Vì sao chuồn chuồn chấm chót đuôi lên mặt nước?
Chuồn chuồn thường hay chấm nhẹ chót đuôi lên mặt nước hồ, ao, rạch nước, có người
cho đó là chuồn chuồn uống nước. Cần biết rằng ở chỗ đầu nhọn của đuôi chuồn chuồn
không có vòi hút thì làm thề nào chúng uống nước được. Nguyên do là chuồn chuồn vừa
bay vừa dùng đầu nhọn ở đuôi phóng trứng của chúng vào trong nước. Đó là cách đẻ trứng
hết sức điển hình ở chuồn chuồn, người ta thường gọi đó là cách “chạm nước đẻ trứng”.
Nói chung chuồn chuồn liên tục chạm nước đẻ trứng, nhưng cũng có loại chuồn chuồn vừa
di động vừa dừng từng chỗ để đẻ trứng, lại có chuồn chuồn cả con đực và con cái đều đồng
thời chạm nước đẻ trứng. Mặt ngoài của trứng chuồn chuồn có một lớp màng dính, khi
trứng chìm vào nước, trứng sẽ bám vào mặt đất hay cây cỏ?
Ngoài ra còn có loại chuồn chuồn vừa bay vừa đẻ trứng. Lúc này chuồn chuồn giống như
chiếc máy bay lên thẳng dừng lại một chỗ trong không trung và đẻ trứng. Cũng có loại đậu
trên đất đẻ trứng vào đất bùn hoặc đẻ trứng vào các bộ phận của cỏ cây. Có loại chuồn
chuồn chui hẳn vào nước để đẻ trứng lên cây cỏ trong nước. Loại chuồn chuồn có thể chui
vào nước sâu đến 1 m ở lâu trong nước đến 49 phút.
Vì sao mỗi tổ ong chỉ có một ong chúa?
Khi mùa đông lạnh lẽo đã qua, mùa xuân đã đến, ong chúa của các loài ong vò vẽ, ong
vằn… tự mình xây một tổ con rồi ở trong đó đẻ trứng, nuôi một số ong con. Tại giai đoạn
này, không kể là việc làm tổ hoặc nuôi dưỡng thế hệ sau, mọi việc đều do một mình ong
chúa hoàn thành.
Cho dù các con ong mà ong chúa sinh ra và nuôi dưỡng có cả ong cái, nhưng ong chúa đã
tiết ra một chất đặc biệt để nhằm chế ngự sự phát dục, về giống cái của các con ong này, để
biến chúng thành ong thợ. Sau khi đời ong non thứ nhất đã trưởng thành, chúng có thể tiếp
nhận được công việc mở rộng tổ, chăm sóc ong non, ong chúa lại chuyển sang giai đoạn đẻ
trứng. Lâu dần tổ ong ngày càng lớn, ong thợ ngày càng nhiều.
Nên nói rằng tổ ong chỉ có một ong chúa vì cả bầy ong là đời sau của ong chúa. Nhưng
cũng có một số loài ong, trong tổ đồng thời tồn tại vài ong chúa. Các ong chúa là một
nhóm “nữ vương”, tạo thành một đại “gia đình” trong một tổ ong. Nhưng gia tộc loài ong
không cho phép có sự nhầm lẫn, nên ong chúa có tiết ra một chất đặc biệt để phân biệt với
dòng họ khác, còn chất đặc biệt đó là gì thì cho đến nay người ta vẫn chưa khám phá phát
hiện được.
Chuồn chuồn thời xa xưa rất lớn phải
không?
Từ những khảo chứng hoá thạch chúng ta được biết, ở đại Cổ sinh cách đây 300 triệu năm,
trong giai đoạn Tứ kỷ thạch nham đến kỷ Nhị Điệp (kỷ cuối cùng của đại Cổ sinh), trên
Trái đất có một loại chuồn chuồn rất lớn sinh sống. Cánh chuồn chuồn, theo phát hiện hoá
thạch của kỷ Thạch nham ở Pháp và hoá thạch ở kỷ Nhị Điệp ở châu Mỹ, đều có độ dài
trên 30 cm. Khi hai cánh giương ra, chiều rộng lớn tới 65 – 70 cm, là một loại chuồn chuồn
cỡ lớn.
Trên Trái đất trong thời đại kỷ Thạch nham vẫn chưa có thực vật nở hoa. Lúc bây giờ đâu
đâu cũng là rừng rậm do thực vật dương xỉ to lớn mọc thành cụm rậm rạp hình thành nên.
Bên cạnh đầm lầy, loại chuồn chuồn to lớn bay lượn, cảnh tượng ấy rất hùng tráng, rực rỡ.
Côn trùng trong thời kỳ ấy có một số loại cánh dọc (châu chấu…) con phù du, tổ tiên của
loài sâu kiến và con gián, v.v… vẫn chưa xuất hiện côn trùng cánh cứng, bươm bướm và
ong mật hút nhuỵ hoa. Vả lại, kẻ thù bên ngoài của côn trùng cũng rất ít, chỉ có côn trùng
bay lượn trên không chưa có chim chóc, chưa có động vật bò sát biết bay. Cho nên đất trời
lúc bấy giờ là thế giới của loại chuồn chuồn to lớn. Nhưng do chuồn chuồn lớn quá mức,
đến cả thân thể của mình cũng không sao kham nổi. Lại thêm lượng đồ ăn phải rất nhiều,
cho nên chúng dần dần bị tuyệt chủng.
Có động vật nào một mắt không?
Không có loài nào trong số các động vật có vú, chim, động vật lưỡng cư hoặc bò sát tự
nhiên có một mắt. Những loài cá dẹt như cá bơn được cho là chỉ có một bên mắt, kỳ thực
có hai. Một mắt nhập vào mắt kia, bên trái hoặc bên phải.
Tuy vậy, vẫn có một vài loài độc nhãn trong thế giới động vật không xương sống. Trong số
đó có một số loài “bọ nước” mà thực chất là các loài tôm cua.
Một loài bọ nước một mắt, được đặt một cái tên rất phù hợp là cyclops, là cư dân quen
thuộc ở lớp cặn ao hồ nơi nước tù đọng. Nó có những cái mắt kép, giống như ở ruồi, nhưng
mỗi con chỉ có một con mắt mà thôi.
