Tải bản đầy đủ (.pdf) (186 trang)

Vai trò của các thiền sư trong văn hóa đại việt thời lý trần và ý nghĩa đối với việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 186 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------

TĂNG XUÂN DẪN
(Thích Quảng Tiếp)

VAI TRÕ CỦA CÁC THIỀN SƯ TRONG VĂN HÓA
ĐẠI VIỆT THỜI LÝ - TRẦN VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2015

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------

TĂNG XUÂN DẪN
(Thích Quảng Tiếp)

VAI TRÕ CỦA CÁC THIỀN SƯ TRONG VĂN HÓA
ĐẠI VIỆT THỜI LÝ - TRẦN VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI
VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành
Mã số


: CNDVBC & CNDVLS
: 62 22 80 05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Anh Tuấn

HÀ NỘI - 2015

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng. Các kết luận khoa học của luận
án chưa từng được công bố trên bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận án

Tăng Xuân Dẫn
(Thích Quảng Tiếp)

3


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN

CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN.............................................................. 5
1.1. Nguồn tài liệu phục vụ nghiên cứu ...............................................................5
1.1.1. Tài liệu gốc và tài liệu nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, xã hội thời Lý - Trần ...5
1.1.2. Tài liệu nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam và các Thiền sư thời
Lý - Trần ..........................................................................................................13
1.2. Các vấn đề và thuật ngữ dùng trong nghiên cứu của luận án .................22
1.2.1. Các vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu ...........................................22
1.2.2. Một số thuật ngữ và khái niệm dùng trong luận án ................................24

Chương 2: KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA ĐẠI VIỆT VÀ PHẬT GIÁO
THỜI LÝ - TRẦN ......................................................................................... 28
2.1. Khái quát về văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần ..........................................28
2.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội cho sự hình thành văn hóa Đại Việt thời
Lý - Trần ..........................................................................................................28
2.1.2. Đặc trưng của văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần .....................................32
2.2. Phật giáo Đại Việt thời Lý - Trần...............................................................36
2.2.1. Sự phát triển của Phật giáo thời Lý - Trần .............................................36
2.2.2. Đặc điểm cơ bản và một số Thiền sư tiêu biểu của Phật giáo thời Lý - Trần42
Tiểu kết chương 2 ...............................................................................................54

Chương 3: VAI TRÕ CỦA CÁC THIỀN SƯ TRONG XÂY DỰNG,
PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ĐẠI VIỆT THỜI LÝ - TRẦN ........................ 56
3.1. Vai trò của các Thiền sư thời Lý - Trần trong lĩnh vực chính trị - xã hội ..56
3.1.1. Hộ quốc trên tinh thần từ bi hỉ xả của Phật giáo, hợp lòng dân .............56
3.1.2. Góp phần hình thành ý thức hệ dân tộc, chính sách ngoại giao mềm dẻo,
ổn định xã hội ...................................................................................................61
3.2. Vai trò của các Thiền sư thời Lý - Trần trong phát triển tư tưởng tôn
giáo và xây dựng đạo đức xã hội .......................................................................69
3.2.1. Phát triển tư tưởng yêu nước, đoàn kết, hoà đồng cùng các tôn giáo ..69
3.2.2. Nêu gương sáng, phát triển nền đạo đức dân tộc nhân bản .................75


4


3.3. Vai trò của các Thiền thời Lý - Trần trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật 81
3.3.1. Thiền sư thời Lý - Trần: lực lượng chủ lực trong sáng tác văn học .......81
3.3.2. Thiền sư thời Lý - Trần bảo lưu, tổ chức, thực hiện các lễ hội và hoạt động
nghệ thuật ..........................................................................................................90
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................102

Chương 4: Ý NGHĨA TỪ VAI TRÕ CỦA CÁC THIỀN SƯ THỜI LÝ - TRẦN
ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................ 104
4.1. Ý nghĩa từ vai trò “Hộ quốc an dân” của các Thiền sư thời Lý - Trần đối
với lĩnh vực chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay ..........................................104
4.1.1. Phật giáo Việt Nam phát huy tinh thần "hộ quốc an dân" trong thời đại
hiện nay ..........................................................................................................104
4.1.2. Hoạt động đồng hành cùng dân tộc, góp phần ổn định xã hội của Giáo
hội Phật giáo ...................................................................................................114
4.1.3. Phật giáo góp phần xây dựng nền đạo đức hướng thiện trong xã hội Việt
Nam hiện nay..................................................................................................122
4.2. Ý nghĩa từ vai trò của các Thiền sư thời Lý - Trần đối với phát triển văn
học và nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Phật giáo Việt Nam hiện nay .........127
4.2.1. Văn học Phật giáo ở Việt Nam kế thừa và tiếp thu tinh thần nhập thế
của các Thiền sư Phật giáo thời Lý - Trần .....................................................127
4.2.2. Kiến trúc, điêu khắc Phật giáo thời Lý - Trần khẳng định giá trị vô giá
đối với nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện nay .............................................136
Tiểu kết chương 4 .............................................................................................149

KẾT LUẬN .................................................................................................. 151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .............................................................................. 153
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 154
PHỤ LỤC

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo thời Lý - Trần đánh dấu mốc son chói ngời trong lịch sử dân tộc, mở
ra thời kỳ hưng thịnh của Phật giáo Việt Nam. Phật giáo thời Lý - Trần với tinh thần
tùy tục, tùy duyên, hòa quang đồng trần, cư trần lạc đạo, nhập thế hành đạo nên đã
sản sinh ra những Thiền sư luôn luôn hướng về cuộc sống, hòa nhập với thời cuộc.
Các Thiền sư luôn tận tụy hy sinh cho đất nước, cho dân tộc, luôn quan tâm tới vận
mệnh của quốc gia, dân tộc, ra sức đóng góp tài đức xây dựng và phát triển đất nước.
Nhà nước phong kiến Đại Việt đã sớm nhận thấy vai trò quan trọng của các
Thiền sư đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trên mọi lĩnh vực: kinh
tế, chính trị, xã hội và đặc biệt là văn hóa. Dưới thời Lý - Trần, Phật giáo có điều
kiện phát triển mạnh mẽ. Một mặt, vì đương thời, các Thiền sư đều là những người
vừa giỏi Phật học lại vừa biết Nho học, họ đã trở thành những trí thức hữu ích cần
thiết cho vương triều. Mặt khác, ở những thế kỷ đầu độc lập, nhà nước phong kiến
trung ương tập quyền mới thành lập chưa lựa chọn được ngay hệ tư tưởng của mình,
nên Phật giáo lúc bấy giờ dễ dàng được thu nhận để làm công cụ định hướng tinh
thần cho vương triều và dân tộc. Với sự cố vấn của các Thiền sư, nhà nước phong
kiến Đại Việt thời Lý - Trần đã sớm tìm ra phương sách quản lý đất nước, cai trị
muôn dân, lập pháp và hành pháp xuất phát từ chữ “nhân”, theo quan điểm “từ bi,
hỷ xả”, “cứu nhân, độ thế” của nhà Phật. Sự gặp gỡ rất gần gũi giữa những tư tưởng
cao đẹp của đạo Phật với tư tưởng “thương dân như con”, “lấy dân làm gốc” của các
vua Lý - Trần không chỉ góp phần to lớn tạo nên sức mạnh "cả nước đồng lòng"
trong chiến thắng quân Tống (1075 - 1077) và ba lần chiến thắng quân Nguyên

