Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC TỐT PM PAINT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.5 KB, 13 trang )

Trang 1
I. TÊN ĐỀ TÀI:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP
GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TIN HỌC
Ở BẬC TIỂU HỌC.
II. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Vị trí, tầm quan trọng của đề tài:
Trong thời đại của chúng ta, sự bùng nổ công nghệ thông tin
đã tác động lớn đến công cuộc phát triển kinh tế xã hội loài người. Đảng và
nhà nước đã xác định rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của tin học và công nghệ
thông tin cũng như yêu cầu đẩy mạnh các ứng dụng của nó, đào tạo nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa và hội
nhập, hướng tới nền kinh tế tri thức của nước ta nói riêng, của thế giới nói
chung.
Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên nhà nước ta đã đưa
môn Tin học vào trong nhà trường và ngay từ bậc tiểu học học sinh đã
được tiếp xúc với môn tin học để làm quen dần với lĩnh vực công nghệ
thông tin, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học những phần nâng cao trong
các cấp tiếp theo.
Môn Tin học ở bậc tiểu học bước đầu giúp học sinh làm quen với
một số kiến thức ban đầu về công nghệ thông tin như: một số bộ phận của
máy vi tính, một số thuật ngữ thường dùng, rèn luyện một số kỹ năng sử
dụng máy tính, ... Hình thành cho học sinh một số phẩm chất và năng lực
cần thiết cho người lao động hiện đại như:
+ Bước đầu hình thành năng lực tổ chức và xử lí thông tin.
+ Có ý thức và thói quen sử dụng máy tính trong hoạt động học tập,
lao động xã hội hiện đại.
+ Có thái độ đúng khi sử dụng máy tính và các sản phẩm tin học.
+ Bước đầu hiểu khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong học
tập.


+ Có ý thức tìm hiểu công nghệ thông tin trong các hoạt động xã
hội.
* Đặc biệt khi học sinh học các phần mềm như:
+ Phần mềm soạn thảo văn bản: Học sinh ứng dụng từ các môn
Tập làm văn để trình bày soạn thảo văn bản sao cho phù hợp, đúng cách,
ứng dụng soạn thảo văn bản để soạn thảo giải những bài toán đã học ở bậc
tiểu học...
+ Phần mềm vẽ hình Paint: học sinh ứng dụng trong môn Mỹ
thuật, học được từ môn mỹ thuật để vẽ những hình ảnh sao cho sinh động,
hài hòa, thẩm mĩ.
+ Trong chương trình tin học ở bậc tiểu học được phân bố xen kẽ
giữa các bài vừa học vừa chơi, điều đó sẽ rèn luyện cho học sinh óc tư duy
sáng tạo trong quá trình chơi những trò chơi bổ ích phát triển trí tuệ nhẹ


Trang 2
nhàng giúp cho học sinh thư giãn sau những giờ học căng thẳng ở lớp...
2. Thực trạng:
Một số thuận lợi và khó khăn khi thực hiện chuyên đề ở trường tiểu
học nơi tôi đang công tác:
a. Thuận lợi:
* Nhà trường:
- Tuy môn Tin học chỉ mới là môn học tự chọn nhưng nhà trường đã
tạo điều kiện để học sinh có thể học từ khối lớp 3, tạo điều kiện sắm sửa
máy móc, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học môn tin học.
* Giáo viên:
Giáo viên được đào tạo những kiến thức cơ bản về tin học để đáp
ứng yêu cầu dạy và học môn Tin học trong nhà trường.
* Học sinh:
Vì là môn học trực quan, sinh động, môn học khám phá những lĩnh