ư
Mùa xuân là mùa hoa đào nở rộ, trăm hoa đua nở, chim bướm bay lượn, ong hút mật, rất
nhiều côn trùng đang tìm mật truyền phấn trong các bụi hoa quả là một cảnh tượng đầy tất
bật. Ong mật và bướm có thể ngửi thấy mùi thơm của các loại hoa quả, lẽ nào lại nói là
chúng cũng có “mũi”?
Rõ ràng là côn trùng có “mũi”. Nếu bạn bắt các loại côn trùng rồi quan sát tỉ mỉ một chút,
bạn sẽ phát hiện ra trên đầu của chúng đều có hai chiếc râu. Nhưng râu của mỗi loại côn
trùng lại khác nhau: Có loại râu nhỏ và dài, có loại râu lại có rất nhiều nhánh trông như hai
chiếc bàn chải; Có loại râu lại rất ngắn, bên dưới nhọn, bên trên bành to ra, hai chiếc râu
như hai chiếc chuỳ ngắn. Ngoài ra, ở phía dưới miệng của côn trùng còn có 4 chiếc râu bé
và ngắn. Đừng thấy hình dạng của xúc tua và râu khác hoàn toàn với mũi của động vật bậc
cao mà coi thường chúng, chúng cũng có tác dụng ngửi mùi vị như chiếc mũi. Bởi vì bề
mặt của xúc tua và những chiếc rây có rất nhiều lỗ nhỏ, bên trong các lỗ nhỏ có chứa các tế
bào có thể cảm nhận được mùi vị. Khi côn trùng gặp phải không khí có mang theo mùi vị,
nó sẽ phân biệt được mùi vị nhờ vào cấu tạo đặc biệt này.
“Chiếc mũi” đặc biệt này vô cùng quan trọng đối với nhiều loại côn trùng. Ngoài ong mật
và bướm ra, còn có rất nhiều côn trùng đều lợi dụng xúc giác để tìm kiếm thức ăn hay tìm
đối tượng giao phối nhằm phát triển đời sau. Loài kiến mà mọi người quen thuộc có thể
dựa vào khứu giác để phân biệt bạn của mình. Nếu đặt vài con kiến ở tổ này vào trong một
tổ kiến khác, do mùi vị của hai bên khác nhau nên những chú kiến ngoại lai này sẽ bị cắn
chết ngay. Do có cơ quan khứu giác nên côn trùng cũng có thể né tránh các mùi vị mà nó
không thích.
Dựa vào đặc tính côn trùng có thể ngửi thấy mùi vị, con người chế tạo ra rất nhiều dược
phẩm có mùi thơm. Trong đó có một số dược phẩm có thể dụ dỗ côn trùng đến sau đó sẽ
bắt và giết chúng; Một số khác có thể xua đuổi côn trùng, bảo vệ cho con người và vật khỏi
bị chúng gây hại, ví dụ như hương đuổi muỗi…
Không chỉ có thể ngửi được mùi vị, côn trùng còn có thể phân biệt âm thanh. Bởi vì trên cơ
thể chúng có một số bộ phận có tác dụng giống như chiếc tai vậy. “Tai” của côn trùng rất
kỳ lạ, hơn nữa chúng lại có vị trí khác nhau. Tai châu chấu mọc ở hai bên trái phải đốt thứ
nhất dưới bụng, mỗi bên một chiếc, mặt ngoài có vết nứt giống như hình nửa Mặt trăng, có
thể nhìn thấy rất dễ. “Tai” kiến mọc trên hai chiếc râu ở phần đầu, trong đốt thứ hai của
mỗi chiếc râu đều có cơ quan tiếp thu âm thanh. Tai của loài rết lại mọc ở đốt thứ hai của
cặp chi trước. Còn tai của con thiêu thân vừa mọc ở phần ngực vừa mọc ở phần bụng.
Khả năng nghe của côn trùng rất đặc biệt. Khả năng phân biệt tần suất âm thanh cũng rất
tốt. Nếu số lần ngừng lại của âm thanh trong một giây tương đối nhiều thì tai người sẽ
không nghe thấy, chỉ cảm giác như có một luồng âm thanh liên tục. Nhưng rất nhiều loài
côn trùng lại có thể phân biệt rất rõ sự thay đổi tần suất vài chục lần trong một giây. Không
chỉ vậy, các nhà nghiên cứu khoa học đã phát hiện ra có rất nhiều loài côn trùng có thể
nghe thấy siêu thanh, có loài thậm chí còn có thể nghe thấy siêu thanh rung 200.000 lần/s
Tai của côn trùng chủ yếu được dùng để tìm “bạn đời”. Chẳng hạn như một con côn trùng
cái đang cô đơn sẽ dễ dàng tìm thấy chỗ ở của một con đực bằng âm thanh đặc biệt mà nó
phát ra để thực hiện các hoạt động giao phối. Tai cũng có tác dụng rất lớn trong việc bảo
vệ bản thân. Giống như rất nhiều con thiêu thân có thể nghe thấy âm thanh của loài dơi.
(Âm thanh này gọi là sóng siêu âm, tai người không nghe thấy được) giúp cho chúng có
thể nhanh chóng rời xa khu vực nguy hiểm và khỏi bị rơi vào miệng dơi.
Tại sao thỉnh thoảng mình hà mã lại “chảy máu”?
Hà mã tuy là động vật cạn, nhưng đại bộ phận thời gian của nó ngâm mình dưới nước, chỉ
thỉnh thoảng mới lên cạn tìm thức ăn mà thôi. Điều kỳ lạ là khi đó, trên lớp da nhẵn bóng
của nó, đôi khi xuất hiện “máu” đỏ, thậm chí có lúc toàn thân trở nên đỏ thẫm.
Thì ra, da của hà mã rất dày, rất sáng, nhưng không có tuyến mồ hôi – khác với loài người
thông qua việc toát mồ hôi để hạ thấp thân nhiệt và làm cho da ẩm ướt, mát mẻ. Khi hà mã
ngâm trong nước, việc thiếu tuyến mồ hôi không gây ảnh hưởng gì với nó. Nhưng khi lên
cạn, lớp da thiếu nước bị khô đi, và có nguy cơ nứt ra. Lúc này hà mã phải sử dụng đến
biện pháp tự tiết “máu” để làm ướt cơ thể.
