Tải bản đầy đủ (.doc) (205 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Dệt may Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 205 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI

VŨ DƯƠNG HÒA

NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA DỆT MAY VIỆT NAM

Chuyên ngành : Thương mại
Mã số

: 62.34.10.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. VÕ PHƯỚC TẤN
2. TS. PHẠM NGỌC HẢI

HÀ NỘI, 2017


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, ngành Dệt May đã có những bước phát
triển đáng kể. Tốc độ tăng trưởng bình quân năm của giá trị sản xuất ngành Dệt
May giai đoạn 2005 – 2015 đạt 13,64%, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân
giai đoạn này đạt 18,61%,đưa ngành Dệt May trở thành ngành có vai trò quan trọng


đối với nền kinh tế-xã hội Việt Nam (năm 2015, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt
22,8 tỷ USD, chiếm 14,06% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước), và ngành Dệt May
Việt Nam cũng có vị trí quan trọng trên thị trường dệt may thế giới. Cụ thể, Việt
Nam nằm trong tốp 5 quốc gia xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới, chiếm 3,8%
tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may toàn cầu.
Tuy có tốc độ phát triển cao, giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn, nhưng giá trị
gia tăng trong các mặt hàng dệt may của Việt Nam thấp, tỷ suất lợi nhuận trong gia
công chỉ vào khoảng 5 – 8%, và chỉ được xếp vào nước có nền công nghiệp sản
xuất dệt may và thời trang vào loại trung bình trên thế giới (Theo BMI, 2012) nhưng
năng lực cạnh tranh của ngành Dệt May còn nhiều khuyết điểm, sự liên kết giữa các
mắt xích chưa chặt chẽ khiến giá trị gia tăng còn thấp. Một trong những yếu tố quan
trọng khiến cho năng lực cạnh tranh của ngành còn nhiều khiếm khuyết và thiếu
tính bền vững là do tuy số lượng doanh nghiệp trong ngành lên đến gần 6.800
doanh nghiệp nhưng phần lớn các doanh nghiệp này là những doanh nghiệp siêu
nhỏ hoặc nhỏ với nguồn vốn yếu, sản xuất phân tán khắp cả nước. Do hầu hết các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam là nhỏ và siêu nhỏ, vốn yếu, khả năng đầu tư phát
triển công nghệ không cao, khả năng huy động vốn đầu tư thấp, hạn chế khả năng
đổi mới công nghệ, trang thiết bị. Chính quy mô nhỏ đã khiến các doanh nghiệp
chưa đạt được hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, và chỉ có thể cung ứng cho một thị
trường nhất định. Do đó, khi thị trường gặp vấn đề, các doanh nghiệp dệt may sẽ
gặp khó khăn trong việc điều chỉnh phương thức thâm nhập thị trường hoặc chuyển
đổi sang thị trường khác.
Trước thực trạng yếu kém về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ
và vừa (DNNVV) của ngành Dệt May cũng đang đứng trước thách thức cạnh tranh


2

gay gắt cả ở trong và ngoài nước, đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và
vừa. Để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các các DNNVV ngành Dệt May Việt

Nam cần thiết có những nghiên cứu tổng thể nhằm đánh giá thực trạng năng lực
cạnh tranh của các DNNVV trong ngành từ đó đề xuất được các chính sách và giải
pháp nhằm giúp các doanh nghiệp này có thể tồn tại và phát triển bền vững ngay
trong nước cũng như thị trường quốc tế trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng
của nền kinh tế nước ta hiện nay. Xuất phát từ những lý do đó, tác giả đã lựa chọn
vấn đề “Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Dệt
May Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu Luận án tiến sĩ.
2. Mục đích, đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ các vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
ngành Dệt May làm cơ sở cho việc phân tích và đánh giá thực trạng năng lục cạnh
tranh của các DNNVV ngành Dệt May Việt Nam, đồng thời cung cấp các luận cứ
khoa học trong việc đề xuất các định hướng và các giải pháp cốt yếu nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh cho các DNNVV ngành Dệt may phục vụ cho việc thực hiện
các chiến lược phát triển ngành trong thời gian tới.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là DNNVV ngành Dệt May và năng lực
cạnh tranh của các DNNVV ngành Dệt May trong mối quan hệ phát triển kinh tế-xã
hội và hội nhập kinh tế của Việt Nam.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
− Về thời gian: Các DNNVV dệt may Việt Nam giai đoạn 2010 - 2014.
− Về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu các DNNVV dệt may sản
xuất may mặc, không nghiên cứu lĩnh vực dệt trong phạm vi cả nước.
3. Những đóng góp của luận án
Thứ nhất, hệ thống hóa và luận giải một số cơ sở lý luận về nâng cao năng
lực cạnh tranh của DNNVV của một số tác giả trong nước và thế giới. Trên cơ sở
tổng quan về mặt lý luận tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đã phân
tích và đề xuất sử dụng các nhóm chỉ tiêu, yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của



3

DNNVV ngành Dệt May.
Thứ hai, trên cơ sở phân tích kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của
một số DNNVV trên thế giới như: Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ đã làm rõ các
tham vấn về nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DNNVV dệt may Việt Nam.
Thứ ba, trên cơ sở khảo sát, phân tích và đánh giá về thực trạng năng lực
cạnh tranh của DNNVV dệt may giai đoạn 2010- 2014, Luận án rút ra được các
thành tựu nổi bật và phát hiện được những bất cập làm hạn chế năng lực cạnh tranh
của DNNVV dệt may Việt Nam trong thời gian qua.
Thứ tư, trên cơ sở kết quả phân tích về thực trạng năng lực cạnh tranh của
DNNVV dệt may thời gian qua, Luận án đã đề xuất hệ thống các giải pháp đột phá và
các giải pháp hỗ trợ khác, đặc biệt là hệ thống các giải pháp đột phá mang tính trọng
tâm trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV dệt may thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm
phương pháp luận, trong quá trình nghiên cứu luận án đã sử dụng các phương pháp:
(1)- Phương pháp phân tích thống kê; tổng hợp; phương pháp chuyên gia,
trong đó tổng hợp, trích dẫn, kế thừa một số công trình nghiên cứu của các học giả,
các số liệu phản ánh kết quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh của DNNVV Dệt
may và một số đối thủ cạnh tranh chính trong việc đánh giá thực trạng năng lực
cạnh tranh của DNNVV Dệt may.
(2)- Phương pháp thu thập thông tin qua việc thực hiện điều tra, khảo sát
thực tế: điều tra phỏng vấn qua mẫu phiếu điều tra với số lượng 300 phiếu điều tra,
có 285 phiếu trả lời, đối tượng điều tra là các nhà quản lý, các khách hàng sử dụng
sản phẩm của các DNNVV trong ngành Dệt May.
(3)- Ngoài ra, luận án sử dụng các phương pháp phân tích cả định tính và
định lượng các số liệu từ các báo cáo tổng kết, từ kết quả điều tra thực tế, sử dụng
ma trận SWOT để phân tích các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với
DNNVV Dệt May trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh so với một số đối thủ

cạnh tranh chính.


