Tải bản đầy đủ (.docx) (159 trang)

GIÁO dục TÍNH tự TIN CHO TRẺ 5 6 TUỔI THÔNG QUA TRÒ CHƠI ĐÓNG KỊCH ở TRƯỜNG mầm NON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.53 MB, 159 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------------

BÙI THỊ HẰNG NGA

GIÁO DỤC TÍNH TỰ TIN CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI
THÔNG QUA TRÒ CHƠI ĐÓNG KỊCH Ở TRƯỜNG MẦM
NON
Chuyªn ngµnh: Gi¸o dôc häc (Gi¸o dôc mÇm non)
M· sè: 60.14.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Như Mai


Hà Nội - 2016
LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành nhất tới cô giáo PGS.TS Nguyễn Thị Như Mai – người đã trực tiếp, tận
tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Ban chủ nhiện khoa và các
thầy cô giáo trong khoa Giáo dục Mầm non đã tận tâm giảng dạy và giúp đỡ
tôi trong suốt thời gian tôi học tập tại Khoa.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến phòng sau Đại học, trường Đại học Sư
phạm Hà Nội đã tạo điều kiện cho chúng tôi được học tập và bảo vệ luận văn
của mình.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến tập thể giáo viên trường Mầm non
Thực hành Sư phạm - Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh và các cháu học sinh
lớp 5 - 6 tuổi đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Cuối cùng, xin được gửi lời tri ân sâu sắc đến gia đình và bạn bè tôi


-những người luôn động viên tôi, giúp đỡ tôi những lúc khó khăn để tôi có thể
hoàn thành được nghiên cứu này.
Luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong sự chỉ dẫn,
góp ý của quý thầy cô, bạn đọc để luận văn của tôi ngày một hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, tháng 10 năm 2016
Tác giả

Bùi Thị Hằng Nga

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

ĐC
GDTTT
MN
GV
TC
TCĐK
TPVH
TN
TTT

3

: Đối chứng
: Giáo dục tính tự tin
: Mầm non

: Giáo viên
: Tiêu chí
: Trò chơi đóng kịch
: Tác phẩm văn học
: Thực nghiệm
: Tính tự tin


MỤC LỤC

4


DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lứa tuổi mầm non, chặng đường phát triển đầu tiên với tốc độ nhanh và
đặc biệt nhạy cảm, là giai đoạn “vàng” của sự phát triển và cũng là thời cơ
“vàng” của giáo dục. Đúng như sự khẳng định của A.Macarenco, những gì mà
trẻ con không có được trước 5 tuổi thì sau này rất khó hình thành và khi sự
hình thành nhân cách ban đầu lệch lạc thì sau này giáo dục lại rất khó khăn.
Giai đoạn từ 0 đến 6 tuổi là quãng đời có tầm quan trọng đặc biệt trong quá
trình phát triển chung của trẻ em bởi chính giai đoạn này những nét tính cách
cơ bản trong nhân phẩm trẻ được hình thành và để lại dấu ấn suốt cuộc đời.
Khi nhấn mạnh ý nghĩa của thời kỳ đó, nhóm tác giả Nguyễn Ánh Tuyết,

Nguyễn Thị Như Mai và Đinh Thị Kim Thoa đã trích lời L.N.Tônxtôi: “Tất
cả những gì mà đứa trẻ sẽ có sau này khi trở thành người lớn đều thu nhận
được trong thời kì thơ ấu. Trong quãng đời còn lại những cái mà nó thu nhận
được chỉ đáng một phần trăm những cái đó mà thôi”. [50, 235].
Xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi con người phải vươn lên, tìm cách
khẳng định mình và chắc chắn không thể thiếu tính tự tin bởi tự tin là cơ sở
của thành công. Tính tự tin là phẩm chất nhân cách quan trọng có giá trị nhân
văn được hình thành trong quá trình hoạt động của con người. Tự tin rất quan
trọng đối với mỗi con người, là tiền đề giúp ta chiến thắng mọi khó khăn đi
đến thành công. Có ở mọi người, mọi lứa tuổi tự tin là điều kiện đảm bảo cho
con người phát huy cao độ mọi tiềm năng của bản thân, thích nghi với điều
kiện biến đổi của tự nhiên, xã hội. Một đứa trẻ tự tin được giáo dục tốt, sẽ là
một công dân gương mẫu tính cực của xã hội sau này. Trẻ 5 - 6 tuổi đang hình
thành nhân cách, tính tự tin là một trong những phẩm chất nhân cách cần
được quan tâm, hình thành để chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho trẻ bước
vào trường phổ thông.
6


Văn học là nguồn suối không cạn của tri thức, là kinh nghiệm sống mà
con người cần tiếp thu và phát triển. Chính vì vậy, tác phẩm văn học có vị trí,
sức mạnh riêng trong sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục trẻ mầm non
nói riêng. Nó trở thành nội dung và phương tiện hữu hiệu để giáo dục trẻ. Với
trẻ lứa tuổi mầm non “học bằng chơi, chơi mà học”, trò chơi đóng kịch dựa
theo tác phẩm văn học là một trong những hoạt động được trẻ em yêu thích
bởi nó vừa mang tính nghệ thuật vừa là trò chơi giúp trẻ tích cực, hứng thú
tham gia hoạt động, là cơ hội để trẻ bộc lộ, phát huy được nhiều thế mạnh của
bản thân và qua đó tính tự tin được hình thành và phát triển.
Tuy nhiên thực tiễn giáo dục mầm non hiện nay vấn đề giáo dục tính tự
tin thông qua trò chơi đóng kịch cho trẻ chưa nhận được sự quan tâm đầy đủ.