vực mới nên học sinh rất hứng thú học, nhất là những tiết thực hành.
b. Khó khăn:
* Nhà trường:
Nhà trường đã có một phòng máy vi tính để cho học sinh học nhưng
vẫn còn hạn chế về số lượng cũng như chất lượng, mỗi ca thực hành có tới
3 đến 4 học sinh ngồi cùng một máy nên các em không có nhiều thời gian
để thực hành làm bài tập một cách đầy đủ. Hơn nữa, nhiều máy cấu hình đã
cũ, chất lượng không còn tốt nên hay hỏng hóc, ảnh hưởng rất nhiều đến
chất lượng học tập của học sinh. Đời sống kinh tế của địa phương còn gặp
nhiều khó khăn, hầu hết học sinh ở nhà đều không có máy vi tính, nên
những kiến thức các em thu nhận được hầu hết là từ những tiết học ở
trường, những bài tập tiếp nối, phát triển thêm cho các em không thể thực
hiện được ở nhà, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập của các em.
* Giáo viên:
Môn Tin học mới chỉ là môn tự chọn trong chương trình bậc tiểu học
nên chương trình và sự phân phối chương trình bước đầu mới có sự thống
nhất và hoàn chỉnh.
Tuy giáo viên đã được đào tạo cơ bản về kiến thức tin học nhưng vẫn
còn thiếu sót, việc cập nhật những vấn đề mới còn hạn chế. Hơn nữa khi
thực hành, máy móc gặp sự cố, trục trặc, giáo viên không xử lí kịp thời dẫn
đến học sinh thiếu máy, không thực hành được.
* Học sinh:
Đa số các em học sinh chỉ được tiếp xúc với máy vi tính ở trường là
chủ yếu, do đó sự tìm tòi và khám phá máy vi tính với các em còn hạn chế
nên việc học tập của học sinh vẫn mang tính chậm chạp, thụ động.
3. Lí do chọn đề tài:
Trong những năm gần đây vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở
nước ta đã được Đảng và nhà nước rất quan tâm. Đặc biệt, giáo dục tiểu
học đang thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát



Trang 3
huy tính tính cực của học sinh, làm cho hoạt động dạy - học trở nên nhẹ
nhàng, tự nhiên và hiệu quả. Để đạt được yêu cầu đó người giáo viên phải
có phương pháp và hình thức dạy học phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa
tuổi tiểu học.
Bên cạnh đó, sự phát triển ồ ạt của công nghệ thông tin đã tác động
không nhỏ đến diện mạo của ngành giáo dục. Những chương trình, phần
mềm học tập ra đời ngày càng nhiều đã đáp ứng được nhu cầu học tập, phát
triển trí tuệ và giải trí lành mạnh của học sinh và các bậc phụ huynh.
Những phần mềm này nói chung – những phần mềm học tập trong chương
trình tin học bậc tiểu học nói riêng, giúp các em phát triển gần như toàn
diện, hỗ trợ trong hầu hết các môn học, thông qua đó các em nâng cao kĩ
năng sống và phục vụ cho các môn học khác tốt hơn.
Môn Tin học ở bậc tiểu học bước đầu giúp học sinh làm quen với
một số kiến thức ban đầu về công nghệ thông tin, hình thành cho học sinh
một số phẩm chất và năng lực cần thiết cho người lao động hiện đại như:
có ý thức và thói quen sử dụng máy vi tính trong hoạt động học tập, lao
động xã hội hiện đại, có thái độ đúng khi sử dụng máy tính và các sản
phẩm tin học, bước đầu hiểu khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong
học tập, có ý thức tìm hiểu công nghệ thông tin trong các hoạt động xã
hội...
Chính vì lẽ đó, tôi quyết tâm chọn đề tài “ Một số biện pháp giúp học
tốt môn Tin học bậc tiểu học” nhằm giúp các em học tốt hơn môn Tin học
cấp tiểu học, làm nền tảng vững chắc cho việc học tập ở các cấp tiếp theo.
4. Giới hạn nghiên cứu của đề tài:
- Môn tin học khối 4
- Học sinh khối 4 trường tiểu học Ngô Quyền
- Áp dụng cho học sinh khối 4 trong giờ lí thuyết và thực hành.
5 Phương pháp nghiên cứu:

- Phỏng vấn học sinh khối 4
- Kiểm tra việc học tập của học sinh (bài cũ, bài mới)
- Sử dụng bảng đối chiếu
- Thăm lớp, dự giờ.
- Kiểm tra chất lượng sau giờ học
III. CƠ SỞ LÍ LUẬN
- Chỉ thị 29/CT của Trung Ương Đảng về việc đưa công nghệ thông
tin vào nhà trường.
- Trong những năm gần đây, xu thế chung của thế giới là đổi mới
phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng
tạo của học sinh trong quá trình dạy học.
- Qua các năm tại trường tôi có rút kinh nghiệm và chú ý học hỏi
đồng nghiệp trong và ngoài trường để vận dụng sáng tạo sao cho phù hợp
và ngày càng có hiệu quả.