Mông (1258; 1285; 1288), mà còn xây dựng được một nền văn hóa Đại Việt khở
sắc rực rỡ trên mọi mặt: giáo dục và đạo đức, tôn giáo và tư tưởng, văn học và nghệ
thuật biểu diễn, tạo hình…
Trong cuố n Tiể u sử danh tăng Viê ̣t Nam

thế kỷ XX, tập 2, cư sỹ Võ Đin
̀ h

Cường - Trưởng ban văn hóa T rung ương Giáo hô ̣i Phâ ̣t giáo Viê ̣t Nam viế t lời giới
thiệu: “Phâ ̣t giáo Viê ̣t Nam cùng với vâ ̣n mê ̣nh đấ t nước đã trải qua bao hưng suy
1


thăng trầ m của lich
̣ sử . Nế u như nước nhà thời nào cũng có anh hùng thì Phâ ̣t giáo
giai đoa ̣n nào cũng có danh tăng dựng đa ̣o giúp nước . Đó là những tấ m gương sán g
góp phần tạo nên lịch sử ... Công lao các bâ ̣c cao Tăng tiề n bố i , các vị sứ giả Như
Lai, những danh Tăng hô ̣ quố c kiên trì giữ đa ̣o , tịnh tiến tu hành ... là những nhân
cách, chí hướng, tư tưởng có giá tri ̣cho chúng ta ho ̣c hỏ i noi gương” [xem 3, tr.3].
Thâ ̣t vâ ̣y , trong mỗi giai đoa ̣n lich
̣ sử đất nước Phâ ̣t giáo luôn đồng hành
cùng dân tô ̣c , vai trò của các danh tăng rấ t to lớn trên mo ̣i liñ h vực của đời số ng
kinh tế , văn hóa , xã hội. Có thể thấy , so với các thời đại khác, vai trò của các danh
tăng thời Lý - Trầ n là quan tro ̣ng hơn cả và đươ ̣c thể hiê ̣n rấ t rõ trong viê ̣c cố vấ n về
chính trị, quân sự, chính sách đối nội , đố i ngoa ̣i… Họ tham gia vào các công viê ̣c
triều chính giúp các vua thời Lý - Trần và đã đa ̣t đươ ̣c nhiề u thành tựu rực rỡ.
Không chỉ trong thời Lý - Trần, mà trong mọi thời đại, với sự phát triển của
Phật giáo, các Thiền sư đều có những đóng góp đáng kể cho sự nghiệp xây dựng
văn hóa, kinh tế, xã hội, phát triển đất nước. Các Thiền sư với vị thế là những nhà tu
hành, chức sắc tôn giáo, đã luôn là những người chăm lo cho nhân dân trong cả việc

“đạo” và việc “đời”. Vừa hướng đạo nhưng đồng thời cũng giáo dục truyền thống
yêu nước, truyền thống văn hóa và đạo đức, lối sống cho quần chúng nhân dân.
Nhận thức được tầm quan trọng của hàng ngũ chức sắc, các nhà tu hành tôn giáo
nói chung, Phật giáo nói riêng, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, chương I điều 2 đã ghi rõ: “Chức sắc, nhà tu hành và công
dân có tín ngưỡng, tôn giáo được hưởng mọi quyền công dân và có trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ công dân. Chức sắc, nhà tu hành có trách nhiệm thường xuyên
giáo dục cho tín đồ lòng yêu nước, thực hiện quyền nghĩa vụ công dân và ý thức
chấp hành pháp luật” [15; tr.8]. Như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận thấy
vai trò to lớn của các nhà tu hành đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước;
họ chính là những người góp phần giáo dục lòng yêu nước, truyền thống văn hóa,
đạo đức dân tộc trong mọi thời đại.
Do vậy, nghiên cứu vấn đề nêu trên không chỉ có ý nghĩa nền tảng nhằm
khẳng định những đóng góp của các Thiền sư, các nhà tu hành nói riêng, của Phật

2


giáo Việt Nam nói chung đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam trong quá khứ, mà còn để hiểu đúng hơn về vai trò, tầm quan trọng của các
Thiền sư, của Phật giáo đối với đất nước, khuyến khích họ đóng góp nhiều hơn nữa
vào sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
hiện nay. Chính vì vậy, NCS chọn vấn đề Vai trò của các Thiền sư trong văn hoá
Đại Việt thời Lý - Trần và ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay làm đề tài nghiên
cứu trong luận án tiến sĩ triết học, chuyên ngành CNDVBC & CNDVLS.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu:
- Luận án phân tích vai trò của các Thiền sư trong xây dựng và phát triển văn
hóa Đại Việt thời Lý - Trần và rút ra ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Thứ nhất, luận án trình bày khái quát về văn hóa Đại Việt và Phật giáo thời
Lý - Trần, các Thiền sư tiêu biểu thời Lý - Trần.
Thứ hai, luận án phân tích vai trò của các Thiền sư trong xây dựng, phát triển
văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần.
Thứ ba, luận án phân tích ý nghĩa từ sự nghiên cứu vai trò của các Thiền sư
thời Lý - Trần đối với các lĩnh vực: chính trị - xã hội, tư tưởng tôn giáo và đạo đức,
văn học và nghệ thuật Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của các Thiền sư trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần và ý nghĩa của nó đối với Việt
Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Vai trò của các Thiền sư tiêu biểu trong sự nghiệp
xây dựng phát triển văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần trên các lĩnh vực: Chính trị và
xã hội, tư tưởng tôn giáo và đạo đức, văn học và nghệ thuật.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận và phương pháp luận:
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của Chủ
nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử; nhất là phần học thuyết về mối
quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội, về sự tương tác giữa giữa các hình thái
ý thức xã hội.
3


4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của tôn giáo học
mác xít, nghiên cứu liên ngành, trong đó chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên
cứu văn bản tài liệu gốc, phương pháp thống nhất lịch sử - lôgíc, phương pháp phân
tích - tổng hợp, so sánh đối chiếu, khái quát hoá, khảo sát thực địa...
5. Đóng góp mới của luận án
- Một là, luận án phân tích một cách có hệ thống bối cảnh và tiền đề của sự

nghiệp xây dựng, phát triển, cùng các đặc điểm và các Thiền sư tiêu biểu của Phật
giáo Việt Nam, văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần.
- Hai là, luận án phân tích vai trò của các Thiền sư trong sự nghiệp xây dựng và
phát triển văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần trên một số lĩnh vực chính như: chính trị - xã
hội, tư tưởng tôn giáo và đạo đức, văn học và nghệ thuật.
- Ba là, luận án phân tích ý nghĩa rút ra từ sự nghiên cứu vai trò của các
Thiền sư thời Lý - Trần đối với các lĩnh vực: chính trị - xã hội, tư tưởng tôn giáo và
đạo đức, văn học và nghệ thuật Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần hoàn thiện hơn những hiểu biết của thế hệ
hiện nay về vai trò của các Thiền sư đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển văn
hóa Đại Việt thời Lý - Trần trên các lĩnh vực: chính trị - xã hội, tư tưởng tôn giáo và
đạo đức, văn học và nghệ thuật để từ đó rút ra được ý nghĩa của nó đối với Việt
Nam hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch
định chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta đối với Phật giáo, phục vụ
nghiên cứu, giảng dạy về tôn giáo ở Việt Nam nói chung, Phật giáo nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các bài viết của tác giả và danh mục
tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm 4 chương 9 tiết.

4


Chương 1.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. Nguồn tài liệu phục vụ nghiên cứu
Phật giáo thời Lý - Trần là một trong những hiện tượng tôn giáo và văn hóa
luôn thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước.

Những nghiên cứu đó cũng đều dựa trên các văn bản, tài liệu gốc, vì vậy trước tiên
luận án khảo sát các tài liệu thuộc nhóm này.
1.1.1. Tài liệu gốc và tài liệu nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, xã hội thời
Lý - Trần
Hoạt động của Phật giáo Lý - Trần và của các thiền sư thời kỳ này được ghi
chép lại khá trung thực trong các tài liệu gốc dưới dạng các biên niên sử, trong văn
bia và thông qua các sáng tác văn học của họ. Thuộc loại này có những công trình
tiêu biểu dưới đây:
- Đại Việt sử ký toàn thư, 2 tập [25], là bộ sử lớn, có giá trị về nhiều mặt, là
di sản quý báu của văn hóa dân tộc. Trong tác phẩm sử học lớn này, các tác giả đã
liệt kê các sự kiện và nhân vật thời Lý - Trần. Kỷ nhà Lý (1010 - 1225) được ghi lại
trong các quyển II, III, và quyển IV. Kỷ nhà Trần (1226 - 1399) - trong các quyển
V, VI, VII, và quyển VIII. Trong các quyển đó đã nhắc đến các sự kiện thể hiện vai
trò của các Thiền sư trong các lĩnh vực triều chính và đời sống xã hội như của Thiền
sư Vạn Hạnh với công lớn đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua, Quốc sư Khuông Việt;
Từ Đạo Hạnh; Quốc sư Trúc Lâm…
- Đại Việt Sử ký tiền biên [134], cũng là văn bản sử liệu đồ sộ, căn bản dựa
theo Đại Việt sử ký toàn thư, nhưng có thêm giá trị chủ yếu là ở những bình luận
sắc sảo về những vấn đề văn hóa, lịch sử và thời đại. Tác phẩm gồm 17 quyển, đóng
thành 7 sách, trong đó 7 quyển đầu là Ngoại kỷ; 10 quyển sau là Bản kỷ. Phần
Ngoại kỷ chép từ họ Hồng Bàng năm Nhâm Tuất (2879 TCN) đến Bản kỷ thuộc
Minh năm Đinh Mùi trở lên gồm 4354 năm. Phần Bản Kỷ, thời Lý, Trần được trình
bày ở các quyển: Quyển II, III, IV là Kỷ nhà Lý với 9 đời vua, bắt đầu năm Canh
5


