Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

BÀI GIẢNG MÔN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.54 KB, 85 trang )

BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN
1.1 LỊCH SỬ RA ĐỜI
Những dấu hiệu của một thị trường chứng khoán (TTCK) sơ khai đã xuất hiện
ngay từ thời Trung cổ xa xưa. Vào khoảng thế kỷ 15, ở các thành phố lớn của các nước
phương Tây, trong các phiên chợ hay hội chợ, các thương gia thường gặp gỡ tiếp xúc
với nhau tại các quán cafe để thương lượng mua bán, trao đổi hàng hoá. Đặc điểm của
hoạt động này là các thương gia chỉ trao đổi bằng lời nói với nhau về các hợp đồng
mua bán mà không có sự xuất hiện của bất cứ hàng hoá, giấy tờ nào. Đến cuối thế kỷ
XV, “khu chợ riêng” đã trở thành thị trường hoạt động thường xuyên với những quy
ước xác định cho các cuộc thương lượng. Những quy ước này dần dần trở thành các
quy tắc có tính chất bắt buộc đối với các thành viên tham gia.
Năm 1453, ở thành phố Bruges (Bỉ), buổi họp đầu tiên đã diễn ra tại một lữ
quán của gia đình Vanber. Trước lữ quán có một bảng hiệu vẽ hình 3 túi da - tượng
trưng cho 3 loại giao dịch: giao dịch hàng hoá, giao dịch ngoại tệ, giao dịch chứng
khoán động sản.
Vào năm 1457, thành phố ở Bruges (Bỉ) mất đi sự phồn thịnh do eo biển Even
bị lấp cát nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auvers
(Bỉ). Ở đây thị trường phát triển rất nhanh chóng. Các thị trường như vậy cũng được
thành lập ở Anh, Pháp, Đức, Mỹ.
Sau một thời gian hoạt động, thị trường không chứng tỏ khả năng đáp ứng được
yêu cầu của 3 loại giao dịch khác nhau nên đã phân ra thành nhiều thị trường khác
nhau: thị trường hàng hoá, thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán…với đặc tính
riêng của từng thị trường thuận lợi cho giao dịch của người tham gia trong đó.
Như vậy, thị trường chứng khoán được hình thành cùng với thị trường hàng hoá
và thị trường hối đoái.
Quá trình phát triển thị trường chứng khoán đã trải qua nhiều bước thăng trầm.
Thời kỳ huy hoàng nhất là vào những năm 1875 - 1913, thị trường chứng khoán phát
triển mạnh cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng đến ngày 29/10/1929, ngày


được gọi là “ngày thứ năm đen tối”, đây là ngày mở đầu cuộc khủng hoảng thị trường
chứng khoán New York, và sau đó lan rộng ra các thị trường chứng khoán Tây Âu,
Trang 1


BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

Bắc Âu, Nhật bản. Sau thế chiến thứ hai, các thị trường chứng khoán phục hồi, phát
triển mạnh. Nhưng rồi “cuộc khủng hoảng tài chính” năm 1987, một lần nữa đã làm
cho các thị trường chứng khoán thế giới suy sụp, kiệt quệ. Lần này, hậu quả của nó rất
lớn và nặng nề hơn cuộc khủng hoảng năm 1929, nhưng chỉ 2 năm sau, thị trường
chứng khoán thế giới lại đi vào ổn định, phát triển và trở thành một định chế tài chính
không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của những quốc gia có nền kinh tế phát
triển theo cơ chế thị trường.

1.2 KHÁI NIỆM THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Có nhiều định nghĩa khác nhau về thị trường chứng khoán:
− Thị trường chứng khoán: tiếng la tinh là BURSA, là một thị trường có tổ
chức và hoạt động có điều khiển.
− Thị trường chứng khoán được định nghĩa theo Longman Dictionary
Business English, như sau: là một thị trường có tổ chức nơi mà các chứng
khoán được mua bán theo những qui tắc đã được ấn định (Nguyên văn: An
Organized market where securities are bought and sold under fixed rules)
Các quan niệm trên đều được khái quát trên những cơ sở thực tiễn và trong từng
điều kiện lịch sử nhất định. Tuy nhiên, quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự
phát triển chung của thị trường chứng khoán hiện nay là: Thị trường chứng khoán là
nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Trong đó, chứng
khoán được hiểu là các giấy tờ có giá, xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người
sở hữu đối với nhà phát hành.


1.3 PHÂN LOẠI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, cấu trúc của thị trường chứng khoán có thể
được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, thông thường, ta có thể xem
xét ba cách thức cơ bản là phân loại theo hàng hoá, phân loại theo hình thức tổ chức
của thị trường và phân loại theo quá trình luân chuyển vốn.
1.3.1 Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn
Theo cách thức này, thị trường được phân thành thị trường sơ cấp và thị trường
thứ cấp.

Trang 2


BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

 Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên
thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc
các nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành
− Vai trò của thị trường sơ cấp
+ Chứng khoán hóa nguồn vốn cần huy động, vốn của công ty được huy
động thông qua việc phát hành chứng khoán.
+ Chuyển tiền tiết kiệm nhàn rỗi trong dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền
sang dạng vốn dài hạn.
− Đặc điểm của thị trường sơ cấp
+ Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà các chứng khoán đem lại vốn cho
người phát hành. Là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành và đồng
thời cũng tạo hàng hóa cho người giao dịch. Như vậy, xét trên toàn bộ
nền kinh tế, thị trường sơ cấp làm tăng vốn đầu tư.
+ Người bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp thường là: kho bạc, ngân
hàng nhà nước, công ty phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành.

 Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị
trường sơ cấp. Là thị trường chuyển nhượng quyền sở hữu chứng khoán.
− Vai trò của thị trường thứ cấp
+ Tạo nên tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành từ đó giúp
giảm rủi ro cho các chứng khoán được phát hành.
+ Tạo cơ hội cho các nhà đầu tư tham gia mua bán kiếm lời, di chuyển vốn
đầu tư hay di chuyển tài sản xã hội.
+ Xác định giá trị của các chứng khoán cũng như giá trị doanh nghiệp.
− Đặc điểm của thị trường thứ cấp
+ Luồng vốn trên thị trường thứ cấp được luân chuyển giữa các nhà đầu tư
chứng khoán trên thị trường.
+ Giao dịch trên thị trường phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá
chứng khoán trên thị trường thứ cấp do cung cầu xác định
+ Thị trường thứ cấp là thị trường hoạt động liên tục, cá nhà đầu tư có thể
mua và bán các chứng khoán nhiều lần.
Mối liên hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
Điểm khác nhau căn bản giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp: ở thị
trường sơ cấp, nguồn vốn tiết kiệm được thu hút vào đầu tư phát triển kinh tế. Còn ở
Trang 3


BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

thị trường thứ cấp, việc giao dịch không làm tăng quy mô đầu tư vốn, không thu hút
thêm được các nguồn tài chính mới mà chỉ có tác dụng phân phối lại quyền sở hữu
chứng khoán từ chủ thể này sang chủ thể khác, đảm bảo tính thanh khoản của chứng
khoán.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn
nhau. Nếu không có thị trường sơ cấp thì không có chứng khoán để lưu thông trên thị

trường thứ cấp. Ngược lại, thị trường thứ cấp cũng đóng vai trò là động lực thúc đẩy
sự phát triển của thị trường sơ cấp, vì nếu một chứng khoán được phát hành trên thị
trường sơ cấp mà không có một thị trường thứ cấp để tạo tính thanh khoản thì rất khó
thuyết phục nhà đầu tư bỏ tiền ra mua chứng khoán.
1.3.2 Căn cứ vào hình thức hoạt động của thị trường
Căn cứ vào hình thức hoạt động thì thị trường chứng khoán bao gồm: Sở giao
dịch chứng khoán (Thị trường tập trung) và thị trường phi tập trung.
 Sở giao dịch chứng khoán
− SGDCK là thị trường giao dịch chứng khoán được thực hiện tại một địa
điểm tập trung.
− Các chứng khoán được niêm yết giao dịch tại SGDCK thông thường là
chứng khoán của các công ty lớn, có danh tiếng, đáp ứng được các yêu
cầu, tiêu chuẩn niêm yết do SGDCK đặt ra.
− Các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép
lệnh để hình thành nên phiên giao dịch.
 Thị trường phi tập trung (OTC)
− Thị trường OTC không có địa điểm giao dịch chính thức, các nhà môi
giới kết nối các giao dịch thông qua điện thoại và mạng máy tính diện
rộng kết nối giữa các công ty chứng khoán và trung tâm quản lý hệ thống
− Thị trường OTC là một thị trường có tổ chức dành cho những chứng
khoán không niêm yết trên SGDCK
1.3.3 Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường
Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường người ta phân thị trường chứng khoán
thành 3 loại: thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu, thị trường các công cụ chứng
khoán phái sinh

Trang 4


BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN


 Thị trường trái phiếu: là thị trường mà hàng hoá được giao dịch trao đổi,
mua bán tại đó là các trái phiếu như: trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính
phủ, trái phiếu công ty,...
 Thị trường cổ phiếu: hàng hoá được giao dịch trao đổi, mua bán tại đó là các
cổ phiếu bao gồm: cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi
 Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: là thị trường mà hàng hoá
được giao dịch trao đổi, mua bán tại đó là chứng khoán phái sinh như:
quyền chọn, hợp đồng tương lai,...

1.4 CHỨC NĂNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
a. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
− Thông qua thị trường chứng khoán, các doanh nghiệp có thể huy động vốn
bằng cách phát hành chứng khoán ra thị trường, từ đó giúp đưa nguồn vốn
nhàn rỗi vào phục vụ sản xuất kinh doanh.
− Thông qua thị trường chứng khoán, chính phủ và chính quyền địa phương
cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích đầu tư phát triển hạ tầng
kinh tế, phục vụ cho các nhu cầu xã hội.
− Ngoài ra, thị trường chứng khoán cũng giúp chính phủ và doanh nghiệp huy
động nguồn vốn từ quốc tế thông qua việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra
thị trường tài chính quốc tế hoặc các nhà đầu tư nước ngoài.
Như vậy, thị trường chứng khoán là một kênh dẫn vốn quan trọng nhằm mục
đích thu hút vốn cho nền kinh tế. Thông qua việc phát hành chứng khoán, các chủ thể
phát hành có thể thu hút được nguồn vốn cần thiết từ rất nhiều nguồn khác nhau.
b. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
Thị trường chứng khoán cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành
mạnh với nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư lựa chọn. Các cơ hội đầu tư rất đa dạng về
tính chất, thời hạn và độ rủi ro cho nên cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn tùy
thuộc và khả năng, mục tiêu, sở thích của mình. Vì vậy, thị trường chứng khoán góp
phần đáng kể trong việc làm gia tăng mức tiết kiệm quốc gia.

c. Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô
Thị trường chứng khoán đóng vai trò là “phong vũ biểu” của nền kinh tế, phản
ứng một cách chính xác và nhạy bén những động thái của nền kinh tế. Không những là
Trang 5


BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

công cụ để giúp các nhà hoạch định dự báo tác động của các chính sách kinh tế mà thị
trường chứng khoán còn là một công cụ để các nhà hoạch định thực hiện các chính
sách kinh tế vĩ mô của mình như: bán trái phiếu chính phủ để bù đắp thâm hụt ngân
sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, chính phủ có thể tác động vào thị trường chứng
khoán để định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
d. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Nhờ có thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi các
chứng khoán mình đang nắm giữ sang tiền mặt hoặc các chứng khoán khác khi họ
muốn. Khả năng thanh khoản là một đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với nhà
đầu tư giúp tạo ra khả năng linh hoạt và an toàn cho các nguồn vốn đầu tư.
e. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Giá chứng khoán là một chỉ tiêu mang tính tổng hợp và phản ánh chính xác tình
hình hoạt động của doanh nghiệp, nó phản ánh sự tốt lên hay xấu đi trong hoạt động
của một doanh nghiệp. Bên cạnh đó, từ những biến động về giá chứng khoán cũng
giúp các doanh nghiệp tìm ra những điểm còn hạn chế và tìm ra giải pháp để cải thiện
tình hình để tăng cường khả năng thu hút các nguồn vốn trên thị trường.
Bên cạnh thông tin về giá, các doanh nghiệp khi phát hành chứng khoán phải
cung cấp những thông tin mang tính chân thực về tình hình kinh doanh cho công
chúng biết. Những thông tin này sẽ là những cơ sở quan trọng và cần thiết hỗ trợ cho
hoạt động đánh giá doanh nghiệp.

1.5 CÁC CHỦ THỂ THAM GIA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

1.5.1 Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện việc huy động vốn trên thị trường sơ cấp
thông qua việc bán chứng khoán (lần đầu hay phát hành thêm) trên thị trường này.
Thông thường việc phát hành sẽ được các tổ chức bảo lãnh đảm nhiệm. Thông qua đó
các chứng khoán sẽ được phân phối đến tay các nhà đầu tư. Như vậy, chúng ta có thể
thấy rằng song với việc huy động vốn, các nhà phát hành chính là những người cung
cấp hàng hóa cho thị trường chứng khoán. Các nhà phát hành bao gồm:
− Chính phủ và chính quyền địa phương: là nhà phát hành trái phiếu chính
phủ và trái phiếu địa phương.
− Công ty: là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
− Các tổ chức tài chính: là nhà phát hành các công cụ tài chính như trái phiếu,
chứng chỉ quỹ,...phục vụ cho hoạt động của họ.
Trang 6


BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

1.5.2 Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường
chứng khoán. Nhà đầu tư có thể chia thành 2 loại: Nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có
tổ chức.
 Nhà đầu tư cá nhân
Là những người có vốn tạm thời nhàn rỗi và tham gia mua bán trên thị trường
chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Thông thường các nhà đầu tư cá nhân
là những người có vốn ít và thường đầu tư vào những chứng khoán có mức độ rủi ro
cao.
 Nhà đầu tư tổ chức
Các nhà đầu tư tổ chức hay còn gọi là các định chế đầu tư, thường xuyên mua
bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các tổ chức này thường có các bộ
phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường

trước khi đưa ra các quyết định đầu tư.
Các nhà đầu tư tổ chức có ưu điểm nổi bật đó là họ có thể đa dạng hóa các danh
mục đầu tư, từ đó giúp giảm được rủi ro. Ngoài ra, có thể giúp hạn chế được những sai
lầm trong đầu tư bởi vì các quyết định đầu tư được đưa ra bởi các chuyên gia có kinh
nghiệm.
Các nhà đầu tư tổ chức trên thị trường gồm: Công ty đầu tư, Công ty bảo hiểm,
Quỹ lương hưu, Quỹ bảo hiểm xã hội. Các tổ chức này được gọi là các quỹ đầu tư
chứng khoán, các quỹ này được hình thành bằng cách góp những khoản tiền nhỏ của
các nhà đầu tư thành các khoản vốn lớn sau đó lợi nhuận sẽ được trả cho các cổ đông
thông qua cổ tức.
1.5.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
Công ty chứng khoán: là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán
có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính sau: bảo lãnh phát hành,
môi giới, tự doanh, tư vấn đầu tư chứng khoán. Công ty chứng khoán phải đảm bảo
một số vốn nhất định và được cấp phép bởi các cơ quan có thẩm quyền.
Công ty quản lý quỹ: thực hiện việc quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, trong quá
trình hoạt động, công ty có thể thành lập và quản lý nhiều quỹ đầu tư. Công ty quản lý
quỹ thay mặt quỹ đầu tư để phát hành chứng chỉ quỹ, qua đó hình thành nên các quỹ

Trang 7


BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

đầu tư hoạt động trên thị trường chứng khoán với chức năng kinh doanh chứng khoán
và quản lý danh mục đầu tư.
1.5.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
1. Cơ quan quản lý Nhà nước: Cơ quan quản lý Thị trường Chứng khoán
được thành lập bởi chính phủ, nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của người đầu
tư và đảm bảo cho Thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh, hiệu quả

và phát triển bền vững. Tại Việt Nam, ngày 28/11/1996 Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước Việt Nam được thành lập, thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước đối với Thị trường Chứng khoán Việt Nam.
2. Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK): Thực hiện vận hành thị trường giao
dịch tập trung, ban hành những quy định điều chỉnh các hoạt động giao dịch
chứng khoán trên SGDCK phù hợp với các quy định của luật pháp và Ủy
ban Chứng khoán.
3. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán: là tổ chức của các công ty
Chứng khoán và các nhà kinh doanh Chứng khoán. Đây là tổ chức được
thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích của các thành viên.
4. Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán: là tổ chức nhận lưu
giữ các Chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các
giao dịch chứng khoán.
5. Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán: là công ty cung cấp hệ thống máy
tính với các chương trình để thực hiện các lệnh giao dịch một cách chính
xác và nhanh chóng.
6. Các tổ chức tài trợ chứng khoán: là tổ chức được thành lập với mục đích
khuyến khích việc mở rộng và tăng trưởng của Thị trường Chứng khoán.
7. Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ
đánh giá năng lực thanh toán vốn gốc và lãi của các chủ thể phát hành
chứng khoán.

1.6 CÁC NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN
 Nguyên tắc trung gian:
Theo nguyên tắc này, trên thị trường chứng khoán các giao dịch được thực hiện
thông qua các tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp,
các nhà đầu tư thường mua chứng khoán từ các tổ chức trung gian là nhà bảo lãnh phát
hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua nghiệp vụ môi giới, kinh doanh của các công
ty chứng khoán.


Trang 8


BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

 Nguyên tắc đấu giá cạnh tranh
Theo nguyên tắc này, giá cả trên thị trường chứng khoán phản ánh mối quan hệ
cung – cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên
thị trường sơ cấp, các nhà phát hành sẽ cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của
mình cho các nhà đầu tư, còn trên thị trường sơ cấp các nhà đầu tư cũng cạnh tranh để
tìm kiếm một lợi nhuận cao nhất. Giá cả trên thị trường sẽ được hình thành theo
phương thức đấu giá.
 Nguyên tắc công khai
Chứng khoán là một loại hàng hóa mang tính trừu tượng nên người đầu tư
không thể trực tiếp kiểm tra chất lượng hàng hóa được mà phải dựa trên các thông tin
liên quan. Vì vậy, thị trường chứng khoán phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống
công bố thông tin tốt, các bên phát hành phải có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực,
và kịp thời các thông tin có liên quan đến tổ chức phát hành theo chế độ thường xuyên
và đột xuất thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Nguyên tắc này nhằm mục
đích bảo vệ lợi ích cho tất cả những người tham gia thị trường.

Trang 9


BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

CHƯƠNG 2: CHỨNG KHOÁN VÀ PHÁT HÀNH
CHỨNG KHOÁN
2.1 TỔNG QUAN VỀ CHỨNG KHOÁN

2.1.1 Định nghĩa
Có nhiều định nghĩa khác nhau về chứng khoán. Ở Việt Nam, theo NĐ
144/2003/NĐ - CP ngày 28-11-2003 của Chính phủ: Chứng khoán là chứng chỉ hoặc
bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán
đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành; gồm: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ
Quỹ đầu tư chứng khoán, các loại chứng khoán khác theo quy định của pháp luật.
− Chứng khoán dưới dạng chứng chỉ: gồm các yếu tố: tên trụ sở của tổ chức
phát hành, loại mệnh giá, số seri, lãi suất, kỳ hạn trả lãi.
− Chứng khoán dưới dạng bút toán ghi sổ: người sở hữu chứng khoán được
cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu do tổ chức phát hành chứng nhận. Các
yếu tố trên giấy chứng nhận này gồm: mệnh giá, lãi suất, kỳ hạn.
2.1.2 Đặc điểm của chứng khoán
Chứng khoán là một tài sản tài chính có các đặc điểm cơ bản:
 Tính thanh khoản (tính lỏng)
Tính thanh khoản của tài sản là khả năng chuyển tài sản đó thành tiền mặt. Khả
năng này cao hay thấp phụ thuộc vào:
− Khoảng thời gian và phí cần thiết cho việc chuyển đổi.
− Rủi ro của việc giảm sút giá trị tài sản đó do chuyển đổi.
Các chứng khoán khác nhau có khả năng chuyển nhượng là khác nhau. Ví dụ:
tính thanh khoản của một tín phiếu Kho bạc cao hơn 1 cổ phiếu công ty.
 Tính rủi ro
Chứng khoán là các tài sản tài chính mà giá trị của nó chịu tác động lớn của rủi
ro. Rủi ro không chỉ là mất mát thuần tuý mà nó còn hàm chứa cả việc không đạt được
kỳ vọng của nhà đầu tư.