Trang 4
IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Qua thực tiễn giảng dạy tôi nhận thấy: Môn Tin học là một bộ môn
rất mới mẻ, kiến thức thì rộng, những khái niệm còn quá trừu tượng với
học sinh cấp Tiểu học, bên cạnh đó cơ sở vật chất của trường còn nhiều
hạn chế nên ảnh hưởng rất nhiều đến việc học của học sinh.
Hơn nữa, Tin học là một bộ môn mới được đưa vào tiểu học nên
chưa có một phương pháp giảng dạy cụ thể, khuôn mẫu thống nhất như các
môn học khác nên phương pháp và chất lượng giảng dạy của giáo viên
chưa được tốt, đa phần là vừa dạy, vừa quan sát, nghiên cứu và đúc rút
kinh nghiệm, điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc học của các
em.
Trước khi thực hiện chuyên đề, tôi đã tiến hành khảo sát các khối
lớp, cụ thể là khối lớp 4 thông qua giờ dạy lí thuyết, dạy thực hành, thông

qua kiểm tra bài cũ. Khi tổng hợp, kết quả thu được như sau:
Mức độ thao tác
Thao tác nhanh, đúng
Thao tác đúng
Thao tác chậm
Chưa biết thao tác

Trước khi thực hiện chuyên đề
Số HS
Tỷ lệ
6/45
13,3%
14/45
31,1%
18/45
40 %
7/45
15,6%

Từ thực tiễn đó, tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và áp dụng một số biện
pháp vào giảng dạy cho các lớp mình phụ trách có hiệu quả.
V. NỘI DUNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN ĐỀ
TÀI
Tin học là một môn khoa học, những khái niệm trừu tượng vừa mới
mẻ vừa khó hiểu đối với lứa tuổi của học sinh tiểu học. Hơn nữa, khả năng
tư duy của học sinh tiểu học còn rất hạn chế, các em nhìn nhận vấn đề nào
đó thường mang tính độc lập, ít tìm đến sự lôgic; giáo viên cần phải hướng
dẫn học sinh phát hiện ra kiến thức một cách cụ thể, có cơ sở khoa học, có
vậy việc chiếm lĩnh kiến thức mới đạt hiệu quả và bền vững. Vì vậy, khi
hướng dẫn cho học sinh học và tự chiếm lĩnh những tri thức của bộ môn

này thì giáo viên phải dựa trên cơ sở khoa học và đặc điểm tâm lí lứa tuổi
của các em, từ đó xây dựng cho mình một kế hoạch và phương pháp dạy
học phù hợp để học sinh tiếp thu bài một cách có hiệu quả.
Sau đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng vào trong giảng dạy
bộ môn mình phụ trách:
1. Giáo viên có kế hoạch bài dạy, xây dựng ý tưởng, thiết kế bài
dạy phù hợp:
- Giáo viên phải nghiên cứu tài liệu, sách giáo khoa, sách giáo
viên, soạn giáo án, chuẩn bị các thiết bị dạy học (máy tính và các thiết bị


