Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO sự PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA XÃ hội KHOA HỌC CỦA CÁC ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ CÔNG NHÂN THẾ GIỚI TRONG THỜI KỲ CẢI CÁCH, đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.91 KB, 28 trang )

SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
CỦA CÁC ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ CÔNG NHÂN THẾ GIỚI
THỜI KỲ CẢI CÁCH, ĐỔI MỚI

1. Hoàn cảnh quốc tế thời kỳ cải cách, đổi mới (từ giữa những năm
80 thế kỷ XX đến nay)
Những năm 80 thế kỷ XX đến nay, loài người đang chứng kiến những
biến đổi to lớn, sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Sự biến đổi đó được thể hiện rõ nét trên một số đặc điểm sau đây:
Sự khủng hoảng, sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu,
Liên Xô, dẫn đến phong trào xã hội chủ nghĩa trên thế giới tạm thời lâm vào
thoái trào, nhưng đến đầu thế kỷ XXI, đang từng bước phục hồi và phát triển
Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên xô và các nước xã hội
chủ nghĩa khác đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, đã từng là
chỗ dựa cho phong trào hoà bình và cách mạng thế giới, đập tan chủ nghĩa
phát xít, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân, góp phần quan trọng vào cuộc
đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Những thành
tựu của chủ nghĩa xã hội đạt được về kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội; giáo
dục y tế; khoa học công nghệ, an ninh, quốc phòng.v.v..chứng minh tính ưu
việt, sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa xã hội hiện thực và tính đúng đắn lý
luận chủ nghĩa xã hội khoa học.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nước xã hội chủ nghĩa
tuy có nhiều sáng tạo, nhưng cũng mắc nhiều sai lầm nghiêm trọng. Cần có
nhiều thời gian để đánh giá hết chiều sâu của những sai lầm, những nguyên


nhân và những bài học của nó. Song cho đến nay, có thể thấy rằng, những khó
khăn, vấp váp ở các nước xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ những quan niệm ấu
trĩ, giản đơn về chủ nghĩa xã hội, do bệnh giáo điều duy ý chí cộng với tệ
quan liêu, xa rời quần chúng kéo dài và chủ nghĩa cơ hội đủ loại nảy sinh ở
các cơ quan lãnh đạo, quản lý trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,


cùng với sự phá hoại của kẻ thù bằng chiến lược diễn biến hòa bình, được
biều hiện ở một số sai lầm như sau:.
Thứ nhất, do muốn nhanh có chủ nghĩa xã hội, nên đã đơn giản hoá các
hình thức sở hữu, xây dựng chế độ công hữu ồ ạt khi lực lượng sản xuất chưa
cao. Duy trì quá lâu chế độ tập trung quan liêu trong quản lý, bao cấp, phân
phối bình quân, khiến cho người lao động thờ ơ với kết quả lao động của
mình. Do đó, dẫn đến nền kinh tế lâm vào tình trạng trì trệ, kéo dài, làm cho
khoảng cách phát triển kinh tế và năng suất lao động ở các nước xã hội chủ
nghĩa ngày càng lùi xa so với một số nước tư bản chủ nghĩa phát triển.
Thứ hai, về chính trị ở nhiều nước chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa
chưa được phát huy, mở rộng, dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan còn
nhiều. Nhiều Đảng cầm quyền trở thành đảng chuyên quyền, dẫn đến làm
giảm sút hiệu lực của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Việc quản lý nhà nước có
biểu hiện quan liêu, mệnh lệnh, xem nhẹ trách nhiệm trước nhân dân. Một số
cán bộ, Đảng viên có chức có quyền xa rời quần chúng, đặc quyền, đặc lợi
làm cho quần chúng chán ghét. Những biểu hiện trên đã xuyên tạc bản chất
tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, không phát huy được nhiệt tình, tài năng sáng
tạo của quần chúng nhân dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa chưa chú ý thích đáng đến việc
quan tâm, xây dựng con người mới, tuyệt đối hoá mặt xã hội của con người,
đặt lợi ích tập thể, xã hội lên trên lợi ích cá nhân một cách phiến diện; phân
phối nặng tính bình quân, không khuyến khích những người lao động giỏi,
những người làm việc tận tâm, những nhân tài, làm cho vai trò của cá nhân bị


lu mờ, kết quả ấy không phát huy được nhân tố con người, thúc đẩy sự tiến bộ
của xã hội, mà đáng ra phải thực hiện được tốt đẹp hơn.
Thứ tư, trên lĩnh vực xã hội các nước xã hội chủ nghĩa chưa quan tâm
giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền một cách cụ thể,
thiết thực để động viên mọi tầng lớp nhân dân, tạo nên sự đồng thuận xã hội

và khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa, thậm chí còn có lúc sai lầm tả khuynh, hữu khuynh để
kẻ thù lợi dụng kích động lôi kéo đồng bào dân tộc, tôn giáo chống phá cách
mạng.
Thứ năm, trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa còn đơn điệu, chủ quan, có
biểu hiện áp đặt văn hóa, đồng hóa văn hóa, không tôn trọng giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa các dân tộc, dẫn đến kỳ thị, tự ty và mất đoàn kết nghiêm
trọng, kéo dài.
Thứ sáu, trên lĩnh vực ngoại giao thực hiện nhất biên đảo, khép kín
trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, có lúc tuyệt đối hóa mâu thuẫn và xác định
sai bạn, thù, đẩy đồng minh về phía đối lập làm suy yếu phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế.
Những sai lầm trên đây kéo dài trong nhiều thập kỷ, đã hạn chế nhiều
tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, làm cho nó lâm vào tình
trạng khủng hoảng ngày càng sâu sắc. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự khủng
hoảng ấy là do bắt nguồn từ những khó khăn trong việc tìm kiếm hình thức,
bước đi, phương thức thử nghiệm xây dựng một xã hội mới chưa từng có
trong lịch sử. Mặt khác, do những khiếm khuyết chủ quan của cơ quan, những
người lãnh đạo, những người giữ trọng trách đã vận dụng không đúng đắn và
còn làm trái nguyên tắc, những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Ngoài ra, một bộ phận cán bộ khi nắm quyền lực trong tay thoái hoá biến chất
làm cho quần chúng nhân dân bất bình, xa lánh Đảng, nhà nước, không quan
tâm đến sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo thêm điều kiện cho bọn cơ