4

Việc sử dụng các phương pháp trên có phân tích và so sánh cho phù hợp với
nội dung cần nghiên cứu của luận án, đặc biệt là có kế thừa, sử dụng các kết quả
nghiên cứu của các công trình nghiên cứu, các tư liệu hiện có trong sách báo, tạp trí,
internet và các báo cáo nghiên cứu chuyên sâu.
5. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các bảng, biểu, danh mục từ viết tắt
và tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp nhỏ và vừa
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Dệt may Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
nhỏ và vừa Dệt may Việt Nam.


5

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án
Năng lực cạnh tranh là chủ đề được nhiều tác giả và các nhà khoa học khai thác
trong nhiều năm qua. Đây là vấn đề nóng và là chủ đề rộng để các nhà khoa học cả
trong và ngoài nước tiếp cận. Nâng cao năng lực cạnh tranh là vấn đề sống còn đối
với doanh nghiệp, nên việc nghiên cứu để đưa ra được các giải pháp để giúp các
DN tồn tại và phát triển là vấn đề các nhà khoa học quan tâm. Ngành Dệt may là
một trong những ngành có đóng góp quan trọng trong nền kinh tế VN, đến cuối

năm 2015 ngành DM đứng thứ 3 cả nước về giá trị xuất khẩu. Việc nghiên cứu
năng lực cạnh tranh đã được nhiều tác giả đề cập, nghiên cứu ở nhiều khía cạnh,
phạm vi, không gian và đối tượng nghiên cứu khác nhau trong thời gian qua. Một
số công trình nghiên cứu liên quan có thể tổng hợp như sau:

1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước
Ở trong nước, đến nay đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, luận án tiến
sĩ, các bài viết nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của các DN nói chung. Các đề
tài, luận án, bài viết này nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của một ngành hoặc của
nhóm sản phẩm cụ thể. Các công trình và đề tài nghiên cứu được tác giả tìm hiểu
theo tiêu chí thời gian phát hành và có thể khái quát như sau:
(1)- Nguyễn Thắng (2013), với đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh cho
doanh nghiệp nhỏ và vừa”. Bài viết đã đề cập một cách tổng quát đến năng lực
cạnh tranh của các DN nhỏ và vừa hiện nay, bài viết cũng cho thấy năng lực yếu
kém của các DN nhỏ và vừa, đã tác động đến sự phát triển của kinh tế Việt Nam.
Qua thực trạng năng lực cạnh tranh của DN nhỏ và vừa, tác giả cũng đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh như: hình thành cụm công nghiệp;
khu công nghiệp; liên kết giữa các DN nhỏ và vừa để phát huy những lợi thế của
mỗi DN nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh.
(2)- Hà Phạm (2013), đề tài “Xây dựng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp
Việt” đã phân tích và đánh giá một cách tổng thể năng lực cạnh tranh của DN Việt
Nam, bài viết đã nhấn mạnh sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của DN


6

Việt thời gian trước mắt. Từ việc phân tích đó, bài viết cũng đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của DN Việt, những giải pháp này như những
tham vấn quan trọng cho các nhà quản lý và điều hành DN, là cơ sở để các nhà
quản lý DN có thể phát huy những lợi thế sẵn có của DN Việt, hạn chế và dần xóa

bỏ những vấn đề bất cập trong thời gian tới, để có thể cạnh tranh trên thị trường
trong nước và thế giới.
(3)- Nguyễn Hoàng (2009) với công trình “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh xuất khẩu vào thị trường các nước EU của doanh nghiệp dệt may VN trong
giai đoạn hiện nay”, Luận án Tiến sĩ kinh tế. Luận án đã khái quát cơ sở lý luận về
nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của các doanh nghiệp DM. Luận án đã xây
dựng được hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dệt
may VN khi đưa sản phẩm xuất khẩu vào thị trường các nước EU. Trên cơ sở thu
thập số liệu sơ cấp và thứ cấp luận án đã phân tích, đánh giá thực trạng năng lực
cạnh tranh xuất khẩu vào thị trường các nước EU của doanh nghiệp dệt may VN.
Việc phân tích này đã chỉ rõ được năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may
VN khi xuất khẩu sản phẩm vào thị trường các nước EU. Những hạn chế và yếu
kém về công nghiệp hỗ trợ, sự yếu kém về nguồn nhân lực hay công nghệ lạc hậu
là những nguyên nhân chính ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp này.Tuy nhiên, việc phân tích cũng chỉ rõ thời cơ và thế mạnh của các
doanh nghiệp VN khi khắc phục được những yếu điểm trên để có thể cạnh tranh
với các doanh nghiệp của quốc gia khác. Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận và phân
tích thực tế, luận án đã đưa ra các định hướng và hệ thống các giải pháp nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp dệt may VN khi đưa sản phẩm vào
thị trường các nước EU. Phần định hướng trong thời gian tới, luận án đã đưa ra
được mục tiêu cụ thể và mục tiêu tổng quát đối với ngành dệt may VN trong thời
gian tới, về cơ bản những mục tiêu này là hoàn toàn có cơ sở khoa học. Hệ thống
các giải pháp cũng được tác giả luận án trình bày rất rõ, hệ thống những giải pháp
này cũng nêu rõ để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may VN
cần một hệ thống đồng bộ các DN thực hiện, sự phối hợp chặt chẽ giữa Hiệp hội


7

dệt may VN với các DN, với Chính phủ để thay đổi một cách đồng bộ và tổng thể

thì mới có hiệu quả.
(4)- Nguyễn Thế (2009), bài viết “Nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp trong hội nhập kinh tế quốc tế”, đề cập đến việc đánh giá tổng quát
về năng lực cạnh tranh của các DNVN trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Qua
việc phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của các DN VN, bài viết đã nhấn
mạnh đến các nguyên nhân dẫn đến năng lực cạnh tranh của các DN còn yếu kém
như: chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được với công
việc cụ thể; việc tiếp cận và thụ hưởng một số chính sách tài chính của các tổ chức
tín dụng còn nhiều bất cập, thậm chí các DN còn chưa tiếp cận được các chính sách
ưu đãi của một số tổ chức tính dụng; thiết bị máy móc còn lạc hậu nên việc sản xuất
ra các sản phẩm giá thành còn cao, hạn chế trong việc cạnh tranh... Từ thực trạng
đó bài viết đã đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN
trong hội nhập kinh tế quốc tế như: giải pháp nâng cao trình độ học vấn và tay nghề
của đội ngũ công nhân viên trong DN; tăng cường năng lực quản lý và điều hành
của chủ DN; nâng cao hiểu biết về luật pháp của chủ DN để tránh tình trạng vi
phạm phát luật; tăng cường sự hỗ trợ của Chính phủ nhằm giảm thiểu các thủ tục
hành chính cho DN, cũng như ban hành những văn bản nhằm hướng dẫn các DN
thực hiện một cách đầy đủ và kịp thời; xây dựng văn hóa DN để mỗi DN thực hiện
một cách chyên nghiệp và bài bản hơn…
(5)- Trần Cảnh Toàn và Trần Nguyên Nam (2006) với công trình nghiên cứu
khoa học cấp Bộ “Hoàn thiện chính sách tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của các tổ chức tín dụng Việt Nam”, đã phân tích, đánh giá các chính sách tài
chính hiện nay của các tổ chức tính dụng Việt Nam, khi phân tích và đánh giá các
chính sách tài chính, đề tài đã chỉ ra được những tồn tại và chính sách tài chính
không còn phù hợp với thực tế, điều này đã làm suy yếu năng lực cạnh tranh của
các tổ chức tín dụng Việt Nam trên thị trường. Khi phân tích và đưa ra được một số
chính sách tài chính không phù hợp, đề tài đã đề xuất một số giải pháp điều chỉnh
các chính sách tài chính đó, nhằm phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường,