Trang 5
phần cứng máy tính có liên quan đến bài học) cũng như chuẩn bị các tình
huống xảy ra (mất điện trong giờ thực hành…) trước khi lên lớp để đảm
bảo có những tiết dạy hiệu quả.
Các yêu cầu đề ra để soạn bài :
+ Đảm bảo tính hệ thống
+ Đảm bảo tính thời gian
+ Đảm bảo nội dung ngắn gọn nhưng đầy đủ, súc tích
- Giáo viên nên tận dụng những phương tiện sẵn có của môn tin học
áp dụng vào trong giảng dạy lí thuyết để học sinh dễ quan sát và nhận biết,
giúp cho buổi học thực hành có hiệu quả hơn.
Ngay từ bài học đầu tiên trong chương trình tin học, giáo viên
phải xác định rõ cho học sinh nhận biết các bộ phận của máy tính và tác
dụng của các bộ phận đó bằng cách cho học sinh quan sát bằng đồ dùng
trực quan sẵn có ngay trong giờ giảng lí thuyết.
Ví dụ: Bài 4 : Chuột máy tính (Quyển 1- lớp 3)

Giáo viên sử dụng chuột máy tính thật để giới thiệu bộ phận con
chuột (sử dụng đồ dùng trực quan, không dùng hình ảnh thay thế). Khi giới

thiệu về chuột máy tính, giáo viên phải mô tả chuột, có mấy loại chuột, trên
thân chuột có những nút nào và chức năng của mỗi nút ra sao, cách đặt tay
lên chuột làm sao cho đúng- những vấn đề dù rất nhỏ đó nếu không được
quan tâm sẽ khiến học sinh lúng túng trong quá trình thao tác với chuột.
Những lỗi mắc phải thường thấy của học sinh là: không phân biệt được nút
phải, nút trái chuột; nháy chuột và nháy đúp chuột, nháy chuột là nháy nút
trái chuột nhưng học sinh vẫn còn chưa phân biệt rõ...
Học sinh quan sát chuột, quan sát các thao tác của cô giáo khi sử
dụng chuột trong quá trình học tập, thực hành thử vài lần thì những lần
thực hành sau sẽ thao tác với chuột chính xác hơn.
- Giáo viên biết kết hợp giữa giờ học lý thuyết và thực hành sao cho
phù hợp, không nên xem nhẹ giờ dạy lí thuyết thì mới thực hành tốt được,
cũng như khi học sinh thực hành tốt thì mới hiểu sâu hơn về lí thuyết
- Đối với bài học có nhiều kiến thức lí thuyết thì nên phân chia nội
dung lí thuyết sao cho phù hợp, nên cho học sinh thực hành ngay phần lí
thuyết vừa học rồi mới chuyển sang học phần lí thuyết tiếp theo của bài
học ngày hôm đó.
Ví dụ: Bài Tẩy và xóa hình (Lớp 3- Quyển 1)
Nội dung bài học có 3 phần:
1. Tẩy một vùng trên hình


Trang 6
2. Chọn một phần hình vẽ
a) Công cụ Chọn
b) Công cụ Chọn tự do
3. Xóa một vùng trên hình
Đối với học sinh lớp 3 mới tiếp xúc với máy tính và phần mềm vẽ
hình Paint thì việc phân chia nội dung lí thuyết và thực hành sau mỗi phần
sẽ giúp học sinh nắm bài tốt hơn. Học sinh lớp 3 ở 2 cơ sở lẻ của trường ít

có điều kiện tiếp xúc với máy tính, những giờ học thực hành không nhiều
nên lên lớp 4 khả năng thao tác với máy của các em vẫn không theo kịp với
các bạn cùng lớp ở cơ sở chính. Tùy theo sức học của mỗi lớp mà có thể
học phần nào thực hành phần ấy trước khi thực hành tổng hợp cả bài, tuy
nhiên đối với đa số học sinh lớp 3, 4 ở trường ít có điều kiện tiếp xúc với
máy tính thì phương pháp thực hành sau mỗi nội dung học đem lại kết quả
tối ưu hơn.
Qua đợt khảo sát đầu năm học với học sinh khối 4 (lớp 4A và lớp
4B), dạy bài Các thao tác với tệp tin văn bản; lớp 4A dạy có sử dụng đồ
dùng trực quan bằng máy tính, thao tác trên máy tính; lớp 4B dạy sử dụng
đồ dùng trực quan bằng hộp thoại miêu tả hình ảnh trên máy tính. Khi tổng
hợp kết quả thu được:
Mức độ thao tác
Thao tác nhanh
Thao tác chậm
Chưa biết thao tác