Thực tế chất màu đỏ này không phải là máu mà là một loại thể dịch đặc biệt màu đỏ, được
da tiết ra. Tác dụng của nó giống như sơn bôi lên bề mặt dụng cụ trong nhà, có thể bảo vệ
được da, ngăn chặn sự khô nứt trên cơ thể.
ư
Chỉ đêm xuống hoặc những hôm trời mưa, hoa huệ mới toả hương ngào ngạt. Đó là do đặc
tính nó toả mùi thơm theo độ ẩm không khí.
Với các loài hoa nở ban ngày, khi ánh nắng chiếu xuống, nhiệt độ trên cánh hoa sẽ tăng
lên, khiến tinh dầu thơm trong cánh hoa thoát ra nhiều.
Hoa huệ thì khác, cấu tạo cánh hoa của nó khá đặc biệt: nếu trời càng nắng to và hanh khô,
bạn sẽ chẳng ngửi thấy mùi gì cả trừ phi gí sát mũi vào bông hoa. Ngược lại, nếu không
khí có độ ẩm càng cao, những lỗ trao đổi khí trên cánh hoa tự động mở to để tinh dầu thơm
thoát ra ngoài. Ban đêm, không còn ánh Mặt trời, độ ẩm không khí tăng cao hơn ban ngày
nhờ vậy hoa huệ bắt đầu mở các túi thơm của mình. Đêm càng về khuya, mùi hoa càng
đậm.
Những hôm trời mưa, độ ẩm không khí cũng cao hơn lúc bình thường, khi đó hoa cũng rất
thơm. Có lẽ vì đa phần chúng ta cảm nhận được mùi thơm của nó về đêm và lúc trời mưa,
nên còn gọi nó là dạ lai hương hoặc vũ lai hương.
Vì sao la không đẻ con?
Thông thường, khi cho mẹ ngựa giao phối với bố lừa, đẻ ra la. Nếu đem mẹ lừa giao phối
với bố ngựa, con lai thu được gọi là “lừa la”, là một loại tuấn mã. Hầu như tất cả chúng
đều không có khả năng sinh sản. Nhưng hãn hữu, vẫn có trường hợp la mẹ tạo ra thế hệ
sau. Còn la bố thì không.
Động vật cấp cao đều do trứng thụ tinh phát triển mà có thế hệ con. Tế bào trứng sinh ra từ
buồng trứng của động vật giống cái, tinh trùng được sản sinh ra từ tinh hoàn của động vật
giống đực. Còn la, bất kể là đực hay cái, đều có hệ sinh dục phát triển không hoàn chỉnh, vì
thế chức năng sinh lý có thể chưa bình thường. Cơ quan sinh dục của những con la đực
không thể sản sinh ra loại hoóc môn động dục, đồng thời không thể sản sinh ra tinh trùng
thành thục, vì thế không thể thụ tinh. Đó là lý do la chỉ có một đời.
Song cũng có một vài trường hợp hiếm hoi la mẹ đẻ. Hơn 1.000 năm trước, trong sách
nông học cổ đại “Tề dân yếu thuật” của Trung Quốc đã có một vài ghi chép về trường hợp
này. Năm 1953 ở thôn Đông Tĩnh, Cam Túc, một con la mẹ giao phối với một con lừa đực
đẻ được một con lừa con. Năm 1954 ở tổng Giao - Đạo, huyện Hương Lương, tỉnh Hà Bắc
(Trung Quốc), một con la mẹ giao phối với một con ngựa đực, đẻ ra một con la cái.
Sự việc này tuy hiếm gặp, nhưng là để nói rằng một số ít la mẹ vẫn có thể sản sinh ra các tế
bào trứng thành thục có khả năng thụ tinh. Điều đáng nói là đến giờ vẫn chưa thấy la đực
sản sinh ra tinh trùng thành thục.
Tại sao mũi chó thường xuyên ướt?
Chó có khứu giác rất nhạy cảm. Cấu tạo mũi chó phức tạp hơn nhiều so với mũi những loài
động vật khác. Bộ phận để phân biệt các mùi vị của nó cũng đặc biệt lớn.
Trong các loài động vật cấp ca, xoang mũi có nhiều nếp nhăn, bên trên có một màng nhầy,
niêm mạc trên thường xuyên tiết ra chất dịch nhầy làm ướt các tế bào khứu giác này. Nhờ
đó, chúng có thể đưa các loại mùi vị từ thần kinh khứu giác lên đại não.
Đầu mũi con chó có một tổ chức niêm mạc không có lông, phía trên có rất nhiều nốt nổi
lên. Đó là một bộ phận chủ yếu của khí quan khứu giác. Trên tổ chức niêm mạc đầu mũi
này thường xuyên tiết ra rất nhiều dịch nhờn để làm ướt mũi, khiến cho khứu giác của loài
chó đặc biệt nhạy cảm.
ư
Một ngày nào đó, lang thang trong rừng mưa nhiệt đới của Malaysia và Indonesia, bạn có
thể sẽ sửng sốt khi đập vào mắt bạn là một bông hoa chói lọi, khổng lồ với đường kính tới
gần… 1 mét. Đó là Rafflesia, một dạng hoa loa kèn lớn nhất thế giới. Thậy kỳ lạ, từ “báu
vật của tạo hoá” này, có thứ mùi kinh khủng không ngừng bốc ra – mùi thịt thối.
Dân địa phương do vậy gọi nó là hoa xác chết. Tuy vậy, thứ mùi đó lại có vai trò sống còn
đối với hoa rafflesia, chúng hấp dẫn ruồi nhặng đến làm chức năng thụ phấn.
Tên đầy đủ của loài hoa này là Rafflesia arnoldi. Hoa mọc ngay trên mặt đất, đường kính
tới 1 mét, màu đỏ chói lọi. Cây Rafflesia là một loại cây ký sinh, dạng sợi, đường kính thân
bé như sợi chỉ. Thật ngược đời, hoa của cây to bao nhiêu thì thân cây là bé bấy nhiêu.