hội, các lực lượng phản động tăng cường chống phá. Vào nửa cuối những
năm 80, ở Liên Xô và sau đó là ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã phát hiện và
công khai khẳng định tình trạng khủng hoảng của đất nước, đưa ra đường lối
cải tổ, cái cách hoặc đổi mới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ trương cải tổ, cải cách, đổi mới là phù hợp với lịch sử, song ở một

số nước, trong thực tế, cải cách, cải tổ lại sa vào sai lầm, xa rời lập trường giai
cấp công nhân, đi tìm giải pháp ngoài những nguyên lý, quy luật của chủ
nghĩa xã hội khoa học. Nguy hiểm hơn, một số phần tử cơ hội nắm vị trí,
cương vị chủ chốt trong Đảng, nhà nước, làm tan rã Đảng Cộng sản, làm lung
lay chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng với sự chống phá quyết liệt của diễn biến
hòa bình và nhiều yếu tố khác, làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô,
Đông Âu sụp đổ. Hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn, thế giới hai cực bị
xóa bỏ, tác động lớn đến tình hình thế giới, đến phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế.
Song, đúng như Các C.Mác khẳng định: cách mạng chết rồi, cách mạng
muôn năm, chính qua sự thất bại này, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đã rút
ra được nhiều bài học kinh nghiệm xương máu, đang vượt qua khó khăn thử
thách, khôi phục lại sức sống và tiếp tục phát triển tiến lên. Cũng từ những
thành công và khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực, cần phải nghiên
cứu, bổ sung và phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học cho phù hợp với
điều kiện lịch sử mới.
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ
Một đặc điểm lớn của lịch sử những năm 80 thế kỷ XX đến nay là:
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang diễn ra với quy mô chưa từng có,
với những thành tựu kỳ diệu trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tác động
đến các chế độ chính trị xã hội khác nhau và để lại hệ quả chính trị xã hội to
lớn.


Những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, sự phát triển của khoa học
và công nghệ đang diễn ra vô cùng nhanh chóng, đạt được những thành tựu
hết sức to lớn, đã đưa đến bước phát triển rất mạnh mẽ của lực lượng sản xuất
trên phạm vi toàn cầu, làm thay đổi cơ cấu kinh tế thế giới, làm cho quá trình
toàn cầu hoá đời sống quốc tế ngày càng sâu rộng. Hơn bao giờ hết, nền kinh
tế thế giới thể hiện như một tổng thể trong đó kinh tế của mỗi nước, mỗi hệ

thống không thể tách rời. Hai hệ thống kinh tế đối lập: tư bản chủ nghĩa và
chủ nghĩa xã hội đang vừa đấu tranh vừa có quan hệ hợp tác với nhau. Cuộc
cách mạng khoa học- công nghệ và xu thế toàn cầu hoá đời sống kinh tế đòi
hỏi phải có những xem xét, thay đổi tư duy lý luận nhằm tận dụng những
thuận lợi to lớn do khoa học - công nghệ đưa lại để nhanh chóng vượt lên phía
trước nếu không muốn bị lạc hậu. Đồng thời, phải khắc phục mặt trái của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ để phát triển bền vững.
Toàn cầu hóa là xu thế khách quan
Toàn cầu hoá nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đang là một xu thế
khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Hiện nay, toàn cầu hóa
nhiều lĩnh vực xã hội, mà cốt lõi là toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra mạnh
mẽ. Toàn cầu hóa xét về bản chất là quá trình tăng lên rất nhiều những mối
liên hệ, sự ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các
quốc gia, khu vực, các dân tộc trên toàn thế giới. Toàn cầu hoá kinh tế do sự
phát triển của lực lượng sản xuất, tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất
trên phạm vi quốc gia và quốc tế; do nền kinh tế thị trường, công ty xuyên
quốc gia... Toàn cầu hoá tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và
đang trở thành cơn lốc cuốn hút các khu vực và các nước trên thế giới, chi
phối những biến đổi của tình hình thế giới.
Toàn cầu hoá nhiều lĩnh vực mở ra sự liên kết quốc tế ngày càng tăng,
nhưng cuộc đấu tranh vì lợi ích quốc gia, dân tộc, khu vực cũng rất gay gắt và
phức tạp. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển thông qua


hợp tác, chuyển giao công nghệ, mở rộng thị trường, thu hút đầu tư; tạo thuận
lợi nắm bắt nhanh chóng thông tin và tri thức mới; nâng cao năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế. Đồng thời, nó làm cho nền kinh tế của đất nước lệ
thuộc vào sự biến động kinh tế thế giới, đặt các doanh nghiệp ở các nước
đang phát triển và chậm phát triển vào cuộc cạnh tranh gay gắt không cân sức.
Toàn cầu hoá dễ làm cho các nước nghèo từ chỗ lệ thuộc về kinh tế các nước

tư bản phát triển, bị lệ thuộc về chính trị, đe dọa tới an ninh quốc gia, độc lập
chủ quyền dân tộc. Toàn cầu hoá vừa tạo điều kiện tiếp thu các thành tựu văn
hoá của nhân loại, vừa có thể là nguy cơ làm phai nhòa bản sắc văn hoá, du
nhập văn hoá tư sản, lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân từ các nước tư bản
chủ nghĩa. Toàn cầu hóa là một cuộc đấu tranh gay go, phức tạp trên tất cả
các mặt của đời sống xã hội. Vì thế, để hội nhập và phát triển, các nước phải
chủ động, sáng tạo, tận dụng cơ hội, phòng tránh nguy cơ tác động tiêu cực
của toàn cầu hóa.
Xu thế hợp tác và đấu tranh, liên kết và cạnh tranh diễn ra quyết liệt
Trước bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, xu
hướng toàn cầu hoá và những vấn đề mang tính toàn cầu, các quốc gia dân tộc
không thể tự mình độc lập giải quyết mọi vấn đề, buộc phải có sự hợp tác,
liên kết. Hơn nữa, xu thế hòa bình giúp cho các nước liên kết, hợp tác sâu
rộng trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá..., với hình thức hợp tác từ
song phương đến đa phương, từ khu vực đến quốc tế. Dù không đồng đều,
song sự hợp tác liên kết đó đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho các bên
tham gia.
Tuy nhiên, do bản chất chế độ và lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc, giai
cấp, lực lượng khác nhau nên sự hợp tác, liên kết đó chứa đựng nhiều mâu
thuẫn. Cội nguồn của những mâu thuẫn là vấn đề lợi ích, nhất là lợi ích kinh
tế. Các bên tham gia hợp tác, liên kết đều muốn lợi nhiều. Nhưng nhiều khi
lợi cho đối tượng này lại có thể gây tổn hại cho đối tượng khác. Vì thế, quá


trình hợp tác, liên kết cũng là nơi diễn ra cuộc đấu tranh giữa các lợi ích, mà
chủ thể của các lợi ích này là các tập đoàn kinh tế, các giai cấp, dân tộc, quốc
gia và liên quốc gia.
Kinh tế tri thức ra đời đóng vai trò ngày càng quan trọng
Hiện nay, xung quanh quan niệm về kinh tế tri thức còn nhiều quan
điểm khác nhau. Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế thế giới( OECD)