8

nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổ chức tín dụng Việt Nam trong thời gian tới.
(6)-Nguyễn Thanh Vân (2005), trong luận án Tiến sỹ với đề tài “Một số giải
pháp nhằm mở rộng thị trường Đệt May Việt Nam đến 2010” đã tiến hành phân tích
thực trạng ngành Dệt May Việt Nam trong giai đoạn trước năm 2005, từ đó rút ra
nguyên nhân của việc phát triển ngành Dệt May chưa coa và bền vững là do phần
lớn hoạt động sản xuất của ngành là tập trung vào hoạt động gia công sản phẩm cho
đối tác nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước phần lớn là nhỏ, vốn yếu, sản
phẩm còn đơn giản, công nghệ cũ dẫn đến năng lực cạnh tranh yếu và việc phát
triển thị trường gặp nhiều khó khan. Từ những nguyên nhân trên tác giả đề xuất các
giải pháp mang tính khái quát và theo hướng phát triển thị trường xuất khẩu váo các
nước Châu Âu.
(7)- Thân Danh Phúc (2004), với đề tài tiến sỹ “Nâng cao sức cạnh tranh sản
phẩm Dệt May xuất khẩu Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế” đã tập trung
nghiên cứu về nội lực cạnh tranh của ngành Dệt May Việt Nam dựa trên các sản
phẩm xuất khẩu có so sánh với một số nước xuất khẩu cạnh tranh với sản phẩm dệt
may của Việt Nam từ đó tác giả rút ra các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến năng lực
cạnh của các sản phẩm dệt may Việt Nam giai đoạn trước năm 2004 là còn yếu, sản
phẩm đơn giản, mẫu mã chưa đa dạng, chưa xây dựng được thương hiệu cho các
dòng sản phẩm chính ví lý do hầu hết sản phẩm Việt Nam xuất khẩu giai đoạn này
là gia công cho đối tác nước ngoài, công nghệ thấp, chủ yếu là sản phẩm may. Từ
những nguyên nhân trên tác giả cũng đã trình bày một số giải pháp mang tính ngành
về xâm nhập thị trường, nâng cao các dòng sản phẩm FOB, nâng cao hoạt động
thiết kế trên sản phẩm, nâng cao vốn cho các hoạt động sản xuất.

1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu ngoài nước
Năng lực cạnh tranh là từ khóa được nhiều tác giả đề cập và nghiên cứu từ
nhiều năm trước đây, năng lực cạnh tranh là là yếu tố cốt lõi của các DN để tồn tại,
đề tài được trao đổi và nghiên cứu rất nhiều bởi các tác giả khác nhau như:

(1)- Mohd Rosli (2012) với công trình “Competitive Strategy of Malaysian
Small and Medium Enterprises”, đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về chiến


9

lược cạnh tranh của DNNVV, đề tài đã đi sâu phân tích và đánh giá một cách cụ thể
những chiến lược cạnh tranh của các DNNVV Malaysia thời gian qua. Đề tài đã chỉ
ra những thành công của DNNVV của Malaysia thời gian qua khi đối phó với sự
cạnh tranh toàn cầu, sự thành công này là do yếu tố quan trọng của các chiến lược
cạnh tranh phù hợp, các DNNVV của Malaysia đã xây dựng được chiến lược dài
hạn và hợp lý trong từng thời điểm của thị trường trong nước và quốc tế. Đề tài
cũng đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp mang tính đột phá, nhằm giúp các
DNNVV của Malaysia có thể ứng phó với sự cạnh tranh của các DN khác tại thị
trường quốc tế. Như: Xây dựng chính sách liên kết giữa các DNNVV, nhằm giảm
chi phí sản xuất và tăng sức cạnh tranh của DN, đặc biệt sẽ tận dụng được những
kinh nghiệm của các DN trong việc duy trì những thị trường hiện có và phát triển
thị trường mới; Duy trì, ổn định và ban hành một số chính sách của Chính phủ
nhằm hỗ trợ cho các DNNVV, một số chính sách có thể là chính sách thuế, chính
sách tín dụng thương mại...
(2)- Báo cáo thuộc chương trình của Danida là một phần hợp tác phát triển
của Đan Mạch (2011) với chủ đề “Business-to -Business (B2B đã cung cấp thông
tin tổng quan về ngành Dệt may Việt Nam, trên cơ sở đó đánh giá năng lực cạnh
tranh của các DN này, cũng như cách thức truyền thống tiếp cận thị trường nước
ngoài mà các DN Việt Nam vẫn làm. Báo cáo đã chỉ rõ 7 nguyên nhân dẫn đến việc
các DN Việt Nam khai thác thị trường nước ngoài không hiệu quả, đã khuyến nghị
và đề xuất một số giải pháp giúp các DN Việt Nam phát triển thị trường nước ngoài
hiệu quả hơn.



10

(3)- Nguyễn Phúc Hiền (2008) với luận án tiến sĩ kinh “National
competitiveness of Vietnam: determinations, emergerging key issues and
recommendations”, đã có những phát hiện sau: (i) luận án đã luận giải những vấn
đề cơ bản về năng lực cạnh trannh, làm cơ sở để luận án phân tích, đánh giá năng
lực cạnh tranh của Việt Nam so sánh với các nước châu Á khác. Sau khi phân tích,
đánh giá năng lực cạnh tranh của Việt Nam, luận án đã chỉ ra chất lượng nguồn
nhân lực trong sản xuất đóng vai trò quan trọng nhất trong việc cải thiện năng lực
cạnh tranh, năng suất, mức sống ở Việt Nam; (ii) luận án đã đề xuất những giải
pháp để hạn chế và xóa bỏ những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh
tranh của Việt Nam.
(4)- Báo cáo “Measuring the Competitive Advantage of the US Textile and
Apparel Industry”, tại hội nghị thường niên tháng 2/2008 ở Boston, MA. Báo cáo
này nêu rõ: Đo lường lợi thế cạnh tranh của ngành công nghiệp Dệt may Mỹ, mục
tiêu của báo cáo nhằm chỉ rõ ngành công nghiệp Dệt may Mỹ có thể cạnh tranh
trong cuộc cạnh tranh toàn cầu. Lợi thế cạnh tranh của Mỹ đặc biệt là những gì và
làm thế nào họ có thể được thừa hưởng để nâng cao hiệu suất của các công ty dệt
may của Hoa Kỳ.

