một số khái niệm có liên quan.
1.1. Truyền thông đại chúng là gì?
1.1.1. Truyền thông là gì?
Thuật ngữ truyền thông có nguồn gốc từ tiếng Latinh “commune” có
nghĩa là chung hay cộng đồng. Trong tiếng Anh từ Communication có nghĩa
là sự truyền đạt, thông tin, thông báo giao tiếp, trao đổi, liên lạc…. Ta có thể
hiểu truyền thông như sau: “Truyền thông là sự trao đổi thông điệp giữa các
thành viên hay các nhóm người trong xã hội nhằm đạt được sự hiểu biết lẫn
nhau”.
1.1.2. Truyền thông đại chúng:
“Truyền thông đại chúng là hoạt động giao tiếp xã hội rộng rãi,
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng”

Truyền thông có vai trò vô cùng quan trọng, là một trong những yếu
tố hàng đầu làm cho con người tự nhiên trở thành con người xã hội và thúc
đẩy xã hội phát triển không ngừng. Khi nói đến truyền thông đại chúng đối
tượng là các nhóm, cộng đồng rộng rãi tức là thỏa mãn nhu cầu giao tiếp của
số đông. Không chỉ ở một quốc gia mà còn ra toàn thế giới. Để thực hiện
truyền thông đại chúng trên phạm vi xã hội rộng lớn đòi hỏi phải có phương
tiện tương ứng, khoa học kỹ thuật càng phát triển thì các phương tiện đại
chúng càng hiện đại và hiệu quả.
1.2. Giáo dục giới tính là gì?
1.2.1. Giáo dục?
Dưới góc độ tiếp cận của Xã hội học, cuốn “Nghiên cứu Xã hội học”
của PTS Chung Á và PTS Nguyễn Đình Tấn chủ biên đã đưa ra: “giáo dục


được hiểu là những hoạt động nhằm tác động có hệt thống đến sự phát
triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó làm cho đối tượng ấy dần
dần có những phẩm chất, năng lực cần thiết theo yêu cầu đặt ra”.
Giáo dục cũng được coi là một thiết chế cơ bản của xã hội, là một
trong những lĩnh vực hoạt động xã hội nhằm kế thừa duy trì và phát triển
nền văn hóa xã hội một cách liên tục, là sự truyền đạt những kinh nghiệm
lịch sử xã hội được tích lũy trong quá trình phát triển của loài người nhằm
đảm bảo quá trình sản xuất xã hội, đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội.
1.2.2. Giới tính là gì?
Giới tính là những đặc điểm riêng biệt về mặt giải phẫu sinh lý cơ
bản, những đặc điểm riêng biệt về mặt tâm lý( tình cảm, xúc cảm, tính cách,
năng lực…) đã tạo nên sự khác biệt giữa nam và nữ, giới tính có nguồn gốc
sinh học và nguồn gốc xã hội.
1.2.3. Giáo dục giới tính?
Từ điển Bách khoa về giáo dục cho rằng: “Giáo dục giới tính là giáo
dục về chức năng làm một con người có giới tính . Điều quan trọng là đề

cập vấn đề giới tính 1 cách công khai và đầy đủ trong lớp học, từ nhà trẻ
đến đại học giúp cho học sinh cảm thấy an toàn và tự do trong việc biểu lộ
các cảm xúc liên quan đến đời sống giới tính”
1.3. Giáo dục giới tính tuổi vị thành niên?
1.3.1. Tuổi vị thành niên?
Vị thành niên là một trong những khái niệm được hiểu một cách đa
nghĩa và dễ gây tranh luận nhiều cả về nội hàm lẫn ngôn từ của nó trong tư
duy xã hội hoc. Tùy thuộc vào vị trí tiếp cận góc nhìn cũng như chức năng,
nhiệm vụ của mỗi chuyên ngành mà vị thành niên lại được giải thích theo
một cách riêng.