2000: “ Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế ngày càng phụ thuộc trực tiếp vào
việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức và thông tin”
Quan điểm của Diễn đàn Châu Á Thái Bình Dương, APEC (2000):
“Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó quá trình sản xuất, phân phối
và sử dụng tri thức trở thành động lực chính cho tăng trưởng, cho quá trình
tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế”.”
Còn tổ chức Ngân hàng thế giới WB (2000): “Đối với các nền kinh tế
tiên phong trong nền kinh tế thế giới, cán cân giữa 2 yếu tố tri thức và nguồn
lực đang nghiêng về tri thức. Tri thức thực sự trở thành yếu tố quan trọng
quyết định mức sống hơn cả yếu tố đất đai, hơn cả yếu tố tư liệu sản xuất, hơn
cả yếu tố lao động. Các nền kinh tế phát triển nhất về công nghệ ngày càng
thực sự đã dựa vào tri thức”.”
Như vậy, có thể nói kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh
ra, phân công và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát
triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Kinh tế tri thức ra đời là một xu thế khách quan phản ánh trình độ phát
triển cao của lực lượng sản xuất, của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại và sự phát triển văn minh nhân loại. Trong nền kinh tế tri thức, tri
thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hàm lượng chất xám kết tinh trong
sản phẩm cao, cơ cấu tổ chức sản xuất gọn nhẹ, phương thức hoạt động linh


hoạt, biến đổi, công nghệ thông tin được sử dụng rộng rãi, nguồn nhân lực đòi
hỏi cao (trí thức hoá).
Các trụ cột của kinh tế tri thức đó là công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, công nghệ NANO, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng
mới, công nghệ quản lý, nhân lực bậc cao.
Cần thấy rõ, mỗi thành tựu khoa học - kỹ thuật, khoa học tự nhiên cũng
như khoa học xã hội, không chỉ đem lại sự đổi mới và nâng cao nhận thức về
lĩnh vực đó, mà còn tác động mạnh mẽ đến tư duy chính trị, tư duy kinh tế, tư

duy triết học.v.v. Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ đang tác động mạnh mẽ đến quá trình cách mạng thế giới, đến lý
luận chủ nghĩa xã hội khoa học. Do vậy, nhận thức sâu sắc cách mạng khoa
học - công nghệ và những tác động to lớn của nó để vận dụng vào quá trình
củng cố xây dựng chủ nghĩa xã hội, vào việc bổ sung phát triển lý luận chủ
nghĩa xã hội khoa học.
Đảng ta xác định: “Cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức
và quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển
của nhiều nước”(1 ).
Chủ nghĩa tư bản vẫn còn tiềm năng phát triển nhất định
Như chúng ta thấy rõ, những thập kỷ của đầu thế kỷ XX – chủ nghĩa tư
bản đã trải qua những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, những chấn động to
lớn. Đặc biệt là sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, hệ thống tư bản chủ nghĩa
bị sụp đổ từng mảng, phạm vi thống trị của chúng bị thu hẹp. Trước tình hình
đó, các nước tư bản chủ nghĩa đã tìm mọi cách tự điều chỉnh để thích nghi với
những biến đổi của thời đại. Chủ nghĩa tư bản đã tận dụng những thành tựu
của cách mạng khoa học - công nghệ để tăng nhanh sản xuất và năng suất lao

1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.67


động, không ngừng thay đổi cơ cấu, sản xuất, thiết bị, công nghệ đưa nền kinh
tế phát triển theo chiều sâu.
Chính sự áp dụng khoa học và công nghệ đó đã mang lại cho chủ nghĩa
tư bản sự phát triển mới về lực lượng sản xuất, đồng thời làm nảy sinh mâu
thuẫn ngày càng gay gắt giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực
lượng sản xuất với quan hệ tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Để
giải quyết mâu thuẫn này, chủ nghĩa tư bản phải thích nghi, phải điều chỉnh
một số mặt, một số khía cạnh cả về kinh tế lẫn các vấn đề xã hội. Tuy nhiên,

những thích nghi của chủ nghĩa tư bản tuyệt nhiên không mang lại sự thay đổi
nào trong bản chất của chủ nghĩa tư bản. Vẫn là bóc lột, thu nhiều giá trị
thặng dư; vẫn là dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất; về chính trị: hiếu chiến xâm lược, phản động toàn diện.
Chủ nghĩa tư bản không thể tồn tại mãi trong lịch sử loài người. Nó đã
từng điều chỉnh thích nghi, và còn có thể điều chỉnh, nhưng là sự điều chỉnh
thích nghi trong chủ nghĩa tư bản, những điều chỉnh đó có thể xoa dịu được
những mâu thuẫn vốn có, kéo dài sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, chứ không
thể xoá bỏ được những mâu thuẫn đó. Do vậy, chủ nghĩa tư bản cũng không
thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà không thông qua đấu tranh giai cấp và
thông qua cách mạng xã hội. Do đó, chúng ta không thể sùng bái một cách mù
quáng hoặc phủ định nó một cách sạch trơn mà phải có thái độ khoa học,
nghiêm túc kế thừa có phê phán và chọn lọc những kinh nghiệm của chủ
nghĩa tư bản trong việc tổ chức, quản lý sản xuất, kinh tế.
Những luận điệu mơ hồ, mất cảnh giác, ca ngợi chủ nghĩa tư bản hiện
đại, như cho rằng trong lòng xã hội tư bản hiện đại đã có các nhân tố của chủ
nghĩa xã hội; chủ nghĩa tư bản đã thay đổi bản chất, đã tốt hơn trước
đây.v.v.thực chất là đi đến phủ nhận lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, từ bỏ
đấu tranh giai cấp, từ bỏ cách mạng xã hội chủ nghĩa, cần phải phê phán, vạch
trần bản chất của chúng. Đồng thời cần nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để bảo


vệ, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học cho phù hợp với điều kiện lịch sử
mới. Đúng như Đảng ta đã nhận định: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm
năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất
công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế
độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được
mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinnh tế, chính trị, xã hội, vẫn
tiếp tục xẩy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc

đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư
bản”1.
Những vấn đề toàn cầu ngày càng gay gắt
Vào những năm cuối thế kỷ XX, thế giới đang diễn ra sự phân cực
ngày càng sâu sắc về chế độ chính trị, lối sống, mức sống.v.v. Sự tác động
qua lại và cuộc đấu tranh gay gắt giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
Đồng thời xuất hiện những nước, những nhóm người ngày càng giàu lên,
nhưng hàng loạt nước, đại bộ phận quần chúng nhân dân sống rất nghèo khổ.
Thêm vào đó, các cuộc xung đột dân tộc, sắc tộc; những cuộc chiến tranh khu
vực cũng gia tăng, vấn đề bảo vệ độc lập chủ quyền đặt ra hết sức gay gắt với
những nước chậm phát triển. Ngoài những xu thế đó, vấn đề quốc tế hoá của lực
lượng sản xuất, vấn đề ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên,
bệnh tật hiểm nghèo, an ninh phi truyền thống, chủ nghĩa khủng bố.v.v.là những
vấn đề liên quan đến tất cả các nước, đến tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đặc biệt là việc củng cố, giữ vững chủ nghĩa xã hội ở những nước còn lại, tạo
điều kiện và thời cơ để phát triển nhanh, vững chắc hơn.
Đảng ta đã nhận định: “Nhân dân các nước đang đứng trước những vấn
đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh của loài người. Đó là giữ gìn
hoà bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, bảo vệ môi trường sống, hạn chế sự
1

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr 68-69


bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo. Việc giải
quyết những vấn đề trên đòi hỏi sự hợp tác và tinh thần trách nhiệm cao của
tất cả các dân tộc”1.
Tóm lại, tất cả những vấn đề về tình hình quốc tế, tình hình của các
nước xã hội chủ nghĩa những năm 80 thế kỷ XX đến nay, đều có liên quan tác
động thúc đẩy hoặc gián tiếp đến học thuyết chủ nghĩa C.Mác - Lê nin, đến lý

luận chủ nghĩa xã hội khoa học, đến lựa chọn con đường phát triển của mỗi
quốc gia dân tộc trên toàn thế giới hiện nay và trong tương lai. Do vậy, cần
nghiên cứu nắm vững những vấn đề ấy để bổ sung, phát triển lý luận chủ
nghĩa xã hội khoa học.
2. Sự phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học của các Đảng
Cộng sản và Công nhân trong thời kỳ cải cách, đổi mới (từ những năm 80
thế kỷ XX đến nay)
Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, rút ra bài học kinh nghiệm
trong quá trình đổi mới, cải cách, khẳng định tính cách mạng- khoa học
những nguyên lý chủ nghĩa xã hội khoa học
Trong quá trình hoạt động cách mạng và lãnh đạo quần chúng nhân dân
lao động đấu tranh lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội
mới - xã hội chủ nghĩa tốt đẹp. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin,
các Đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế luôn luôn coi trọng công
tác nghiên cứu phát triển lý luận và tổng kết thực tiễn, nhằm vận dụng vào
điều kiện cụ thể của từng nước, là cơ sở và nguồn gốc mọi thắng lợi của cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở mỗi nước.
Hiện nay, thực tiễn đang đặt ra những đòi hỏi bức thiết với việc bổ
sung phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học; góp phần làm sáng tỏ
những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học, nâng cao vai trò tiên phong
1

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr 69


lãnh đạo của các Đảng cộng sản trong hoạt động thực tiễn; là cơ sở để giáo
dục lý tưởng, nâng cao niềm tin. Đi sâu tổng kết thực tiễn và phát triển một
cách sáng tạo về lý luận nhằm làm sáng tỏ hơn nữa căn cứ khoa học và thực
tiễn của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, về mô hình con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội là đòi hỏi khách quan và cấp bách.

Vào giữa những năm 80 của thế kỷ XX, ở Liên Xô và sau đó ở nhiều
nước xã hội chủ nghĩa đã phát hiện, khẳng định công khai tình trạng khủng
hoảng của đất nước và đưa ra đường lối cải tổ, cải cách, đổi mới sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhằm khắc phục tình trạng khủng hoảng, làm cho
chủ nghĩa xã hội phát triển lành mạnh. Những nhận thức mới về xây dựng chủ
nghĩa xã hội được nhiều nước nêu lên trong quá trình cải tổ, cải cách là:
Đa dạng hoá các hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà
nước xã hội chủ nghĩa; giải phóng mọi năng lực sản xuất của xã hội, xoá bỏ
cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, trao quyền chủ động sản xuất
kinh doanh cho các đơn vị và người sản xuất trên cơ sở tự hạch toán và tự
chịu trách nhiệm về kết quả lao động của mình.
Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, cải cách hệ thống chính trị cho
ngang tầm với nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện chính sách xã hội một cách toàn diện, nhằm phục vụ con
người và phát huy nhân tố con người thúc đẩy mọi tiến bộ xã hội.
Nhận thức đúng vị trí, vai trò của vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ,
nhân quyền để đưa ra đường lối chính sách phù hợp, thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chủ động hội
nhập quốc tế, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để làm giàu trí tuệ và
kho tàng văn hóa của quốc gia.
Đổi mới tư duy đối ngoại, tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi, mở rộng
quan hệ quốc tế về chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học - công nghệ. Thông
qua mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp
thích hợp, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.

