Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Tìm hiểu lễ hội truyền thống và lễ hội hiện đại việt nam qua báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (804.27 KB, 56 trang )

Trờng đại học khoa học xã hội & nhân văn
đại học quốc gia hà nội
-------Khoa báo chí -------

luận văn tốt nghiệp
Đề tài:

Tìm hiểu Lễ hội truyền thống và Lễ hội hiện đại
Việt Nam qua Báo chí

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thanh Trà
Giáo viên hớng dẫn: GS Hà Minh Đức

Hà Nội
Tháng 5 / 2006


T

Lời mở đầu
***

rong giai đoạn hiện nay, cùng với sự đổi thay nhiều mặt của đất nớc, Lễ
hội Việt Nam với t cách là một thành tố cấu thành của văn hoá Việt Nam
cũng đang có sự biến đổi về nội dung và hình thức. Những lễ hội truyền thống
tiếp tục đợc duy trì và mở rộng. Những lễ hội cổ truyền ở một số làng quê bị
quên lãng trong một thời gian dài đợc làm sống dậy cùng với danh hiệu làng
văn hóa đợc Bộ Văn Hoá Thông Tin trao tặng cho các làng này. Bên cạnh
những lễ hội truyền thống, những hình thức mới chứa đựng những nội dung
mới của hoạt động lễ hội đang diễn ra biến động và từng bớc định hình trong
điều kiện mới đó là các lễ hội hiện đại - lễ hội du lịch, lễ hội văn hoá- thể


thao- các ngày kỉ niệmđang ngày càng mở rộng với nhiều quy mô, mức độ
và nội dung phong phú đa dạng, sinh động không dễ dàng thẩm định và kiểm
soát. Những lễ hội mới mang màu sắc hiện đại đợc tạo dựng một cách hoành
tráng, gắn với du lịch, văn hoá của những vùng đất nh: Lễ hội hoa Đà Lạt, Lễ
hội kỉ niệm 990 năm Thăng Long Hà Nội, Lễ hội Di sản Miền TrungTất cả
đang đặt ra cho các nhà nghiên cứu, nhà quản lý tìm cách khai thác sử dụng
để đáp ứng nhu cầu đặt ra.
Thông thờng ở Việt Nam những lễ hội có từ trớc 1945 đợc gọi là lễ hội
cổ truyền, lễ hội dân gian, truyền thống. Những lễ hội ra đời từ sau 1945 đợc
gọi là lễ hội hiện đại, lễ hội này đã và đang trở thành hoạt động văn hoá thờng
niên ở các cộng đồng dân c.
Lễ hội Việt Nam cũng là một kênh để giới thiệu nền văn hoá Việt Nam
ra thế giới đồng thời giúp cho chính những ngời dân Việt Nam hiểu rõ hơn về
truyền thống dân tộc và ý nghĩa của những sự kiện văn hoá này. Tổ chức
những lễ hội hiện đại với mục đích dễ nhận thấy hơn cả của những sự kiện lễ
hội hiện đại nhằm thu hút khách quốc tế đến với Việt Nam.
Báo chí có một vai trò quan trọng và tỏ ra là một kênh thông tin hữu
hiệu nhất để giới thiệu lễ hội Việt Nam. Sự đóng góp của báo chí trong việc
phản ánh và xây dựng hình ảnh lễ hội Việt Nam trong tâm trí ngời dân Việt
Nam và bạn bè quốc tế là rất lớn.
Bên cạnh đó, báo chí vẫn còn thể hiện một số hạn chế sau: Cha truyền
tải đợc cái hồn của mỗi một lễ hội một cách thuyết phục, thiếu đi sự hiểu
biết sâu sắc về truyền thống dân tộc thể hiện qua các lễ hội truyền thống và lễ
hội hiện đại.

2


Các phơng tiện truyền thông tỏ ra khá cứng nhắc trong việc phản ánh
các lễ hội hiện đại. Hầu hết các lễ hội hiện đại đợc chuyển tải trên báo chí

theo kịch bản. Theo đó, báo chí không thể hiện đợc sự tìm tòi sáng tạo và
những cách thể hiện đa dạng khác nhau. Chính vì thế lễ hội hiện đại cha thực
sự thu hút đợc sự quan tâm của công chúng.
Qua sự khảo sát tìm hiểu trên 3 tờ báo: Lao Động, Tiền Phong, báo
điện tử Vietnamnet từ năm 2005 trở lại đây với mong muốn có đợc một nhãn
quan về lễ hội Việt Nam qua báo chí, từ đó tham vọng tìm ra những cách
chuyển tải tốt hơn hình ảnh lễ hội Việt Nam, góp phần gìn giữ và phát huy
truyền thống văn hoá của dân tộc.