Giáo viên chưa thực sự nhận thức được vai trò, tầm quan trọng, ý nghĩa đặc
biệt của việc giáo dục tính tự tin thông qua trò chơi đóng kịch, do đó họ chưa
dành thời gian, tâm sức, cũng như việc tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
này. Trò chơi đóng kịch còn đơn điệu và chưa có sự sáng tạo, chính vì vậy
không thu hút được sự chú ý của trẻ. Với mong muốn hình thành và phát triển
tính tự tin cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua việc cho trẻ tham gia trò chơi đóng kịch
để nhập vai và thể hiện hành động vai theo cách riêng của mình, đề tài “Giáo
dục tính tự tin cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua trò chơi đóng kịch ở trường
mầm non” được lựa chọn nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số biện pháp
GDTTT cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua TCĐK, góp phần giúp trẻ tự tin hơn.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình GDTTT cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua TCĐK ở trường MN.

7


3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp GDTTT cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua TCĐK ở trường MN.
4. Giả thuyết khoa học
Có thể GDTTT cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua TCĐK ở trường MN. Mức
độ tự tin của phần lớn trẻ 5 - 6 tuổi được nghiên cứu ở mức trung bình. Nếu
xây dựng và áp dụng được một số biện pháp GDTTT thông qua TCĐK theo
hướng tạo điều kiện cho trẻ mạnh dạn nhập vai, chủ động thể hiện vai diễn
trên sân khấu thì sẽ góp phần giúp trẻ tự tin hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về GDTTT cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua
TCĐK ở trường MN.

5.2. Tìm hiểu thực trạng sử dụng biện pháp GDTTT cho trẻ 5 - 6 tuổi
và mức độ biểu hiện TTT của trẻ 5 - 6 tuổi trong TCĐK ở một số trường MN
trên địa bàn thành phố Uông Bí - Quảng Ninh.
5.3. Đề xuất và tiến hành TN một số biện pháp GDTTT cho trẻ 5 - 6
tuổi thông qua TCĐK ở trường MN.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu biện pháp GDTTT cho
trẻ 5 - 6 tuổi thông qua TCĐK ở trường MN và mức độ biểu hiện TTT của trẻ
trong TCĐK
- Mẫu nghiên cứu: 150 trẻ 5 - 6 tuổi tại 4 trường MN: Trường MN
Thực hành Sư Phạm, Trường MN Yên Thanh, Trường MN Quang Trung,
Trường MN Nam Khê và 30 GV trực tiếp giảng dạy trẻ 5 - 6 tuổi trên địa bàn
thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh
- Địa bàn nghiên cứu: một số trường MN trên địa bàn Thành phố Uông
Bí - tỉnh Quảng Ninh.

8


7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, hệ thống hóa các
vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát những biểu hiện của TTT ở trẻ trong TCĐK ở một số lớp 5 - 6 tuổi.
Quan sát hoạt động của GV đối với trẻ 5 - 6 tuổi nhằm tìm hiểu những
biện pháp GDTTT cho trẻ ở độ tuổi này.
7.2.2. Phương pháp đàm thoại
Trò chuyện, trao đổi với GV MN nhằm tìm hiểu nhận thức, thái độ của

họ đối với việc GDTTT cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua TCĐK ở trường MN.
7.2.3. Phương pháp điều tra bằng phiếu Anket
Dùng phiếu điều tra ý kiến của GV ở các trường MN về sự hiểu biết về
TTT và thực trạng sử dụng biện pháp GDTTT cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua
TCĐK ở trường MN.
7.2.4. Phương pháp thực nghiệm
Kiểm chứng giả thuyết đặt ra và thử nghiệm các biện pháp đề xuất.
+ TN phát hiện: Dùng để phát hiện mức độ biểu hiện TTT của trẻ 5 - 6
tuổi trong TCĐK ở trường mầm non.
+ TN tác động: Dùng để tác động sư phạm nhằm GDTTT của trẻ được
nghiên cứu.
7.3. Nhóm phương pháp xử lí số liệu
Sử dụng một số công thức toán học thống kê có liên quan: công thức
tính tỉ lệ %, công thức tính điểm trung bình cộng, độ lệch chuẩn, kiểm định
giá trị lệch chuẩn để lượng hoá kết quả nghiên cứu thực nghiệm.
8. Kế hoạch nghiên cứu
- Từ tháng 10 đến tháng 11: Xác định tên đề tài và xây dựng đề cương
nghiên cứu;
9


- Từ tháng 11 đến tháng 12: Xây dựng cơ sở lí luận
- Từ tháng 01 đến tháng 6: Khảo sát thực trạng, đưa ra một số biện
pháp, tiến hành thực nghiệm và xử lí số liệu.
- Từ tháng 6 đến tháng 10: Hoàn thành và bảo vệ luận văn.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lí luận về giáo dục tính tự tin cho trẻ 5 - 6 tuổi thông
qua trò chơi đóng kịch ở trường mầm non.
- Chương 2: Thực trạng giáo dục tính tự tin và mức độ biểu hiện tính

tự tin của trẻ 5 - 6 tuổi thông qua trò chơi đóng kịch ở trường mầm non
- Chương 3: Biện pháp giáo dục tính tự tin cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua
trò chơi đóng kịch ở trường mầm non và thực nghiệm sư phạm.

10


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ GIÁO DỤC TÍNH TỰ TIN CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI
THÔNG QUA TRÒ CHƠI ĐÓNG KỊCH Ở TRƯỜNG MẦM NON

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
TTT là vấn đề đã được quan tâm từ lâu và trở thành đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học, trong đó có ngành tâm lý học và giáo dục học.
Trong lịch sử đã có nhiều công trình nghiên cứu khẳng định vai trò quan
trọng, có tính chất quyết định của TTT đối với cuộc sống xã hội và hình thành
nhân cách con người. Như vậy, về TTT có nhiều công trình nghiên cứu, tuy
nhiên có thể đưa ra các xu hướng sau
1.1.1. Xu hướng 1, nghiên cứu về đặc điểm, bản chất của tính tự tin.
1.1.1.1. Ở nước ngoài
Nhà tâm lý học Gael Lindefield trong tác phẩm “Giúp trẻ tự tin” đã
dành hẳn một chương để trình bày vấn đề “Hiểu thêm về sự tự tin”. Ban đầu
ông đưa ra khái niệm “Người tự tin là người cảm thấy hài lòng về mình”
nhưng sau đó ông thấy rằng định nghĩa còn nhiều điểm thiếu xót, cần nghiền
ngẫm về bản chất của sự tự tin và phân tích các yếu tố cấu thành nên nó và
đưa ra khái niệm “Sự tự tin ưu việt” với sức mạnh “phụ” được chiết xuất ra từ
sự ảnh hưởng qua lại, có tính tương hỗ cho nhau một cách liên tục giữa thành
phần bên trong và bên ngoài của nó. [10, 16]
Nếu như Gael Lindefield đưa ra biểu hiện bên trong và bên ngoài của
TTT thì theo Rudaki: “TTT chính là trụ cột của tinh thần phong độ, khiến
con người cởi mở lạc quan, làm tiêu trừ và ngăn ngừa sinh sản lòng tự ti, biết