Những nhận thức trên rút ra từ những sai lầm, vấp váp trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội, nếu được vận dụng đúng đắn có thể mở ra triển
vọng giúp cho các nước từng bước thoát khỏi khủng hoảng và tiếp tục phát
triển. Đáng tiếc là khi cải tổ, cải cách, nhiều nước lại vấp phải sai lầm mới,
mà nổi lên là phủ nhận những thành tựu của chủ nghĩa xã hội, bôi đen quá
khứ, xa rời lập trường của giai cấp công nhân, đi tìm những giải pháp ngoài
nguyên lý, quy luật của chủ nghĩa xã hội khoa học. Điều đó, làm suy yếu sự
lãnh đạo của Đảng, làm mất lòng tin của quần chúng, tạo ra sự hoang mang,
dao động, mất ổn định trong xã hội. Khiến các lực lượng thù địch trong và
ngoài nước chống phá quyết liệt, đưa chủ nghĩa xã hội đến khủng hoảng
nghiêm trọng và chịu những tổn thất nặng nề. Chủ nghĩa xã hội bị đẩy lùi và
sụp đổ ở nhiều nước, một số nước còn lại kiên định con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội đang gặp những khó khăn lớn về chính trị, kinh tế, xã hội.
Chủ nghĩa xã hội ở vào giai đoạn thoái trào đã tác động tai hại đến tình
hình thế giới, khiến nhân dân lao động lo âu, các thế lực phản động tăng thêm
cuồng vọng chống phá cách mạng. Tình hình còn diễn biến phức tạp, những
hậu quả tiêu cực của những sai lầm này đang tiếp tục gây nên những tổn thất
nghiêm trọng của toàn bộ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên,
đứng trên tầm lịch sử thì thất bại này cũng chỉ là tạm thời. Qua bước thụt lùi


đáng tiếc đó, chủ nghĩa xã hội sẽ vượt qua những thử thách tiếp tục đi lên.
Niềm tin này có những cơ sở lý luận và thực tiễn chứng minh.
Một là, chủ nghĩa tư bản mặc dù đang nắm ưu thế: vốn, khoa học –
công nghệ, thị trường, nhưng chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của
loài người. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản tuy là bước tiến của
lịch sử, song lịch sử phát triển của nó là bóc lột, áp bức bất công, những tội ác
chồng chất và những cuộc chiến tranh tàn khốc. Gần đây, chủ nghĩa tư bản
tìm cách thích nghi trong điều kiện mới. Lợi dụng thành tựu khoa học - công
nghệ đã thúc đẩy sản xuất phát triển, điều chỉnh chính sách xã hội, tranh thủ

quần chúng lao động.v.v để kéo dài sự tồn tại của chúng. Nhưng không làm
mất đi các mâu thuẫn vốn có cơ bản của chủ nghĩa tư bản, bản chất của chủ
nghĩa tư bản không hề thay đổi, chúng đã, đang đẩy hàng tỷ người của thế
giới thứ ba vào tình trạng đói nghèo, bệnh tật, nợ nần chồng chất. Nền kinh tế
trong chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục diễn ra khủng hoảng, nạn thất nghiệp tăng
lên. Sự suy đồi về mặt xã hội cũng diễn ra ghê gớm, đang dìm sâu con người
vào các dạng thoái hoá mà những người có lương tri ở ngay các nước đó đang
không ngừng lên tiếng kêu cứu. Việc sử dụng các thành tựu mới về khoa học
và công nghệ tuy có làm tăng năng suất lao động, nhưng chính nó lại càng
làm gay gắt các mâu thuẫn vốn có trong chủ nghĩa tư bản. Tình trạng không
ổn định về chế độ chính trị ở một số nước tư bản vừa qua như việc thay đổi
chính quyền diễn ra liên tục và tăng cường các biện pháp mạnh để ổn định
trong nước.v.v đã chứng minh các mâu thuẫn ngày càng gay gắt trong chủ
nghĩa tư bản. Từ các mâu thuẫn đó, cuộc đấu tranh giai cấp sẽ tiếp tục diễn ra
quyết liệt dẫn đến sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi,
sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới là tất yếu.
Hai là, chủ nghĩa xã hội hiện thực, sau những tổn thất, đã rút ra bài học
kinh nghiệm, tiếp tục cải cách, đổi mới giành được nhiều thành tựu to lớn và
vẫn là xu thế tất yếu khách quan của xã hội loài người. Từ những bài học thực


tiễn, trở lại với chủ nghĩa xã hội khoa học, vận dụng và phát triển sáng tạo
bản chất cách mạng - khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, trước sau những
người cách mạng ở các nước trên thế giới sẽ tìm ra được những giải pháp
đúng, chấn chỉnh lại đội ngũ, tranh thủ được sự ủng hộ của nhân dân, chủ
nghĩa xã hội đã lấy lại được sức sống và tính ưu việt của mình. “Theo quy luật
tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”1.
Ở Việt Nam, cùng với xu thế chung của cách mạng thế giới, trước
những biến đổi của lịch sử, Đảng ta kịp thời đưa ra đường lối đổi mới quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội (1986). Đó là cột mốc quan trọng trong sự

nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Công cuộc đổi mới đã
giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Tạo ra thế và lực mới
cho cách mạng Việt Nam. Từ thực tiễn hơn 20 năm đổi mới với những thành
công và khuyết điểm, sai lầm Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra những bài
học lớn:
“Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai là, Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh
trong nước và sức mạnh quốc tế.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam”2 .
Như vậy, từ nghiên cứu tổng kết thực tiễn quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội, từ những bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam, cần phải
khẳng định lại rằng, lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học vẫn còn giữ nguyên
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ( Bổ sung, phát triển nă 2011),
Nxb CTQG, H.2011, Tr69.
2
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, (Bổ sung, phát triển năm 2011) Nxb CTQG,
H.2011tr.65-66
11


giá trị, vẫn là kim chỉ nam cho hoạt động của các Đảng cộng sản và giai cấp
công nhân quốc tế. Song đòi hỏi phải nắm vững, vận dụng sáng tạo trong điều
kiện lịch sử cụ thể ở mỗi nước và góp phần phát triển chủ nghĩa xã hội khoa
học, không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức của
mình để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường
lối, chủ trương, chính sách lớn của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng qui
luật khách quan. Phải phòng chống được những nguy cơ lớn: sai lầm về đường

lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.
Những vấn đề lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học được bổ sung và
phát triển
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, cho đến nay chưa có một học
thuyết nào có thể sánh được với chủ nghĩa xã hội khoa học về độ dài thời gian
của thời kỳ “thai nghén”. Điều đó chứng tỏ, chủ nghĩa xã hội khoa học là một
trong những giá trị nổi bật nhất của nhân loại trong suốt quá trình tiến hoá, và
trong mỗi bước tiến của lịch sử, nó dần dần chín muồi để tự khẳng định như
thước đo, kết quả, động lực của sự tiến hoá. Một thế kỷ rưỡi tồn tại và phát
triển, chủ nghĩa xã hội khoa học đã nhiều lần đương đầu với những thử thách
và thử thách lần này là lớn nhất. Hiện nay đang có thái độ khác nhau đối với
chủ nghĩa xã hội khoa học. Vì thế, cần phải kết hợp tính vững vàng khoa học
để giải thích đúng đắn, sâu sắc các phạm trù, qui luật của chủ nghĩa xã hội
khoa học, nắm bắt những tri thức của khoa học hiện đại để làm phong phú
thêm và sâu sắc hơn nội dung của các luận điểm đó vào việc lý giải các vấn
đề phong phú, phức tạp do thực tiễn mới đặt ra.
Trước hết, mô hình chủ nghĩa xã hội và lý luận về chủ nghĩa xã hội
*Mô hình chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng của chủ nghĩa C.Mác - Lê nin về mô hình xây dựng chủ
nghĩa xã hội đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị, những tư tưởng này đã được