3


Chơng 1: Sự phát triển của lễ hội Việt Nam
1. Lễ hội - dòng nớc đầu nguồn của văn hoá Việt Nam:
Dân tộc Việt Nam có một nền văn hóa lâu đời giàu giá trị nhân bản và
đậm đà bản sắc dân tộc. Các loại hình nghệ thuật phát triển phong phú và
nhiều dáng vẻ. Nói đến văn hoá là nói tới toàn bộ những giá trị sáng tạo về vật
chất và tinh thần, thể hiện trình độ sống và dân trí, những quan niệm về đạo lý,
nhân sinh, thẩm mỹ của một dân tộc và dấu ấn của mỗi cá nhân trong cộng
đồng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trớc Cách mạng Tháng 8 đã đa ra một định
nghĩa sâu sắc về văn hoá: Vì lẽ sinh tồn cũng nh vì mục đích cuộc sống,
con ngời sáng tạo ra, phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, nghệ thuật văn học, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về ăn mặc ở và những phơng tiện, phơng thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo đó là văn hoá. Văn hoá là sử dụng tổng hợp mọi phơng thức sinh
hoạt cùng với những biểu hiện của nó mà loài ngời đã sản sinh ra nhằm thích
ứng những nhu cầu đời sống, những đòi hỏi của sự sinh tồn
Nh vậy có thể nói, văn hoá là chứng tích của trình độ văn minh. Sức
mạnh của các nền văn hoá dân tộc đang dần dần đợc coi nh một nhân tố nội
sinh trong việc phân tích nghiên cứu các trờng hợp thành công của phát triển.

Không thể nói đến sự phát triển hoàn thiện của một dân tộc khi văn hoá non
kém. Ngợc lại, thớc đo một nền văn hoá phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trình độ
phát triển của xã hội về khoa học kỹ thuật, trình độ dân trí, sự phát triển của
các ngành khoa học xã hội và nhân văn, vấn đề con ngời và môi trờng văn
hoá, sức sáng tạo bền bỉ trong lao động và đấu tranh của nhân dân và dân tộc
đó.
Ngay từ đầu Cách mạng tháng 8, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định
sức mạnh của nền văn hoá dân tộc, xác định nền văn hoá mới phải phục vụ
nhân dân: Phải làm thế nào cho văn hoá vào sâu trong tâm lý quốc dân,
nghĩa là văn hoá phải sửa đổi đợc tham nhũng đợc lời biếng, phù hoa xa xỉ.
Tâm lý của ta lại còn muốn lấy tự do độc lập làm gốc. Văn hoá phải làm thế
nào cho ai cũng có lý tởng tự chủ, độc lập, tự do. Đồng thời văn hoá phải làm
thế nào cho quốc dân có tinh thần vì nớc quên mình, vì lợi ích chung mà quên
lợi ích riêng. Với xã hội, văn hoá phải làm thế nào cho mỗi ngời dân Việt
Nam từ già đến trẻ, cả đàn ông đàn bà hiểu cái nhiệm vụ của mình và biết h ởng thụ cái hạnh phúc của mình nên đợc hởng.
Phải có một nền văn hoá, văn nghệ mới do nhân dân trực tiếp xây dựng
và làm chủ, văn hoá phải có ích, phải phục vụ đất nớc, phục vụ đời sống nhân
4


dân. Nghị quyết Đại hội Đảng 8 đã dành cho văn hoá một vị trí quan trọng
trong toàn bộ hoạt động xã hội. Yếu tố nội sinh này là một động lực quan
trọng thúc đẩy sự phát triển xã hội. Xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc. Tiên tiến ở đây nhằm nhấn mạnh đến tính thời đại, tính
hiện đại và phẩm chất tiến bộ của văn hoá. Đậm đà bản sắc dân tộc là nhấn
mạnh cái gốc, cái truyền thống, tính ổn định và bền vững của những giá trị
văn hóa truyền thống tốt đẹp.
Nền văn hoá Việt Nam thời kì hiện đại đang tiếp tục sinh sôi phát triển
về nhiều mặt. Đối với giá trị văn hoá truyền thống tiếp tục đợc gìn giữ, khám
phá và tôn vinh ở trong và ngoài nớc.