Theo cuốn từ điển “luật học” của NXB từ điển Bách khoa Hà nội năm
1999: “ Vị thành niên (chưa thành niên )là người chưa đến độ tuổi được
pháp luật coi là đủ khả năng để sử dụng quyền , làm nghĩa vụ và chịu trách
nhiệm. Người chưa đủ 18 tuổi là vị thành niên” (Tr.568).
Trong chiến lược dân số quốc gia giai đoạn 2000-2010 có nêu ra một
tiêu chí cơ bản của tổ chức Y tế thế giới (WHO) để chỉ nhóm vị thành niên.
Đó là: “Nhóm nhân khẩu xã hội có tuổi đời từ 10-19 tuổi” Trong nhóm vị
thành niên nói trên, người ta lại phân nhỏ thành 3 nhóm khác nữa: Nhóm vị
thành niên nhỏ từ 10-13 tuổi, nhóm vị thành niên trung bình từ 14-16 tuổi,
nhóm vị thành niên lớn từ 17-19 tuổi.
Đặc trưng cơ bản của nhóm vị thành niên có thể được xác định bởi
những biến đổi thường xuyên liên tục của ba mặt cơ bản:
Thứ nhất, vị thành niên là nhóm tuổi có những sự thay đổi mạnh mẽ
nhất về thể chất trong cuộc đời mỗi con người.
Thứ hai, vị thành niên cũng là giai đoạn thay đổi nhanh chóng nhất về
tâm lý tình cảm, nhận thức thậm chí trong nhiều trường hợp chính sự thay
đổi còn có thể gây “sock” cho bản thân lứa tuổi này.
Thứ ba, từ sự thay đổi về thể chất và nhận thức, vị thành niên cũng là

nhóm nhân khẩu xã hội có những biến đổi mạnh mẽ nhất trong hành vi.
1.3.2. Giáo dục giới tính tuổi vị thành niên?
Giáo dục giới tính tuổi vị thành niên là những kiến thức về giới tính giành
cho lứa tuổi vị thành niên. Đó là những kiến thức giáo dục về:
- Giáo dục sức khỏe sinh sản.
- Giáo dục sức khỏe về tình dục
- Kiến thức về các bệnh lây lan qua đường tình dục và cách phòng ngừa
- Kiến thức về phòng ngừa và lây nhiễm HIV/ AIDS
- Giáo dục tình yêu và hôn nhân


- Rèn luyện kỹ năng sống
….
Từ những kiến thức đó giúp vị thành niên hiểu hơn về giới tính, hiểu hơn về
những kiến thức sức khỏe sinh sản… từ đó có những nhận thức đúng và
hành động đúng với những chuẩn mực đạo đức của xã hội và của lứa tuổi
mình.


Chương 2:
Thực trạng và vai trò của truyền thông với
giáo dục giới tính tuổi vị thành niên hiện nay.
2.1. Những yếu tố tác động đến công tác giáo dục giới tính cho vị thành
niên ở nước ta hiện nay.
2.1.1. Đặc điểm tâm lý sinh lý.
Nhóm tuổi vị thành niên có vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống xã
hội cũng như trong chính cuộc đời của mỗi người. Nếu trong cuộc đời, tuổi
vị thành niên là giai đoạn quan trọng, giai đoạn bản lề có thể quyết định
toàn bộ cuộc sống sau này của mỗi người thì trong xã hội, thế hệ vị thành
niên bao giờ cũng đại diện cho một sự chuyển tiếp vào thế hệ mới, hướng

tới tương lai.
Thực tế cho thấy, lối sống, đạo đức và nhân cách của mỗi người được
hình thành từ tuổi ấu thơ và định hình rõ nét từ tuổi vị thành niên . Tuổi vị
thành niên hàm chứa trong nó rất nhiều những yếu tố vừa ghi nhận, vừa loại
bỏ, vừa định dạng, vừa biến dạng trong nhận thức, tâm lý, tình cảm, suy nghĩ
của con người trong giai đoạn này rồi trở thành khuôn mẫu nhân cách của
chính con người đó trong cuộc sống sau này.
Ở Việt Nam, vị thành niên là lứa tuổi từ 10 tới 19 tuổi. Trong thời kỳ
này, vị thành niên cũng có những biến động về tâm lý. Vị thành niên là tuổi
dễ tự ái, nhạy cảm với mọi ánh mắt, lời nói của người xung quanh, tính khí
thất thường khi thì hồ hởi, cởi mở, khi thì thu mình, kín đáo, thích khám phá
bản thân, không thích bị coi là trẻ con…. Trong giai đoạn này nhiều vị thành