Trang 10


BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN


 Tính sinh lời
Chứng khoán là một tài sản tài chính mà khi sở hữu nó, nhà đầu tư mong muốn
nhận được một thu nhập lớn hơn trong tương lai. Thu nhập này được đảm bảo bằng:
− Lợi tức được phân chia hằng năm (chi trả cổ tức, trái tức).
− Việc tăng giá chứng khoán trên thị trường.
Khả năng sinh lợi bao giờ cũng quan hệ chặt chẽ với rủi ro của tài sản, thể hiện
trong nguyên lý: mức độ chấp nhận rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng lớn.
2.1.3 Phân loại chứng khoán
 Căn cứ vào tính chất, chứng khoán được phân thành:
− Chứng khoán nợ: là chứng nhận nợ do Nhà nước hoặc các doanh nghiêp
phát hành khi cần huy động vốn cho các mục đích tài trợ dài hạn. Điển hình
của loại chứng khoán này là trái phiếu.
− Chứng khoán vốn: là chứng nhận sự góp vốn kinh doanh vào các công ty
cổ phần, loại chứng khoán này gồm: cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
 Căn cứ vào hình thức, chứng khoán được phân thành:
− Chứng khoán vô danh: là loại chứng khoán mà trên đó không ghi tên người
sở hữu. Loại chứng khoán này dễ dàng chuyển đổi trên thị trường.
− Chứng khoán ghi danh: là loại chứng khoán mà tên người sở hữu được lưu
giữ trong hồ sơ của chủ thể phát hành cũng như trên chứng khoán đó. Loại
chứng khoán này khó chuyển đổi hơn loại vô danh.
 Căn cứ vào lợi tức, chứng khoán được phân thành:
− Chứng khoán có lợi tức ổn định: là loại chứng khoán mà người sở hữu
được hưởng lợi tức ổn định (lãi suất x mệnh giá). Điển hình của loại này là
trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi.
− Chứng khoán có lợi tức không ổn định: là loại chứng khoán mà lợi tức thu
về từ việc sở hữu nó không ổn định và phụ thuộc vào kết quả kinh doanh
cũng như quyết định phân phối thu nhập của nhà phát hành. Điển hình của
loại này là cổ phiếu thường.

Trang 11



BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

2.2 CHỨNG KHOÁN NỢ - TRÁI PHIẾU
2.2.1 Định nghĩa về trái phiếu
Theo Nghị định 48/NĐ-CP của Chính phủ, trái phiếu là một loại chứng khoán
được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận nghĩa vụ trả
nợ (bao gồm vốn gốc và lãi) của tổ chức phát hành đối với người sở hữu trái phiếu.
Từ khái niệm cho thấy những nội dung cần thiết ghi trên tờ trái phiếu gồm có:
 Mệnh giá: Mệnh giá của trái phiếu là số tiền ghi trên bề mặt trái phiếu. Giá
trị này được coi là số vốn gốc, là căn cứ để xác định số lợi tức tiền vay mà
người phát hành phải trả. Mệnh giá cũng thể hiện số tiền mà người phát
hành phải trả khi trái phiếu đến hạn.
 Thời hạn trái phiếu: Thời hạn của trái phiếu là thời hạn đi vay của tổ chức
phát hành đối với trái chủ và được ghi rõ trên bề mặt của trái phiếu. Đây là
khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày tổ chức phát hành hoàn trả vốn
gốc lần cuối.
 Lãi suất và thời hạn trả lãi (chỉ có đối với trái phiếu trả lãi định kỳ)
− Lãi suất trái phiếu là lãi suất được ghi trên bề mặt trái phiếu. Lãi suất này
được xác định theo tỷ lệ phần trăm với mệnh giá của trái phiếu, lãi suất
này là căn cứ để xác định lợi tức trái phiếu.
− Thời hạn trả lãi là khoảng thời gian người phát hành trả lãi cho người
nắm giữ trái phiếu. Việc trả lãi của trái phiếu có thể tiến hành 1 lần hoặc
2 lần trong một năm.
2.2.2 Đặc điểm của trái phiếu
Trái phiếu có những đặc điểm sau:
− Thu nhập khi sở hữu trái phiếu bao gồm: trái tức được chia hằng năm hoặc
khi đáo hạn và việc tăng giá trái phiếu trên thị trường
− Mỗi loại trái phiếu có mức độ rủi ro khác nhau tùy thuộc vào nhà phát hành.

Ví dụ trái phiếu Chính phủ thường có độ rủi ro thấp hơn trái phiếu công ty.
− Mỗi loại trái phiếu có tính thanh khoản khác nhau ví dụ một trái phiếu Kho
bạc thì cao hơn một trái phiếu công ty
− Có thời hạn xác định: thời hạn này được ghi rõ trên tờ trái phiếu, thường là
trung và dài hạn (trên 3 năm)
− Trái chủ được hưởng những quyền lợi nhất định từ chủ thể phát hành: các
quyền lợi này có thể là: được hưởng lợi tức trái phiếu không tuỳ thuộc vào
Trang 12


BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

kết quả kinh doanh của công ty (nếu là trái phiếu công ty); được hoàn vốn
đúng hạn hay trước hạn tùy theo sự thoả thuận của hai bên; được quyền bán,
chuyển nhượng, chuyển đổi, cầm cố; được thanh toán trước các cổ phiếu khi
công ty thanh lý, giải thể (nếu là trái phiếu công ty).
2.2.3 Phân loại trái phiếu
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, trái phiếu có thể được phân loại theo nhiều tiêu
thức khác nhau.
 Phân loại trái phiếu theo hình thức pháp lý:
− Trái phiếu vô danh (Trái phiếu không ghi tên): là loại trái phiếu không
ghi tên người sở hữu trên chứng chỉ trái phiếu. Loại trái phiếu này được
chuyển nhượng dễ dàng, không cần những thủ tục xác nhận của tổ chức
phát hành hoặc cơ quan công chứng. Người mua có trách nhiệm chi trả
cho người bán theo giá cả đã được xác định.
− Trái phiếu ghi danh (Trái phiếu có ghi tên): là loại trái phiếu ghi tên
người sở hữu trên chứng chỉ trái phiếu hoặc trên sổ theo dõi mua trái
phiếu. Loại trái phiếu này được phép chuyển nhượng trên thị trường
chứng khoán nhưng phải tuân theo những quy định pháp lý cụ thể. Nếu
muốn chuyển nhượng người sở hữu phải chứng minh mình là người

được phép và có quyền chuyển nhượng (xác nhận chữ ký, chứng minh
thư).
Qua cách phân loại này, chúng ta thấy trái phiếu vô danh được lưu thông dễ
dàng hơn trái phiếu ghi danh. Tuy nhiên trái phiếu ghi danh lại an toàn hơn trong việc
đảm bảo quyền sở hữu của trái chủ.
 Phân loại trái phiếu theo chủ thể phát hành:
− Trái phiếu công ty: là trái phiếu do các công ty phát hành với mục đích
huy động vốn cho sản xuất kinh doanh.
− Trái phiếu Chính phủ: là trái phiếu do Chính phủ phát hành với mục đích
huy động vốn để tài trợ các công trình dự án quan trọng hoặc bù đắp
thiếu hụt Ngân sách Nhà nước.
Xét về mức độ rủi ro thì trái phiếu của Chính phủ thường có mức độ rủi ro thấp
hơn, nhưng trái phiếu công ty thường cho lãi suất cao hơn và điều chỉnh linh hoạt hơn.
 Phân loại trái phiếu theo hình thức trả gốc và lãi

Trang 13


BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

− Trái phiếu Coupon: là trái phiếu có cuống lãi đính kèm và trên đó ghi rõ
lãi suất, kỳ hạn trả lãi. Khi lĩnh trái tức, trái chủ cắt rời phiếu lãi chuyển
đến doanh nghiệp phát hành để thu tiền.
− Trái phiếu chiết khấu: là loại trái phiếu được bán với giá thấp hơn mệnh
giá, khi hoàn vốn được hoàn theo mệnh giá.
− Trái phiếu Consol: là loại trái phiếu được hưởng lãi hàng năm và thời
gian đáo hạn là vô hạn.
− Trái phiếu có phương thức trả gốc và lãi gọn: khi đáo hạn, người sở hữu
được nhận gốc và lãi một lần.
− Trái phiếu hoàn trả cố định.