Rafflesia chui vào các mô rễ của một cây chủ có dạng thân leo và hút chất dinh dưỡng từ
đó. Nó không có lá, không có cuống, không có rễ. Cuối cùng, cái vi thể ăn bám nhỏ bé đó
sẽ tạo ra một cái nướu, to dần lên thành hình một chiếc bắp cải. Chính cái “bắp cải” này về
sau sẽ nở ra bông hoa khổng lồ Rafflesia arnoldi, mọc ngay trên mặt đất.
Các hạt của cây Rafflesia rất nhỏ, được bọc trong một lớp vỏ cứng. Các nhà khoa học cho
rằng chính các động vật đã truyền hạt này đi xa khi đi lang thang trong rừng. Hạt giắt vào
móng chân của chúng và thế là được tha đi khắp nơi.
Loài Rafflesia đầu tiên và lớn nhất được phát hiện ở đảo Sumatra. Các nhà khoa học đã lấy
tên người phát hiện ra nó, một người châu Âu có tên là Thomas Stamford Rafflesia, cũng là
người đã thành lập nước Singapore ngày nay, đặt cho cây. Từ đó đến nay, người ta đã đặt
tên cho hơn 12 loài Rafflesia khác.
Không phải mọi loài Rafflesia đều có mùi thối rữa của thịt thối. Ở Indonesia cũng có loài
cây này, người dân gọi là bunga patma, có nghĩa là hoa sen.
Cá ngủ thế nào?
Giống như các loài động vật khác, cá cũng cần phải ngủ, nhưng lại không hề nhắm mắt, đa
số chúng chỉ chợp mắt chốc lát mà thôi. Chính vì vậy chúng ta có cảm giác rằng cá không
bao giờ ngủ.
Ở Địa Trung Hải có nhiều loài cá vùi mình trong cát khi ngủ. Đáng nể nhất là loài cá vẹt,
ban đêm tiết chất nhầy thành cái “túi ngủ” để che mắt kẻ thù. Nó phải mất 30 phút để tạo
ra cái “túi ngủ” này và ngần ấy thời gian để ra khỏi “giường”.
Các loài cá trích, cá bạc má hay cá chảy ngủ thường thành từng đàn có lính canh dưới đáy
biển. Nhiều loài ngủ trong đám rong rêu phía trên mặt nước, số khác lại nằm im trên cát
nhờ tài hoá trang lẫn vào môi trường xung quanh như cá đuối. Còn loài cá sòng ngủ giữa
những hòn cuội nhỏ.
Bí mật sự hồi sinh của ve sầu
Người Trung Quốc cổ cho rằng ve sầu là con vật biểu tượng của sự hồi sinh do chu kỳ
sống có một không hai của chúng: nằm lặng lẽ dưới mặt đất trong nhiều năm liền, sau đó
trồi lên khỏi mặt đất đi tìm bạn đời giao phối, đẻ trứng rồi… chết! Ngày nay, người ta vẫn
tự hỏi về khả năng kỳ lạ của ve sầu khi chúng luôn xuất hiện trong thiên nhiên vào một
thời điểm chính xác trong năm.
Người ta đào những con nhộng thuộc loài ve sầu Magicicada đã… thọ dưới mặt đất 15
năm. Loài ve sầu này thường chỉ ngoi lên khỏi mặt đất sau 17 năm “tu luyện”. Khi đưa
những con nhộng ve sầu vào một căn phòng được điều khiển khí hậu nhân tạo. Tại đây
những con nhộng được gắn vào bộ rễ của những cây đào (peach) đã được “điều chỉnh” để
có thể ra hoa hai lần mỗi năm. Kết quả những con ve sầu thoát kiếp nhộng sớm hơn một
năm. Loài côn trùng này đã “đếm” thời gian bằng cách theo dõi những tin hiệu sinh lý của
cây.
Cứ vào mùa xuân, khi nhiều loại cây bắt đầu ra hoa, những giọt mật và protein từ hoa sẽ
chảy ra, rơi xuống và thấm vào bộ rễ của cây. Ve sầu ở trong lòng đất hút lấy thức ăn từ rễ
cây và đó chính là lúc chiếc đồng hồ sinh học của loài côn trùng này được “kích hoạt”. Lúc
này ve sầu sẽ hồi sinh, bò lên khỏi lòng đất và bắt đầu một chu kỳ sống mới…
Vì sao chim chấp nhận trứng cúc cu gửi nhờ?
Một số loài chim thà để lại những quả trứng mà cúc cu đẻ nhờ vào tổ của chúng, còn hơn
là lỡ vứt đi trứng của chính mình. Các nhà nghiên cứu đã kiểm tra hành vi vứt trứng của 18
loài chim Australia và 23 loài ở châu Âu. Trong phần nghiên cứu tại xứ sở chuột túi, họ đặt
những quả trứng nhựa màu xanh dương vào tổ và quan sát xem lũ chim chủ nhà sẽ hất bỏ
hay đập vỡ quả trứng có màu kỳ lạ này
Ánh sáng và tầm nhìn trong tổ dường như là những nhân tố chính để nó quyết định có hất
bỏ quả trứng ngoại đạo hay không. Những loài chim xây tổ nhỏ, tối, hình mái vòm hoặc
hình cái chén, thì đều chấp nhận quả trứng lạ, nhưng các con chủ nhà có tổ tràn đầy ánh
sáng thì có thể phân biệt giữa các quả trứng, và tỷ lệ vứt bỏ cao hơn.
Một số loài chim chủ nhà chấp nhận trứng của cúc cu thay vì hứng chịu nguy cơ vứt con
của mình.
Những loài chim nhỏ hơn xây tổ nhỏ khép kín hơn sẽ có lợi thế bảo vệ, vì những con cúc
cu to lớn không thể chui vào tổ của chúng đẻ được. Song điều đó đồng thời cũng khiến
chúng khó nhận ra trứng cúc cu hơn vì tổ tối hơn và chúng không muốn mắc sai lầm nếu
vứt bỏ con của chính mình.