xử lý vấn đề một cách quyết đoán, nhanh gọn” [40, 107]
Nhóm tác giả Marjorie R.Simic, Melinda Mc Clain và Michael Shermis
(người Mỹ) trong cuốn "The Confident Learn: Help your child succeed in school"
cho rằng một đứa học trò đầy tự tin là một đứa trẻ biết đánh giá cao bản thân.
Đinh Viễn Trí, Đông Phương Tri khi đề cập vấn đề “Chiếc chìa khóa

11


vàng để đi tới thành công” đã nhắc đến yếu tố “Tự tin” đầu tiên trong 3 yếu tố
của chìa khóa vàng là: “Tự tin”, “Dũng khí” và “Lòng nhiệt tình”. Theo đó,
tác giả cho rằng: “Tự tin chính là một chiếc quyền trượng, một khi bạn có sự
tự tin thì cách nhìn cuộc sống và nhìn vào chính bản thân bạn cũng sẽ thay
đổi, khí chất sẽ càng ưu tú hơn, bạn sẽ càng lạc quan hơn”. [57, 35]
Từ những lí luận ban đầu về TTT, các nhà nghiên cứu đã phát triển
thêm và dần hình thành việc rèn luyện TTT. Tự tin là một phần vốn có trong
hành vi của loài người, nhưng nếu không được luyện tập để phát huy thì sẽ
tàn lụi theo thời gian, con người trở lên nhút nhát, sợ sệt, nhu nhược. Điều
này dễ đưa con người đến chiều hướng vô dụng. Tự tin không những để thực
hiện một một đích tức thời, mà đó là một quá trình, một lịch trình trưởng
thành của con người trong một thời gian dài.
1.1.1.1. Ở Việt Nam
Những năm gần đây vấn đề về TTT cũng được các nhà giáo dục Việt
Nam quan tâm nghiên cứu. TTT là cơ sở tâm lý của sự phát triển và thành
công của đời người, với số đông người, trí lực bình thường cộng thêm TTT
cao là có thể đạt được thành công.
Tác giả Nguyễn Thị Mĩ Lộc trong cuốn “Giáo dục giá trị sống và kĩ
năng sống cho trẻ MN” cho rằng: “Mỗi khi trẻ có cảm giác thành công, sự tự
tin lại lớn dần lên. Tự tin là một đức tính chỉ có thể có được nhờ vào việc rèn
luyện và học hỏi. Sự tự tin lớn dần lên nhờ cảm giác được yêu thương, tôn

trọng và thấy mình có giá trị ”. [28, 123]
Trong bài báo “Những nghiên cứu nâng cao lòng tự tin của học sinh”,
Nguyễn Huy Tú cho rằng “Lòng tự tin là một hiện tượng tâm lí phức tạp. Nó
được hình thành trong quá trình tương tác của nhiều thuộc tính tâm lí khác
nhau và tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với những thuộc tính nhân cách
đó”. [56, 25]
12


Như vậy các tác giả trong nước và nước ngoài đều đề cập đến TTT ở
nhiều khía cạnh khác nhau, tuy nhiên về cơ bản đều cho rằng tự tin như là
phần vốn có trong hành vi, là phẩm chất nhân cách, xuất hiện khi con người
còn nhỏ, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới sự thành công của mỗi người.
1.1.2. Xu hướng 2, nghiên cứu vai trò của tính tự tin
1.1.2.1. Ở nước ngoài
Nhà tâm lý học Nga T.P.Xkripkina đã cho thấy trong hàng loạt vấn đề
nghiên cứu nhân cách của các nhà tâm lý học Nga, vấn đề vai trò của TTT đã
được đề cập đến. Tự tin là điều kiện để phát triển nhân cách, nghiên cứu sự tự
tin là rất quan trọng để hiểu rõ cơ chế hình thành một nhân cách sáng tạo, chủ
động, độc lập bởi thiếu tự tin là nguyên nhân của mọi thất bại.
Trong thực tế không ít người cảm thấy số phận của mình lận đận, cứ
loay hoay mãi mà vẫn thất bại trong cuộc sống và trong công việc. Bời vì họ
thường hay dựa dẫm vào người khác, họ không biết mình có những khả năng
gì, do đó họ không biết đánh giá bản thân mình. Người thiếu tự tin vì thế
trong chừng mực nào đó không thành đạt trong cuộc sống. Nhưng trong thực
tế không phải ai cũng tìm hiểu, khám phá nó để củng cố tự tin của mình để
sống tích cực hơn.
George Matthew Adams trong cuốn “You can - Không gì là không thể” cho
rằng: “Tự tin giống như sống lưng của con người… Thiếu lòng tự tin, con người sẽ
chẳng làm nên trò chống gì… Tự tin là nền tảng của thành công, giúp con người

rèn luyện bản lĩnh, nhân cách và nắm bắt kịp thời các cơ hội” [11, 21].
Tạo cho trẻ sự tự tin là việc làm vô cùng quan trọng. Nếu trẻ cảm thấy
tự tin chúng sẽ có can đảm khám phá mọi thế giới xung quanh dù chỉ một lần.
Đây là một điều đáng quan tâm khi trẻ lên 5 - 6 tuổi, tức là lúc trường học sẽ
trở thành một môi trường quan trọng trong cuộc đời của trẻ. Mỗi ngày trẻ có
những trải nghiệm mới về học tập và trẻ cần có sự tự tin để ứng phó giải
13