2.2.4 Những yếu tố ảnh hưởng đến thị giá trái phiếu
 Quan hệ cung cầu về trái phiếu trên thị trường chứng khoán
Tại một thời điểm nhất định, khi cung về trái phiếu lớn hơn cầu về trái phiếu thì
giá trái phiếu trên thị trường sẽ giảm. Và ngược lại, khi cầu về trái phiếu lớn hơn cung
về trái phiếu thì giá trái phiếu sẽ tăng.
 Khả năng tài chính của tổ chức phát hành trái phiếu
Một công ty đang trong giai đoạn ăn nên làm ra, lợi nhuận cao, chi trả trái tức
ổn định, tạo niềm tin cho nhà đầu tư. Điều này làm cho trái phiếu của công ty đó trở
nên hấp dẫn trên thị trường chứng khoán, sẽ có nhiều nhà đầu tư quan tâm hơn, dẫn
đến giá trái phiếu có thể tăng. Và ngược lại, một vụ làm ăn sụp đỗ của công ty, làm
mất lòng tin của nhà đầu, giá trái phiếu giảm sút nghiêm trọng.
 Thời gian đáo hạn của trái phiếu
Thời gian đáo hạn càng dài, mức độ biến động giá trái phiếu trên thị trường
càng lớn. Khi một trái phiếu càng đến gần ngày đáo hạn thì giá trị thị trường của trái
phiếu sẽ càng đến gần mệnh giá.
 Lạm phát
Khi nền kinh tế có sự xáo trộn mạnh, lạm phát bùng nổ. Điều này tương đương
với giá trị đồng tiền giảm sút, trái tức thực tế mà các nhà đầu tư nhận được giảm sút
nghiêm trọng, ngay lập tức, các nhà đầu tư chuyển hướng kinh doanh. Họ không còn
mặn mà đầu tư vào trái phiếu nữa mà họ có thể rút tiền từ thị trường chứng khoán để
chuyển sang đầu tư vào thị trường bất động sản hay vàng nhằm đảm bảo cho giá trị
đồng vốn của họ. Do đó, khi lạm phát xảy ra, giá trái phiếu giảm mạnh.

Trang 14


BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

 Biến động lãi suất thị trường
Giữa lãi suất thị trường và trái phiếu có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau. Khi

lãi suất thị trường tăng sẽ làm giảm giá trị trái phiếu, và ngược lại khi lãi suất thị
trường giảm sẽ dẫn đến tăng giá trị trái phiếu.
2.2.5 Định giá trái phiếu
Nguyên tắc định giá trái phiếu: khi mua trái phiếu, trái chủ sẽ được hưởng
nguồn thu nhập có được từ việc sở hữu trái phiếu đó trong tương lai. Nguồn thu nhập
này có thể là: lãi sinh ra từ trái phiếu, số tiền bằng mệnh giá trái phiếu vào thời điểm
đáo hạn. Như vậy, giá của trái phiếu tại thời điểm hiện tại chính là giá trị hiện tại của
các khoản thu nhập có được trong tương lai từ việc sở hữu trái phiếu đó.
 Định giá trái phiếu Consol (trái phiếu không có thời hạn)
Đối với loại trái phiếu này, nguồn thu nhập đối với trái chủ đó là khoản lãi cố
định được hưởng mãi mãi. Như vậy, dòng thu nhập sinh ra từ việc sở hữu trái phiếu
này là một dòng tiền đều vô hạn. Giả sử chúng ta có:
I : Lãi cố định được hưởng mãi mãi
V : Giá của trái phiếu
Kd: Tỷ suất lợi nhuận yêu cầu của nhà đầu tư
V=

n
I
I
I
I
+
+
...
+
=

1
2

n
t
(1 + k d ) (1 + k d )
(1 + k d )
t =1 (1 + k d )

1

1



= I× −
n 
 k d k d (1 + k d ) 
I

n→∞ ⇒ V = k
d
 Định giá trái phiếu chiết khấu (trái phiếu có kỳ hạn, không hưởng lãi
định kỳ)
Khi sở hữu trái phiếu này, trái chủ chỉ được hưởng số tiền bằng mệnh giá trái
phiếu vào thời điểm đáo hạn. Vì vậy loại trái phiếu này sẽ được bán với giá nhỏ hơn
mệnh giá của nó. Giá của trái phiếu này sẽ được xác định như sau:
V=

MV
(1 + k d ) n

Trang 15



BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

 Định giá trái phiếu Coupon (trái phiếu có kỳ hạn được hưởng lãi định
kỳ)
Đây là loại trái phiếu mà trái chủ sẽ được hưởng một khoản lãi cố định theo
từng kỳ (thường là hằng năm) theo lãi suất công bố trên mệnh giá trái phiếu và được
thu hồi vốn gốc bằng mệnh giá khi trái phiếu đáo hạn. Giả sử chúng ta có:
I

: Lãi cố định được hưởng từ trái phiếu

V : Giá của trái phiếu
Kd : Tỷ suất lợi nhuận yêu cầu của nhà đầu tư
MV: Mệnh giá trái phiếu
n

: Số năm cho đến khi đáo hạn

Theo nguyên tắc định giá trái phiếu, giá của trái phiếu này sẽ được xác định
như sau:
V=

I
I
I
MV
+
+ ... +

+
1
2
n
(1 + k d ) (1 + k d )
(1 + k d )
(1 + k d ) n

1

1
MV
= I×  −
+
n 
n
 k d k d (1 + k d )  (1 + k d )

2.3 CHỨNG KHOÁN VỐN - CỔ PHIẾU
2.3.1 Cổ phiếu thường
2.3.1.1 Khái niệm và đặc điểm
 Khái niệm
Cổ phiếu thường là giấy chứng nhận cổ phần, nó xác nhận quyền sở hữu của cổ
đông đối với công ty cổ phần.
Người nắm giữ cổ phiếu thường được gọi là cổ đông thường hay cổ đông phổ
thông. Đây là những người trực tiếp thụ hưởng kết quả kinh doanh cũng như gánh chịu
mọi rủi ro trong kinh doanh.