Một số loài chim chủ nhà chấp nhận đứa con rơi của cúc cu vì chi phí để nuôi dưỡng nó là
thấp. Song, những gì chúng tôi tìm thấy là điều đó không quan trọng chút nào.
Loài chim hồng tước bản địa tuyệt đẹp ở Australia là một ví dụ tốt về một loài chim không
thể phân biệt được đâu là trứng của mình, đâu là trứng cúc cu, vì thế chúng không hất
trứng lạ khỏi tổ. Song, nó cũng là loài vật chủ duy nhất trên thế giới có thể phân biệt những
đưa con giả trong tổ và loại bỏ chúng. “Dường như chúng thua thiệt trong cuộc chạy đua
tiến hoá ở giai đoạn trứng, song bù lại, chúng lại tiến hoá để có thể nhận ra những đứa con
rơi của cúc cu trong tổ của mình”.
Vì sao chim cánh cụt có thể sống ở Nam
cực?
Môi trường cực kỳ khắc nghiệt ở Nam cực đã buộc các sinh vật bậc cao rút lui khỏi lãnh
địa của nó. Ngay cả các động vật lớn có thể chịu được cái rét – 80 độ C của Bắc cực như
gấu trắng, voi biển… cũng không hề có mặt ở cực Nam. Vậy mà chim cánh cụt lại có thể
làm được điều đó.
Để hiểu vì sao, chúng ta phải xem lại “gia phả” của chúng. Trước hết, cánh cụt là một loài
chim bơi ở dưới nước cổ xưa nhất. Có thể nó đã đến đây định cư từ trước khi châu Nam
cực mặc “áo giáp băng”. Do diện tích đất liền hẹp, mặt biển rộng, nên nơi đây có thể coi là
khu vực phồn thịnh nhất trong các thuỷ vực, với nguồn thức ăn phong phú, trở thành vùng
đất tốt cho cánh cụt trú ngụ.
Sau nữa, do kết quả tôi luyện trong gió và bão tuyết qua hàng ngàn vạn năm, lông trên toàn
thân của cánh cụt đã biến thành lớp lớp dạng vảy gắn chặt. Với loại “chăn lông” đặc biệt
này, nước biển không những khó thẩm thấu, mà dù cho nhiệt độ có xuống tới – 100 độ C,
chim cũng không hề hấn gì. Đồng thời, lớp mỡ dưới da của nó rất dày, nên càng đảm bảo
giữ nhiệt cho cơ thể.
Thêm nữa, châu Nam cực không có thú ăn thịt, thế là cánh cụt đã có được một mảnh đất
khá an toàn. Chẳng thế mà khi các nhà nghiên cứu đặt chân lên mảnh đất tận cùng của thế
giới này, chim cánh cụt không những không bỏ chạy, mà còn đón tiếp họ với thái độ rất
thân mật (và tò mò).
Từ khi nào và vì sao cây mọc lá?
Các nghiên cứu về hoá thạch đã chỉ ra rằng cây cối từ đầu kỷ Devon trở về trước (cách đây
khoảng 360 triệu năm) không được sum suê lá như bây giờ. Đa số thực vật đều trơ trụi
trong một khoảng thời gian kéo dài đến 40 triệu năm.
Tại sao cây cối lại có lá và tại sao quá trình “triển khai” lá này lại kéo dài đến như thế? Câu
trả lời từ rất lâu đã là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận khoa học. Mới đây, các nhà nghiên
cứu thuộc hai trường đại học ở Anh đã đưa ra một giả thuyết, theo đó, lá chỉ được hình
thành khi có sự thay đổi mạnh mẽ về lượng CO2 trong khí quyển.
CO2 là khí mà cây cối sử dụng để quang hợp. Vào đầu kỷ Devon, Trái đất có quá nhiều
khí này, nhiều đến mức cây chẳng cần hoặc chỉ cần rất ít lỗ khí (nơi chúng hút CO2 vào và
nhả oxy ra). Vì thế, hầu hết cây cối đều không có lá. Cá biệt, một số thực vật mọc những
bộ phận giống như gai vậy.
Không có lỗ khí, nên nếu cây có lá, nhất là lá rộng, chúng sẽ phải chịu nhiệt độ rất cao của
môi trường thời đó.
Nhưng rồi sau đó, lượng nồng độ của khí CO2 trong bầu khí quyển của Trái đất bắt đầu
giảm dần theo thời gian, cuối cùng chỉ còn lại khoảng 10% so với lượng ban đầu. Do vậy,
cây cối buộc phải tiến hoá sao cho có nhiều lỗ khí hơn để hút đủ CO2, để giữ mát thân. Sự
hình thành lá ở thực vật là một cách thức để thích nghi với môi trường. Nhờ có những
chiếc lá chi chít lỗ khí, cây quang hợp được nhiều hơn và không bị nhiệt độ quá cao làm
hại.
Động vật khác loài có hiểu nhau không?
Trong một số trường hợp thì có. Khi nghiên cứu những dấu hiệu phức tạp mà chim hải âu
gửi cho nhau trong các giống cùng một loài, người ta nhận thấy chim trong các đàn lẫn lộn
có thể đáp lại tiếng kêu cứu của nhau.
Hươu có thể nhận ra lời cảnh báo trong tiếng kêu của chim trong các cuộc đối thoại liên
loài trong rừng.
Thông thường, cách ứng xử này chỉ dừng lại ở mức độ những tín hiệu đơn giản về mối
nguy hiểm hoặc diễn tả nỗi sợ hãi. Chẳng hạn, khi một con sói tru lên khi bị dồn vào chân
tường, tiếng tru của nó chuyển đi một nỗi sợ hãi phòng thủ và tín hiệu này có thể lây lan
khắp các chủng loại cùng loài.
Có trường hợp các loài khác nhau sử dụng thông tin một cách lừa lọc. Ví dụ, những con
đom đóm cái đang bị đói của một loài có thể bắt chước các tín hiệu lập loè mà con cái của
một loài khác thường phát ra khi đáp lại tín hiệu tình yêu. Bằng cách đó, chúng có thể lừa
con đực của loài khác cùng họ, tấn công và ăn thịt.