quyết những trải nghiệm đó, mỗi ngày, trẻ cũng có những trải nghiệm mới về
xã hội khi trẻ giao tiếp với những bạn cùng lớp, nhưng nếu trẻ thiếu tự tin, trẻ
sẽ không thích tham gia nhiều vào các hoạt động. Như vậy, các tác giả đề cao
vai trò TTT đối với quá trình phát triển đời người, phát triển lý thuyết GDTTT
lên một nấc thang mới cao hơn.
1.1.2.2. Ở Việt Nam
Cũng giống như quan điểm của nhiều tác giả nước ngoài, các tác giả
Việt Nam cũng đề cao vai trò của TTT đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách con người.
Tác giả Hữu Khánh cho rằng trong việc nuôi dạy trẻ, điều quan trọng
là làm cho trẻ có được TTT bởi “đứa trẻ tự tin là đứa trẻ sau này sẽ đi bằng
chính đôi chân, nghị lực và trí tuệ của nó. Đứa trẻ tự tin sẽ làm nhẹ đi rất
nhiều nỗ lực dạy dỗ của gia đình, nhà trường và xã hội. Khi trẻ tự tin sẽ giúp
trẻ có nhiều cơ hội thành đạt trong cuộc sống” [26, 7].
Nhóm tác giả Dương Tân - Nguyễn An trong cuốn “Sức mạnh tính
cách” đã trích lời Napoleon để khẳng định vai trò của TTT: “Ngấm ngầm
thừa nhận mình không có năng lực, không nghi ngờ gì nữa, đã tạo cơ hội cho
thất bại”. [42, 188]
Tác giả Hà Sơn trong cuốn "Hình thành lòng tự tin cho trẻ" có viết:
"Tự tin là sức mạnh thần kỳ, chúng biến cái không thể thành cái có thể, biến
cái có thể trở thành hiện thực". [35, 141]

Cùng với quan điểm đó, tác giả Minh Thư cho rằng: “Tự tin chính là
sự thăng hoa của khả năng và sáng tạo. Khi trẻ có lòng tự tin thì chúng sẽ
dám làm, dám xử lí và nắm bắt vấn đề trong cuộc sống. Qua đó dần dần tích
luỹ được các kinh nghiệm sống, tự rèn luyện những kĩ năng sống thiết thực
cho bản thân” [47, 57]
Nguyễn Thanh Huyền trong luận án Tiến sĩ “Các biện pháp giáo dục
14


tính tự lực cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua chế độ sinh hoạt” đã đề cập đến vai
trò của TTT trong cơ chế thể hiện của tính tự lực. “Tạo cho trẻ sự tự tin, cảm
giác an toàn” là một trong sáu nguyên tắc để xây dựng biện pháp giáo dục
tính tự lực cho trẻ 5 - 6 tuổi: “Khi trẻ thiếu lòng tin vào bản thân sẽ không thể
hoạt động tự lực. Nếu gặp thất bại nhiều, trẻ dễ chán nản, mất lòng tin vào
bản thân” [20, 96]
Nguyễn Thị Ngọc Tuý trong đề tài “Một số biện pháp GDTTT cho trẻ
5 - 6 tuổi trong trường mầm non” đã khẳng định: “TTT như là một khát vọng
để hướng tới tương lai và giúp cho trẻ đối mặt với những khó khăn trong học
tập và đời sống, giúp cho con người vững vàng, biết điều khiển bản thân
mình để đạt được kết quả như mong muốn và thành công trong cuộc sống”
[48, 7].
Có thể nói, các nhà tâm lí - giáo dục học đã nâng lên một bước khi cho
rằng tự tin không chỉ là liều thuốc chữa bệnh bất an mà tự tin còn được thể hiện
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, giúp con người vượt qua được khó khăn
để vươn tới thành công và xem tự tin như một điều kiện của sự hình thành và
phát triển nhân cách toàn diện. Do đó GDTTT cho trẻ ngay ở lứa tuổi MN là
điều cần thiết để góp phần hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ.
1.1.3. Xu hướng 3, nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến tính tự tin
1.1.3.1. Ở nước ngoài
Gael Lindefield đã đặt ra câu hỏi “Sự tự tin đến và biến mất như thế

nào? Chẳng nhẽ một số đứa trẻ ra đời lại mang sẵn gien tự tin? Có những
đứa trẻ sinh ra để làm tổng thống?”
Trước hết, ông khẳng định vai trò của yếu tổ bẩm sinh trong việc phát
triển TTT bởi“mỗi người trong chúng ta khi sinh ra dù ít, dù nhiều đều có sẵn
trong người một cái hộp nhỏ đựng những nguyên liệu cơ bản để tác thành lên
sự tự tin sau này” [10, 18].
15


Tuy nhiên, “không thể khẳng định một đứa trẻ thật sự tự tin, cho dù nó
được thừa hưởng một gia sản quí báu của cha mẹ là “gien hướng ngoại”,
TTT còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác như: giáo dục, đặc điểm tâm lí cá
nhân, môi trường và tích tích cực của mỗi cá nhân, “điều quan trọng không
phải chúng ta là ai, làm nghề gì mà chính là điều chúng ta sẽ được nuôi
nấng, dạy bảo và động viên làm công việc gì” [10, 19].
Bàn về các yếu tố ảnh hưởng đến TTT, tác giả Jean Charier cũng
khẳng định: “Tình trạng sức khoẻ cũng góp phần làm ảnh hưởng tới sự tự tin
của mỗi con người trước khó khăn trong cuộc sống”. Thêm vào đó, chính ông
đã trả lời câu hỏi “Tại sao bạn lại nhút nhát? Bởi vì ban thiếu ý chí! Bởi vì
bạn có tự ti, mặc cảm không tự biết đến khả năng của mình thực sự như thế
nào và bởi vì bạn sợ”. [23, 19].
Sa Tư trong cuốn Lòng tự tin đưa ra yêu cầu “Khắc phục sợ hãi và
nhút nhát” bằng cách: chuyển nỗi sợ hãi, bất an, nhút nhát thành lòng tự tin,
đầy tính thách thức. Cần tin tưởng vào sức mạnh tinh thần, cảm thấy mình đủ
khả năng gánh vác trách nhiệm. Cần tin tưởng vào khả năng thành công, “hễ
tin là làm, hễ làm là có kết quả”. [34, 17]
1.1.3.2. Ở Việt Nam
Tác giả Hữu Khánh trong cuốn “37 phương pháp đơn giản GDTTT
cho trẻ” cho rằng tự tin không phải tự dưng mà có, “loại trừ yếu tổ bẩm sinh
của đứa trẻ về thể chất, sức khoẻ, thần kinh thì chính thái độ và sự giáo