vận dụng trong thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội ở hầu hết các nước xã hội
chủ nghĩa trước đây và đã thu được những thành tựu vô cùng to lớn, chứng
minh rõ bản chất ưu việt hơn hẳn so với chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, trong
thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội do vận dụng thiếu sáng tạo, rập khuôn máy
móc ở các nước, cho nên có nhiều hạn chế. Do vậy, hiện nay quá trình đổi
mới xây dựng chủ nghĩa xã hội, các Đảng Cộng sản, các nước xã hội chủ
nghĩa đã xác định mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội cụ thể phù hợp với điều
kiện cụ thể của đất nước mình: như chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung

Quốc, hay mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, mà Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - Đại hội VII
Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, mặc dù có nhiều mô hình xây dựng
chủ nghĩa xã hội, nhưng bản chất của nó chỉ là một. Đó là một xã hội công
bằng, bình đẳng, dân chủ và tiến bộ.
Đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng của các Đảng
Cộng sản và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa đang xây dựng. Sự kiên trì
mục tiêu xã hội chủ nghĩa có cơ sở là sự giác ngộ của nhân dân về chủ nghĩa
xã hội. Nhiều người đã sống và biết thế nào là chế độ cũ và cũng thấy được
cuộc sống trong chế độ mới. Gần đây đường lối cải cách, đổi mới đi vào cuộc
sống, đem lại những thành tựu rất quan trọng, giúp cho chúng ta vững tin vào
con đường đã lựa chọn. Nhưng phải thừa nhận rằng, trước sự đổ vỡ của chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu, có một số người chưa phải đã hoặc
chấp nhận con đường xã hội chủ nghĩa. Có người cho rằng chọn con đường xã
hội chủ nghĩa là nhầm; quá độ lên chủ nghĩa xã hội là vội; có người lại cho
rằng chế độ nào cũng được, miễn là có cuộc sống sung sướng; có một số
người viết và tán phát tài liệu phê phán chủ nghĩa xã hội, cổ vũ mọi người đi
theo chủ nghĩa tư bản.v.v. Đối với mỗi người, có nguyên nhân riêng, nhưng
xét chung thì tình hình trên có thể do các yếu tố sau:


Đó là sự khủng hoảng, sụp đổ của một số nước xã hội chủ nghĩa tác
động; đó là sự điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản; đó còn là sự tác
động của kẻ thù và qua đổi mới, những thành tựu đạt được củng cố lòng tin
vào chủ nghĩa xã hội, nhưng chủ nghĩa xã hội vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng,
khó khăn còn nhiều, các tệ nạn xã hội khác còn diễn ra nghiêm trọng.
* Lý luận về chủ nghĩa xã hội
Sau sự khủng hoảng, sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu,
Liên Xô, lý luận về chủ nghĩa xã hội cần phải được bổ sung và phát triển như

một đòi hỏi tất yếu của lịch sử. Thông qua sự nghiệp cải cách, đổi mới lý luận
về chủ nghĩa xã hội được bổ sung, phát triển thêm nhiều điểm mới.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Trung Quốc
Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng
Tiểu Bình, thuyết "Ba đại diện", lý luận “ Phát triển xã hội hài hòa, khoa học”
làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, xâydựng
chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.
Chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc được thể hiện ở số điểm sau:
Bản chất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng sức sản xuất, phát triển sức
sản xuất, xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ sự phân hóa thành hai cực, cuối cùng đạt tới
sự giàu có chung.
Tiêu chuẩn khoa học để phân biệt chính xác chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản, qua ba cái lợi: lợi cho phát triển sức sản xuất; tăng cường sức
mạnh tổng hợp của đất nước và nâng cao mức sống của nhân nhân.
Xã hội chủ nghĩa cũng có thể làm kinh tế thị trường, chế độ xã hội chủ
nghĩa và kinh tế thị trường không hề mâu thuẫn. Coi trọng dùng thực tiễn và
điển hình để kiểm nghiệm lý luận.


Chuyển đối nền kinh tế, từ kinh tế kế hoạch hóa hoàn toàn chuyển sang
kinh tế kế hoạch hóa là chủ đạo, kế hoạch thị trường là hỗ trợ; đến kinh tế thị
trường có kế hoạch và cuối cùng là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. cho
phép một bộ phận giàu lên trước, thúc đẩy người khác cùng làm giàu chân
chính và luôn chống phân hóa hai cực.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ nhưng không phải là đóng cửa, tự
lực cánh sinh không phải là bài ngoại một cách mù quáng, tôn trọng trí thức,
tôn trọng nhân tài, tận dụng khoa học kỹ thuật và thực sự cầu thị, nhìn về phía
trước, kịp thời nghiên cứu tình hình mới, giải quyết vấn đề mới.
Kiên trì bốn nguyên tắc: giải phóng tư tưởng; thực sự cầu thị; đoàn kết
nhất trí; nhìn về phía trước và hai kiên trì: Kiên trì bốn nguyên tắc; kiên trì cải

cách mở cửa.
Từ những đổi mới tư duy lý luận như trên, Trung Quốc đã đưa ra và
thực hiện một loạt chính sách linh hoạt, mềm dẻo: một nhà nước hai chế độ để
thu hồi Hồng Kông, Ma Cao bằng phương pháp hòa bình; Mô hình kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa gồm nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở
hữu và phân phối. Nông nghiệp chuyển từ chế độ hợp tác xã sang chế độ
khoán sản phẩm đến từng gia đình. Tăng cường tự quản cho các quan chức
địa phương và các giám đốc nhà máy. Cho phép phát triển đa dạng của doanh
nghiệp nhỏ trong lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp nhẹ. Mở cửa kinh tế để
tăng ngoại hối và đầu tư nước ngoài. Chính phủ tập trung: phát triển sức sản
xuất, gia tăng thu nhập, sức tiêu thụ, ngoại thương và áp dụng hệ thống quản
lý để tăng năng xuất lao động. Phát triển khoa học, hài hòa, lấy con người làm
gốc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và xã hội hài hòa là nhiệm vụ trọng đại. Dân
chủ hóa đời sống xã hội, đặc biệt chỳ ý dân chủ ở cơ sở. Ưu tiên giải quyết
vấn đề phát triển chênh lệch vùng, miền, chênh lệch về mức sống trong nhân