niên rơi vào tình trạng hoang mang, dao động, mất phương hướng đến mức
có thể xem tuổi vị thành niên về bản chất là tuổi hay có rối nhiễu tâm lý:
Hoài nghi, coi thường các giá trị, lo hãi, lý tưởng hóa, thích khẳng định bản
thân. Do đó lứa tuổi này cần được trang bị kiến thức đầy đủ, toàn diện về
giới tính.
2.1.2. Các yếu tố của hệ thống truyền thông đại chúng.
Sự hình thành và phát triển truyền thông đại chúng không chỉ bị quy
định bởi sự hình thành công chúng đại chúng có nhu cầu về thông tin của
công chúng xét đến cùng lại bị quy định bởi khả năng đáp ứng thông tin của
công chúng. Chính xã hội hiện đại với sự phát triển của khoa học, của các
điều kiện vật chất kỹ thuật cho phép sáng tạo và đưa vào sử dụng các
phương tiện truyền thông đại chúng. Phải nhờ những phương tiện vật chất,
kỹ thuật nhất định mới có thể thực hiện được việc truyền bá thông tin một
cách nhanh chóng và rộng khắp. Vậy là, không chỉ nhu cầu thông tin mà cả
những tiến bộ kỹ thuật đã tạo ra truyền thông đại chúng . Mỗi một loại hình
phương tiện vật chất, kỹ thuật nhất định đã tạo ra một loại hình truyền thông

đại chúng nhất định.
Như chúng ta đã biết, báo in là loại hình truyền thông, phương tiện
truyền thông đại chúng xuất hiện sớm nhất. Với sự xuất hiện của kỹ thuật và
công nghệ in ấn, những thông tin được đăng tải, truyền bá nhanh và rộng
khắp hơn hẳn những phương tiện thông tin trước đó.
Với sự xuất hiện của báo in, người ta thấy sự đa dạng, sự cập nhật và
sự tập trung của thông tin. Đồng thời cũng là lúc xuất hiện đại chúng hiểu
theo nghĩa là một công chúng đông đảo, không tập trung. Với khả năng
truyền bá thông tin đặc biệt của mình, báo in đã góp phần độc đáo vào hệ
thống truyền thông của xã hội. Hiện nay, bên cạnh các loại báo có tính phổ
cập có thể đáp ứng được nhu cầu thông tin cập nhật mang tính đại chúng cao


còn có những loại báo, những tạp chí chuyên ngành phục vụ những giới,
những đối tượng có nghề nghiệp chuyên biệt.
Ở nước ta báo in cũng có lịch sử hơn 100 năm. Ngày nay báo in Việt
Nam đã có một số bước phát triển vượt bậc. Có thể nêu ra đây những số liệu
thống kê để giúp việc hình dung sự trưởng thành nhanh chóng ấy.
Điện ảnh cũng được xem là một loại hình truyền thông đại chúng độc
đáo. Tính độc đáo của điện ảnh là ở chỗ nó vừa là một loại hình nghệ thuật,
vừa là một loại hình truyền thông.
Truyền thanh (radio) là loại hình truyền thông bằng âm thanh qua
sóng điện từ. Nhờ việc sáng chế ra đài phát, máy thu lần đầu tiên nhân loại
có được một loại hình viễn thông vô tuyến, ưu thế phát sóng rất rộng của
công nghệ truyền thanh, cùng với tốc độ sóng điện từ của nó khiến cho
truyền thanh đáp ứng được thông tin cho công chúng đông đảo, một đại
chúng thực sự. Đồng thời, truyền thanh cũng là một loại hình truyền thông
tổng hợp. Trong khả năng và với ưu thế của mình, truyền thnah không chỉ
đưa tin tức cập nhật mà còn phổ biến tri thức khoa học, kỹ thuật, giáo dục từ
xa, đặc biệt là đáp ứng nhu cầu văn hóa cho quần chúng.