dưỡng của cha mẹ mang tính chất quyết định” [26, 11].
Giống như quan điểm của tác giả Hữu Khánh, tác giả Nguyễn Công
Khanh cũng đề cao vai trò của người lớn trong việc giáo dục trẻ trong bài báo
“Những yếu tố ngăn cản sự hình thành TTT ở trẻ em”. Ông cho rằng một
trong những yếu tố ngăn cản sự hình thành TTT ở trẻ em chính là những ảnh
hưởng giáo dục từ người lớn, “người lớn không yêu cầu cao, không giao cho
16


trẻ những nhiệm vụ đòi hỏi sự sáng tạo, làm cho trẻ có nguy cơ thiếu hụt sự
trải nghiệm cần thiết để rèn luyện bản lĩnh cho trẻ làm chúng mất cơ hội để
trải nghiệm, trở lên thụ động và kém tự tin” [25, 22].
Như vậy, có thể khẳng định vai trò to lớn của cha mẹ, thầy cô giáo
trong việc giáo dục tính tự tin cho trẻ
1.1.4. Xu hướng 4, nghiên cứu các biện pháp giáo dục tính tự tin
Từ những kinh nghiệm thực tiễn, các nhà tâm lí, giáo dục cho rằng giáo
dục tính tự tin không chỉ là nhiệm vụ của gia đình mà còn là nhiệm vụ chung
của các nhà giáo dục và của xã hội. Họ đã đề xuất nhiều biện pháp dành cho
gia đình và trường học.
1.1.4.1. Ở nước ngoài
Theo Gael Lindefield để có thể khai thác hết được những khả năng
tiềm tàng về sự tự tin của đứa trẻ, những chất dinh dưỡng cần thiết với đứa
trẻ trong quá trình trưởng thành của nó, bao gồm: “Tình thương, sự che chở,
nêu gương tốt, quan hệ rộng, sức khỏe, tiện nghi, nguồn động viên và khen
thưởng.” [10, 19-22]
Một số tác giả Marjorie R.Simic, Melinda Mc Clain và Michael
Shermis, tác giả cuốn sách “The Confident Learn: Help your child succeed in
school" đề xuất một số biện pháp dành cho gia đình như:
Biện pháp dùng lời: Tâm sự với trẻ nhỏ; Lắng nghe những nỗi sợ hãi
của trẻ; Nhấn mạnh đề cao, khen ngợi những điểm mạnh của trẻ; Tầm quan

trọng của việc sử dụng ngôn ngữ; Hãy nói lời yêu thương với trẻ, không mạt
sát, đe dọa trẻ; Học tập nghệ thuật khen ngợi; Ôn tồn giải thích cho trẻ hiểu
những điều nó cần làm
Biệp pháp tạo tình huống: Hãy để trẻ có quyền lựa chọn và tham gia
giải quyết vấn đề trong gia đình; Hãy dạy trẻ chịu trách nhiệm về hành động
của mình; Dạy trẻ biết cách ứng xử; Làm cho trẻ thấy mình được coi trọng.
17


Biện pháp cho trẻ tự khám phá: Hãy khuyến khích trẻ tự do khám phá;
Tạo những điều thú vị mới lạ; Hãy cho trẻ làm thử dù rất ít.
Biện pháp tập thể: Dạy trẻ tinh thần là việc vì tập thể; Giúp trẻ trong quan
hệ bè bạn; Khuyến khích trẻ khen bạn của nó; Khuyến khích trẻ tham gia các
hoạt động có tính chất đồng đội; Hãy tập cho trẻ biết chia sẻ; Không nên so sánh.
Sa Tư đã bàn luận các vấn đề để tạo nên lòng tự tin trong cuộc sống
như: “Nhận thức đúng bản thân, tầm quan trọng của sự chuyển hướng tư
tưởng, tin tưởng vững chắc giá trị bản thân. Tin tưởng vững chắc giá trị của
bản thân, có bản lĩnh vượt qua mọi thử thách, là sức mạnh quyết định để vượt
qua thử thách” [34, 130].
Để “Bồi dưỡng lòng tự tin” cần “bí quyết khích lệ bản thân”. Cần phát
động bản thân bằng những câu nói khích lệ “Lập tức hành động”. Bất kể lúc
nào, khi câu “Lập tức hành động” từ tiềm thức lóe hiện ra ý thức, thì bạn cần
lập tức hành động” [34, 158,]
1.1.4.2. Ở Việt Nam
Về phương pháp nâng cao lòng tự tin của học sinh, Nguyễn Huy Tú
cho rằng có nhiều con đường tác động nâng cao lòng tự tin: Xác định hệ
chuẩn tự đánh giá năng lực nhằm tạo ra ở các em những thể nghiệm thành
công, cung cấp chuẩn tự đánh giá ban đầu thấp, sau nâng dần lên thì quá trình
tự đánh giá kết quả hành động của các em sẽ dẫn đến những thể nghiệm thành
công ngày càng sâu sắc và Thuyết phục đặc biệt nghĩa là tìm cách thuyết phục