dân. Đặc biệt coi trọng vấn đề tam nông là một trong những nhiệm vụ cấp
bách, một nội dung quan trọng của việc "Xây dựng xã hội hài hòa".
Trung Quốc lấy công nghiệp thúc đẩy nông nghiệp phát triển, dùng
thành thị lôi kéo nông thôn phát triển và chuyển sang giai đoạn xây dựng
nông thôn mới xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục cải cách mở cửa, xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Trung Quốc, nhằm thực hiện hiện đại
hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc.
Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 là kỳ đại hội quan
trọng, diễn ra trong bối cảnh Trung Quốc bước vào giai đoạn quyết định công
cuộc xây dựng xã hội khá giả toàn diện. Chủ đề của đại hội là "Giương cao
ngọn cờ chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, dưới sự dẫn dắt của lý luận
Đặng Tiểu Bình, thuyết Ba đại diện và Quan điểm phát triển khoa học, giải

phóng tư tưởng, thực hiện chính sách cải cách mở cửa, tăng cường sức mạnh,
vượt qua khó khăn, kiên định con đường chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc và phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng toàn diện xã hội khá giả."
Quan điểm phát triển khoa học là sự kết tinh trí tuệ tập thể của Đảng Cộng
sản Trung Quốc, là tư tưởng chỉ đạo lâu dài của đảng, đồng thời quan điểm đó
đại diện cho thành tựu mới nhất mà Đảng Cộng sản Trung Quốc đạt được
trong quá trình áp dụng chủ nghĩa C.Mác vào điều kiện thực tiễn của Trung
Quốc. Trung Quốc chủ trương thay đổi phương thức phát triển kinh tế trên cơ
sở tính cân bằng, tính hài hòa, tính bền vững, dân chủ nhân dân không ngừng
được mở rộng, sức mạnh nền văn hóa được tăng cường rõ rệt, đời sống nhân
dân được nâng cao toàn diện, xây dựng xã hội theo mô hình tiết kiệm tài
nguyên, thân thiện với môi trường, giành được tiến triển trọng đại.


Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 đã đưa ra chủ trương
ngoại giao của Trung Quốc là chú trọng phát triển mối quan hệ với ASEAN
và các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam. ASEAN là đối tượng quan
trọng trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Trung Quốc và ASEAN bắt
đầu quan hệ đối thoại từ năm 1991, trong 21 năm qua, hai bên đã hình thành
quan hệ hợp tác đa phương, đa dạng trên nhiều lĩnh vực.
Về chính trị, Trung Quốc là nước đầu tiên ký kết “Điều ước hợp tác
hữu nghị ASEAN,” thiết lập mối quan hệ đối tác chiến lược với ASEAN. Về
kinh tế, hai bên đã xây dựng khu vực mậu dịch tự do lớn nhất trong các quốc
gia đang phát triển. Kim ngạch mậu dịch hai chiều trong 21 năm tăng gần 40
lần, Trung Quốc 3 năm liền là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN,
ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Trung Quốc. Tính đến tháng 7
năm nay, tổng kim ngạch đầu tư của hai bên đạt gần 100 tỷ USD. Ngoài ra,
hai bên còn hợp tác trên hơn 20 lĩnh vực như tài chính, khoa học kỹ thuật,
nông nghiệp, năng lượng, xóa đói giảm nghèo... Những thành tựu trong hợp
tác giữa Trung Quốc và ASEAN không những mang lại lợi ích cho nhân dân

hai bên, mà còn thúc đẩy hòa bình, ổn định và phồn vinh khu vực Đông Nam
Á. Trung Quốc mong muốn cùng với ASEAN làm sâu sắc hơn quan hệ hợp
tác thiết thực giữa hai bên, nỗ lực thực hiện các mục tiêu đến năm 2015 kim
ngạch thương mại song phương đạt 500 tỷ USD. Trung Quốc khẳng định kiên
trì ủng hộ nhất thể hóa ASEAN, đồng thời cho rằng, hợp tác giữa ASEAN và
Trung Quốc có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy hòa bình, ổn định và
phát triển của khu vực.
Quan điểm của phong trào cánh tả Mỹ La tinh về chủ nghĩa xã hội
Trong 10 nước Mỹ Latinh do phong trào cánh tả nắm quyền đều tuyên
bố định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.


Tổng thống Veneduyela - H.Chavet nhiều lần công khai tuyên bố mục
tiêu của cuộc cách mạng Boliva ở Veneduyela là đưa đất nước đi lên chủ
nghĩa xã hội. thế kỷ 21.
Ngày 1/5/2006 H. Chavet khẳng định: Chúng ta sẽ xây dựng 1 xã hội
trong đó mọi người đều được quan tâm, không có người nghèo và mọi người
được sống xứng đáng. Chúng ta xây dựng 1 xã hội bình đẳng, công bằng, hòa
bình với chính mình và hòa bình với các dân tộc khác trên toàn thế giới.
Chúng ta không sao chép mô hình các nước khác, thời đại khác, chúng ta cần
có năng lực và khả năng sáng tạo để đưa ra mô hình riêng của mình, một mô
hình hợp với thực tế và truyền thống của mình.
Thiên đường đang ở ngay trên trái đất - đó là vương quốc của bình đẳng
tự do và hòa bình, chúng ta sẽ sống để tạo ra thiên đường trên tổ quốc này
Các Chính đảng cánh tả ở Veneduela đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo,
bước đầu xác định các nội dung cơ bản của Chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21 như
sau:
Về nền tảng tư tưởng: Lấy Chủ nghĩa C.Mác, tư tưởng cách mạng và
tiến bộ của Ximun Bôliva, tư tưởng nhân đạo Thiên chúa giáo làm nền tảng
tư tưởng.