Sự xuất hiện của truyền hình thực sự là một cuộc cách mạng trong
truyền thông đại chúng . Nó tạo ra điều kiện và khả năng to lớn cho truyền
thông đại chúng thực hiện các chức năng chính trị- tư tưởng- văn hóa, giáo
dục…. Tính độc đáo và ưu thế của truyền hình là ở chỗ nó bao chứa với một
mức nhất định, tính chất và khả năng của báo chí, điện ảnh và truyền
thanh…. Bằng sự kết hợp truyền âm thanh với truyền hình ảnh, truyền hình
có thể “đưa” các loại sự kiện thực của đời sống từ năm châu, bốn bể, thậm
chí từ vũ trụ, đến từng nhà để từng người có thể chứng kiến được tận mắt.
Do tính tổng hợp, do chức năng đa dạng của mình mà truyền hình được gọi


với cái tên rất ý nghĩa như: Rạp hát tại nhà, quảng trường công cộng, người
hướng dẫn văn hóa đại chúng…
Cuộc cách mạng công nghệ thông tin hiện đại đang đưa nhân loại vào
kỷ nguyên thông tin. Hệ thống thông tin vệ tinh phủ sóng khắp trái đất,
truyền tin cáp quang và đặc biệt là mạng Internet đã làm thế giới thu nhỏ lại.
Internet thực sự trở thành phương tiện truyền thông đại chúng kỳ diệu. Với
khả năng lưu trữ to lớn của mình và khả năng cung cấp nhanh chóng Internet
có thể đem đến ngay lập tức cho con người những thông tin cần thiết. Có thể
nói, không một phương tiện lưu trữ nào, không một phương tiện thông tin
nào có được ưu thế về sự tiện lợi như vậy.
Bên cạnh những loại hình truyền thông đại chúng tương đối độc lập
như trên còn có những thiết chế văn hóa cũng mang chức năng của truyền
thông đại chúng . Tuy nhiên những thiết chế văn hóa này là những thiết chế
có tính tổng hợp của nhiều hình thức hoạt động văn hóa - tuyên truyền;
chính xác hơn, chúng là những phức hợp các hình thức hoạt động văn hóa
thông tin. Đó là nhà văn hóa, câu lạc bộ, thư viện, thậm chí cả lễ hội….
Những hình thức này, hoạt động của các thiết chế này rất đa dạng. Chẳng
hạn, như một nhà nghiên cứu đã chỉ ra, nhà văn hóa là cơ quan văn hóa tổng
hợp, mang đủ tính chất của các loại nhà: nhà trường, nhà thông tin triển lãm,

nhà hát, nhà thi đấu thể thao, nhà đọc sách…. Tương tự như vậy, câu lạc bộ
và thưu viện cũng có thể là nơi đọc sách, nơi giao lưu giữa học giả với độc
giả, nơi giáo dục…. Cùng với quá trình hiện đại hóa xã hội, sự phát triển của
những điều kiện khoa học- kỹ thuật cho phép triển khai các thiết chế văn hóa
cả về số lượng, chất lượng và sự phong phú của nội dung hoạt động, đã làm
cho các thiết chế văn hóa cũng hiện diện như là một loại hình đặc biệt của
truyền thông đại chúng , chính xác hơn, là làm cho chúng cũng có chức năng
của các phương tiện truyền thông đại chúng .


Như vậy, tương ứng với sự phát triển kinh tế- kỹ thuật của xã hội hiện
đại, các loại hình truyền thông đại chúng xã hội và phát triển, thâm nhập lẫn
nhau, đan xen lẫn nhau. Vì vậy, việc phân loại chúng chỉ có ý nghĩa tương
đối. Do mục đích và khuôn khổ của một bài tiểu luận, nhóm nghiên cứu chỉ
đề cập tới một số loại hình truyền thông đại chúng cơ bản, đang phổ biến và
có tác động tới các mặt của đời sống xã hội.
2.2. Vai trò giáo dục giới tính của truyền thông đại chúng với vị thành
niên ở nước ta hiện nay.
Truyền thông đại chúng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp
các thông tin, kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn góp phần nâng cao nhận
thức, từ đó có tác động trong việc thay đổi hành vi của vị thành niên, bảo vệ
sức khỏe, giáo dục giới tính tuổi vị thành niên.
Phương tiện truyền thông đại chúng như đã kể ở trên bao gồm sách,
báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình, internet, sân khấu, điện ảnh, khẩu hiệu,
biểu ngữ, tranh cổ động v.v.. có vai trò rất lớn trong việc nâng cao hiểu viết
về giới tính, có vai trò tư vấn giải quyết những vấn đề về giới tính, vai trò
tạo diễn đàn trao đổi về giới tính và một số vai trò khác…Nhưng trong phạm
vi của đề tài, chúng tôi chỉ đi sâu vào hai vai trò: nâng cao hiểu biết về giới
tính và vai trò tư vấn giải quyết những vấn đề về giới tính.
Bằng các phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phỏng vấn trực tiếp,