2. Những vấn đề còn tồn tại trong các nghiên cứu có liên quan và hướng
nghiên cứu của luận án
2.1. Những vấn đề tồn tại
Các công trình nghiên cứu trước đây cả trong và ngoài nước đã đề cập vấn
đề lien quan đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của
ngành, năng lực cạnh tranh của một số sản phẩm, nhưng chưa có công trình nghiên
cứu nào đề cập đến năng lực cạnh tranh đối với DNNVV ngành Dệt May Việt Nam
như cách đặt vấn đề của luận án.
(1) Về cơ sở lý luận: các công trình nghiên cứu trước cho thấy rõ thế nào là
cạnh tranh, năng lực cạnh tranh, các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh. Tuy

nhiên, các nghiên cứu này chỉ tập trung vào việc xây dựng các tiêu chí đánh giá
năng lực cạnh tranh đối với dòng sản phẩm; đối với ngành công nghiệp cơ khí; đối
với ngành bưu chính viễn thông; hay đối với các DN xuất khẩu dệt may Việt Nam.


11

Do đó, luận án sẽ tập trung vào việc xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá năng
lực cạnh tranh của DNNVV Dệt may Việt Nam, hệ thống tiêu chí này thể hiện cả về
mặt định tính và định lượng.
(2) Về kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh: các công trình nghiên cứu
trước đây mới đưa ra một số mô hình quản lý của Nhà nước để nâng cao năng lực
cạnh tranh cho các DN; đưa ra một số chiến lược cho các DNNVV để ứng phó với
sức cạnh tranh của thị trường; hay những bài học về các tiếp cận thị trường một
cách thận trọng. Đây là cơ sở để làm những tham vấn cho DNNVV của Việt Nam,
tuy nhiên, luận án sẽ phân tích và chỉ rõ những kinh nghiệm cụ thể của một số quốc
gia trên thế giới khi nâng cao năng lực cạnh tranh, để có thể áp dụng đối với các
DNNVV của Việt Nam.
(3) Các yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh: các công trình nghiên cứu
trước đã chỉ rõ nguyên nhân nào làm cho năng lực cạnh tranh của một ngành, một sản
phẩm hay một lĩnh vực bị hạn chế. Luận án sẽ phân tích, đánh giá một cách đầy đủ
những yếu tố tác động làm suy yếu năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam.
(4) Một số định hướng: các công trình nghiên cứu trước chỉ đưa ra định
hướng đối với ngành dệt may một cách chung chung, chưa có công trình nghiên cứu
nào chỉ rõ định hướng, nhiệm vụ, trách nhiệm và giải pháp đối với DNNVV ngành
dệt may Việt Nam một cách cụ thể trong tương lai.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
(1)- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và
sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV dệt may Việt Nam;

(2)- Nghiên cứu kinh nghiệm một số quốc gia hàng đầu dệt may về nâng cao
năng lực cạnh tranh các DNNVV ngành dệt may và các tham vấn cho Việt Nam;
(3)- Phân tích và đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của DNNVV dệt
may Việt Nam, phân tích và đánh giá yếu tố tác động chính làm suy yếu năng lực
cạnh tranh của DNNVV dệt may Việt Nam thời gian qua. Qua đó, chỉ ra những
thành tựu và hạn chế về năng lực cạnh tranh của DNNVV dệt may Việt Nam.


12

(4)- Đưa ra quan điểm, định hướng, kiến nghị đối với các cơ quan quản lý
Nhà nước và đề xuất những giải pháp chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
các DNNVV Dệt may Việt Nam.


13

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
NGÀNH DỆT MAY
1.1. Khái niệm về cạnh tranh và lợi thế cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
“Cạnh tranh” là một phạm trù kinh tế cơ bản. Qua lịch sử có thể thấy nổi lên
hai trường phái tiêu biểu: trường phái cổ điển và trường phái hiện đại. Trường phái
cổ điển với các đại biểu tiêu biểu như: Adam Smith; John Stuart Mill; Darwin và
C.Mác đã có những đóng góp nhất định trong lý thuyết cạnh tranh này. Trường phái
hiện đại với hệ thống lý thuyết đồ sộ với 3 quan điểm tiếp cận: tiếp cận theo tổ chức
ngành với đại diện là trường phái Chicago và Harvard; tiếp cận tâm lý với đại diện
là Meuger, Mises, Chumpeter, Hayek thuộc học phái Viên; tiếp cận “cạnh tranh

hoàn hảo” phát triển lý thuyết của Tân cổ điển. Như vậy, cạnh tranh là một khái
niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau và có nhiều quan niệm khác
nhau dưới các góc độ khác nhau.
- Theo định nghĩa được A.Lobe có thể hiểu cạnh tranh là sự cố gắng của hai
hay nhiều người thông qua hành vi hay khả năng nhất định để cùng đạt được một
mục đích.
- Khi bàn về cạnh tranh, Adam Smith cho rằng nếu tự do cạnh tranh, các cá
nhân chèn ép nhau thì cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm công việc của
mình một cách chính xác. Ngược lại, chỉ có mục đích lớn lao nhưng lại không có
động cơ thúc đẩy thực hiện mục đích ấy thì rất ít có khả năng tạo ra được bất kỳ sự
cố gắng nào. Như vậy, có thể hiểu cạnh tranh khơi dậy sự nỗ lực chủ quan của con
người, góp phần làm tăng của cải của nền kinh tế.
- Khi nghiên cứu về cạnh tranh, K.Marx cho rằng “Cạnh tranh là sự ganh
đua, sự đấu tranh gay gắt giữa những nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện


14

thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận siêu ngạch”.
- Kinh tế học của P.Samuelson định nghĩa: “Cạnh tranh là sự tranh giành
thị trường để tiêu thụ sản phẩm giữa các nhà doanh nghiệp”.
- Từ điển rút gọn về kinh doanh định nghĩa: “Cạnh tranh là sự ganh đua,
kình định giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành cùng một loại tài
nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”, tức là nâng cao vị
thế của người này và giảm vị thế của người khác.
- Theo từ điển Bách khoa của Việt Nam thì: “Cạnh tranh (trong kinh
doanh) là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các
thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ
cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có lợi nhất”.
- Theo các tác giả của cuốn Các vấn đề pháp lý về thể chế, về chính sách

cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh thì: “Cạnh tranh có thể được hiểu là
sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản xuất hoặc
khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường để đạt được mục tiêu
kinh doanh cụ thể”.
Ở Việt Nam, khi đề cập đến “cạnh tranh” người ta thường đề cập đến vấn đề
giành lợi thế về giá cả hàng hóa, dịch vụ mua bán và đó là phương thức để giành lợi
nhuận cao cho các chủ thể kinh tế. Trên quy mô toàn xã hội, cạnh tranh là phương
thức phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu và do đó nó là động lực bên trong thúc
đẩy nền kinh tế phát triển. Mặt khác, với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của các chủ
thể kinh doanh, cạnh tranh cũng dẫn đến yếu tố thúc đẩy quá trình tích lũy và tập
trung tư bản không đồng đều ở các doanh nghiệp.
Mặc dù còn nhiều khái niệm khác nhau về cạnh tranh, qua các định nghĩa
trên có thể rút ra những nét chung về cạnh tranh như sau:
Thứ nhất, khi nói đến cạnh tranh là nói đến sự ganh đua giữa một (hoặc một
nhóm) người nhằm giành lấy phần thắng của nhiều chủ thể cùng tham dự. Cạnh
tranh nâng cao vị thế của người này và làm giảm vị thế của những người còn lại.
Thứ hai, mục đích trực tiếp của cạnh tranh là một đối tượng cụ thể nào đó mà


15

các bên đều muốn giành giật (như một cơ hội, một sản phẩm dịch vụ, một dự án hay
một thị trường, một nhóm khách hàng…) với mục đích cuối cùng là kiếm được lợi
nhuận cao.
Thứ ba, cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, có các ràng buộc
chung mà các bên tham gia phải tuân thủ như: đặc điểm sản phẩm, thị trường, các
điều kiện pháp lý, các thông lệ kinh doanh…
Thứ tư, trong quá trình cạnh tranh, các chủ thể tham gia cạnh tranh có thể sử
dụng nhiều công cụ khác nhau: cạnh tranh bằng đặc tính và chất lượng sản phẩm
dịch vụ, cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm dịch vụ; cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu

thụ sản phẩm (tổ chức các kênh tiêu thụ); cạnh tranh bằng dịch vụ bán hàng; cạnh
tranh bằng hình thức thanh toán…
Đúc kết từ những quan điểm trên, xem xét dưới góc độ kinh tế và góc độ
doanh nghiệp, theo tác giả, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các tổ chức (doanh
nghiệp) cố gắng để đạt được những mục tiêu như tăng lợi nhuận, thị phần, và khối
lượng bán hàng bằng cách thay đổi các yếu tố hỗn hợp: giá cả, sản phẩm, phân
phối và xúc tiến. thông qua việc thực hiện phân bổ một cách hiệu quả nguồn lực
của tổ chức (doanh nghiệp).

1.1.2. Khái niệm lợi thế cạnh tranh
Lợi thế cạnh tranh là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trên các tài liệu, trong
nghiên cứu và kinh doanh. Tuy nhiên, cho đến nay dường như vẫn còn thiếu một
khái niệm chính thống về lợi thế cạnh tranh.
Theo cách hiểu thông thường, lợi thế cạnh tranh là sở hữu của những giá trị
đặc thù, cho phép có thể “nắm bắt cơ hội” kinh doanh để mang lại lợi nhuận. Vì
vậy, khi nói đến lợi thế cạnh tranh là nói đến lợi thế mà một doanh nghiệp, một
quốc gia đang có và có thể có so với các đối thủ cạnh tranh. Nghĩa là, lợi thế cạnh
tranh là một khái niệm vừa có tính vi mô (giữa các doanh nghiệp trong cùng một
ngành của một quốc gia), vừa có tính vĩ mô (giữa các ngành trong cùng một quốc
gia hoặc giữa các quốc gia với nhau).
Theo M.Porter: Cạnh tranh là vấn đề cơ bản quyết định sự thành công hay


16

thất bại của doanh nghiệp…Chiến lược cạnh tranh là sự tìm kiếm vị thế cạnh tranh
thuận lợi trong ngành – đấu trường chính của cạnh tranh…Chiến lược cạnh tranh
nhằm mục đích tạo lập một vị thế cạnh tranh thuận lợi và bền vững trước những sức
ép quyết định sự cạnh tranh trong ngành.
Có hai vấn đề trọng tâm làm nền tảng cho việc lựa chọn chiến lược cạnh

tranh. Thứ nhất là mức độ hấp dẫn của ngành để có thể mang lại lợi nhuận lâu dài
và các yếu tố quyết định điều này…Thứ hai là vị thế tương đối của doanh nghiệp
trong ngành. Định vị doanh nghiệp sẽ xác định khả năng thu lợi nhuận của doanh
nghiệp cao hơn hay thấp hơn mức trung bình của ngành. Một doanh nghiệp có khả
năng định vị tốt sẽ có thể thu lợi nhuận nhiều hơn ngay cả khi cấu trúc ngành bất lợi
và do đó khả năng sinh lợi của ngành cũng khá khiêm tốn.
Nền tảng cơ bản để hoạt động của doanh nghiệp đạt được mức trên trung
bình trong dài hạn là lợi thế cạnh tranh bền vững. Cho dù doanh nghiệp có vô số
điểm mạnh và điểm yếu trước các đối thủ khác, tựu trung lại có hai loại lợi thế cạnh
tranh mà doanh nghiệp có thể sở hữu: chi phí thấp hoặc khác biệt hóa. Điều quan
trọng của bất cứ thế mạnh hay nhược điểm nào của doanh nghiệp cuối cùng vẫn là
việc ảnh hưởng từ những ưu/ khuyết điểm đó đến chi phí và sự khác biệt hóa có liên
quan. Hai loại lợi thế cạnh tranh cơ bản này kết hợp với phạm vi hoạt động của một
doanh nghiệp đang theo đuổi sẽ cho phép tạo ra ba chiến lược cạnh tranh tổng quát
để đạt được hiệu quả trên mức trung bình của ngành, đó là chiến lược chi phí thấp,
chiến lược khác biệt hóa và chiến lược tập trung.
Về cơ bản lợi thế cạnh tranh phát sinh từ các giá trị mà doanh nghiệp có thể
tạo cho người mua, giá trị này phải lớn hơn các chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra.
Giá trị này là mức người mua sẵn lòng thanh toán và một giá trị cao hơn xuất hiện
khi mức giá thấp hơn các đối thủ cạnh tranh; hoặc cung cấp những tiện ích độc đáo
khiến người mua vẫn hài lòng với mức giá cao hơn bình thường. Do đó, cách giải
thích này có thể thấy:
Thứ nhất, chiến lược cạnh tranh và mục đích của nó là tìm kiếm, tạo lập cho
doanh nghiệp một vị thế cạnh tranh thuận lợi và bền vững trong ngành trước các đối