Bươm bướm có cái tên gọi là sò hến?
Bươm bướm có rất nhiều giống loài. Trên thế giới có khoảng 3000 loài. Bất kể loài nào
cũng đều nhỏ bé. Nói chung, khi cánh giương ra rồi, độ dài của thân mình khoảng chừng 3
cm, màu sắc của cánh đẹp đẽ, đặc biệt là trên cánh của nó, lấp lánh các màu rực rỡ: tím,
xanh, lục, da cam… trông như những viên đá quý, trong đó hay gặp nhất là màu lam pha
tím.
Sở dĩ loài này có tên là sò hến vì nó hết sức tương tự về kích thước, màu sắc mặt trong của
vỏ sò hến. Có khi động vật cũng có tên gọi giống nhau, như “đỗ quyên”, là tên gọi của một
loài hoa đẹp và cũng là tên của một loài chim có giọng hót rất hay.
Con mực bơi như thế nào?
Hẳn bạn sẽ vô cùng ngạc nhiên khi nghe nói: Với nhiều sinh vật thì phương pháp hoang
đường “tự túm tóc để nâng mình lên trên” lại chính là cách di chuyển thông thường của
chúng ở trong nước. Mực cũng thế.
Con mực và nói chung, đa số các động vật nhuyễn thể lớp đầu túc đều di chuyển trong
nước theo cách: lấy nước vào lỗ máng qua khe hở bên và cái phễu đặc biệt ở đằng trước
thân, sau đó chúng dùng sức tống tia nước qua cái phễu đó. Như thế, theo định luật phản
tác dụng, chúng nhận được một sức đẩy ngược lại đủ để thân chúng bơi khá nhanh về phía
trước. Ngoài ra con mực còn có thể xoay ống phễu về một bên hoặc về đằng sau và khi ép
mình để đẩy nước ra khỏi phễu thì nó có thể chuyển động theo bất kỳ hướng nào cũng
được.
Chuyển động của con sứa cũng tương tự như thế: nó co các cơ lại để đẩy nước từ dưới cái
thân hình chuông của nó ra và như thế nó bị đẩy về phía ngược lại. Chuyển động của bọ
nước, của các ấu trùng chuồn chuồn và nhiều loại động vật dưới nước khác cũng theo
phương pháp tương tự.
Vì sao cua đi ngang?
Hãy úp sấp bàn tay của bạn xuống mặt bàn và tưởng tượng rằng đó là một nửa con cua. Mu
bàn tay là mai cua, các ngón tay của bạn là chân cua. Di chuyển tay về phía trước. Bây giờ
hẳn bạn đã hình dung ra cách cua đi ngang.
Loài cua được bọc trong một bộ xương ngoài có tác dụng bảo vệ chúng trước kẻ thù. Tuy
nhiên, cái giá phải trả là các chân trên của chúng bị hạn chế cử động. Càng tiến hoá nhiều,
xương ngoài của cua càng có tác dụng bảo vệ hơn và chân cử động càng ít hơn. Trông thì
buồn cười thật, nhưng có thế cua mới sống được.
Cụ thể, chân cua gắn vào mình nó, cũng giống như ở con người chúng ta vậy. Song thật
không may cho anh chàng “8 cẳng 2 càng” này là trong khi tay người có rất nhiều khớp
(vai, khuỷu tay, cổ tay và ngón tay) cho phép chúng ta cử động được thoải mái thì cua lại
có rất ít khớp. Và các khớp chân ấy cũng không được linh hoạt lắm. Chúng chỉ hơi gập lại
theo hướng trước – sau.
Để dễ hiểu, bạn cứ hình dung như thế này: Chân cua cũng tương tự như ngón tay người,
chỉ có thể di chuyển dọc mà rất hạn chế theo chiều ngang. Như vậy, cua đi ngang là do nó
đã chấp nhận hy sinh sự linh hoạt của chân, đổi lại được bảo vệ khỏi kẻ thù.
Vì sao thiên nga trong vườn thú không bay mất?
Trong sở thú, mặt nước hồ trong suốt như gương, từng đôi thiên nga trắng tự do bơi một
cách an nhàn nhởn nhơ, đôi lúc lại vươn dài cổ cao giọng hót, hoặc vẫy cánh, bước lên bờ
để tỉa tót dung nhan. Tại sao chúng không bay đi nhỉ?
Chim bay lượn trong không trung có liên quan đến lực đẩy và lực nâng của sự chuyển vận
không khí. Chim có hai kiểu bay: bay chèo và bay lướt. Bất kể loại chim nào, khi chúng cất
cánh đều phải dựa vào sự lắc lư của cánh.
Trên cánh chim mọc đầy lông ống, hình dạng tương đối lớn, xếp ngay ngắn, gọi là lông vũ.
Lông ống mọc ở cổ tay và bàn tay là lông vũ sơ cấp, còn lông ống mọc ở phần trước ống
tay gọi là lông vũ thứ cấp. Mặt trên và mặt dưới của lông ống còn có lông nệm. Các lông
ống sắp xếp như sau: phiến ngoài của mỗi lông ống phủ một phần phía trong của lông kế
bên. Khi chim nâng cánh, mỗi lông ống đều xoay quanh trục thân, làm không khí dễ lọt
qua khe hở của các phiến lông của lông vũ. Khi chim đập cánh, lông xoay trở lại, phủ
phiến lên nhau, làm thành tấm rộng cản khí, sản sinh áp lực đối với cánh, đẩy mạnh thân
chim hướng lên trên hoặc hướng về phía trước. Vì vậy, lông vũ ở trên cánh chim là công
cụ quan trọng trong việc bay lượn của chim. Loài chim không có lông vũ như chim không
cánh và đà điểu thì không thể bay được. Một số loài khi thay lông thường có khá nhiều
lông vũ cũng rụng một lúc, lúc này chúng tạm thời mất khả năng bay lượn vốn có.
Căn cứ vào nguyên lý này, thiên nga hoặc các loài chim khác, sau khi đưa đến vườn thú,
trước tiên phải nhổ lông vũ đi, hoặc cắt xương ngón tay của chim non hoặc xương khớp
của bàn tay, làm cho lông vũ không có chỗ để mọc. Không có lông vũ, không có sức để
vẫy mạnh cánh, thế là chúng không thể bay lên được nữa.