phỏng vấn sâu…ở hai địa điểm: Hà Nội, Nam Định. Đây là hai tỉnh đại diện
cho đồng bằng sông Hồng (Hà Nội, Nam Định), tuy khác nhau về mặt địa lý,
tự nhiên nhưng trình độ học vấn, trình độ nhận thức của các em tuổi vị thành
niên là tương đối đồng đều. Đối tượng của cuộc điều tra là 100 vị thành niên
ở cả nông thôn và thành thị tuổi từ 16- 18 tuổi, hiện đang là học sinh Trung
học phổ thông tại hai trường: THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hà Nội), THPT
Thịnh Long (Hải Hậu - Nam Định). Chúng tôi có 50 phiếu cho thành phố (


Hà Nội) và 50 phiếu cho vùng nông thôn (Nam Định). Qua quá trình điều
tra, gặp gỡ trực, trao đổi trực tiếp với các em, chúng tôi đã thu được những
kết quả phục vụ rất thiết thực cho đề tài này. Để từ đó chúng tôi có một nhãn
quan cụ thể về vai trò nâng cao hiểu biết về giới tính và vai trò tư vấn giải
quyết những vấn đề về giới tính của truyền thông đại chúng đối với vị thành
niên .
2.2.1 Vai trò nâng cao hiểu biết về giới tính
Hành động của con người thông thường bắt nguồn từ nhận thức đúng
đắn, mà nhận thức đúng đắn thường bắt đầu từ sự hiểu biết, có kiến thức đầy
đủ khách quan về những vấn đề đặt ra hoặc từ những kinh nghiệm thực tiễn
đúc kết được của con người. Trong vấn đề chúng ta đang đề cập, vị thành
niên đã có sự hiểu biết nhất định về giáo dục giới tính , hiểu được mục đích
của giáo dục giới tính.
Trong số các phiếu hỏi phát ra khi thu lại được biết, các em đều cho
rằng giáo dục giới tính là giáo dục sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, kiến
thức về phòng ngừa và lây nhiễm HIV, rèn luyện kỹ năng sống, giáo dục
tình yêu và hôn nhân. Trong đó 72% trên tổng số 100 em được hỏi xếp giáo
dục giới tính giúp hiểu biết về sức khỏe sinh sản là cao nhất, sau đó 65% cho
rằng trong giáo dục giới tính có giáo dục tình yêu và hôn nhân, 60% chọn
phương án là giáo dục sức khỏe tình dục, 58% là kiến thức về phòng ngừa
và lây nhiễm HIV, rèn luyện kỹ năng sống. Có tới 80% các em chọn 3/5

phương án, có tới 68% chọn 4/5 phương án. Như vậy có hơn 2/3 vị thành
niên được hỏi hiểu biết rất rõ về khái niệm giáo dục giới tính . Đây là một tín
hiệu đáng mừng.
Mục đích chính của giáo dục giới tính là để có đạo đức, nhân cách và
hành vi lành mạnh được 83% vị thành niên tích dấu; mục đích của giáo dục
giới tính để hiểu rõ về cơ thể mình và phòng ngừa bệnh tật được 73% vị


thành niên lựa chọn; và theo thứ tự tiếp có 53% em đồng tình với mục đích
giáo dục toàn diện, kiểm soát dân số. Nhìn vào kết quả điều tra này, chúng ta
cũng thấy ngay rằng vị thành niên hiện nay đã có những nhận thức sâu sắc
về cả giáo dục giới tính và về cả mục đích giáo dục giới tính.
Thái độ khẳng định với tỷ lệ cao cho rằng giáo dục giới tính là có cần
thiết: với 95 em đồng ý “có” chiếm 95% trên tổng số 100 em.
Theo cuộc điều tra, giáo dục giới tính được biết qua các kênh thông
tin nào trong những kênh sau:
T
T