Về Chính trị: Nhấn mạnh tư tưởng "Dân chủ cách mạng và Chính
quyền nhân dân" theo đó nhân dân có trách nhiệm cùng tham gia quyết định
vận mệnh của đất nước, tham gia vào xây dựng một nhà nước pháp quyền,
công bằng xã hội, xây dựng một mô hình xã hội mới, nơi mà mọi người dân
đều có chỗ đứng, cho dù đó là một thổ dân.
Vấn đề Đảng: Xúc tiến thành lập Đảng chủ nghĩa xã hội thống nhất
Veneduela (PSUV) - 1 chính đảng cách mạng do tổng thống Huygo Chavet
đứng đầu làm nòng cốt chính trị và lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội thế kỷ 21.


Về Kinh tế: Thực hiện kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà
nước và hợp tác xã giữ vai trò chủ đạo, nhấn mạnh việc giành lại chủ quyền
quốc gia dân tộc đối với tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là: dầu mỏ, nước
sạch và môi trường sinh thái.
Về xã hội: Phân phối công bằng của cải xã hội để giải quyết vấn đề bất
bình đẳng và phân hóa xã hội.
Về đối ngoại: Thúc đẩy khối đại đoàn kết Mỹ Latinh và quan hệ hữu
nghị với tất cả các nước, lấy hợp tác thay cho cạnh tranh, lấy hội nhập thay
bóc lột, đấu tranh cho 1 thế giới đa cực, dân chủ.
Về cách làm bước đi: Kế thừa những mặt tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội
ở Liên xô - Đông Âu trước đây, không dập khuôn sao chép mà phải thường
xuyên đổi mới sáng tạo; bên cạnh phát triển kinh tế coi trọng các giá trị đạo
đức, tinh thần đoàn kết dân tộc, chú trọng kinh nghiệm quốc tế của các nước
xã hội chủ nghĩa.
Trào lưu cánh tả Mỹ Latinh là 1 nhân tố mới tác động tích cực đến cục
diện khu vực và thế giới, tạo thuận lợi cho sự phục hồi và phát triển các Đảng
cộng sản ở khu vực cũng như phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nói
chung. Cổ vũ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình và độc lập dân
tộc, dân chủ, công bằng tiến bộ xã hội, làm suy yếu vị trí độc tôn của Mỹ

ngay tại "sân sau của Mỹ"
Chủ nghĩa xã hội đang là một lý tưởng có sức hút đông đảo quần
chúng lao động ở Châu Mỹ Latinh. Đúng như Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội sau những thất bại đã phục hồi và tạo ra
bước phát triển mới”.
Vấn đề chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị


Trên cơ sở quán triệt và nắm vững tư tưởng về chuyên chính vô sản và
dân chủ vô sản của chủ nghĩa C.Mác - Lê nin; trong thực tế những năm xây
dựng chủ nghĩa xã hội, các Đảng Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa và ở
Việt Nam đã bổ sung và phát triển, mở rộng vấn đề này cho phù hợp với điều
kiện lịch sử mới. Vì thế thuật ngữ Hệ thống chính trị và gắn với nó là chế độ
dân chủ xã hội chủ nghĩa được hình thành và ngày càng hoàn thiện.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
luôn có quan hệ biện chứng với nhau, tạo cơ sở tiền đề cho nhau cùng phát
triển. Vì thế trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xẫ hội Đảng ta khẳng định: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của Hệ
thống chính trị nước ta trong giai đoạn cách mạng mới là nhằm xây dựng và
từng bước hoàn thiện nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc
về nhân dân”1.
Đến Đại hội Đảng ta lần thứ XI xác định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là
bản chất của chế độ ta , vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất
nước”2 .
Dân chủ là bản chất của chế độ mới, trong đó nhân dân, trước hết là
nhân dân lao động, là người làm chủ đất nước; tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân. Đó là chế độ dân chủ thực sự của nhân dân, gắn liền với công bằng xã
hội, xoá bỏ áp bức bóc lột, bất công. Dân chủ được thực hiện bằng nhiều hình
thức trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và được pháp luật bảo đảm. Dân
chủ bao giờ cũng gắn với pháp chế, kỷ luật, kỷ cương, phù hợp với trình độ

phát triển của đất nước và truyền thống lịch sử của dân tộc.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa xét về bản chất là thực hiện quyền
lực chính trị của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản, bảo đảm
quyền lực xã hội thuộc về nhân dân lao động. Vì thế, xây dựng hệ thống chính
Cương lĩnh xây dựng dất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. ST, H.1991
Cương lĩnh xây dựng dất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, (Bổ sung, phát triển năm 2011),
Nxb CTQG, H.2011.
1
2


trị phải đồng thời xây dựng Đảng vững mạnh, nâng cao vai trò quản lý của
nhà nước, đồng thời phát huy vai trò của các tổ chức chính trị xã hội.
Thực tế, sự đổ vỡ của một số nước xã hội chủ nghĩa vừa qua cũng là do
chưa phát huy, mở rộng đầy đủ dân chủ trong xã hội; hệ thống chính trị còn
nhiều yếu kém, lợi dụng vấn đề đó kẻ thù tìm mọi cách xuyên tạc, chống phá
hệ thống chính trị, dẫn đến làm suy yếu, tan rã Đảng cộng sản và xoá bỏ chế
độ xã hội chủ nghĩa. Cho nên, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay, Đảng ta xác định phương hướng cơ bản đầu tiên là xây
dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân, lấy liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm
nền tảng, do Đảng lãnh đạo.
Cần chú ý, việc xây dựng nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng, đó
luôn là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Một nhà nước vững mạnh là
công cụ mạnh mẽ nhất, có hiệu lực nhất để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong những năm 90
trở lại đây các Đảng cộng sản cũng như Đảng ta không dùng từ “chuyên chính
vô sản”. Như vậy có phải là chúng ta phủ nhận nguyên tắc chuyên chính vô
sản, từ bỏ “hòn đá thử vàng” ấy không? Lênin trong nhiều tác phẩm của mình
đã nêu nhiều định nghĩa về chuyên chính vô sản... Song, nội dung bản chất

của nhà nước chuyên chính vô sản là chính quyền, nhà nước thuộc về nhân
dân. Chính quyền đó hoạt động theo đường lối của giai cấp công nhân, thông
qua Đảng Cộng sản. Như vậy, nếu hiểu đúng nội dung của chuyên chính vô
sản thì hoàn toàn có thể diễn đạt nó trong khái niệm “nhà nước xã hội chủ
nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do
Đảng Cộng sản lãnh đạo”.
Như vậy, về khách quan, nhà nước đòi hỏi có sự lãnh đạo của đảng,
không có sự lãnh đạo ấy thì nhà nước không phải là của dân, do dân, vì dân.


×