17

thủ. Vì đây chính là điều kiện để doanh nghiệp thu được lợi nhuận trên mức trung
bình và do đó mục tiêu của doanh nghiệp có thể đạt được. Song, điều đó chỉ xảy ra

khi doanh nghiệp tạo lập và duy trì được lợi thế cạnh tranh bền vững.
Thứ hai, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp xuất hiện và được duy trì bền
vững, nói cách khác doanh nghiệp thu được lợi nhuận trên mức trung bình trong dài
hạn khi cùng một chi phí, doanh nghiệp tạo ra cho người mua một giá trị vượt trội
so với các đối thủ. Vì thế, “Điều quan trọng đối với bất kỳ một tổ chức kinh doanh
nào là phải xây dựng và duy trì được lợi thế cạnh tranh bền vững. Nghĩa là doanh
nghiệp phải liên tục cung cấp cho thị trường một giá trị đặc biệt mà không có đối
thủ nào có thể cung cấp được”. Bởi vậy, lợi thế cạnh tranh là khái niệm dùng để chỉ
vị thế cạnh tranh thuận lợi của doanh nghiệp so với đối thủ. Đó là “vị trí tương đối”
của doanh nghiệp trên thị trường, mà ở vị trí đó cho phép doanh nghiệp có thể mang
đến cho khách hàng một giá trị vượt trội so với các đối thủ. Vì thế, khách hàng sẽ
chọn sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và nhờ đó doanh nghiệp sẽ thu được lợi
nhuận cao hơn mức trung bình của ngành.
Như vậy, lợi thế cạnh tranh là một khái niệm kinh doanh mô tả các thuộc
tính cho phép một tổ chức (doanh nghiêp) thực hiện tốt hơn đối thủ. Những thuộc
tính này có thể bao gồm quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, rào
cản gia nhập cao, nguồn cung cấp nhân viên có tay nghề cao, khả năng khai thác
và ứng dụng hiệu quả công nghệ, trang thiết bị và các công nghệ mới, khả năng
đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng, hoặc (và) năng lực quản trị doanh nghiệp…

1.1.3. Khái niệm năng lực và năng lực cạnh tranh
Cạnh tranh gắn liền với hành vi của chủ thể như hành vi của doanh nghiệp kinh
doanh, của cá nhân kinh doanh và của một nền kinh tế. Trong quá trình cạnh tranh với
nhau, để giành lợi thế về phía mình các chủ thể phải áp dụng nhiều biện pháp nhằm
duy trì và phát triển lợi thế của mình trên thị trường. Các biện pháp này thể hiện một
sức mạnh nào đó của chủ thể, được gọi là năng lực cạnh tranh hay sức cạnh tranh hoặc
khả năng cạnh tranh của chủ thể đó. Khi muốn chỉ một sức mạnh, một khả năng duy trì
vị trí của sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó trên thị trường thì người ta dùng thuật ngữ
“sức cạnh tranh của hàng hóa” hoặc “năng lực cạnh tranh của hàng hóa”.



18

Hiện nay, các thuật ngữ “năng lực cạnh tranh”, “sức cạnh tranh” và “khả
năng cạnh tranh” được sử dụng nhiều ở Việt Nam và chúng có thể dùng để thay thế
cho nhau. Theo M.Porter, hiện chưa có một định nghĩa nào về năng lực cạnh tranh
được thừa nhận một cách phổ biến, có thể thống kê một số định nghĩa như sau:
- Đối với các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh có nghĩa là sức
cạnh tranh trên thị trường nhờ xây dựng và áp dụng chiến lược hợp lý mà có.
- Trong Từ điển thuật ngữ chính sách thương mại: “Sức cạnh tranh là năng
lực của một doanh nghiệp hoặc một ngành, một quốc gia không bị doanh nghiệp
khác, ngành khác đánh bại về năng lực kinh tế”.
Do vậy, khi nghiên cứu năng lực cạnh tranh người ta thường xem xét, phân
biệt năng lực cạnh tranh theo 4 cấp độ: năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh
tranh ngành, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh sản phẩm.
Tóm lại, năng lực của một doanh nghiệp là những nguồn lực cấn thiết để
doanh nghiệp có thể vận hành và thực hiện được các chiến lược trong sản xuất,
kinh doanh. Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là những nguồn lực cần
thiết để doanh nghiệp có thể vận hành và thực hiện được các chiến lược cạnh tranh
trong sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi
của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Như vậy, năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đây là các
yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về
công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp… một cách riêng biệt
mà cần đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một
lĩnh vực, cùng một thị trường. Sẽ là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu
bên trong doanh nghiệp được đánh giá không thông qua việc so sánh một cách
tương ứng với các đối tác cạnh tranh. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo nên năng

lực cạnh tranh, đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo lập được lợi thế so sánh với đối tác
của mình. Nhờ lợi thế này, doanh nghiệp có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của
khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh.


19

1.1.4. Khái niệm về đối thủ cạnh tranh
Đối thủ cạnh tranh là một tổ chức bất kỳ cung ứng, hay trong tương lai có thể
cung ứng những sản phẩm và dịch vụ có mức độ lợi ích tương tự (hay ưu việt hơn)
cho khách hàng.

1.1.5. Khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa
Nhiều chuyên gia kinh tế và pháp luật của Việt Nam cho rằng khái niệm
doanh nghiệp nhỏ và vừa và sau đó khái niệm doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ được
du nhập từ bên ngoài vào Việt Nam. Vấn đề tiêu chí doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực
nhỏ là trung tâm của nhiều cuộc tranh luận về sự phát triển của khu vực này trong
nhiều năm qua. Định nghĩa về doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp nhỏ và cực
nhỏ rõ ràng phải dựa trước tiên vào quy mô doanh nghiệp. Thông thường đó là tiêu
chí về số lượng nhân công, vốn đăng ký, doanh thu…, các tiêu chí này thay đổi theo
từng quốc gia, từng chương trình phát triển khác nhau.
Nhìn chung trên thế giới, hai tiêu chuẩn được sử dụng phổ biến để phân loại
DN là: số lao động sử dụng và số vốn. Trong hai tiêu chuẩn ấy, khá nhiều nước coi
tiêu chuẩn về số lao động sử dụng là quan trọng hơn. Như vậy, tiêu chuẩn phân loại
DN không tính đến phạm vi quan hệ của DN, trình độ công nghệ, khả năng quản lý
và hiệu quả hoạt động của DN.
Trong từng nước, từng ngành nghề, từng thời gian, tiêu chuẩn DNNVV là rõ
ràng, có tính định lượng. Giữa các nước, các ngành nghề, các thời điểm khác nhau,
tiêu chuẩn DNNVV là tương đối, nghĩa là có một số nét chung, đồng thời cũng có
những nét riêng, khác nhau và có thể thay đổi. Ở hầu hết các nước, người ta hay nói

gộp chung DN nhỏ với DN vừa thành DNNVV, vì các nhà nước thường có chính
sách chung cho cả hai loại DN này.
Ở Việt Nam, theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ, DNNVV là
cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành
ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương
đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp)
hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên) có số lao động
trung bình hàng năm dưới 200 người.