Lớp 4A
Số HS
Tỉ lệ
12/23
52%
8/23
35%
3/23
13%

Lớp 4B
Số HS
Tỉ lệ

4/22
18%
14/22
64%
4/22
18%

- Khi dạy thực hành, giáo viên giao bài tập cho học sinh một cách cụ
thể, rõ ràng và kết hợp cả những kiến thức của bài học trước, hướng dẫn
theo từng nhóm trước khi học sinh thực hành để học sinh quan sát và làm
bài tập. Lưu ý thực hành mẫu trước khi giao nội dung thực hành cho học
sinh, điều này cũng góp phần quan trọng trong việc hình thành một khuôn
mẫu nhất định cần đạt với đa số học sinh trong quá trình thực hành. Đối với
học sinh khá giỏi giáo viên có thể nâng cao bài tập hoặc các thao tác khó
hơn để tránh gây nhàm chán và kích thích sự tìm tòi và chinh phục của các
em, qua đó khơi dậy sự hứng thú trong quá trình học hỏi để có kết quả tốt
hơn.
Ví dụ: Dạy bài vẽ đường thẳng (lớp 3), giáo viên giao bài tập thực
hành: Vẽ chiếc thang (Hình SGK) sau đó hướng dẫn trực tiếp trên máy cho
học sinh dễ quan sát thao tác và lời nói của cô (Có thể giao phần hướng dẫn
cho một học sinh vẽ tốt). Trong khi thực hành, nếu học sinh nào chưa thực
hành được, giáo viên nên hướng dẫn tỉ mỉ đến khi các em có thể tự thao tác
được. Đối với học sinh khá giỏi, có thể giao nội dung thực hành nâng cao
hơn, ví dụ vẽ ngôi nhà bằng cách sử dụng công cụ vẽ đường thẳng...


Trang 7
2. Quản lí lớp tốt và truyền đạt kiến thức một cách dễ hiểu, gần
gũi với cách nhìn của học sinh tiểu học.
- Xuất phát từ quan điểm: Một lớp học có nề nếp kỷ luật tốt nhất

định sẽ có nếp học tập tốt. Học sinh sẽ tiếp thu bài tốt hơn trong một lớp
học nghiêm túc và có thái độ học tập tốt. Đa số giáo viên chuyên đều chỉ có
khoảng 2 tiết/tuần/lớp, vì vậy việc quản lí lớp theo nề nếp vốn có của lớp
hoặc đặt ra những nề nếp mới trong lớp học của bản thân mình sẽ gặp
nhiều khó khăn, tuy nhiên điều đó nhất thiết phải làm vì không có gì là
không thể. Tham khảo ý kiến giáo viên chủ nhiệm về tình hình chung của
lớp cũng như các trường hợp đặc biệt. Bên cạnh đó, giáo viên cần gần gũi
và quan tâm hơn với học sinh của mình. Khi xếp chỗ ngồi cho học sinh
trong cả giờ học lý thuyết cũng như thực hành cần chú ý đến những học
sinh có sức khoẻ yếu, học sinh mắc bệnh về tai, mắt, những học sinh học
yếu, hiếu động, học sinh cá biệt. Trong giờ thực hành giáo viên cũng xen
kẽ học sinh khá giỏi với học sinh trung bình để các em có điều kiện giúp đỡ
nhau trong học tập cũng như trong việc giữ kỉ luật của lớp. Phải mẫu mực
trong tất cả các hành động trước khi yêu cầu các em làm việc gì hoặc đưa
các em vào khuôn khổ. Trước khi bắt đầu buổi dạy đầu tiên nên phổ biến
nội qui phòng học cho học sinh và có bảng Nội quy phòng máy treo trong
phòng, điều ấy sẽ thật sự thiết thực.
- Có phương pháp truyền đạt kiến thức cho học sinh dễ hiểu, dễ nắm
bài hơn. Học sinh tiểu học có cách nhìn trẻ con nhưng những nội dung lí
thuyết của bộ môn Tin học lại khá trừu tượng và khó hiểu, do vậy cần có
cách giải thích những khái niệm mới ấy thật gần gũi với cách nhìn của các
em, từ đó mới nâng dần lên để các em hiểu theo đúng cách giải thích của
chuyên ngành. Gần gũi, vui vẻ và một chút hài hước sẽ khiến những bài
học khô khan dễ đi vào tâm trí của các em hơn.
3. Hệ thống các bài tập thực hành, các bài tập phù hợp với nội
dung của bài giảng, liên hệ với một số môn học khác trong chương trình
học của các em.
Các bài tập không quá dài, nâng dần từ mức đơn giản đến phức tạp,
tránh tâm lí vội vàng muốn học sinh hiểu ngay, hiểu nhiều nội dung trong
thời gian ngắn, vì quá trình tiếp thu kiến thức, nhất là đối với học sinh yếu