Lễ hội là một sản phẩm và biểu hiện của một nền văn hoá, là một
thành tố quan trọng cấu thành và có tác dụng duy trì những yếu tố văn hoá
khác cùng tồn tại. Tham gia lễ hội là một ứng xử văn hoá. Nói đến lễ hội,
hội hè, đình đámlà nói đến sinh hoạt văn hoá cộng đồng của nhân dân
Việt Nam từ xa đến nay. Lễ hội chứa đựng những giá trị văn hoá tinh thần của
dân tộc đặc biệt là tính cộng cảm làng xã- vun đắp, nâng đỡ tinh thần cho từng
cá nhân. Có thể nói, lễ hội đã góp phần củng cố cái tinh thần cộng đồng của
làng quê xóm cũ. Nhận thức đợc ý nghĩa xã hội của lễ hội mà ở bất cứ một
thời đại nào, nhà nớc nào cũng chăm lo duy trì và phát triển các hoạt động lễ
hội cho nhân dân.
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, truyền thống lễ hội không hề bị mai
một, ngợc lại thời gian nh dòng sông Hồng qua năm tháng thì càng bồi đắp
cho sự giàu có cho mảnh đất này. Lễ hội là minh chứng cho sức sống bền bỉ và
dẻo dai của một dân tộc, mang trong mình dấu ấn lịch sử đậm nét. Có những
lễ hội nghìn năm tuổi nh Hội đền Hùng, Hội chùa Hơng, Hội Thánh Gióng.
Các lễ hội trên gắn với những sự kiện chính trị, những giá trị tinh thần linh
thiêng trong đời sống dân tộc. Sự ổn định của đời sống dân tộc ý thức tôn
trọng những giá trị truyền thống và sự tôn kính thế giới tâm linh của nhân dân
Việt Nam là yếu tố hàng đầu tạo cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của lễ hội.
Nhân dân hởng ứng say mê lễ hội là cơ sở cho sự tồn tại của lễ hội.
Lễ hội của Việt Nam hôm nay là biểu hiện sinh động cho tinh thần đại
đoàn kết dân tộc, sự thống nhất, hoà bình và ổn định trong đời sống nhân dân.
Hơn thế nữa, sự phát triển của lễ hội là một minh chứa sinh động cho sức sống
của văn hóa Việt Nam trong thời đại mới.
2. Sự phát triển của Lễ hội Việt Nam

5


Dân tộc nào trong quá trình hình thành và phát triển lịch sử cũng sáng

tạo nên nhiều lễ hội. Nhìn về cội nguồn của lễ hội ở nớc ta, tìm về cái tinh
thần cốt lõi thời sơ khai mà nhờ có nó mới có đợc một bức tranh về lễ hội đặc
sắc nh ngày nay. Theo GS.Trần Quốc Vợng thì cần có phơng pháp tiếp cận
có hệ thống về lễ hội, đòi hỏi phải coi lễ hội là một thể thống nhất, một toàn
thể, một tổng thể hệ thống bao hàm nhiều hệ thống (hệ Lễ, hệ Hội) và nhiều
tiểu hệ, vi hệ và quan hệ tơng tác nhiều chiều giữa chúng với nhau tạo thành
mạng tơng quan thời gian - không gian của lễ hội. Theo phơng pháp đó
chúng ta sẽ nhận ra đợc tinh thần cơ bản của lễ hội Việt Nam đó chính là lễ
hội Nông nghiệp ngày xa.
Việt Nam là một đất nớc có hàng ngàn lễ hội, gắn liền với vùng thuộc
khí hậu nhiệt đới, trồng lúa nớc, chế độ phong kiến kéo dài, tôn thờ nhiều đạo.
Nếu coi mỗi lễ hội là một màu sắc thì có thể nói trên dải đất hình chữ S của
chúng ta là cả một bức tranh rực rỡ sắc màu.
Qua nhiều thế hệ, phong tục tập quán đợc truyền lại ở các địa phơng,
những nét văn hoá truyền thống đó bắt nguồn từ cuộc sống lao động và chiến
đấu của nhân dân đồng thời thể hiện sự phong phú đa dạng trong đời sống tôn
giáo, tín ngỡng của ngời Việt.
Do quy định của thể chế chính trị xã hội đơng thời, do lễ hội là một
hoạt động văn hoá có tác động và ảnh hởng sâu rộng tới các tầng lớp nhân dân
nên các chính thể cầm quyền đều sử dụng nó nh một công cụ văn hoá đa năng,
để phục vụ mục đích quản lý, duy trì và điều hành hoạt động của đất nớc. Bên
cạnh lễ hội dân gian truyền thống còn có nhiều lễ hội đợc tổ chức nhằm chào
mừng các sự kiện chính trị- quân sự- văn hoá- xã hội nổi bật của từng giai
đoạn. Các lễ hội chào mừng sự kiện lịch sử, đón nhận danh hiệu thi đua
Cần phải khẳng định, lễ hội không phải là hiện tợng bất thành bất biến,
lễ hội có nhiều chuyển biến qua dòng chảy thời gian, có sự cải biến cho phù
hợp. Là một hoạt động văn hoá dân gian mang tính nguyên hợp, là một hoạt
động nổi trội trong đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân
trong xã hội. Lễ hội phản ánh đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nớc,
địa phơng ở vào thời điểm diễn ra lễ hội. Đồng thời, lễ hội cũng phản ánh xu