Số lượng (người)
Các kênh thông tin

Nông
thôn

1
2
3
4
5


Các phương tiện
truyền thông đại chúng
Giáo dục gia đình
Nhà trường
Bạn bè
Ý kiến khác

Tỷ
lệ (%)

Thành
phố

42

45

87%

16
21
13
1

25
27
28
1


41%
48%
41%
2%


Trung bình mỗi vị thành niên có được thông tin về giáo dục giới tính
qua 3/5 nhóm kênh thông tin trên. Qua bảng số liệu và biểu đồ cho thấy,
truyền thông đại chúng là nguồn thông tin phổ biến nhất- 87% cho vị thành
niên về giáo dục giới tính. Một điều thú vị là sự khác biệt giữa nông thôn và
thành thị chỉ là 6% trong việc tiếp cận thông tin từ nguồn truyền thông đại
chúng (84% nông thôn và 90% thành thị). Điều đó cho thấy vị thành niên ở
nông thôn và vị thành niên ở thành thị ngày nay không có sự chênh lệch lớn
trong việc tiếp cận thông tin từ các phương truyền thông đại chúng.
Tỷ lệ vị thành niên có được thông tin từ nhà trường đứng thứ 2 với
48%. Điều này cho thấy giáo viên ở các trường Trung học phổ thông có trao
đổi một số thông tin về sức khỏe sinh sản với học sinh. Tỷ lệ vị thành niên
có thông tin từ bạn bè và gia đình đều là 41%, và số rất ít 2% có ý kiến khác
như: nghe lỏm, tự mày mò…
Như vậy có thể thấy rõ truyền thông đại chúng là nguồn thông tin
quan trọng nhất, chiếm tỷ lệ cao nhất trong các nguồn thông tin cung cấp sự
hiểu biết về giới tính cho vị thành niên hiện nay. Nó thể hiện vai trò quan
trọng của truyền thông đại chúng, đó cũng là điều tất yếu vì thời đại ngày
nay là thời đại bùng nổ thông tin, vị thành niên có thể tiếp cận dễ dàng với
các phương tiện truyền thông đại chúng.
Hình thức truyền tải những nội dung giáo dục giới tính của truyền
thông đại chúng được sơ đồ hóa như sau:


Nhìn vào biểu đồ ta thấy có 36% vị thành niên đánh giá hình thức

truyền tải nội dung giáo dục giới tính phong phú, đa dạng, dễ hiểu; có 24 %
vị thành niên nhận xét hình thức tẻ nhạt không hấp dẫn và có tới 40 % phê
bình hình thức truyền tải nội dung giáo dục giới tính không có gì nổi bật.
Đây là những con số phản ánh đúng thực tế. Mặc dù vị thành niên được giáo
dục giới tính qua truyền thông đại chúng là lớn nhất nhưng đa số họ lại cho
rằng truyền thông đại chúng cung cấp thông tin giáo dục giới tính với cách
truyền tải không đáp ứng được nhu cầu của vị thành niên. Truyền thông đại
chúng cần thiết phải xây dựng khung chương trình và hình thức truyền tải
hấp dẫn hơn nữa thì mới có thể thu hút được sự hưởng ứng của đông đảo
mọi người.
Thông tin đại chúng không chỉ là phương tiện giải trí mà còn là một
nguồn cung cấp thông tin nâng cao hiểu biết, các kiến thức về giới tính.
Trong cuộc điều tra phương tiện truyền thông đại chúng nào cho bạn nhiều
nhất các kiến thức về sức khỏe giới tính, chúng tôi thu được kết quả như sau:
Các phương tiện truyền thông
đại chúng
Sách, báo, tạp chí
Tivi, đài
Phim, ảnh
Khẩu hiệu, biểu ngữ, tranh cổ