Tuất, kết thúc năm Đinh Mùi, gồm 202 năm; Quyển V, VI, VII, VIII, IX, X là Kỷ
nhà Trần với 12 đời vua, phụ kỷ Hồ Quý Ly, nhà Hậu Trần 2 vua và kỷ Nội thuộc
Minh, bắt đầu là năm Bính Tuất, kết thúc là năm Đinh Mùi, gồm 202 năm (từ trang
231 đến 632). Tác phẩm này cũng nhiều lần nhắc đến vai trò của các Thiền sư đối

với việc xây dựng quốc gia, triều đại. Ví như, khi nhắc đến Thiền sư Vạn Hạnh, có
viết: “Sử thần Ngô Thì Sĩ bàn: Lý Thái Tổ lớn lên ở Cửa Phật, Khánh Văn nuôi
nấng, Vạn Hạnh dạy dỗ, hai người đó đều là sư cả. Từ nhỏ vua đã là học trò của sư
Vạn Hạnh, cái thuyết “báo ứng”, “nhân quả” của nhà Phật thường được nghe luôn.
Phàm những điều như sống chết, mất còn, thịnh suy, thành bại đều phó thác vào số
mệnh viển vông! Vạn Hạnh khéo về nghề bói toán, lại đặt ra chuyện sét đánh vào
cây gạo cho thêm vẻ thần dị. Vì thế, vua càng tin theo, niềm tin đó bắt rễ vào lòng,
không thể lay chuyển được” [134, tr.234].
- Văn bia thời Lý [89, thực ra là 88] của nhóm biên soạn do nhà nghiên cứu
Nguyễn Văn Thịnh (chủ trì) là công trình sưu tầm công phu về các tác phẩm di văn
kim thạch thời Lý. Các văn bia thời Lý hiện còn phần nhiều gắn với những công
trình quan trọng liên quan đến tầng lớp quý tộc, những người có công với nước, với
dân, xây chùa và những Thiền sư có uy tín như: Thiền sư Từ Đạo Hạnh…
“Nhi kim tức hữu Đạo Hạnh Thiền sư, ấu nhi tú cốt, trưởng nãi kỳ tư. Tụng
tập liên kinh, ngọc kiết hầu nhi liêu lượng; xuất gia vận độ, Phật sinh ý nhi từ bi.
Kiến bát chủng nhi hải ngung tận nghiêm; cứu tam kíp nhi thiền kinh cộng quán.
Cấu thời đại hạn, nhiên nhất chỉ nhi vũ tất bái nhiên. Học cổ hưu lương, tọa đa niên
nhi dung vô cơ sắc. Vạn dân khởi lệ, trì thủy sái nhi hạnh tuyệt bệnh nguyên; chư sự
vị manh, dự ngôn tri nhi đích như phù khế” [89, tr.102].
Dịch nghĩa: “Nay có Thiền sư Đạo Hạnh: tuổi nhỏ thanh tú khác thường, lớn
lên thiên tư kỳ lạ. Khi tụng tập Liên kinh, tiếng ngọc vang sang sảng; lúc xuất gia
hành lễ, tâm Phật thấm từ bi. Dựng Bát chủng tháp mà khắp cõi hết mực uy nghiêm;
đọc Tam kíp thư mà kinh Phật thảy đều quán triệt. Gặp thời đại hạn, đốt một ngón
tay mà mưa xuống tràn trề; học người xưa không ăn, ngồi đó nhiều năm mà mặt
không sắc đói. Dân mắc bệnh, bưng nước vảy mà dứt hết ốm đau; việc chưa manh
nha, dự đoán trước mà trúng như bùa phép” [89, tr.106].
6


Sang thời Trần, các văn bia liên quan đến chùa tháp và các thiền sư cũng

chiếm một số lượng khá lớn. Có thể kể đến các văn bia trong các công trình sưu tầm
và dịch: Văn bia thời Lý - Trần vùng Hải Hưng và lân cận [44] của tác giả Tăng Bá
Hoành (1985) và Nguyễn Văn Thịnh; Nguyễn Quang Hồng (chủ biên, 2002) Văn
khắc Hán Nôm Việt Nam, tập 2: Thời Trần [135].
- Năm 2010, Hội sử học Hải Dương đã thực hiện đề tài Sưu tầm, nghiên
cứu, khôi phục, phiên âm, dịch nghĩa, chú giải di sản Hán Nôm Hải Dương tại các
Di tích xếp hạng Quốc gia tỉnh Hải Dương [45] do Tăng Bá Hoành làm chủ nhiệm
đề tài. Trong đó, đáng lưu ý là phần sao dịch di sản Hán Nôm tại chùa Thanh Mai
(Chí Linh - Hải Dương). Bia mang tên Thanh Mai Viên Thông Tháp Bi, do thị giả
Trung Minh là đệ tử chân truyền của Pháp Loa, biên soạn sau khi Pháp Loa viên
tịch (1330), nhưng trước khi Huyền Quang về cõi Niết Bàn (1334), phải đến 28
năm sau, tức năm Đại Trị ngũ niên (1362) đệ tử mới hoàn thành khắc dựng. Nói
về công đức vô lượng của Điều Ngự Giác Hoàng, các đệ tử có chép:
“Hưng Long thập nhị niên Giáp Thìn, sư nhị thập nhất tuế. Thị niên, Nhân
Tông Đầu Đà biến du chi đạo, trừ dâm từ, thí pháp dược trị chư bần bệnh giả, diệc
cầu pháp tự chi thiết” [45, tr.9].
Dịch: “Năm Giáp Thìn, niên hiệu Hưng Long thứ 12 (1304), Sư 21 tuổi.
Chính năm này, Nhân Tông Điều Ngự đầu đà đi khắp các miền trừ bỏ những đền
thờ dâm thần, bố thí phép chữa bệnh cho những người nghèo bệnh tật, cùng với
mục đích cấp thiết là tìm người nối dòng pháp” [45, tr.16].
- Một số vấn đề về văn bia Việt Nam [64] do Trịnh Khắc Mạnh (2008) chủ
biên, là tập chuyên luận nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển của văn
bia Việt Nam. Một số văn bia thời Lý - Trần được tác giả nhắc đến như: Thác bản
bia An Hoạch sơn niên đại 1110, Bia Sùng Thiện Diên Linh ở Đọi Sơn, niên đại
1121, Bia Thanh Hư niên đại 1373 - 1377 ở Côn Sơn, Hải Dương… thông qua các
văn bia có thể thấy sự phát triển của Phật giáo thời kỳ Lý - Trần.
- Thiền Uyển Tập Anh [87] do Phân viện Nghiên cứu Phật học tại Hà Nội và
nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 1990, là công trình ghi lại các tông phái Thiền
học và sự tích các vị Thiền sư nổi tiếng vào thời từ cuối Bắc thuộc cho đến thời
7