hớng vận động và phát triển của các cơ tầng xã hội trong thời gian và không
gian lễ hội.
Trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nớc hiện nay, hoạt
động lễ hội đang có sự biến đổi mạnh mẽ, diễn ra theo nhiều hớng có cả tích
cực và tiêu cực. Các lễ hội truyền thống đợc tái hiện, phục dựng ở các địa phơng với quy mô và hình thức ngày càng đa dạng. Có thể thấy, hoạt động lễ hội
6


đã tìm lại đợc vị trí xứng đáng của nó trong đời sống văn hoá của các tầng lớp
c dân trên khắp miền đất nớc.
Từ sau Cách mạng tháng Tám, chủ trơng của Đảng và Nhà nớc trong
lĩnh vực văn hoá, bảo tồn và tôn vinh những lễ hội thể hiện tinh thần dân tộc
và giá trị nhân văn sâu sắc. Lễ hội dân tộc là một truyền thống lâu đời. Truyền
thống ấy cũng nh toàn bộ những giá trị do quá khứ để lại, đang đợc những
ngời đơng thời thẩm định lại, dới ánh sáng đờng lối chính trị rõ ràng, nhất
quán của Đảng Cộng Sản Việt Nam: kế thừa có chọn lọc và có phê phán
những di sản văn hoá của quá khứ, tích hợp tinh hoa truyền thống dân tộc tốt
đẹp với tinh thần tạo mới để xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn
hoá mới, con ngời mới Việt Nam. Chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội với chủ
nghĩa Mác Lênin, với đờng lối của Đảng và vốn cũ của dân tộc.
Những lễ hội truyền thống đợc duy trì và tạo điều kiện thuận lợi trong
việc tổ chức, đặc biệt là những lễ hội lớn nh lễ hội Đền Hùng, lễ hội Gióng, lễ
hội Kiếp Bạc, lễ hội chùa HơngNhững lễ hội này ngày càng thu hút lợng ngời tham dự rất lớn đến từ các vùng trên cả nớc, chính vì thế đợc tổ chức hoành
tráng rầm rộ.
Tuy nhiên bên cạnh phần bảo tồn cũng cần có sự chọn lựa và gạt bỏ
những yếu tố tiêu cực của lễ hội xa. Trong lễ hội dân tộc xa không thiếu
những cái hay nhng cũng còn phần dở. Về cơ bản, những hình thức lễ hội
truyền thống nay vẫn giữ đợc duy trì nhng cái khó ở đây là làm sao để thể hiện
và lu giữ đợc cái tinh tuý, cái tinh thần, cái hồn của lễ hội xa. Một mặt khác
là sự xuất hiện của nhiều kiểu lễ hội mới gắn với truyền thống cách mạng, với