học sinh rằng, các em sẽ hoàn thành tốt tất cả mọi nhiệm vụ được giao nếu
các em cố gắng luyện tập. [56, 25]
Tác giả Huỳnh Văn Sơn trong phần kĩ năng thể hiện và nuôi dưỡng sự
tự tin, có viết: “Sẽ không thừa nếu chúng ta rèn luyện sự tự tin từ rất sớm.
Tuy vậy sẽ có thể chấp nhận con bạn còn nhiều hạn chế trong một khoảng
thời gian nào đó, sẽ có thể chấp nhận những sai sót nhất định của bạn trong
18


lần đầu tiên nhưng đó chính là những bước đệm để bạn có thể nuôi dưỡng sự
tự tin của bạn lớn dần" [38, 28].
Nếu biện pháp “Biết cách động viên và khen đứa trẻ” được Hữu
Khánh đề cập đến đầu tiên trong hệ thống 37 phương pháp GDTTT cho trẻ
[26, 11] thì tác giả Lê Thị Bừng trong cuốn “Tâm lí học ứng xử” cũng đề cập
đến biện pháp này: “Khen những khả năng, sự gắng sức và tiến bộ của người
ta là thừa nhận tài năng của người ta làm cho người ta phấn chấn, tự tin vào
sự cố gắng vươn lên của mình” [4, 11].
Nguyễn Thị Mĩ Lộc đưa ra cách thức phát triển sự tự tin ở trẻ: “Tôn
trọng trẻ, giúp trẻ xây dựng hình tượng tốt của chính mình; Nói cho trẻ biết
“Con có thể làm được”; Bồi dưỡng tài năng đặc biệt cho trẻ; Củng cố sự tự
tin mọi lúc, mọi nơi; Cho phép trẻ mắc sai lầm; Quy định hành vi; Phát triển
những ưu điểm.” [28, 124-127]
Tác giả Nguyễn Công Khanh trong bài báo “Những yếu tố ngăn cản
sự hình thành TTT ở trẻ em” cho rằng: “Sự tự tin được hình thành là kết quả
của các hành động trẻ tham gia và gặt hái được sự thành công trên các
nguyên tắc tích cực khám phá, tích cực thể hiện, trải nghiệm và giầu tương
tác… Ngoài ra sự tự tin hình thành từ sự chấp nhận, sẵn sàng đương đầu với
khó khăn, làm chủ được các kĩ năng sống” [25, 22]
Ông đưa ra Mô hình phát triển TTT cho trẻ em: tin tưởng trẻ, không
đánh giá thấp trẻ, tạo cơ hội để trẻ khám phá, trải nghiệm, tương tác; khen

thưởng, tạo động cơ, thường xuyên kiểm tra, củng cố và làm cho công việc
trở nên vui vẻ và thú vị với các biện pháp như: kiên trì hướng dẫn, khích lệ,
không chê bai, giao cho trẻ những công việc đặc biệt, lập kế hoạch để chuẩn
bị trước tâm thế cho trẻ sẵn sàng tham gia.
Như vậy, có thể thấy vấn giáo dục tính tự tin cho trẻ là vấn đề khá phức
tạp được các tác giả trong và nước ngoài quan tâm nghiên cứu tìm hiểu và
19


đưa ra quan điểm của mình. Những công trình nghiên cứu trên đã phần nào
cho thấy vai trò quan trọng của tính tự tin, các yếu tố ảnh hưởng đến tính tự
tin và cách thức phát triển tính tự tin. Tuy nhiên, các tác giả chủ yếu nghiên
cứu về giáo dục tính tự tin trong gia đình (Gael Lindefield, Trí Đức, Huy
Khánh), hoặc nghiên cứu về giáo dục tính tự tin cho học sinh ở trường phổ
thông (Nguyễn Huy Tú) còn các công trình nghiên cứu về các biện pháp giáo
dục tính tự tin giành cho giáo viên trong trường mầm non thì chưa nhiều.
Hiện nay, có một số tác giả đã có công trình nghiên cứu về GDTTT cho
trẻ trong các hoạt động trong trường mầm non Nguyễn Thị Ngọc Túy trong đề
tài Luận văn Thạc sĩ giáo dục học “Một số biện pháp giáo dục tính tự tin cho
trẻ 5 - 6 tuổi trong trường mầm non” và Nguyễn Thị Thủy với đề tài“Giáo
dục tính tự tin cho trẻ mẫu giáo thông qua hoạt động vui chơi ở trường mầm
non” đã đề xuất những biện pháp GDTTT cho trẻ, tuy nhiên những công trình
đề cập về vấn đề GDTTT thông qua TCĐK cho trẻ ở trường mầm non chưa
nhiều.
1.2. Lý luận về tính tự tin và giáo dục tính tự tin cho trẻ 5 - 6 tuổi ở
trường mầm non
1.2.1. Khái niệm "Tính tự tin" và “Giáo dục tính tự tin” cho trẻ 5 -6 tuổi
1.2.1.1. Khái niệm “Tính tự tin”
Theo “Từ điển Bách khoa Tâm lí học, giáo dục học Việt Nam ”, “Tự
tin là một thái độ tin tưởng vững chắc vào những khả năng thực tế của

mình” [13, 1077]
Theo Gael Lindefield, nếu dừng lại ở định nghĩa “Người tự tin là
người cảm thấy hài lòng về mình” thì khái niệm như vậy là tạm ổn để giao
tiếp chung chung, nhưng khi cố tìm hiểu sâu hơn cái tính chất quan trọng của
“sự hài lòng về mình” thì định nghĩa này còn nhiều điểm thiết sót. Vì vậy, cần
nghiền ngẫm về bản chất của sự tự tin, phân tích những thành phần cấu thành
20