Trang 16



BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

 Đặc điểm
− Cổ phiếu thường là một loại chứng khoán không có kỳ hạn và không hoàn
vốn.
− Cổ tức của cổ phiếu thường phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp, do đó không cố định.
− Khi công ty phá sản, cổ đông thường là người cuối cùng được hưởng giá trị
còn lại của tài sản thanh lý (sau khi đã thực hiện xong các nghĩa vụ đối với
các đối tượng khác).
− Giá của cổ phiếu biến động rất nhanh nhạy, đặc biệt trên thị trường thứ cấp.
Yếu tố tác động nhiều nhất đến giá cổ phiếu là kết quả kinh doanh của công
ty.
2.3.1.2 Quyền lợi của cổ đông thường
Mặc dù cổ phiếu thường không có thời gian hoàn vốn, tuy nhiên khi cần lấy lại
vốn, họ có quyền chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phần trên thị trường bằng cách bán
lại cổ phiếu cho nhà đầu tư khác. Về phần trách nhiệm thì cổ đông thường chỉ chịu
trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ khác của công ty trong phạm vi vốn góp
của mình. Khi sở hữu cổ phiếu thì cổ đông thường sẽ có các quyền lợi sau:
Quyền có thu nhập: Cổ đông thường được hưởng phần lợi nhuận tương ứng với
số cổ phiếu họ sở hữu được gọi là cổ tức từ lợi nhuận trong hoạt động của công ty.
Quyền được chia tài sản thanh lý: trong trường hợp công ty bị giải thể, cổ đông
cũng được chia phần đối với những tài sản thanh lý. Tuy nhiên trong trường hợp này,
cổ đông thường sẽ là những người được chia sau cùng.
Quyền bỏ phiếu: Cổ đông có quyền bỏ phiếu bầu và ứng cử vào các chức vụ
quản lý trong công ty, có quyền tham gia đại hội cổ đông và bỏ phiếu quyết định các
vấn đề quan trọng của công ty. Nếu không tham dự được, cổ đông có thể ủy quyền cho
người khác thay mặt họ biểu quyết theo chỉ thị của họ hoặc theo ý người được ủy
quyền.

Quyền mua cổ phiếu phát hành mới: khi công ty phát hành một đợt cổ phiếu
mới để tăng vốn, các cổ đông đang nắm giữ cổ phiếu thường sẽ có quyền được mua cổ
phiếu mới trước khi chào bán ra công chúng trong một thời hạn nhất định. Lượng cổ
phiếu mới được phép mua theo quyền này tương ứng với tỷ lệ cổ phiếu đang nắm giữ.
Thông thường cổ phiếu bán theo quyền sẽ có mức giá thấp hơn so với giá thị trường.
Khi cổ đông thực hiện quyền này, công ty sẽ huy động được thêm vốn mà không phải

Trang 17


BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

gia tăng số lượng cổ đông, ngược lại nếu cổ đông không muốn thực hiện quyền thì họ
có thể bán quyền này trên thị trường.
2.3.1.3 Các loại giá cổ phiếu
Mệnh giá: là giá trị ghi trên giấy chứng nhận cổ phần. Mệnh giá của cổ phiếu
chỉ có giá trị danh nghĩa. Thông thường khi công ty mới thành lập, mệnh giá của cổ
phiếu sẽ được xác định như sau:
Vốn điều lệ của công ty
Mệnh giá cổ phiếu mới phát hành =
Tổng số cổ phần đăng ký phát hành
Cùng với thời gian, công ty càng ngày càng phát triển, giá trị thực cũng như giá
trị thị trường của cổ phiếu thoát ly càng lúc càng xa mệnh giá. Lúc này mệnh giá của
cổ phiếu chỉ có giá trị danh nghĩa.
Thư giá: là giá trị của cổ phiếu ghi trên sổ sách kế toán phản ánh tình trạng vốn
cổ phần của công ty tại một thời điểm nhất định. Giá trị sổ sách của cổ phiếu có ý
nghĩa như giá trị tài sản ròng trên mỗi cổ phần. Nó được tính toán bằng cách lấy tổng
tài sản trừ nợ và cổ phần ưu đãi rồi chia cho số cổ phiếu thường đang lưu hành.
Giá trị nội tại: là giá trị thực của cổ phiếu tại thời điểm hiện tại. Giá trị này
được tính toán dựa trên cổ tức được chia, triển vọng phát triển của công ty và lãi suất

thị trường. Giá trị nội tại là căn cứ quan trọng khi nhà đầu tư quyết định đầu tư vào cổ
phiếu bằng cách so sánh giữa giá trị này với giá thị trường.
Thị giá: là giá cả cổ phiếu trên thị trường tại một thời điểm nhất định. Thị giá sẽ
bị tác động bởi yếu tố cung cầu trên thị trường và có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với
giá trị nội tại của nó. Tuy nhiên, quan hệ cung cầu sẽ bị tác động bởi hai nhân tố chính
đó là: giá trị thị trường và khả năng sinh lợi của công ty.
2.3.1.4 Phân loại cổ phiếu thường
Cổ phiếu thượng hạng (Blue chip stocks): đây là loại cổ phiếu hạng cao của các
công ty lớn có lịch sử phát triển lâu đời, vững vàng về khả năng sinh lời và trả cổ tức.
Đây là loại cổ phiếu có giá trị cao trên thị trường.
Cổ phiếu tăng trưởng (Growth stocks): Là loại cổ phiếu được phát hành bởi các
công ty đang trên đà tăng trưởng nhanh. Các công ty này quan tâm đến việc đầu tư cho
mở rộng sản xuất, nghiên cứu chế tạo sản phẩm mới, nó thường giữ lại hầu hết tiền lời
để tái đầu tư. Do đó, cổ tức của loại cổ phiếu này rất nhỏ hoặc hầu như không có.

Trang 18


BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

Cổ phiếu thu nhập (Income stocks): Đây là loại cổ phiếu mà cổ tức thường
được trả cao hơn mức trung bình trên thị trường. Đây là loại cổ phiếu của các công ty
hầu như không tăng trưởng nên dành toàn bộ lợi nhuận để trả cổ tức. Loại cổ phiếu
này được những người cao tuổi và những người hưu trí ưa chuộng.
Cổ phiếu chu kỳ (Cyclical stocks): là cổ phiếu của công ty mà thu nhập của nó
dao động theo chu kỳ của nền kinh tế. Trong điều kiện kinh tế ổn định, công ty có thu
nhập khá, tích lũy nhiều, giá cũng tăng cao trên thị trường. Ngược lại khi nền kinh tế
khó khăn, việc kinh doanh của công ty giảm sút và giá cổ phiếu cũng giảm theo.
Cổ phiếu theo mùa (seasonal stocks): là cổ phiếu của các công ty mà thu nhập
tăng cao vào những mùa nhất định trong năm (nghỉ hè, năm mới, đầu năm học,...).

2.3.1.5 Cổ tức
Cổ tức là tiền lời cho cổ đông trên mỗi cổ phiếu thường. Cổ tức phụ thuộc vào
các yếu tố:
− Thu nhập của cổ đông thường: được xác định bằng cách lấy lợi nhuận ròng
trừ cho cổ tức của cổ phiếu ưu đãi.
− Chính sách cổ tức: tức chính là việc quyết định bao nhiêu phần trăm thu
nhập của cổ phần thường sẽ được dùng để chi trả cổ tức cho cổ đông.
Như vậy, cổ tức của cổ phần thường được xác định như sau:
Cổ tức CP
thường

=

Lợi nhuận ròng – Cổ tức của CPƯĐ – Trích các quỹ
Số cổ phiếu thường đang lưu hành

Chính sách này phụ thuộc vào các yếu tố sau:
− Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong năm (căn cứ trên lợi nhuận
ròng của công ty).
− Tỷ lệ vốn cổ phần ưu đãi trong tổng vốn cổ phần.
− Chính sách tài chính trong năm tới.
− Hạn mức của quỹ tích lũy dành cho đầu tư.
− Giá trị thị trường của cổ phiếu công ty.
2.3.1.6 Thu nhập và rủi ro của cổ phiếu thường
Khi nhà đầu tư mua cổ phiếu sẽ có được thu nhập từ 2 nguồn sau: (1) cổ tức
được hưởng và (2) chênh lệch giá mua và giá bán.
Tuy nhiên khi sở hữu cổ phiếu thường thì cổ đông thường cũng chịu rất nhiều
rủi ro. Rủi ro được hiểu là sự chênh lệch giữa thu nhập kỳ vọng và thu nhập thực tế
Trang 19



BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

của một khoản đầu tư, trong trường hợp này khoản đầu tư đó là đầu tư vào cổ phiếu
thường. Trên thực tế, có 2 loại rủi ro mà các nhà đầu tư phải gánh chịu đó là rủi ro hệ
thống và rủi ro không hệ thống.
Rủi ro hệ thống: là những rủi ro xuất phát từ những yếu tố nằm bên ngoài một
công ty. Rủi ro này có đặc điểm là không thể kiểm soát được và ảnh hưởng đến toàn
bộ các chứng khoán trên thị trường. Rủi ro hệ thống còn được gọi là rủi ro thị trường.
Các yếu tố tạo nên rủi ro hệ thống bao gồm:
− Thay đổi trong lãi suất
− Lạm phát
− Thay đổi trong kỳ vọng của nhà đầu tư về triển vọng nền kinh tế
Rủi ro không hệ thống: là những rủi ro xuất phát từ yếu tố nội tại của một
ngành hay một công ty. Rủi ro này có đặc điểm là chỉ tác động đến một ngành hay một
công ty hoặc một số chứng khoán và có thể kiểm soát được (thông qua đa dạng hóa
danh mục đầu tư). Rủi ro không hệ thống có thể bắt nguồn từ các nguyên nhân sau:
− Năng lực và quyết định quản trị
− Đình công
− Nguồn cung ứng nguyên vật liệu
− Những qui định của chính phủ về kiểm soát môi trường
− Tác động của cạnh tranh nước ngoài
− Mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính và đòn bẩy kinh doanh
Như vậy, khi đầu tư vào một cổ phiếu, nhà đầu tư cần phải cân nhắc dựa trên
hai yếu tố đó là thu nhập và rủi ro. Các quyết định mua hay bán cổ phiếu đều dựa trên
việc đánh đổi qua lại giữa hai yếu tố này theo một quan điểm “lợi nhuận kỳ vọng càng
cao thì rủi ro càng lớn”
2.3.1.7 Định giá cổ phiếu thường
Có nhiều phương pháp khác nhau có thể được dùng để định giá cổ phiếu
thường. Tuy nhiên không có một phương pháp nào có thể định giá cổ phiếu một cách

chính xác tuyệt đối. Trên thực tế khi định giá một cổ phiếu, người ta thường sử dụng
hai cách sau:
Phương pháp chiết khấu dòng tiền. Đây là cách thức định giá cổ phiếu dựa
trên nguồn thu nhập cổ tức trong tương lai mà cổ phiếu đem lại. Một thể hiện của
Trang 20


BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

phương pháp này đó chính là mô hình Gordon, theo mô hình này, giá của cổ phiếu sẽ
được xác định như sau:
V=

D1
ke - g

Trong đó:





V: Giá của cổ phiếu được xác định tại thời điểm hiện tại.
D1: Cổ tức mong đợi trên mỗi cổ phiếu trong năm sau.
k e : Tỷ suất sinh lợi mong đợi.
g: Tốc độ tăng trưởng cổ tức.

Tỷ lệ tăng trưởng cổ tức (g) có được từ :
(1) Kết quả khảo sát của những nhà phân tích chứng khoán, họ chuyên nghiên
cứu về triển vọng tăng trưởng của mỗi công ty. Các nhà phân tích này

thường đưa ra kết quả dự đoán về tỷ lệ tăng trưởng cổ tức của công ty trong
khoảng 5 năm tới.
(2) Một phương pháp khác là tính tốc độ tăng trưởng dài hạn dựa trên tỷ lệ chi
trả cổ tức là tỷ số cổ tức trên thu nhập mỗi cổ phần. Phương pháp này cho
phép xác định tỷ lệ tăng trưởng cổ tức dựa trên những số liệu về tỷ lệ lợi
nhuận giữ lại và tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần (ROE). Công thức để xác
định tỷ lệ tăng trưởng cổ tức theo phương pháp này :
Tỷ lệ tăng trưởng cổ tức (g) = tỷ lệ lợi nhuận giữ lại x ROE.
Phương pháp P/E. Đây là phương pháp định giá cổ phiếu dựa trên thu nhập
của mỗi cổ phần trong năm tới (EPS 1) và tỷ số P/E trung bình ngành. Theo đó, giá của
cổ phiếu sẽ được xác định như sau:
V = EPS1 × P/E trung bình ngành
2.3.2 Cổ phiếu ưu đãi
2.3.2.1 Khái niệm và đặc điểm
 Khái niệm
Cổ phiếu ưu đãi là cổ phiếu mà công ty phát hành cam kết trả tỷ lệ cổ tức cố
định hằng năm và không có tuyên bố ngày đáo hạn.
Đây là một loại cổ phiếu lai tạp giữa trái phiếu và cổ phiếu thường. Người sở
hữu cổ phiếu ưu đãi sẽ được ưu tiên hơn so với cổ đông thường về mặt tài chính (được
chia cổ tức trước cổ đông thường, ưu tiên trả phần vốn góp trước cổ đông thường khi
Trang 21


BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

công ty thanh lý hoặc phá sản) nhưng hạn chế về mặt quyền hạn đối với công ty
(không được tham gia ứng cư, bầu cử vào hội đồng quản trị hay ban kiểm soát của
công ty).
 Đặc điểm
− Đặc điểm giống cổ phiếu thường: cũng là chứng khoán vốn không kỳ hạn và

không hoàn vốn gốc. Người sở hữu cổ phiếu ưu đãi cũng là cổ đông đồng sở
hữu công ty.
− Đặc điểm giống trái phiếu: cổ tức của cổ phiếu ưu đãi được ấn định theo
một tỷ lệ cố định trên mệnh giá.
2.3.2.2 Các loại cổ phiếu ưu đãi
1) Cổ phiếu ưu đãi tích lũy: đây là loại cổ phiếu ưu đãi hưởng lợi tức cố định,
nhưng trong trường hợp công ty làm ăn không có lãi để trả khoản cổ tức này
hoặc trả không đủ thì phần còn thiếu hụt của năm nay sẽ được tích lũy sang
năm sau hoặc các năm sau nữa đến khi công ty có đủ lợi nhuận để trả.
2) Cổ phiếu ưu đãi không tích lũy: loại này khác với cổ phiếu ưu đãi tích lũy ở
chỗ phần cổ tức thiếu hụt sẽ được bỏ qua và chỉ trả đủ số cổ tức cố định khi
công ty làm ăn có lãi. Loại này rủi ro hơn nên lãi suất cũng thường cao hơn.
3) Cổ phiếu ưu đãi tham dự chia phần: cổ đông của loại cổ phiếu này ngoài phần
cổ tức được chia cố định, khi công ty làm ăn có lãi nhiều thì sẽ được cùng với
cổ đông thường tham dự vào phần chia số lợi nhuận còn lại.
4) Cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường: là loại cổ phiếu ưu
đãi theo quy định có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường theo một tỷ lệ
chuyển đổi hoặc giá chuyển đổi đã được ấn định trước. Người cầm cổ phiếu ưu
đãi loại này sẽ thực hiện việc chuyển đổi khi giá thị trường của cổ phiếu thường
tăng cao.
5) Cổ phiếu ưu đãi có thể chuộc lại: đây là loại cổ phiếu ưu đãi mà công ty phát
hành có thể chuộc lại bởi chính công ty sau một thời gian ấn định. Thường được
phát hành khi công ty cần một số vốn lớn trong một thời gian ngắn và thường
được chuộc lại khi tình hình tài chính của công ty đã khá hơn. Khi chuộc lại,
công ty sẽ phải trả một khoản tiền thưởng nhất định theo tỷ lệ trên mệnh giá cho
chủ sở hữu.