Đinh, Lê, Lý. Đây cũng là cuốn sách tập hợp các tác phẩm thuộc dòng văn học sử
cho nên không những có giá trị về lịch sử Phật giáo mà còn là một cuốn truyện ký
có giá trị về mặt văn học, triết học, văn hóa dân gian. Khi nhận định về các vị Thiền
sư, trong bài tựa tác giả tuyển chọn sách có viết:
“Nước Đại Việt ta được lời Phật thấm nhuần khắp cả, được mưa pháp gội
sóng nhiều nơi, người cạo tóc xuất gia được ấn chứng ngộ đạo có lẽ cũng đã có rồi.
Chứng tích để lại còn cho thấy lòng thiền của họ sáng như mặt trời, gương đạo của
họ trắng ngời như băng tuyết. Có bậc ra giúp nước yên thân, có người vào đời để
cứu vớt kẻ bị sa ngã, chìm đắm. Có người sớm lĩnh ngộ tâm ấn, chống gậy Thiền để
làm rõ lẽ cơ vi của Tổ Đạt Ma, cũng có kẻ muộn đến cửa huyền mà làm hiển rạng bí
chú của Đồ Trừng1. Họ có đức thuần phục chim rừng, khiến chúng tìm đến cửa
nghe kinh, khiến dã thú vây tụ quanh, vào nhà dâng quả. Đó là do lòng thành của
bậc ấy cảm hóa mà chúng tin theo, do cái học sở đắc mà các bậc ấy có phép thần
thông biến hóa” [87, tr.24 - 25].
Thơ văn Lý - Trần, tập 1 [146], (quyển thượng); Thơ văn Lý - Trần, tập 2
[91], (quyển trung); Thơ văn Lý - Trần, tập 3 [146] (quyển hạ), đều là những công
trình đã tuyển chọn số lượng lớn tác phẩm của các Thiền sư, đồng thời giới thiệu
vắn tắt và chính ý các nội dung khái lược về tiểu sử, hành trạng và tác phẩm của đa
phần các nhà thơ, văn thời Lý - Trần.
Công trình Hợp tuyể n văn học Viê ̣t Nam [81], tập 1 (từ thế kỷ X - thế kỷ
XVII) do Bùi Duy Tân (chủ biên, 2004) là bộ sách giới thiệu những tác phẩm chọn
lọc trong dòng văn học viết, còn gọi là văn học thành văn, văn học cổ, văn học Hán
Nôm,... thời Trung đại. Bộ sách tuyển chọn các tác phẩm văn học của hàng ngàn
năm, từ thế kỷ X khi dòng văn học trung đại được khai sáng, đến cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX. Công trình này cũng trình bày về hành trạng và tác phẩm của nhiều
thiền sư Lý - Trần như Thiền sư Vạn Hạnh, Thiền sư Mãn Giác; Thiền sư Quảng
Nghiêm; Trần Thái Tông; Trần Thánh Tông; Trần Nhân Tông và Huyền Quang,
qua đó đánh giá về những đóng góp của các Thiền sư Lý - Trần cho dòng văn học

1

Thường gọi là Phật Đồ Trừng, nhà sư Ấn Độ đến Lạc Dương (Trung Quốc) năm Vĩnh Gia (307-313) đời
Tấn.

8


thời kỳ này. Trên đây đều là những tư liệu, văn bản gốc mà luận án sẽ thường xuyên
phải dựa vào để minh chứng cho các luận điểm của mình.
Bên cạnh đó có thể kể đến nhóm tài liệu nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, xã
hội thời Lý - Trần như:
Văn học Phật giáo từ thế kỷ XI đến hết thế kỷ XIV là một mảng đề tài luôn
thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của giới học thuật trong và ngoài nước. Đặc
biệt, những nghiên cứu về văn học Phật giáo song thường đề cập đến các Thiền sư,
với vai trò là chủ thể sáng tạo, những tác giả tiêu biểu của dòng văn học này. Có thể
kể đến một số công trình tiêu biểu sau đây:
- Dương Quảng Hàm (1941) trong Văn học Việt Nam sử yếu [26] cho rằng,
các vị sư đều là những người thâm Nho học, nhiều vị làm thơ... có nhiều tập thơ văn
nói về giáo lý đạo Phật.
Qua khảo cứu tình hình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, từ những năm cuối
thập kỷ 20 của thế kỷ XX cho đến nay, các nhà nghiên cứu ngày càng quan tâm tìm
hiểu nhiều về văn học Phật giáo thời Lý - Trần, vai trò chủ thể sáng tạo của các
Thiền sư thời Lý - Trần trong dòng văn học thời kỳ này trên các phương diện như
văn bản: sưu tầm, giới thiệu và dịch thuật, tìm hiểu tác giả và nghiên cứu tác phẩm.
Nếu như trước Cách mạng tháng Tám, các nhà nghiên cứu thường chú trọng đến
việc sưu tầm, dịch thuật và cũng ít nhiều đã tìm hiểu giá trị văn bản văn học của các
tư liệu Phật giáo thời Lý - Trần mà tiêu biểu là Đinh Văn Chất, Nguyễn Hữu Tiến,
Ngô Tất Tố... thì sau năm 1945, việc tìm hiểu văn học Phật giáo thời Lý - Trần
được quan tâm hơn và ngày càng có nhiều thành tựu. Ngoài việc sưu tầm thêm để

giới thiệu văn bản mà bộ Thơ văn Lý - Trần gồm ba tập [146] là khá đầy đủ, thì còn
có nhiều công trình nghiên cứu đã khai thác trên nhiều bình diện khác nhau về tác
giả, nội dung và nghệ thuật tác phẩm của bộ phận văn học này. Đặc biệt, từ những
năm sau Đổi mới, trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh
tế thị trường, các nhà nghiên cứu có nhiều điều kiện hơn để tập trung tìm hiểu giá trị
của những tác phẩm văn học Phật giáo thời Lý - Trần ở hai cấp độ: vĩ mô và vi mô,
vừa khái quát, vừa cụ thể và đưa ra những bình luận, đánh giá khá xác đáng về

9


những thành tựu của văn học Phật giáo thời Lý - Trần, vị trí, vai trò của nó trong
tiến trình văn học Việt Nam. Có thể tóm lược một số bình luận của các học giả:
- Đáng chú ý hơn cả là Đinh Gia Khánh (1976) trong khi nêu tiến trình lịch
sử của văn học cổ có bàn đến văn học Phật giáo thời Lý - Trần trong trong Lời giới
thiệu “Tám thế kỷ của tiến trình văn học” cho cuốn sách Hợp tuyển thơ văn Việt
Nam, tập 2 [49]. Khi nhận định về thơ thiền thời Lý - Trần tác giả cho rằng: bên
cạnh ý nghĩa triết học và tôn giáo, nhiều bài thơ lại có ý nghĩa nhân sinh và giá trị
văn học, những ảnh hưởng trên (của Nho, Phật, Lão) không hề làm lu mờ tinh thần
dân tộc,... chính hào khí tiếp thu được từ cuộc chiến đấu của dân tộc lại khiến các
tác giả uốn nắn và nâng cao nội dung của những tư tưởng đó cho phù hợp yêu cầu
phản ánh thiên nhiên, xã hội và con người trong nước Đại Việt độc lập, tự cường.
- Nếu công trình Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời kỳ Lý - Trần [137] của Viện
sử học (1980), là công trình sử học, chủ yếu đề cập đến tình hình kinh tế, xã hội
Việt Nam thời kỳ Lý - Trần thì công trình Nước Đại Việt Thời Lý - Trần [93] của
Nguyễn Khắc Thuần (2002), là công trình tiếp cận một giai đoạn lịch sử Việt Nam
dưới góc độ văn hóa học và đã nêu được một số nét khái quát tổng quan nhất về
nước Đại Việt thời kỳ đó. Cả hai công trình đều có nhắc đến các Thiền sư tiêu biểu
ở mỗi thời đại trong công việc cố vấn triều chính, đưa ra những mưu kế, sách lược
ổn định trật tự xã hội.