nên nó. Các yếu tố tạo nên loại tự tin nội tâm và loại biểu hiện ra bên ngoài
tương trợ lẫn nhau, chúng tạo cho ta môt cái gì đó thật mạnh mẽ và hiệu quả
hơn ảnh hưởng đến cảm xúc, hành vi của con trẻ. [10, 5]
Theo Rudaki: “TTT chính là trụ cột của tinh thần, phong độ, khiến con
người cởi mở lạc quan, làm tiêu trừ và ngăn ngừa sinh sản lòng tự ti, biết xử
lý vấn đề một cách quyết đoán nhanh gọn”. [40, 104]
Các tác giả Nga như T.P. Xkripkina, X.L.Rubinxtein, B.X.Bratus... chỉ
ra rằng không tin vào bản thân dẫn đến sự chối bỏ tính cá nhân của mình, luôn
tìm kiếm những điểm tựa bên ngoài chứ không phải ở bản thân mình, vì vậy
họ dễ trở thành phụ thuộc và không tự thân vận động được. Sự tự tin được coi
như khả năng của con người đi ra khỏi giới hạn của bản thân.
Tác giả Lê Bích Ngọc trong cuốn “Những kĩ năng sử dụng bộ chuẩn phát
triển cho trẻ em 5 tuổi ở Việt Nam” phân chia các giá trị trong chuẩn thành các
nhóm: Nhóm giá trị để tồn tại; Nhóm giá trị để biết; Nhóm giá trị để làm và
Nhóm giá trị để cùng chung sống. Tự tin thuộc Nhóm giá trị để biết. “Tự tin là
tin vào bản thân mình: tự tin có được nhờ sự trải nghiệm giá trị của chính cá
nhân bằng so sánh với yêu cầu của giá trị. Tự tin được thể hiện ở hành vi
(phong cách, ứng xử), nội tâm (không tự ti, mặc cảm).Giá trị tự tin thể hiện ở
năng lực nhận thức được những giá trị của bản thân, tin tưởng vào khả năng
của mình, tin tưởng vào những lựa chọn, giải quyết vấn đề của bản thân” [33,
84]

Theo Nguyễn Huy Tú, “Lòng tự tin là một dạng biểu hiện của tự ý thức, là
lòng tin của một người vào năng lực hoàn thành nhiệm vụ nào đó của mình”. [56, 25]
Trong luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thanh Huyền với đề tài “Các biện pháp
giáo dục tính tự lực cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua chế độ sinh hoạt tại trường MN”
có viết: “Sự tự tin (niềm tin vào bản thân) là một phẩm chất của thế giới quan, là
sự kết tinh những hiểu biết và tình cảm của bản thân đối với mình và ý chí của
21


mình, là sự tin tưởng vào năng lực của mình khi hành động" [20, 36]
Theo Mô hình rèn luyện trí tuệ xúc cảm và kĩ năng sống thế hệ mới You can do it Education: “Sự tự tin nghĩa là cảm thấy tôi có thể làm được
điều đó. Tự tin cũng có nghĩa là tôi không sợ mắc lỗi hay luôn cố gắng làm
những việc mới lạ. Tự tin còn có nghĩa là đứng thẳng người và nói giọng rõ
ràng (không quá to, không quá nhẹ nhàng)” [62, 7]
Như vậy, thuật ngữ "tự tin" được các tác giả sử dụng không hoàn toàn
giống nhau, song nội hàm khái niệm "tự tin" thì khá thống nhất: tự tin là tin
vào bản thân mình, nhận thức rõ được bản thân.
Từ những nghiên cứu ở trên, trong đề tài này, khái niệm "Tính tự tin"
được lựa chọn như sau:
Tính tự tin là một phẩm chất nhân cách, là khả năng tin vào bản thân của
mỗi người, giúp họ có sức mạnh, ý chí để tiến hành chắc chắn một việc nào đó.
Nội hàm của khái niệm tính tự tin gồm hai vấn đề luôn thống nhất và
bổ sung hỗ trợ nhau là khả năng tin tưởng vào bản thân và sức mạnh, ý chí để
tiến hành chắc chắn một việc nào đó. Đúng như tác giả Nguyễn Thanh Bình
nhận định: “càng nhận thức dược khả năng của mình, con người càng có khả
năng sử dụng các kĩ năng sống khác một cách có hiệu quả” [4, 18]. Khi trẻ
biết tin tưởng vào khả năng, phẩm chất của mình, tin tưởng vào bản thân thì
sẽ có thể tiến hành chắc chắn một việc nào đó, và ngược lại khi trải nghiệm
thành công niềm tin vào bản thân càng được củng cố hơn.
Tính tự tin được hình thành trên cơ sở cá nhân có nhu cầu, khả năng và

mong muốn tin tưởng vào sức lực của bản thân để thực hiện các nhiệm vụ đặt
ra, tự tìm kiếm cách thức riêng để giải quyết các nhiệm vụ đó. Tự tin phải đi
đôi với nỗ lực, bền bỉ và kiên trì phấn đấu. Tự tin là dám chịu trách nhiệm về
việc mình làm và chủ động tìm cách khắc phục mọi hoàn cảnh khó khăn.
Tính tự tin cũng như bất cứ phẩm chất nhân cách nào khác của nhân
22


cách đều được hình thành, phát triển trong hoạt động và thông qua hoạt động
của con người trong sinh hoạt cũng như trong giao tiếp giữa con người với
con người và con người với thế giới xung quanh.
1.2.1.2. Khái niệm giáo dục tính tự tin cho trẻ 5 - 6 tuổi
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của giáo dục là sự
truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ loài người,
nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hoá nhân
loại và dân tộc được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó mà xã hội loài người
không ngừng tiến lên.
Theo Nguyễn Sinh Huy trong cuốn “Giáo dục học đại cương”: “Giáo
dục là hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm hình thành và phát triển nhân
cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử
nhất định”. [22, 80]
Theo nhóm tác giả Nguyễn Ánh Tuyết, Nguyễn Thị Như Mai - Đinh Thị
Kim Thoa trong cuốn “Tâm lí học trẻ em lứa tuổi MN (từ lọt lòng đến 6 tuổi)”:
“Giáo dục đó là quá trình mà thế hệ cha anh truyền lại kinh nghiệm
lịch sử - xã hội cho các thế hệ mới nhằm chuẩn bị cho họ bước vào cuộc sống
và lao động để đảm bảo sự phát triển hơn nữa của xã hội và của cá nhân.
Với trẻ thơ, giáo dục nhằm phát triển các chức năng tâm lí, hình thành
những cơ sở ban đầu của nhân cách con người, chuẩn bị cho những giai
đoạn phát triển sau được thuận lợi” [50, 77]
Từ các nghiên cứu trên có thể đưa ra khái niệm:

Giáo dục tính tự tin cho trẻ 5 - 6 tuổi là quá trình truyền lại những kinh
nghiệm - xã hội cho trẻ nhằm phát triển các chức năng tâm lí tăng cường khả
năng tin vào bản thân của trẻ, giúp trẻ có sức mạnh ý chí để tiến hành chắc
chắc một nhiệm vụ nào đó.
Không ai sinh ra đã có ngay sự tự tin. Tự tin là nguồn khích lệ lớn dối
23


với hầu hết mọi người, là động lực để chúng ta cố gắng đạt được mục tiêu và
dành được nhiều thành tích quan trọng. Vì vậy, gia đình, nhà trường và xã hội
có trách nhiệm vô cùng to lớn trong việc phát triển TTT cho trẻ.
1.2.2. Những biểu hiện tính tự tin của trẻ 5 - 6 tuổi
1.2.2.1. Quan điểm của các tác giả về những biểu hiện của tính tự tin
Theo Gael Lindefield, trong mỗi con người nói chung cũng như con
trẻ nói riêng có hai loại tự tin biểu hiện rất rõ ràng: Tự tin bên trong và Tự tin
thể hiện ra bên ngoài. [10, 6]
* Tự tin bên trong: Có 4 dấu hiệu làm tiêu chuẩn chính để đánh giá
một người có được sự tự tin bên trong: Luôn tự hào về bản thân và tính ích
kỷ: Biết rõ khả năng của bản thân; Luôn biết những mục tiêu cụ thể; Tư
tưởng lạc quan: [10, 7-10]
* Sự tự tin thể hiện ra bên ngoài: Qua các kĩ năng trong bốn lĩnh vực
sau: Kỹ năng giao tiếp; Tính quyết đoán; Kỹ năng trình bày, lập luận trước
đám đông; Khả năng kiểm soát những cảm xúc của bản thân: [10, 13-15]
Hai loại biểu hiện bên trong và bên ngoài của TTT luôn gắn quyện, hỗ trợ
lẫn nhau thành một thể thống nhất, chúng sẽ tạo cho ta một cái gì đó thật mạnh
mẽ và hiệu quả hơn trong hoạt động. Có những trẻ có thừa TTT bên trong nhưng
lại không thể nào thể hiện được những điểm mạnh cho mọi người nhìn thấy. Cho
nên các nhà giáo dục phát triển hài hòa giữa yếu tố bên trong và bên ngoài của
sự tự tin, tạo cho trẻ môi trường thuận lợi, an toàn giúp cho trẻ hình thành và
phát triển TTT một cách đầy đủ hơn, cả tự tin bên trong và bên ngoài.

Nguyễn Hồng Thuận trong Luận án tiến sĩ "Một số biện pháp tác động của
gia đình nhằm phát triển tính tự lập cho trẻ 5 - 6 tuổi" cũng dựa trên quan điểm của
Gael Lindefield đưa ra hai loại tự tin: Tự tin bên trong và Tự tin biểu hiện ra bên
ngoài. Để mọi người xung quanh nhận rõ TTT của mình cần phát triển các kĩ năng
trong 4 lĩnh vực sau: kỹ năng giao tiếp; kỹ năng tự ra quyết định; kỹ năng trình diện
24


trước bạn bè và kỹ năng kiểm soát những xúc cảm. [45, 37-38]
Trong cuốn Giáo dục Kĩ năng sống tác giả Nguyễn Thanh Bình có đề
cập đến vấn đề TTT trong một số kĩ năng như Kĩ năng nhận biết và sống với
chính mình và Kĩ năng nhận biết và sống với người khác. Nếu con người có
lòng tự trọng cao hay tích cực, người đó sẽ cảm nhận tốt về bản thân, tự tin và
quí trọng bản thân; cảm thấy mình còn có giá trị đối với người khác; cư xử tốt
và cảm thấy mạnh mẽ, kiên định bảo vệ những giá trị và niềm tin của bản thân
nếu phải đương đầu với những ý nghĩ hoặc những việc làm trái ngược của bạn
bè cùng lứa hoặc của người khác” [4, 18]
Tác giả Hữu Khánh đưa ra biểu hiện TTT của trẻ như: “Tự khẳng định
mình trong việc chơi, việc học và tự lập trong sinh hoạt hàng ngày; Dám bảo
vệ quan điểm của mình ngay cả khi nói chuyện với người lớn; Thể hiện rõ rệt
sự dũng cảm và bình tĩnh khi gặp khó khăn nguy hiểm hay khi va vấp thất
bại; Dễ kết thân với bè bạn; Làm việc gì cũng kiên trì làm cho đến cùng;
Không hùa vào ý kiến của đa số, khi chúng cho rằng ý kiến đó không đúng;
Thường có ý kiến độc lập, song biết phục thiện khi thấy ý kiến đó không
đúng” [26, 8]
Lê Bích Ngọc trong cuốn “Những kĩ năng sử dụng bộ chuẩn phát triển
cho trẻ em 5 tuổi ở Việt Nam” cho rằng: “Trẻ 5 tuổi bộc lộ sự tự tin qua việc
cố gắng thực hiện công việc đến cùng, mạnh dạn nói lên ý kiến của bản thân,
chủ động làm một số công việc hằng ngày, sẵn sàng giúp đỡ bạn, thích thú
khi hoàn thành công việc yêu thích” [33, 70].

Theo Mô hình rèn luyện trí tuệ xúc cảm và kĩ năng sống thế hệ mới You can do it Education đưa ra những ví dụ về thái độ tự tin như sau:
1. Tự tin trong học tập: Lựa chọn để tham gia vào một hoạt động, một
môn học mới và khó khăn. Tự làm một bài tập, một việc khó mà không cần
người khác giúp đỡ. Giọng nói to rõ ràng, dễ nghe. Cố gắng hết sức để trả lời
25


×