Xếp thứ tự
1
3
4
5


động
Internet


2

Vị thành niên được hỏi về việc tiếp cận các phương tiện truyền thông
đại chúng được xếp thứ tự từ 1 đến 5, với điểm tối đa là 5, nghĩa là tiếp cận
tất cả các nguồn được liệt kê. Điểm trung bình là 3 vị thành niên được hỏi về
tần suất theo dõi giáo dục giới tính trên các phương tiện truyền thông đại
chúng . Kết quả cho thấy sách, báo, tạp chí là nguồn quan trọng nhất, đứng
thứ hai là internet, tiếp theo là tivi, đài, hai vị trí cuối là phim, ảnh và khẩu
hiệu, biểu ngữ, tranh cổ động.
Ở khu vực thành thị thì việc sử dụng sách báo; tivi, đài; internet nhiều
hơn hẳn nông thôn:

Điều này có thể giải thích do điều kiện kinh tế, internet là tốn kém nhất, sách


báo, tạp chí phải mua từng số và tivi thì không phải nhà nào cũng ở nông
thôn cũng có. Đây là chỉ báo rất tốt cho việc nên tập trung vào nguồn thông
tin nào hay đối tượng nào cho hiệu quả khi thiết kế chương trình truyền
thông trong tương lai để đem lại hiệu quả tốt nhất cho việc nâng cao kiến
thức về sức khỏe giới tính .
2.2.2 Vai trò tư vấn giải quyết những vấn đề về giới tính
Cùng với việc nâng cao hiểu biết về giới tính thì tư vấn giải quyết
những vấn đề về giới tính có vai trò hết sức quan trọng. Truyền thông tư vấn
giáo dục là biện pháp chính để vị thành niên tự đề kháng như tiêm vacxin đề
phòng bệnh.
Trong số vị thành niên được hỏi có tới 61% đánh giá cao vai trò
truyền thông đại chúng có vai trò tư vấn giải quyết những vấn đề về giới
tính. Và số liệu điều tra cũng chỉ ra được nội dung tư vấn về giải quyết
những vấn đề về giới tính được quan tâm như thế nào:


Số lượng (người)
TT

Nội dung tư vấn
Nông
thôn

1

Cung cấp, tư vấn

2

thông tin về giới tính
Tư vấn sức khỏe

3

sinh sản vị thành niên
Tư vấn về cách

4

phòng ngừa thụ thai
Tư vấn về các
bệnh lây lan qua đường

Thành


Tỷ
lệ (%)

thị
31

33

64%

24

38

62%

12

27

39%

25

35

70%


tình dục và cách phòng

ngừa
5

Tư vấn về tình
yêu và hôn nhân

22

32

54%

Trong các nội dung tư vấn giải quyết các vấn đề về giới tính trên thì tư
vấn về các bệnh lây lan qua đường tình dục và cách phòng ngừa là tư vấn
được nhiều vị thành niên tích dấu nhất với 70%. Sau đó, là cung cấp thông
tin về giới tính chiếm 64%, đứng thứ 3 là tư vấn về sức khỏe sinh sản vị
thành niên, tư vấn về tình yêu và hôn nhân chiếm 54%, cuối cùng là tư vấn
về cách phòng ngừa thụ thai chỉ với 39%.
Điều đó cho chúng ta thấy, truyền thông đại chúng đã có hoạt động
tích cực với vai trò tư vấn giải quyết những vấn đề giới tính cho vị thành
niên của mình.
Vai trò tư vấn giải quyết giới tính cho vị thành niên ở 2 nhóm giới
tính (nam,nữ) cũng có sự khác nhau rõ rệt.


Nhóm giới tính nữ với tỷ lệ phần trăm tiếp thu được nội dung của tư
vấn nhiều hơn nam giới. Điều này cũng là điều tất nhiên, bởi vì giới nữ với
đặc điểm tâm sinh lý, giới tính của mình với giới nam có nhiều phức tạp hơn
so với giới nam nên họ có sự quan tâm hơn và cách tiếp cận cũng khác nhiều
so với nam giới.

Nhóm chúng tôi cũng đã trao đổi, tiếp xúc với các ở độ tuổi vị thành
niên từ 16- 18 tuổi ở 2 địa điểm điều tra trên và qua quá trình trao đổi thẳng
thắn, cởi mở các em cũng đã mạnh dạn bày tỏ quan điểm của mình với vấn
đề giáo dục giới tính.
Nếu trước đây những chuyện liên quan đến giới tính, đến tình dục gần
như là một “lãnh địa cấm” thì giờ đây chúng được nói đến một cách công
khai và rộng rãi ở nhiều nơi:


×