- Bùi Văn Nguyên (1987) trong Lịch sử văn học Việt Nam, tập 2 (thế kỷ X XVII) [74] có nhận xét rằng: Thơ thiền thời Lý mang nặng ý thức hệ Phật giáo
Thiền tông, nội dung đạo Thiền ở nước ta đã biến thiên cho phù hợp với thực tiễn
địa phương. Chính nhờ thế mà các nhà sư đã có tác dụng tích cực trong việc xây
dựng nền độc lập buổi đầu. Điểm thú vị là các nhà sư thường trở thành nhà thơ và
có tâm hồn rung động trước cảnh vật và lòng người, thơ văn của các nhà sư biểu lộ
tư tưởng tự do phóng khoáng, vượt ra ngoài khuôn khổ của triết lý thiền tông, biểu
hiện tinh thần yêu nước chống xâm lăng. Về văn học Phật giáo thời Trần, tác giả
cho rằng: Phật học thời Trần cũng có những tư tưởng độc đáo, không rập khuôn
theo phương Bắc, văn học thời Trần mở đầu loại văn bút chiến và văn chương phê
bình, các vua thời Trần thường là thi nhân hơn là Thiền sư so với thời Lý.
10


- Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền tông Lý - Trần [59] của Nguyễn Công
Lý (1997), là công trình chỉ ra được đặc điểm và nội dung, các giá trị nghệ thuật tiêu
biểu của văn học Thiền tông thời Lý - Trần, qua đó khẳng định tư tưởng của các thiền
sư như một lực lượng sáng tác đông đảo và chủ đạo của nền văn học nước nhà thời kỳ
này và đã lưu giữ rất nhiều nét bản sắc dân tộc.
Trong tác phẩm Văn học Việt Nam thế kỷ X - XVIII [81] do Bùi Duy Tân chủ
biên (2004), các tác giả đã có những nhận định sắc bén về văn học Phật giáo thời Lý
- Trần, khi cho rằng: Văn học Phật giáo thời Lý mang nặng ảnh hưởng Phật giáo...
dù rằng phần đông tác giả là nhà sư, nhưng văn học thời Lý không phải chỉ là văn
học Phật giáo, ngay trong các tác phẩm văn học Phật giáo thời Lý thì nhiều khi vẫn
tìm thấy những nội dung liên quan đến việc xây dựng nhân phẩm và có ý nghĩa tích
cực, văn học Thiền tông thời Lý dù sao không phải lúc nào cũng thuần túy. Nhiều
nhà sư Thiền tông mà tu luyện theo giới luật Mật tông, cơ sở tư tưởng của văn học
Thiền tông thời Lý là ở quan niệm phiếm thần luận, sự hòa đồng giữa con người và
thiên nhiên đã khơi cảm hứng cho những tứ thơ độc đáo và những hình tượng thơ
rất sinh động. Thiên nhiên được miêu tả với tình cảm thắm thiết và niềm lạc quan
yêu đời thể hiện thái độ an nhiên tự tại, bản lĩnh vững vàng, tự tin của con người.

Văn học thời Lý mở đầu những truyền thống lớn của dòng văn học viết và văn học
Thiền tông nên đã có vị trí nhất định; thơ Thiền thời này thật gắn bó với đời sống
dân tộc. Về văn học Phật giáo thời Trần, các tác giả đã nhận định: xét về mặt học
thuật, trước hết phải nói đến những trước tác về Phật học, văn học thời Trần phản
ánh sự dung hợp của Tam giáo, đồng thời chỉ ra xu hướng phân công giữa Phật và
Nho, thơ của các vị vua tu thiền, các nhà sư thể hiện một niềm yêu đời, yêu thiên
nhiên tha thiết. Đặc biệt, trong Lời giới thiệu tác phẩm có viế t:
“Từ thế kỷ X đế n thế kỷ XV đã hình thành mô ̣t lực lươ ̣ng sáng tác văn ho ̣c
ngày càng đông đảo. Căn cứ vào những tài liê ̣u hiê ̣n có thì trong non năm thế kỷ của
lịch sử văn học viết có khoảng một trăm hai mươi tác giả . Từ thế kỷ X đế n thế kỷ
XII có trên 50 tác giả trong số đó đa số là các nhà sư , từ thế kỷ XIII đế n thế kỷ thứ
XIV có trên 60 tác giả trong số đó đa số là nhà Nho...” [81, tr.15].

11


Điề u khẳ ng đinh
̣ trên cho thấ y , cùng với quá trình Phật giáo du nhập vào Viê ̣t
Nam, quá trình hình thành và phát triển nền văn học viết Việt Nam

, dòng văn học

Phâ ̣t giáo Viê ̣t Nam cũng đươ ̣c hình thành và trở thành ngo ̣n cờ tiên phong trong
công cuô ̣c khai phóng văn hóa dân tô ̣c . Dòng văn học Phật giá o đã đa ̣t đươ ̣c đỉnh
cao của miǹ h dưới thời Lý - Trầ n với những tác giả , tác phẩm tiêu biểu là những di
sản văn học vô giá của nền văn hóa Đại Việt nói riêng và của dân tộc Việt Nam

,

đươ ̣c lưu truyề n maĩ muôn đời . Ngoài các bình chú của các soạn giả hoặc người

dịch rất đáng được tham khảo, thì các công trình trên đều là nguồn tư liệu gốc để
luận án lấy làm minh chứng cho những đóng góp về mọi mặt của các thiền sư thời
Lý - Trần.
Như vậy, văn học Phật giáo thời Lý chủ yếu là của thiền sư, còn thời Trần thì
ít hơn, điều này cho thấy, văn học Phật giáo thời Lý mang đậm tư tưởng triết lý Phật
giáo, trình bày nhiều về nội dung giáo lý nhà Phật hơn sơ với thời Trần.
- Trong công trình Các khuynh hướng văn học thời Lý

- Trầ n [48] tác giả

Nguyễn Pha ̣m Hùng (2008) qua nghiên cứu các khuynh hướng văn học thời Lý Trần, đã nhận định rằng khuynh hướng văn học thiền chiếm vị thế là dòng chủ lưu,
bởi vì phần lớn những tác phẩm văn học tiêu biểu có giá trị tạo nên bước ngoặt thời
đại đều của các tác giả là Thiền sư.
- Thích Giác Toàn (2011) trong tác phẩm Thẩm mỹ Phật giáo thời Lý - Trần
qua văn chương [107] đã một lần nữa khẳng định, thơ văn thời Lý - Trần chẳng
những mang tính thẩm mỹ Phật giáo của riêng thời đại mà còn là cái đẹp muôn đời
của dân tộc và nhân loại. Với lối viết giản dị của một vị sư chứng ngộ lẽ vô thường
và qua cái nhìn minh triết của Phật giáo, tác giả đưa đến cho người đọc những trải
nghiệm, những cảm nhận thật sâu sắc về lẽ vô thường và thường, về vô ngã và ngã,
về có và không, về bất tịnh và tịnh… Và ngay trong những cặp phạm trù ấy đã thể
hiện rõ sự dung hợp của hai mặt đối lập, mà ranh giới giữa chúng chỉ là một hơi thở,
một phần nhỏ trong niệm thức (sát - na). Ví như, khi tác giả quán niệm, vô thường
và thường tương tự như hai mặt của một tờ giấy. Giác ngộ thì là cái đẹp, cái trác
tuyệt; không giác ngộ (không thấu triệt) thì nó sẽ trở thành bi kịch, vì khi biết thân

12


vô thường rồi, thì bi quan, chán nản, bế tắc cuộc sống… đều xem như là bi kịch do
sự sợ hãi trước cái vô thường. Tác giả chia nội dung cuốn sách này làm bốn phần.