20

1.2. Đặc điểm ngành dệt may
1.2.1. Đặc điểm chung
- Đặc điểm về nhu cầu và tiêu thụ.
Trong buôn bán thế giới, sản phẩm của ngành dệt may là một trong những
hàng hoá đầu tiên tham gia vào mậu dịch quốc tế. Hàng dệt may có những đặc trưng
riêng biệt ảnh hưởng rất nhiều đến sản xuất và buôn bán. Nghiên cứu những đặc
trưng nổi bật của thương mại thế giới hàng dệt may là một trong những yếu tố cần
thiết để tăng cường tính cạnh tranh của sản phẩm và đảm bảo xuất khẩu thành công
trên thị trường quốc tế. Thương mại thế giới hàng dệt may có một số đặc trưng nổi
bật sau đây:
+ Sản phẩm dệt may là loại sản phẩm có yêu cầu rất phong phú, đa dạng tuỳ
thuộc vào đối tượng tiêu dùng. Người tiêu dùng khác nhau về văn hoá, phong tục
tập quán, tôn giáo, khác nhau về khu vực địa lý, khí hậu, về giới tính, tuổi tác… sẽ
có nhu cầu rất khác nhau về trang phục. Nghiên cứu thị trường để nắm vững nhu
cầu của từng nhóm người tiêu dùng trong các bộ phận thị trường khác nhau có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm.
+ Sản phẩm dệt may mang tính thời trang cao, phải thường xuyên thay đổi
mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng nhu cầu thích đổi mới, độc đáo và

gây ấn tượng của người tiêu dùng . Do đó để tiêu thụ được sản phẩm, việc am hiểu
các xu hướng thời trang là rất quan trọng.
+ Một đặc trưng nổi bật trong buôn bán sản phẩm dệt may trên thế giới là
vấn đề nhãn mác sản phẩm. Mỗi nhà sản xuất cần ra được một nhãn hiệu thương
mại của riêng mình. Nhãn hiệu sản phẩm theo quan điểm xã hội thường là yếu tố
chứng nhận chất lượng hàng hoá và uy tín của người sản xuất. Đây là vấn đề cần
quan tâm trong chiến lược sản phẩm vì người tiêu dùng không chỉ tính đến giá cả
mà còn rất coi trọng chất lượng sản phẩm.
+ Khi buôn bán các sản phẩm dệt may cần chú trọng đến yếu tố thời vụ. Phải
căn cứ vào chu kỳ thay đổi của thời tiết trong năm ở từng khu vực thị trường mà
cung cấp hàng hoá cho phù hợp. Điều này cũng liên quan đến vấn đề thời hạn giao


21

hàng, nếu như không muốn bỏ lỡ cơ hội xuất khẩu thì hơn bao giờ hết, hàng dệt
may cần được giao đúng thời hạn để cung cấp hàng hoá kịp thời vụ.
+ Thu nhập bình quân đầu người, thói quen tiêu dùng, cơ cấu tỉ lệ chi tiêu
cho hàng may mặc trong tổng thu nhập dân cư và xu hướng thay đổi cơ cấu tiêu
dùng trong tổng thu nhập… có tác động lớn đến xu hướng tiêu thụ hàng dệt may.
Với các thị trường có mức thu nhập bình quân, tỉ lệ chi tiêu cho hàng may mặc cao,
yêu cầu về mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng…sẽ trở nên quan trọng hơn các yếu tố về
giá cả.
- Đặc điểm về sản xuất.
Công nghệ dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn phát huy được
lợi thế của những nước có nguồn lao đồng dồi dào với giá nhân công rẻ. Đặc biệt
ngành công nghiệp may đòi hỏi vốn đầu tư ít nhưng tỉ lệ lãi khá cao.Chính vì vậy
sản xuất hàng dệt may thường phát triển mạnh và có hiệu quả rất lớn đối với các
nước đang phát triển và đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá. Khi
một nước trở thành nước công nghiệp phát triển có trình độ công nghệ cao, giá lao

động cao, sức cạnh tranh trong sản xuất hàng dệt may giảm thì họ lại vươn tới
những ngành công nghiệp có hàm lượng kĩ thuật cao hơn, tốn ít lao động và mang
lại lợi nhuận cao. Công nghiệp dệt may lại phát huy vai trò ở các nước khác kém
phát triển hơn. Lịch sử phát triển của ngành dệt may thế giới cũng là lịch sử chuyển
dịch của công nghiệp dệt may từ khu vực phát triển sang khu vực kém phát triển
hơn do có sự chuyển dịch về lợi thế so sánh. Như vậy không có nghĩa là sản xuất
dệt may không còn tồn tại ở các nước phát triển mà thực tế ngành nàyđã tiến đến
giai đoạn cao hơn, sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
- Đặc điểm về thị trường.
+ Một đặc trưng nổi bật của công nghệ dệt may là được bảo hộ chặt chẽ ở
hầu hết các nước trên thế giới bằng những chính sách thể chế đặc biệt. Trước khi
hiệp định về hàng dệt may- kết quả quan trọng của vòng đàm phán Uruguay ra đời
và phát huy tác dụng, việc buôn bán quốc tế các sản phẩm dệt may được điều chỉnh
theo những thể chế thương mại này. Nhờ đó, phần lớn các nước nhập khẩu thiết lập


22

các hạn chế đối với nhập khẩu hàng dệt may. Mức thuế phổ biến đánh vào hàng dệt
may cũng cao hơn so với các hàng hoá công nghiệp khác. Bên cạnh đó, từng nước
nhập khẩu còn đề ra những qui định riêng đối với hàng dệt may nhập khẩu. Những
thể chế nhằm bảo hộ sản xuất hàng dệt may của mỗi nước và hạn chế nhập khẩu
này đã chi phối thị trường hàng dệt may trên thế giới, ảnh hưởng rất lớn đến sản
xuất và buôn bán hàng dệt may trên thế giới .
+ Các thị trường tiêu thụ ngày càng xuất hiện nhiều rào cản kỹ thuật. Nhiều
điều kiện về kiểm soát, tiêu chuẩn, chất lượng... ngày càng gia tăng, do đó việc xâm
nhập các thị trường ngày càng khó khan, đặc biệt là thị trường EU, Mỹ và Nhật. Các
tiêu chuẩn quản lý tại các thị trường tiêu thụ này ngày càng chặt chẽ và nghiêm khắc.
Cùng với đó là thị hiếu người tiêu dùng của thị trường này cũng khá khó tính, có
chọn lọc đặc biệt với hàng dệt may. Đây là ngành mà châu âu có xu hướng chuyển

dần sang các khu vực khác, nên thị trường này đang có xu hướng nhập khẩu hàng dệt
may và hàng may mặc. Các nhà nhập khẩu Châu Âu luôn tìm kiếm những thị trường
rẻ nhưng phải đẹp. Họ luôn cố hạ giá thành sản phẩm tới mức thấp nhất tại nơi cơ sở
đặt gia công. Chính vì vậy mà cùng với trao đổi quy chế tối huệ quốc EU đã tăng 4050% quota hàng dệt may và may mặc cho Việt Nam do giá thành ở Việt Nam rẻ hơn
ở những nơi khác, đồng thời vẫn đảm bảo chất lượng mà họ yêu cầu.