ại sao khi mỗi độ thu về thì lá cây xanh lại ngả màu vàng và rơi rụng?
Xưa nay vẫn cho rằng vì mùa thu khô ráo dẫn đến lá bị mất nước. Nhưng các nhà khoa học
mới đây phát hiện ra rằng: sự biến màu của các lá cây có quan hệ đến sự biến hoá của các
kích thích tố nào đó cùng với sự thay đổi về vật chất hoá học. Vào đầu mùa thu, kích thích
tố tách rời chất A-xít và các chất khác tích tụ vào lá cây, lá bắt đầu biến màu vàng, lá cây
mang diệp lục tố, nước, đạm, prôtit và các hợp chất hữu dụng về cho cành, cho rễ để rồi tự
mình nhận sự khô héo và diệt vong. Cũng như vậy, tế bào đặc thù của cuống lá cũng dần
dần suy yếu, thế là mỗi khi có mưa, gió, chúng dễ dàng bị đứt lìa.
Các nhà thực vật học cho biết: màu sắc lá mùa thu có lúc nhạt, lúc đậm, nó phụ thuộc vào
lượng mưa và tuyết rơi. Nếu như gặp năm hạn hán, thì sự thay đổi của lá không lớn lắm, lá
sẽ rụng sớm hơn, đó là do chúng muốn giữ nước cho cây, tích trữ chất dinh dưỡng cho cây,
rụng lá có thể là nước cờ “thí tốt giữ xe” của loài cây. Đấy là một trong những thủ đoạn
giữ mình của các loài thực vật và đấy cũng là một trong những đặc điểm của tạo hoá.
Có một số lá xanh lại biến thành màu đỏ sau khi trời lạnh dần. Người Bắc Kinh (Trung
Quốc) chỉ chờ những ngày thu tới để đến Hương Sơn ngắm lá đỏ, toàn bộ một vùng núi
non trải một màu vàng đỏ rực rỡ.
Tại sao chim bay được?
Con người chúng ta luôn luôn mơ ước được bay trong không trung. Trong nhiều thế kỷ
qua, nhiều phát minh đã phối hợp chế tạo ra những máy móc mô phỏng theo sự quan sát
của con người về các loài chim. Nhưng tất cả các cỗ máy này đều thất bại vì không có
được các cánh như chim để rời khỏi mặt đất. Thân chim hoàn toàn phù hợp với khả năng
bay được của nó, xương chim lại nhẹ nhàng còn đầu chim có một cấu tạo khoang chứa đầy
không khí tạo cho chim giảm được trọng lượng. Sự hô hấp nhanh đảm bảo cung cấp một
lượng ôxy cho những cơ bắp ở lồng ngực chim tác động đến hoạt động của đôi cánh, có
được như vậy thì chúng mới có thể cung cấp được nhiều năng lượng hơn. Nếu các cơ bắp
và các lá phổi của chúng ta cũng hoạt động như vậy thì chúng ta sẽ mạnh lên hàng chục
lần.
Những lông cánh sơ đẳng: - Đó là những chiếc lông lớn ở đầu cánh chim, ở chim bồ câu là
những chiếc lông dài nhất, chúng bảo đảm tạo ra được sức đẩy và hướng bay cho chim.
Những chiếc lông cánh thứ yếu: - Phần sau cánh chim tạo nên bởi những chiếc lông này.
Những lông cánh thứ yếu lại được bao phủ bởi những lông mình.
Những chiếc lông làm bánh lái: - Chim sử dụng lông dưới để điều khiển đường bay của
chúng cũng như để hãm lại. Khi một con chim bồ câu bay qua bay ngang qua một vùng
nhiều cây cối nó sẽ xoè lông đuôi ra để bay ngoằn nghèo giữa những cây cối đó. Trên vùng
cây thưa, chúng sẽ gập những chiếc lông đuôi lại.
Lông chim và xương chim: Nói cho đúng, mỗi chiếc lông chim là một chiếc ống trung tâm
với hàng trăm những sợi tơ. Những sợi tơ này liên kết lại với nhau trên các lông cánh nhờ
những chiếc móc tạo nên một mặt nhẵn. Trên mình chim là lông chim và những sợi tơ rời
móc lại với nhau trông bù xù có tác dụng chống rét cho chim.
Những loài chim bay xa nhất cũng là những con có trọng lượng của cơ thể nhẹ nhất.
Xương của cánh một con chim rất nhẹ nên cũng giảm được trọng lượng cơ thể. Những
xương này lại được tăng cường bởi một mạng xương ngang khiến cho độ cứng chắc của
chim càng được tăng cường. Những loại chim lặn chân viền và những loài chim lặn khác
đều có bộ xương đặc nên chúng có thể chìm sâu dưới nước một cách dễ dàng, những con
không có khả năng bay cũng vì thế mà không thể cất cánh được.
Làm thế nào để Nhện có thể giăng lưới giữa các vật cách xa nhau?
Nhện là loại động vật chân có đốt, và hậu môn của chúng có thể tiết ra một loại keo dính,
trong không khí keo dính bị đông cứng lại thành sợi tơ mảnh.
Có lúc nhện dựa vào lưới giăng sẵn để bắt côn trùng làm mồi, có lúc nhện lại dựa vào sự
chạm trán bất ngờ để săn mồi. Nhện tự mình giăng lưới theo nhiều kiểu khác nhau, thế
nhưng động tác đầu tiên của việc giăng lưới đều giống nhau.
Đầu tiên nhện nhả tơ từ hậu môn, để cho sợi tơ bay phất phơ trong gió, đến khi sợi tơ nhờ
gió đưa bám vào một cành cây, nhện mới căng sợi tơ, sau đó bò qua bò lại trên sợi tơ đó
nhiều lần, sau đó lại dệt thêm các sợi tơ khác để tăng độ bền. Đó là cơ sở cho một tấm lưới
nhện. Nhện lấy sợi tơ to này làm chủ và kết thành một tấm lưới đặc sắc.