Ba phần đầu là nội dung chính thể hiện những nghiên cứu khoa học nghiêm túc của
tác giả trên cơ sở Phật giáo Việt Nam trong mối tương quan với dân tộc, văn hóa
dân tộc, đặc biệt là dấu ấn của nó trong văn chương thời Lý - Trần, và những giá trị
thẩm mỹ tự thân của nó. Phần bốn, là những đánh giá, kết luận của tác giả cho
người đọc dễ lĩnh hội.
1.1.2. Tài liệu nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam và các Thiền sư thời
Lý - Trần
Mảng tài liệu nghiên cứu về lịch sử Phật giáo, đặc biệt là lịch sử Phật giáo thời
Lý - Trần có đề cập đến vai trò của các thiền sư thời kỳ này trong công cuộc xây
dựng và phát triển văn hóa Đại Việt có khá nhiều và đều khẳng định quá trình Phật
giáo song hành cùng dân tộc, Phật giáo gắn bó với dân tộc và đã ảnh hưởng sâu đậm
đến đời sống văn hóa, tâm linh Việt Nam như thế nào kể từ khi du nhập và phát triển
cho đến ngày nay. Có thể kể đến các công trình về lịch sử Phật giáo sau đây:
- Lịch sử Phật giáo Việt Nam [101] do Nguyễn Tài Thư (chủ biên, 1988), là
công trình tiếp cận các vấn đề liên quan đên Phật giáo dưới góc độ lịch sử, được các
tác giả trình bày thành năm phần. Phần thứ nhất: Phật giáo Việt Nam thời kỳ du
nhập và Bắc thuộc (từ đầu công nguyên đến đầu thế kỷ X); Phần thứ hai: Phật giáo
từ thời Ngô đến thời Trần (giữa thế kỷ X - XIV), trong phần này có giới thiệu về
một số thiền sư tiêu biểu của hai triều đại Lý - Trần; Phần thứ ba: Phật giáo từ Hậu
Lê đến Tây Sơn (thế kỷ XV - XVIII); Phần thứ tư: Phật giáo dưới triều Nguyễn (thế
kỷ XIX) và Phần thứ năm: Phật giáo từ đầu thời Pháp thuộc (cuối thế kỷ XIX) đến
Cách mạng tháng Tám năm 1945.
- Lịch sử Phật giáo Việt Nam [95] của Nguyễn Đăng Thục (1991), là tác
phẩm trình bày toàn bộ tiến trình lịch sử Phật giáo từ khi du nhập cho đến thời hiện
đại. Công trình tiếp cận vấn đề dưới góc độ lịch sử nên cũng đề cập đến hành trạng
và tiểu sử của các thiền sư tiêu biểu trong lịch sử Phật giáo dân tộc.
- Lược sử Phật giáo Việt Nam [116] của Thích Minh Tuệ (1993) gồm có 8
chương. Chương 1: Nguồn gốc lịch sử và đặc điểm chung của Phật giáo; Chương 2:
13



Phật giáo thời đại du nhập và Bắc thuộc; Chương 3: Phật giáo thời Hậu Lý Nam Đế
và Bắc thuộc lần thứ ba; Chương 4: Phật giáo thời Ngô, Đinh, Tiền Lê; Chương 5:
Phật giáo thời nhà Lý; Chương 6: Phật giáo thời nhà Trần; Chương 7: Phật giáo từ
nhà Hồ đến Tây Sơn; Chương 8: Phật giáo Triều Nguyễn và Pháp thuộc. Trong tác
phẩm này, chương 5 và 6, khi nói về Phật giáo dưới triều Lý - Trần, tác giả cũng đã
đề cập đến các chùa tháp và Thiền sư của hai thời kỳ này.
- Đạo Phật Việt Nam [70] của Thích Đức Nghiệp (1995), là công trình nêu
lên rất nhiều vấn đề của Phật giáo dân tộc như: lịch sử, chùa tháp, về đặc điểm Phật
giáo, đạo đức Phật giáo, ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn hóa, nghệ thuật và
nhân sinh quan của người Việt Nam và cả kinh điển Phật giáo Việt Nam. Đây là
công trình được xuất bản trên cơ sở sưu tầm và tuyển chọn các bài nghiên cứu của
tác giả về những vấn đề liên quan đến Phật giáo Việt Nam. Tuy nhiên, đây là công
trình nghiên cứu toàn bộ Phật giáo Việt Nam trong lịch sử nên chỉ trình bày khá sơ
lược về bức tranh thời Lý - Trần ở những điểm chính. Riêng về Phật giáo thời Lý Trần cuốn sách mới nêu một số đóng góp của Phật giáo mà chưa thực sự nghiên cứu
một cách hệ thống và chuyên sâu.
- Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học Phật giáo Trần Thái Tông [30] của
Nguyễn Hùng Hậu (1996), và cùng tác giả này (1997) trong công trình Lược khảo
tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam [31] đã giới thiệu những nội dung cơ bản trong
tư tưởng của Thiền Trúc Lâm Việt Nam. Đây là Thiền phái đã làm nổi bật những
nét chấm phá của Phật giáo Việt Nam. Cùng một chủ để nêu trên còn có cuốn Tư
tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần [8] của Trương Văn Chung
(1998). Chúng đều là các công trình giới thiệu và phân tích những tư tưởng triết học
đặc sắc của Trần Thái Tông qua các tác phẩm tiêu biểu của ông và những nội dung
tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Các tác giả nêu trên đều đã
khẳng định những đóng góp cũng như vai trò của Trần Thái Tông đối với sự phát
triển của triết học Phật giáo và sự phát triển của thiền phái Trúc Lâm đời Trần.
- Việt Nam Phật giáo sử luận gồm 3 tập [56] của Nguyễn Lang (2000) đã
cung cấp nhiều tư liệu quý cho giới nghiên cứu văn hóa, văn học và lịch sử Phật
giáo Việt Nam từ khởi thủy đến hiện đại và đã dành trọn 9 chương để viết về Phật

14


giáo thời Lý - Trần (từ trang 184 đến trang 390). Tác giả đánh giá: “Phật giáo Trúc
Lâm là một nền Phật giáo độc lập, uy tín tinh thần của nó là uy tín tinh thần quốc
gia Đại Việt. Nó là xương sống của một nền văn hoá Việt Nam độc lập. Nền Phật
giáo này tuy có tiếp nhận những ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, Ấn Độ và
Tây Tạng nhưng vẫn giữ cá tính đặc biệt của mình” [56, tập 1, tr.482].
Cùng một chủ đề lớn như công trình trên, Lê Mạnh Thát (2001) có Lịch sử
Phật giáo Việt Nam gồm 2 tập [85], là công trình biên soạn về lịch sử Phật giáo,
được tác giả chia làm ba thời kỳ lớn. Thời kỳ thứ nhất, từ khởi nguyên đến khi Lý
Bôn xưng đế lập nhà nước Vạn Xuân; Thời kỳ thứ hai, từ lúc dòng thiền Pháp Vân
ra đời cho đến cuối đời Trần. Thời kỳ thứ ba, từ đầu nhà Lê tới cận đại. Trong đó,
khi viết về Phật giáo ở thời kỳ thứ hai, tác giả có đề cập nhiều đến các Thiền sư tiêu
biểu như Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Pháp Loa, Huyền Quang… trên các phương diện
hành trạng và tiểu sử, tư tưởng cơ bản của họ.
- Lịch sử đạo Phật Việt Nam [40] của Nguyễn Duy Hinh (2009) cũng là công
trình đặc sắc về lịch sử Phật giáo Việt Nam. Tác phẩm gồm bốn chương ứng với các
thời kỳ chính. Chương 1: thời kỳ truyền nhập (thế kỷ II - V); Chương 2: thời kỳ
phát triển (thế kỷ VI - X); Chương 3: thời kỳ cực thịnh (thế kỷ XI - XIV); Chương
4: Phật giáo chấn hưng và canh tân (thế kỷ XV - XX). Ở chương 3 khi nói về thời
Phật giáo cực thịnh tác giả cũng liệt kê những sự kiện lịch sử, một số đóng góp của
các Thiền sư trong việc phát triển giáo hội Phật giáo, văn hóa, xã hội Đại Việt.
- Phật giáo Việt Nam (từ khởi nguyên đến 1981) [20] của Bồ đề Tân Thanh Nguyễn Đại Đồng (2012), là cuốn sách giới thiệu về Phật giáo Việt Nam từ khởi
nguyên đến năm 1981 - thời điểm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nội dung
có 12 chương trình bày về Phật giáo từ khi ra đời ở Ấn Độ, lan truyền sang Trung
Hoa và Việt Nam. Trong chương 6 và chương 7 có trình bày về Phật giáo thời Lý Trần (1009 - 1400), và có một số khái quát sơ lược về các Thiền sư.
Trên đây là những công trình cơ bản nhất cung cấp một tổng quan chung về
lịch sử Phật giáo, có đề cập đến triết học Phật giáo, ít nhiều đều nói về một số đóng
góp của Phật giáo, về vai trò của các Thiền sư đối với tư tưởng, văn hóa, xã hội Việt