kém cần một quá trình khá dài và rất cần sự tận tâm, kiên nhẫn của giáo
viên. Ngoài ra giáo viên cũng phải kết hợp những bài đã học trước để học
sinh ôn lại và vận dụng một cách có hệ thống.
Ví dụ: Thực hành vẽ hình vuông sau:


Trang 8

Ở hình trên, ngoài vẽ hình vuông, học sinh còn phải sử dụng công cụ
vẽ đường thẳng, đường cong một chiều, màu vẽ đã học ở bài trước để vẽ và
trang trí cho các hoa văn của hình vuông trên. Từ hình vuông trên các em
sẽ liên tưởng đến bài học trang trí hình vuông (môn mỹ thuật lớp 4) và
sáng tạo vẽ một số hình vuông đã học ở môn mỹ thuật 4.
4. Giáo viên nên xây dựng lớp học tự quản và tạo sự tranh đua
giữa các nhóm để tạo được sự hào hứng học tập và sáng tạo trong quá
trình thực hành.
- Trong giờ thực hành, giáo viên nên tạo sự tranh đua giữa các nhóm
bằng cách phân công các nhóm làm bài thực hành, xây dựng lớp học tự
quản sau đó các nhóm nhận xét, chấm điểm của nhau (dưới sự chỉ dẫn của
giáo viên) để tạo được sự hào hứng học tập và sáng tạo trong quá trình thực
hành. Bằng phương pháp này, giáo viên vừa kích thích sự tranh đua học
tốt, vừa giúp các em có tinh thần đồng đội, bạn khá giỏi kèm bạn học yếu
để cùng nhau vươn lên. Khi dùng phương pháp này, giáo viên cần luôn chú
ý đến quá trình thực hành của mỗi nhóm để phát triển học sinh theo hướng
tích cực, tránh xu hướng cá nhân và đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa
các thành viên trong nhóm.
- Giáo viên cần chọn ra một số học sinh nổi trội hơn trong lớp để làm
nòng cốt, mỗi lớp khoảng 1 đến 2 em.
Trong giờ thực hành, khi giao bài tập, giáo viên sẽ làm mẫu lần đầu,
sau đó sẽ mời các em học sinh nòng cốt trong lớp thực hành mẫu lại trước

lớp một lần nữa, sau đó chính các em này sẽ giúp giáo viên hướng dẫn các
bạn trong lớp thực hành. Trường hợp chính các em gặp vướng mắc trong
quá trình hướng dẫn bạn thì giáo viên sẽ hướng dẫn cho các em trước lớp.
Khi sử dụng phương pháp này tôi nhận thấy các em tiếp thu bài
nhanh hơn và nhớ bài lâu hơn, vì “ Học thầy không tày học bạn ”, các em
sẽ gần gũi và có cách giải thích đôi khi rất trẻ con nhưng dễ đi vào lòng các
em hơn, dễ hiểu hơn mà dù giáo viên có nhiệt tình, tận tụy, cởi mở bao
nhiêu thì nhiều học sinh vẫn còn ngại hỏi trong học tập, sợ bạn cùng lớp
biết mình chưa hiểu bài, đó là tâm lí chung của đa số học sinh. Vả lại một
GV cùng lúc thì khó có thể quan sát và trả lời được hết thắc mắc của tất cả
các em trong lớp.
Đối với Tin học, kiến thức là vô tận nên phương pháp này là một
phương pháp hay trong quá trình học tập của các em.