Trang 22



BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

a. Các loại cổ phiếu ưu đãi theo Luật doanh nghiệp Việt Nam
1) Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết: là cổ phiếu có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so
với cổ phiếu thường. Tỷ lệ này thường do điều lệ công ty quy định.
2) Cổ phiếu ưu đãi cổ tức: là cổ phiếu được trả cổ tức với mức cao hơn so với
mức cổ tức của cổ phiếu thường hoặc mức ổn định hằng năm. Cổ tức được chia
hằng năm bao gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng và được ghi trên cổ phiếu.
3) Cổ phiếu ưu đãi hoàn lại: là loại cổ phiếu mà chủ sở hữu có thể được công ty
hoàn trả lại vốn góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của chủ sở hữu hoặc theo các
điều kiện được ghi trên cổ phiếu.
2.3.2.3 Định giá cổ phiếu ưu đãi
Định giá cổ phiếu ưu đãi giống với định giá trái phiếu Consol (trái phiếu không
có thời hạn) bởi vì cổ phiếu ưu đãi có mức cổ tức cố định và không có thời gian hoàn
vốn. Như vậy, giá của cổ phiếu ưu đãi sẽ được xác định bằng công thức sau:
V=

DP
kP

Trong đó:
− V: Giá của cổ phiếu ưu đãi tại thời điểm hiện tại.
− Dp: Cổ tức hằng năm.
− k e : Tỷ suất sinh lợi mong đợi.
2.3.3 Chứng chỉ quỹ đầu tư
2.3.3.1 Khái niệm
Chứng chỉ quỹ đầu tư là một loại chứng khoán dưới hình thức chứng chỉ hoặc
bút toán ghi sổ do công ty quản lý quỹ thay mặt công chúng phát hành, xác nhận
quyền sở hữu hợp pháp của người đầu tư đối với một hoặc một số đơn vị quỹ của một
Quỹ công chúng. Ở Việt Nam, chứng chỉ quỹ có mệnh giá thống nhất là 10.000 VNĐ.

Quỹ công chúng là quỹ có chứng chỉ quỹ được phát hành ra công chúng khác
với Quỹ thành viên được lập bằng vốn góp của tối đa là 49 thành viên và không phát
hành chứng chỉ quỹ ra công chúng.
2.3.3.2 Điều kiện chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng
1) Tổng giá trị chứng chỉ quỹ đăng ký chào bán tối thiểu là 50 tỷ đồng Việt
Nam.
Trang 23


BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

2) Có phương thức phát hành và phương án đầu tư đối với số vốn thu được từ
đợt chào bán chứng chỉ quỹ phù hợp với quy định
2.3.3.3 Tính ưu việt của chứng chỉ quỹ
Chứng chỉ quỹ đầu tư giúp các cá nhân nhất là những người có ít vốn giải quyết
những vấn đề khó khăn cơ bản trong kinh doanh chứng khoán như: đa dạng hóa danh
mục đầu tư để giảm thiểu rủi ro, giảm được chi phí giao dịch nhờ mua bán một lượng
chứng khoán lớn, kỹ năng phân tích chứng khoán. Như vậy, đối với các nhà đầu tư cá
nhân ít kinh nghiệm và vốn nhỏ, chứng chỉ quỹ đầu tư giúp họ có thể: tăng trưởng vốn
và thu nhập một cách thường xuyên, bảo toàn vốn,...bên cạnh đó còn cung cấp những
dịch vụ khác.
Người sở hữu chứng chỉ quỹ đầu tư có thể kiếm tiền theo 3 cách sau:
− Nhận cổ tức từ quỹ. Khoản cổ tức này được chi trả từ thu nhập của các
khoản đầu tư của quỹ mang lại như: cổ tức của cổ phiếu, tiền lãi từ trái
phiếu,...
− Nhận được khoản chênh lệch khi nhà quản lý quỹ bán một phần trong danh
mục đầu tư của quỹ để thu lợi nhuận.
− Được hưởng lợi từ những thay đổi trong giá trị thị trường của chứng chỉ
quỹ.


Trang 24


BÀI GIẢNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

CHƯƠNG III: CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC CỦA THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
3.1 SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN
3.1.1 Khái niệm và đặc điểm
Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) là nơi tập trung các giao dịch chứng khoán
một cách có tổ chức tuân theo những luật nhất định. Sở giao dịch chứng khoán không
tham gia vào việc mua bán chứng khoán mà chỉ là nơi giao dịch, một trung tâm tạo
điều kiện cho các giao dịch được tiến hành một cách thuận lợi, dễ dàng, hạ thấp các
chi phí bằng cách lập ra những quy định phù hợp.
Về hình thức, Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) có thể tồn tại tại một địa
điểm tập trung gọi là sàn giao dịch (trading floor) hoặc thông qua hệ thống máy tính.
Các chứng khoán được niêm yết giao dịch tại SGDCK thông thường là các chứng
khoán của các công ty lớn, có danh tiếng và đã trải qua thử thách trên thị trường và
đáp ứng được các tiêu chuẩn niêm yết do SGDCK đặt ra.
Trước đây, khi thị trường chứng khoán còn giao dịch bằng phấn trắng bảng đen,
thì SGDCK bắt buộc phải có sàn giao dịch để thực hiện việc giao dịch. Sàn giao dịch
là một phòng rộng. Trong sàn giao dịch có các quầy giao dịch, mỗi quầy giao dịch
đảm trách việc giao dịch một số loại chứng khoán, do các chuyên gia chứng khoán
(môi giới lập giá) thực hiện. Người môi giới của các công ty chứng khoán (môi giới
giao dịch) tập trung tại sàn giao dịch, họ nhận lệnh mua bán từ công ty chuyển tới, đưa
lệnh đăng ký vào sổ lệnh của người môi giới lập giá tại quầy giao dịch. Người môi
giới lập giá nhận lệnh và đưa kết quả giao dịch cho những lệnh phối kết được (những
lệnh mua - bán khớp nhau về giá của cùng một loại chứng khoán).
Ngày nay, hầu hết các SGDCK thực hiện giao dịch bằng hệ thống mạng máy
tính đường dài, lệnh mua bán được đưa vào máy tính tại các văn phòng giao dịch của

các công ty chứng khoán. Qua mạng máy tính, lệnh được chuyển tới máy chủ của
SGDCK. Máy chủ tự động dò tìm các lệnh phối kết và đưa ra kết quả giao dịch cho
những lệnh mua bán gặp nhau về giá. Những SGDCK này không có môi giới giao dịch
tập trung, do đó không còn cần thiết phải có sàn giao dịch.

Trang 25


×