Nam trong các giai đoạn khác nhau nhưng ở mức độ khái quát chung.
15


Đối với công trình nghiên cứu chuyên về các Thiền sư thời Lý - Trần, có thể
kể đến các công trình tiêu biểu:
Các nhà nghiên cứu đã đề cập khá nhiều đến vấn đề lịch sử thời Lý - Trần,
trong đó có nhắc đến Phật giáo cũng như một số Thiền sư tiêu biểu cho giai đoạn
lịch sử này.
- Tuệ Trung Thượng sĩ với Thiền tông Việt Nam (nhiều tác giả, 1993) [147],
là công trình sưu tầm và giới thiệu về Tuệ Trung Thượng sĩ và một số Thiền sư lớn
thời Trần. Công trình này đã tiếp cận nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp văn học nghệ
thuật của các Thiền sư và chỉ ra những giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật trong
các tác phẩm văn học của họ ở thời kỳ này.
Cũng giống như các tác phẩm khác thiên về tổng quan bức tranh lịch sử Phật
giáo Việt Nam, tác phẩm Lược sử Phật giáo Việt Nam [116] của Thích Minh Tuệ
(1993) cũng chưa phải là tác phẩm chú trọng viết về các Thiền sư trong công cuộc
xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc, song tác giả cũng trình bày sơ lược (từ trang
474 đến 480) về các Thiền sư, liệt kê tương đối đầy đủ những nhân vật nổi bật của
Phật giáo từ khởi nguyên cho đến 1975. Khi nói về vai trò của các Thiền sư trong
công cuộc dựng nước và phát triển văn hóa dân tộc với tinh thần nhập thế, tác giả
nhận định: “Các Thiền sư luôn luôn có quan điểm quần chúng. Với tinh thần “nhập
thế”, Thiền sư tham dự các mặt hoạt động của đất nước, nhân dân. Kể từ các triều đại
Đinh, Lê, Lý, Trần trở về sau, tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam vô cùng rõ
nét. Các nhà tu vừa là Thiền sư, vừa là nghệ sĩ, vừa là nhà chính trị ngoại giao, vừa là
người nông dân chít khăn mỏ quạ, xuống đồng cày cấy...” [116, tr.476-477].
Nghiên cứu trực tiếp, toàn diện về Phật giáo thời Lý - Trần và các Thiền sư
thời Lý - Trần là một mảng đề tài khá thú vị, dù đã được khai thác ở nhiều bình diện
khác nhau nhưng vẫn luôn hấp dẫn và người nghiên cứu khi tiếp cận các nguồn tài
liệu mới vẫn tìm được những giá trị mới mẻ. Có thể kể đến các công trình loại này:

- Thiền học đời Trần [139] tập hợp các bài viết của nhiều tác giả (1995), là tác
phẩm tiêu biểu giới thiệu về nội dung tư tưởng của các Thiền sư thời Trần tiêu biểu như
Tam tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang… Trong tác phẩm này,
các tác giả khẳng định những giá trị tư tưởng, phân tích đặc điểm cũng như diện mạo

16


của thiền tông thời Trần. Đó là một thời kỳ phát triển mạnh mẽ và tạo dựng được dòng
thiền tông mang sắc thái Việt Nam.
- Trong Thiền học Trần Thái Tông [97] Nguyễn Đăng Thục (1996) đã giới
thiệu và phân tích những nội dung tư tưởng thiền học của Trần Thái Tông, một ông
vua, đồng thời cũng là một Thiền sư tiêu biểu, có nhiều đóng góp cho dòng thiền
học thời Trần.
Tham đồ hiển quyết và thi tụng các thiền sư đời Lý [118] của Thích Thanh
Từ (1997), là công trình tiêu biểu về tư tưởng và các tác phẩm thi tụng của thiền sư
thời Lý. Đây là công trình tiếp cận dưới góc độ lịch sử văn học. Điểm nổi bật là
trong công trình này, tác giả đã rất công phu và hệ thống khi lựa chọn và giới thiệu
những thiền sư tiêu biểu đã có công tạo ra bước ngoặt cho lịch sử Phật giáo thời Lý
như Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Từ Đạo Hạnh...
- Bàn sâu về một thiền sư, tác giả Nguyễn Duy Hinh (1999) có tác phẩm Tuệ
Trung, nhân sĩ, thượng sĩ, thi sĩ [38] là công trình điển hình về tư tưởng của Tuệ
Trung Thượng Sĩ. Ông thực sự vừa là một cư sĩ nhưng đồng thời cũng là một tu sĩ,
một Thiền sư Phật giáo tiêu biểu thời Trần. Nội dung chính của công trình tập trung
phân tích các tác phẩm tiêu biểu của Tuệ Trung Thượng sĩ và khẳng định những giá
trị cũng như những đóng góp của ông cho Phật giáo, cho tư tưởng và văn hóa Việt
Nam là không nhỏ.
- Trong công trình Việt Nam Phật giáo Sử luận [56], tập 1, Nguyễn Lang
(2000) đã dành một số chương riêng viết về các Thiền sư của thời kỳ này như Thiền
sư Thường Chiếu, Hiện Quang, Trúc Lâm Quốc sư, Đại Đăng quốc sư, Tiêu Diêu

thiền sư (chương IX, trang 205 đến trang 217); Thiền sư Pháp Loa, Huyền Quang
(chương XIII, XIV, trang 313 đến trang 354) và một số Thiền sư khác (chương XV,
trang 354 đến trang 371). Khi nhận định về vai trò của các Thiền sư trong công
cuộc dựng nước, giữ nước và xây dựng nền văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần, tác giả
viết: “Ý hướng xây dựng một nền văn hóa Việt Nam độc lập của các Thiền sư rất rõ
rệt. Về phương diện địa lý học đã muốn dời kinh đô tới một nơi có thể dựng nên sự
nghiệp độc lập lâu dài. Về phương diện học thuật, họ có công đào tạo một lớp trí
thức không cố chấp, biết dung hợp các ý thức hệ dị biệt như Nho, Lão, Phật. Về

17


phương diện văn hóa, họ dựng nên được cả một triều đại thuần từ, lấy đức từ bi làm
căn bản cho chính trị. Về văn học, họ là những người đóng góp vào vấn đề sáng tác
nhiều nhất trong nước, dù phần lớn những sáng tác này nằm trong những chủ đề
Phật giáo. Về mỹ thuật, những công trình kiến trúc và điêu khắc của Phật giáo cũng
là những đóng góp mỹ thuật quan trọng nhất trong thời đại” [56, tập 1, tr.189].
- Thiền sư Việt Nam [120] do Thích Thanh Từ (biên soạn, 2004), là công
trình về lịch sử và hành trạng của các Thiền sư trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
- Việt Nam văn minh sử cương: Văn minh Đại Việt [78] của Lê Văn Siêu
(2004). Đây là công trình lịch sử, được tác giả chia làm ba phần lớn: Phần thứ nhất:
giao thời Ngô, Đinh, Lê; Phần thứ hai: chính sự Trung Hoa; Phần thứ ba: thời Trần.
Trong phần thứ hai, tác giả trình bày về danh sách cao Tăng thời Lý (trang 209 đến
224), tuy nhiên, cũng mới chỉ dừng lại ở mức đưa ra các thông tin có tính liệt kê về
tên tuổi, sơn môn và nơi tu nghiệp. Khi đánh giá về vai trò của các Thiền sư trong
công cuộc xây dựng nền văn hóa Đại Việt, ông viết: “Ta thấy những bậc thầy về tư
tưởng như Cứu Chỉ, Ngộ Ấn, Viên Chiếu hiện diện bên những Thiền sư nhúng tay
vào thế sự với những tài ba lỗi lạc như Vạn Hạnh, Viên Thông cả những Thiền sư
mà công tu chứng đến đỗi đích viên mãn tối cao với thành quả cho người đời nhìn
thấy thực rõ ràng về tài y lý và pháp thuật thần thông như Không Lộ, Giác Hải,