1.2.2. Đặc điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành Dệt May
Từ những quan niệm và quy định và từ thực tiễn hoạt động và phát triển cho
thấy các DNNVV ngành Dệt May vừa mang các đặc điểm chung của các DNNVV
trong hoạt động kinh tế - xã hội vừa mang các đặc điểm riêng. Việc xác định các
đặc điểm này sẽ giúp hỗ trợ cho việc phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh của
các DNNVV trong ngành Dệt May.
DNNVV ngành Dệt May mang đặc điểm chung của các DNNVV:
+ Thứ nhất, DNNVV chiếm đa số trong tổng số doanh nghiệp, đóng vai
trò quan trọng trong nền kinh tế của một quốc gia. Theo số liệu được Ủy ban
châu Âu (EC) công bố cuối năm 2014, hơn 20 triệu DNNVV ở châu Âu chiếm
99% tổng số doanh nghiệp. Theo báo cáo mới nhất vào tháng 1/2014 của


23

Tradeup về tình hình tài chính của các DNNVV tại Mỹ, nhóm doanh nghiệp
này chiếm tới 99% tổng số doanh nghiệp, sử dụng trên 50% tổng số lao động xã
hội, tạo công ăn việc làm cho 65% lượng lao động ở khu vực tư nhân. Tại Việt
Nam, theo Viện Phát triển doanh nghiệp thuộc Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (2015), Việt Nam có DNNVV chiếm 97%, đóng góp hơn 40%
GDP cả nước và sử dụng 51% tổng số lao động xã hội. Tuy nhiên cần lưu ý quy
định DNNVV ở Châu Âu, Mỹ và Việt Nam là khác nhau.
+ Thứ hai, DNNVV có quy mô vốn nhỏ, gặp khó khăn trong việc tiếp cận với
nguồn vốn chính thức, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Điều này là một cản trở

không nhỏ trong việc triển khai, áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ mới vào
hoạt động thương mại nói chung và xúc tiến thương mại trực tuyến nói riêng.
+ Thứ ba, DNNVV chịu sự cạnh tranh khốc liệt của các công ty, tập đoàn
lớn và từ chính các doanh nghiệp với nhau. Trong quá trình hội nhập, các tập đoàn
lớn thường có xu hướng vươn mình ra thế giới, thành lập các chi nhánh, công ty con
ở các quốc gia có nhiều lợi thế, vì vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các quốc gia
này phải tìm ra những phương thức, công cụ mới trong hoạt động kinh doanh.
+ Thứ tư, với nguồn vốn nhỏ hẹp, các doanh nghiệp này thường tập trung
vào các ngành hàng gần gũi với người tiêu dùng, đặc biệt là lĩnh vực may mặc, hơn
là đầu tư vào các ngành công nghiệp nặng, sản xuất khai thác cần nhiều vốn. Ở
Việt Nam, theo Cục xúc tiến thương mại (2014) trong cơ cấu ngành nghề,
khoảng 40% doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, 24%
trong lĩnh vực thương mại và phân phối, số còn lại hoạt động trong lĩnh vực dịch
vụ và liên quan đến nông nghiệp.
DNNVV ngành Dệt May mang đặc điểm riêng:
+ Hầu hết các DN siêu nhỏ và nhỏ trong ngành Dệt May là hoạt động trong
lĩnh vực may mặc, chỉ một số nhỏ DN vừa trong ngành là có hoạt động trong cả hai
lĩnh vực may và dệt;
+ Bản chất ngành may là công nghiệp nhỏ, so với các ngành công nghiệp
khác ngành may có suất đầu tư thấp hơn nhiều lần, chỉ bằng 1/10 so với ngành điện;


24

1/15 so với ngành cơ khí và 1/20 so với ngành luyện kim. So sánh ngay trong ngành
công nghiệp sản xuất ra hàng tiêu dùng, để tạo ra một chỗ làm việc mới, công
nghiệp may chỉ cần đầu tư khoảng 1.000 USD; công nghiệp dệt cần đầu tư 15.000
USD; trong khi đó suất đầu tư của ngành giấy là gần 30.000 USD.
+ Đặc thù sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong thời gian ngắn nên thời hạn
thu hồi vốn đầu tư của ngành may cũng thấp hơn nhiều so với các ngành công

nghiệp khác. Thông thường, thời gian thu hồi vốn đối với ngành may là từ 5 đến 7
năm; ngành dệt từ 12 đến 15 năm; trong khi đó đối với các ngành công nghiệp khác
thời gian này là trên 15 năm; thậm chí hàng chục năm như công nghiệp thép.
+ Về công nghệ sản xuất không quá phức tạp, lao động của ngành may lại dễ
đào tạo nên việc tổ chức sản xuất các DN may theo quy mô vừa và nhỏ rất phù hợp
với điều kiện về địa lý, kinh tế và xã hội của Việt Nam. Riêng ngành Dệt đòi hỏi
công nghệ mới và phức tạp hơn mới tạo ra hiệu quả sản xuất.

1.3. Các yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
ngành dệt may
1.3.1. Các yếu tố bên ngoài
(i) Môi trường chính trị, luật pháp và hệ thống chính sách kinh tế.
Môi trường chính trị ổn định luôn luôn là tiền đề cho việc phát triển và mở
rộng các hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp, các tổ chức cá nhân trong và ngoài
nước. Môi trường pháp lý là hệ thống văn bản, quy phạm pháp luật tạo ra một hành
lang cho hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp dệt may nói
riêng, ảnh hưởng đến các hoạt động của doanh nghiệp như sản xuất mặt hàng nào,
bán cho những đối tượng nào ở đâu, nguồn đầu vào cho các sản phẩm dệt may....
Các doanh nghiệp phải chấp hành các quy định của pháp luật, phải thực hiện các
nghĩa vụ của mình với Nhà nước, với xã hội và với người lao động như thế nào là
do luật pháp quy định (nghĩa vụ nộp thuế, trách nhiệm đảm bảo vệ sinh môi trường,
đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.) Các chính sách
kinh tế của Nhà nước, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế quốc dân, tốc độ lạm phát, thu
nhập bình quân trên đầu người... là các yếu tố tác động trực tiếp đến hoạt động sản


×