Trang 9
5. Tận dụng những nguồn tài nguyên sẵn có của máy tính, hoặc
truy cập mạng để tìm kiếm thông tin, tìm kiếm tài nguyên trên Internet
phục vụ cho quá trình dạy và học.
Kiến thức là vô tận, luôn học hỏi để nâng cao và làm mới mình, đó là
điều nên và phải làm. Luôn cập nhật những thông tin mới để cung cấp cho
quá trình giảng dạy và truyền đạt cho học sinh những thông tin mới, không
lỗi thời, giúp tiết học luôn mới, sinh động và giúp các em bắt kịp tiến độ
của thời đại.
6. Sưu tầm một số trò chơi có ích rèn luyện về cách sử dụng chuột
(cờ caro), luyện gõ bàn phím bằng mười ngón (Mario Typing), phần
mềm luyện tư duy, tính toán, nhanh nhạy, giải trí (minesweper...)...
Những trò chơi lí thú, bổ ích vừa giúp học sinh thư giãn, vừa giúp
cho quá trình học tập, tiếp thu kiến thức và phát triển trí tuệ nhẹ nhàng
nhưng hiệu quả. Sưu tầm và cho học sinh tham gia những trò chơi bổ ích

và phù hợp với lứa tuổi và góp phần hình thành tính cách tốt cho học sinh,
ví dụ như: học làm công việc nhà với phần mềm Tidy up...
7. Giáo viên có kế hoạch bồi dưỡng để nâng cao kiến thức bản
thân, đáp ứng được những yêu cầu đổi mới, cập nhật thông tin một cách
đầy đủ, chính xác.
Muốn có giờ dạy đạt hiệu quả cao, bản thân mỗi giáo viên dạy Tin
học nhận thức được cần phải có kế hoạch bồi dưỡng tin học cho bản thân
bằng cách tự tìm tòi, tham khảo các tài liệu có liên quan và có thể học hỏi
từ các đồng nghiệp của trường bạn.
Bên cạnh tìm hiểu các kiến thức về tin học, giáo viên cũng phải tìm
hiểu các kiến thức ở lĩnh vực khác như văn hóa, kinh tế, xã hội, âm nhạc...
để nâng cao nhận thức của bản thân và đáp ứng tốt hơn cho môn học mình
đảm trách.
Tích cực tham mưu với nhà trường để tăng cường nâng cấp máy và
trang thiết bị dạy học. Học hỏi để tự khắc phục những sự cố thường gặp để
giờ thực hành của học sinh có hiệu quả hơn.
8. Linh hoạt phân bố nội dung học tập cho phù hợp, giúp học sinh
vừa học tốt môn tin học, vừa ôn luyện các môn học khác tốt hơn.
Trong phân phối chương trình, ngoài những tiết học còn phân bố
những tiết tìm hiểu phần mềm học toán hay các chương trình trò chơi. Ví
dụ, chương trình học toán với phần mềm cùng học toán 3, nội dung này
chiếm 6 tiết học; tương tự đối với khối lớp 4 là 6 tiết. Giáo viên có thể linh
hoạt phân bổ nội dung học cho phù hợp, có thể học 2 tiết, 2 tiết để dành
cho học sinh ôn luyện giữa kì và 2 tiết cho ôn cuối kì, giúp học sinh học và
ôn luyện môn toán tốt hơn. Tương tự với các trò chơi cũng vậy, linh hoạt
phân bổ nhưng vẫn đảm bảo nội dung và thời lượng học nhằm giúp học
sinh học tốt và tránh tình trạng nhàm chán trong quá trình học tập.