Thông Huyền hoặc sự ướp xác như Từ Đạo Hạnh” [78, tr.235].
Hay, “Những cuộc thuyết pháp giảng kinh sách cho các môn đồ, những cuộc
thi tôn giáo để sa thải những tăng chúng thất học bắt phải hoàn tục đã nâng giá trị
người tu hành lên khi đã có hồi (cuối Lý) bị hạ thấp quá. Những nhà lãnh đạo tinh
thần mới, không chỉ là những thường dân mà là những vị vua, những vương hầu
quý tộc và những quan lại cao cấp đã khiến các tăng đồ cảm thấy một niềm hãnh
diện khi tu hành để lo học hỏi và đào sâu giáo lý” [78, tr.420].
Công trình Nhà Trần và con người thời Trần [51] của Vũ Ngọc Khánh
[2004] đã tiếp cận nghiên cứu lịch sử dưới góc độ văn hóa học. Tác giả đã dành
nhiều nhận định về các Thiền sư trong lịch sử các triều đại phong kiến ở Việt Nam:
“Hình như khá nhiều trường hợp chúng ta viết về Phật giáo Việt Nam, nhưng ta ít
quan tâm đến việc các vua, các nhà sư đời Trần đã có chủ trương xây dựng một thứ
tôn giáo riêng của người Việt Nam, dù đó là tôn giáo Phật. Thử theo dõi vị Tổ Trúc
Lâm thứ nhất (Trần Nhân Tông), ta sẽ thấy ông vua này gần như là một hiện thân
18


khác của Tất Đạt Đa ở đất nước Việt Nam này. Hiểu như vậy, ta mới không ngạc
nhiên là khi tiếp thu các yếu tố Phật, phái Trúc Lâm đã chuyển được những gì tiêu
cực thành tích cực, để cho con người Phật tử, với con người xây dựng đất nước,
người chiến sĩ cứu nước thành một với nhau. Phật giáo nhà Trần là một bình diện
văn hóa mới trong lịch sử văn hóa dân tộc” [51, tr.7-8].
- Văn minh Đại Việt [39] của Nguyễn Duy Hinh (2005) được chia thành 2
chương 8 tiết nhằm trình bày cuộc đại hội nhập văn hóa Việt - Trung - Ấn để hình
thành văn minh Đại Việt từ năm 111 TCN đến năm 1883. Đặc biệt, trong tiết 2 (từ
trang 525 đến 660) chương 2, khi nói về Phật giáo Đại Việt, tác giả cũng nhắc nhiều
đến vai trò tạo dựng và khai sáng văn hóa dân tộc của các thiền sư thời Lý - Trần
như Khuông Việt, Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Thiền Lão, Viên Chiếu, Mãn Giác,
Diệu Nhân, Thông Biện, Trần Thái Tông, Pháp Loa và Huyền Quang. Viết về vai
trò của Phật giáo và của Thiền sư thời Lý, tác giả nhấn mạnh: “Các vua nhà Lý đều

luôn luôn gắn bó với Phật giáo hoặc tự thân tu tập, hoặc sử dụng các nhà sư danh
tiếng vào chức vụ tăng quan hay quốc sư, hoặc luôn tham vấn quốc sự với các nhà
sư tài năng. Các nhà sư danh tiếng thường tinh thông Nho giáo và tuy họ tham
chính nhưng không thấy một chính sách kinh tế xã hội nào của nhà Lý xuất phát từ
giáo lý Phật giáo. Lý do rất đơn giản bản thân Phật giáo không phải là lý luận kinh
bang tế thế mà chỉ là giáo lý tâm linh thuần túy” [39, tr.564].
- Nhà Lý trong văn hóa Việt Nam [66] và Nhà Trần trong văn hóa Việt Nam
[67] là hai công trình của Nguyễn Bích Ngọc (2009) có đề cập và giới thiệu một
cách tổng hợp về những con người thời Lý - Trần: các vị minh quân, phụ nữ, các vị
danh tướng, các nhà văn hóa, các trạng nguyên, các vị thánh, các đền chùa (lễ hội)
liên quan đến thời Lý - Trần. Trong hai tác phẩm này, tác giả đã trình bày một số
đánh giá về vai trò của các Thiền sư, trong đó có những Thiền sư xứng danh là
những nhà văn hóa Đại Việt. Ví như, trong Nhà Trần trong văn hóa Việt Nam, tác
giả đã dành riêng viết về các Thiền sư Pháp Loa và Huyền Quang ở phần 5 “Các
nhà văn hóa đời Trần” (từ trang 101 - 107). Điều này chứng tỏ, trong lịch sử dân
tộc, các vị Thiền sư xuất sắc và tiêu biểu cũng chính là những nhà văn hóa, tư tưởng
của thời đại.
- Phật giáo thời Lý với 1000 năm Thăng Long - Hà Nội [142] là Kỷ yếu hội
thảo khoa học (2010) tập hợp các bài viết, trong đó có những bài viết đề cập đến một
19


số đóng góp của các Thiền sư tiêu biểu thời Lý, như Dấu ấn thiền sư Vạn Hạnh với
kinh thành Thăng Long của Thích Nữ Viên Giác; Vai trò nhập thế của các thiền sư
thời Lý của Lê Đức Hạnh; Lý Thái Tông: Người khởi đầu loại hình tác gia Hoàng đế
- thiền sư - thi sĩ của Nguyễn Hữu Sơn...
- Các công trình Phật giáo đời Lý [140], và Phật giáo đời Trần [141] của Viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam (năm 2010, 2011) đều là tập hợp những bài viết về
Phật giáo thời Lý và Trần. Về thời Lý, có 30 bài viết của các học giả nghiên cứu, trao
đổi, đánh giá về Phật giáo thời kỳ này. Tiêu biểu có thể kể đến một số bài viết của các

tác giả có đề cập đến đóng góp của các thiền sư như: Những đóng góp của Phật giáo
thời Lý đối với Thăng Long - Hà Nội của tác giả Nguyễn Đại Đồng; Thiền sư Vạn
Hạnh trong chiến lược dựng nước và giữ nước thời Lý của Thích Nữ Viên Giác; Ni
sư Diệu Nhân - tổ sư khơi nguồn cho Ni giới Việt Nam của Thích Nữ Bổn Giác...
Trong “Lời đầu sách”, ban biên soạn viết: “Thời Lý, khi nền Phật giáo phát triển huy
hoàng thì cũng là thời mà đất nước Đại Việt vươn lên một cách hùng cường đến đỉnh
cao tột. Cũng chính lúc này, các vị Tăng lữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình ổn
định nếp sống xã hội, hướng mọi người đến với những điều tốt đẹp trong cuộc sống,
đồng thời rèn luyện nội tâm mỗi người trở thành một nhân cách hoàn mỹ để phụng sự
cho dân tộc.
Do đó, Phật giáo thời Lý là nét son trong nền văn hóa Việt. Tìm về bản sắc
Phật giáo đời Lý là tìm về bản sắc dân tộc. Đâu những: Vạn Hạnh, Không Lộ, Mãn
Giác,… đều là nhân cách lớn của mọi thời đại…” [130, tr.8 - 9].
Về đời Trần, cuốn Phật giáo đời Trần [141] tập hợp tới 47 bài nghiên cứu
toàn diện về những đóng góp, vai trò và giá trị của Phật giáo đối với nhà nước Đại
Việt thời Trần. Có thể kể đến một số bài nghiên cứu, đánh giá về vai trò của các
Thiền sư trong giai đoạn này như Tuệ Trung Thượng sĩ - Một Thiền sư cư sĩ triều
Trần của Thích Nữ Giác Bình; Đóng góp của thiền phái Trúc Lâm vào quá trình
phát triển văn hoá Đại Việt của tác giả Thích Nữ Giới Định; Trần Thánh Tông - Vị
vua kiệt xuất, Thiền sư lỗi lạc đời Trần của Nhật Nguyệt; Thiền sư Huyền Quang Người có tâm hồn nghệ sĩ của Thích Nữ Quảng Phước; Những gương mặt Ni giới
và Nữ cư sĩ tiêu biểu của Phật giáo thời Trần của Nguyên Huệ… Khi nhận định về
vai trò của thiền sư đối với văn minh Đại Việt, tác giả Lời nói đầu sách viết:

20


×