Ngoài ra người ta còn chú ý đến việc xem xét nhện dệt một tấm lưới dùng hết bao nhiêu
thời gian. Có con nhện dệt lưới rất nhanh, chỉ cần 1 đến 2 phút. Nhưng cũng có con dệt
một tấm lưới phức tạp thì cần đến vài giờ đồng hồ. Nói chung một con nhện có thể dệt
được một tấm lưới trong vòng một giờ.
Con người đã dùng tơ nhện để dệt vải, điển hình nhất là vào năm 1900, trong cuộc triển
lãm quốc tế tổ chức tại Pháp, có trình bày đôi găng tay, bít tất, áo ấm dệt bằng tơ nhện. Để
có được 500 gam tơ nhện cần phải nuôi 27.000 con nhện.
So với tơ tằm, tơ nhện không chỉ bền hơn mà còn đẹp hơn. Nhưng không thể sản xuất tơ
nhện với quy mô công nghiệp. Nguyên nhân là nhện thì ăn thịt động vật nên rất khó nuôi
dưỡng và phải nuôi riêng từng con. Ngoài ra về phương diện thuần kỹ thuật người ta không
thể nuôi dưỡng các con nhện cùng nhả tơ trong cùng một thời gian như nuôi tằm được.
Tại sao mèo thích thịt hơn?
Chúng ta, đặc biệt là những người nuôi mèo đều biết, những chú mèo bé nhỏ chỉ thích săn
bắt chuột và ăn thịt chuột sống hơn là những đồ ăn ngọt như sôcôla chẳng hạn. Và các nhà
khoa học đã giúp chúng ta hiểu rõ nguyên nhân của hành vi ăn uống này của loài mèo.
Một cuộc kiểm tra gene của các loài thú thuộc họ mèo cho thấy một khiếm khuyết đáng kể
của một trong những gene có chức năng mã hoá một phần cơ quan nhận cảm vị ngọt ở
mèo. Việc “loại bỏ” tới 247 gặp gene cơ sở trong gene có chức năng mã hoá protein T1P2 -
một trong hai cơ sở protein tạo thành cơ quan cảm nhận vị ngọt ở động vật có vú – đã
khiến loài mèo không thể nhận ra các chất có vị ngọt như đường và carbohydrates.
Điều đó giải thích sự thờ ơ mà mèo, sư tử, hổ, báo và báo đốm Mỹ đối với đồ ngọt. Và
phát hiện này cũng giải thích tại sao loài mèo để hết tâm trí vào việc đi săn, Joseph Brand,
Giáo sư khoa lý sinh tại Monell Chemical Senses Center, Philadelphia, US, một trong
những tác giả của nghiên cứu cho biết.
Nhìn vào sơ đồ gia hệ của loài mèo cũng có thể cung cấp những manh mối. Brand cũng đã
phát hiện gene đột biến ở loài báo gêpa, hổ và một người bà con họ xa với mèo – linh cẩu.
Do đó, mặc dù rõ ràng tổ tiên của loài thú họ mèo và linh cẩu sở hữu gene lỗi, Brand
không biết tại nhánh nào trong cây tiến hoá của loài thú họ mèo, gene khiếm khuyết này
xuất hiện.
“Mất cơ quan cảm nhận đồ ngọt lại khiến cho các động vật thuộc họ mèo có một khả năng
tìm mồi mà các động vật khác không có - hầu hết các động vật khác, khi đi săn phải đi theo
đàn, nhưng loài mèo hoang có khả năng săn mồi một mình” – Brand nói với New Scientist.
Mồm không phải là nơi duy nhất để loài mèo nếm các vị, chúng còn có khả năng mếm mùi
vị qua bộ máy tiêu hoá và tuyến tuỵ, nhưng tại hai bộ phận này, cơ quan cảm nhận vị ngọt
cũng bị khiếm khuyết.
Nhưng bù lại việc không cảm nhận được vị ngọt, loài mèo lại có rất nhiều cơ quan cảm
nhận axit amin phức tạp. Chúng có những cơn quan cảm nhận mùi vị tinh vi bởi những
kích thích vị giác mà chúng ta không biết được – Brand cho biết
Vì sao khi kéo cá mắc câu lên bụng nó lại lật ngửa?
Khi chúng ta lặn xuống biển hoặc hồ nước, nếu lặn hơi sâu thì tai cảm thấy đau nhức hoặc
ù tai. Đó là do chúng ta quen sống trong không khí có áp suất bằng 1 apmôtphe. Sau khi
lặn xuống nước, ta phải chịu đựng một áp suất lớn hơn, đó là áp lực của nước nên ta cảm
thấy rất khó chịu. Khi chúng ta lặn xuống biển ở độ sâu 10 m thì sẽ chịu một áp suất bằng
2 apmôtphe, còn khi đến độ sâu 100m, áp lực phải chịu sẽ lên tới 11 apmôtphe.
Loài cá thuộc về động vật biển chia nhau sống tại những tầng nước khác nhau. Có loại ở
tầng trên gần mặt biển, có loại ở độ sâu vài trăm mét, lại cũng có loại sống ở chỗ sâu nhất
của biển cả. Những loại cá này, trong thế giới đáy biển có áp lực rất cao vẫn sống cuộc
sống nhộn nhịp đầy sinh khí. Ngồi thuyền đi câu trên biển là chuyện vô cùng thú vị. Thả
dây câu xuống mức độ 50 m, tại đó sinh sống loài cá chịu được áp lực 6 apmôtphe. Khi
chúng ta cảm thấy dây câu rung động, cá đã mắc vào lưỡi câu rồi, từ từ kéo dây. Theo đà
thay đổi dần dần của áp lực không ngừng điều chỉnh, nhưng cơ thể rất khó giữ thăng bằng,
bụng cá có nhiều không khí giảm áp suất và làm tăng thời tiết nên bụng cá lật ngược lên
một cách không cưỡng được.
Khi chớp mắt, thế giới ngừng trôi?
Thực tế là khi chớp mắt, con người bị tách ra khỏi thế giới xung quanh trong khoảnh khắc.
Song hiếm khi ta nhận thức được điều này bởi vì những phần não điều khiển thị giác của
chúng ta khi đó tạm thời bị “đóng”.