Trang 10

V. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Qua quá trình áp dụng vào giảng dạy tin học khối 4, so sánh với bảng
tổng hợp trước đó đã thu được kết quả như sau:

Mức độ thao tác
Thao tác nhanh,đúng
Thao tác đúng
Thao tác chậm
Chưa biết thao tác

Trước khi thực
hiện chuyên đề
Số
Tỷ lệ
HS
6/45
13,3%
14/45 31,1%
18/45
40 %
7/45
15,6%

Sau khi thực
hiện chuyên đề
Số HS Tỷ lệ
17/45
23/45
5/45
0/45


37,7%
51,2%
11,1%
0%

Tỷ lệ tăng,
giảm
Tăng: 24,4%
Tăng: 20,1%
Giảm:38,9%
Giảm:
15,6%

Từ bảng kết quả trên cho thấy các biện pháp áp dụng vào việc dạy
học Tin học lớp 4 đã trình bày ở trên các em không những nắm chắc kiến
thức mà còn thấy các em học tập phấn khởi hơn, tiếp thu bài nhanh hơn, có
chất lượng thực sự.
VII. KẾT LUẬN
Môn Tin học bậc tiểu học đóng vai trò nền tảng giúp học sinh học tốt
hơn, phát triển và hoàn thiện nhân cách. Học tốt môn Tin học ở cấp tiểu
học sẽ giúp các em vững tin trên con đường khám phá, chinh phục kiến
thức ở các cấp tiếp theo. Do vậy việc giảng dạy tin học một cách có hiệu
quả nhằm giúp các em lĩnh hội tri thức, chiếm lĩnh và khám phá kiến thức
đóng vai trò rất quan trọng.
Là giáo viên giảng dạy bộ môn Tin học, qua thực tế giảng dạy và học
hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, tôi đã rút ra các phương pháp giảng dạy
như đã nêu ở trên nhằm giúp các em hào hứng học tập, học tốt hơn môn tin
học và cụ thể hơn là nắm vững lí thuyết để thao tác thành thạo, nhuần
nhuyễn hơn trên máy tính, nâng cao chất lượng học tập của học sinh.

Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng vào dạy môn Tin
học khối lớp 4. Tuy nhiên còn nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan, hơn
nữa đề tài này của tôi là giai đoạn đầu nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học
nên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong sự góp ý
kiến của cấp lãnh đạo và của bạn đồng nghiệp để phương pháp giảng dạy
của tôi ngày càng hoàn thiện hơn.


Trang 11

VIII. ĐỀ NGHỊ:
- Môn Tin học ở tiểu học là bộ môn hết sức mới do vậy và phân phối
chương trình chưa có sự thống nhất, phần lớn là dựa vào điều kiện của từng
trường mà tự xây dựng kế hoạch riêng, việc này cũng gây ảnh hưởng đến
quá trình dạy học nên đề nghị cấp trên có chỉ đạo chặt chẽ hơn.
- Tuy được trường và các cấp cũng như các bậc phụ huynh quan tâm
đến bộ môn tin tuy nhiên số lượng máy hiện nay vẫn còn ít so với số lượng
học sinh trong các lớp điều này cũng ảnh hưởng đến quá trình học tập của
học sinh. Kính đề nghị các cấp lãnh đạo hỗ trợ thêm máy tính cũng như các
tài liệu tham khảo và các thiết bị dạy học.
- Học sinh cần nắm vững những kiến thức đã học ở tiết trước và có
tinh thần học tập tốt.
IX. PHỤ LỤC: (không có)
X. TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách Cùng học tin học quyển 1, nhà xuất bản giáo dục.
- Sách Cùng học tin học quyển 2, nhà xuất bản giáo dục.
- Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên.
- Các bài viết SKKN của giáo viên tin học cấp 1, cấp 2 trên
Violet.vn



Trang 12

XI. MỤC LỤC:
TT
I
II
III
IV
V

Nội dung

Trang
Tên đề tài
1
Đặt vấn đề
1
Cơ sở lí luận
3
Cơ sở thực tiễn
4
Nội dung và một số biện pháp giúp học sinh học
4
tốt môn Tin học bậc tiểu học
VI
Kết quả nghiên cứu
10
VII
Kết luận

10
VIII
Đề nghị
11
I
Phụ lục
11
X
Tài liệu tham khảo
11
XI
Mục lục
12


Trang 13



×