cuộc sống mới và con ngời mới ở khắp mọi miền đất nớc.
Nhiều hình thức lễ hội mới xuất hiện có tính chất nghi lễ kỷ niệm thời
điểm ra đời một vùng đất, liên hoan du lịch văn hoá ở những danh lam thắng
cảnh nh lễ hội Fesival Huế, lễ hội du lịch 350 năm vùng đất Nha Trang, lễ hội
Du lịch Quảng Nam, 100 năm SapaNhững lễ hội này đợc tổ chức mà nội
dung và tính chất của nó liên quan đến các sự kiện chính trị, quân sự, văn hóa
xã hội nổi bật trong tiến trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Địa điểm của lễ hội
hiện đại thờng diễn ra ở các thành phố, trung tâm đô thị lớn, đặc biệt nh thủ đô
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh hoặc các thành phố thị xã của các tỉnh thành
phố trực thuộc trung ơng.
Lễ hội hiện đại huy động đến hàng ngàn diễn viên chuyên nghiệp và
không chuyên, trung ơng và địa phơng, có khi có cả đoàn quốc tế đến từ các

7


quốc gia khác. Với quy mô lớn, nghệ thuật trình diễn cao đợc đạo diễn từ kịck
bản nên những hoạt động tại lễ hội hầu hết rất chỉn chu và có hệ thống.
Những lễ hội văn hoá du lịch là một bớc phát triển mới của lễ hội hiện
đại Việt Nam ví dụ nh : Lễ hội văn hoá các dân tộc thiểu số ở Trờng Sơn Tây
Nguyên, lễ hội văn hoá thể thao dân tộc Khmer Nam BộHình thức lễ hội này
là sự kết hợp giữa những yếu tố văn hoá truyền thống của vùng đất với nghệ
thuật trình diễn mới cùng với cảnh quan thiên nhiên đẹp tạo nên một lễ hội
nhiều màu vẻ, có nhiều đất để khách tham quan có thể tham gia lễ hội.
Ngoài giá trị kinh tế thu đợc thì lợi ích cao nhất mà lễ hội văn hoá du lịch này
đem lại đó là sự lu giữ, giới thiệu và thể hiện đợc giá trị truyền thống dân tộc
qua các hoạt động tại lễ hội với du khách. Những giá trị tinh thần ấy trở nên
sống động và thẩm thấu một cách tự nhiên vào tâm hồn mỗi ngời để họ hiểu
thêm và càng tự hào về đất nớc quê hơng.
Các lễ hội đợc tổ chức có tầm vóc và hấp dẫn nhờ kết hợp đợc tính lịch

sủ với nghệ thuật, nâng lễ hội lên khỏi tầm vóc địa phơng. Tuy nhiên điều
không tránh khỏi là sự trùng lặp của các hình thức tổ chức và trình diễn
ở cấp độ vi môn với đơn vị làng, trong nhiều năm qua đã xuất hiện hình
thức liên hoan, hội hè Làng vui chơi, làng ca hát. Đây là một dạng hội làng
thi với nhau qua hoạt động vui chơi ca hát. Đài Tuyền Hình Việt Nam góp
phần tổ chức, tuyên truyền trên màn ảnh nhỏ và đợc khán giả cả nớc thích thú
theo dõi.
Lễ hội thời kì sau cách mạng đã loại bỏ đợc nhiều yếu tố không thích
hợp của lễ hội truyền thống. Trớc hết là các nghi thức tôn giáo mang tính chất
thần bí với những trò cầu đảo, lên đồng, trừ ma quái, không để cho các thầy
mo, thầy phủ thuỷ biến hội lễ thành nơi hành nghề. Các loại tiết mục kiểu nh
lên đồng gọi hồnbị loại bỏ trong các hội hè.
Nhiều khi các địa phơng còn buông lỏng trong khâu tổ chức lễ hội để
tình trạng buôn thần bán thánh diễn ra. Có hiện tợng xâm phạm đến các di
tích lịch sử nh cụm di tích chùa Hơng, việc tu bổ thêm các khu nhà trong kiến
trúc tổng thể của lễ hội thờng đợc tiến hành tuỳ tiện,theo ý chủ quan của một
số ngời, phá vỡ kiến trúc tổng thể của không gian lễ hội.
Các lễ hội cổ truyền đợc khôi phục theo đúng nghi lễ và tập tục nhng
hiện tơng thơng mại hoá lễ hội đang diễn ra ở hầu hết các lễ hội đang là một
vấn đề gây đau đầu với các nhà quản lý văn hoá. Bên cạnh xu hớng hoài cổ,
phục cổ là sự pha tạp, lai căng kệch cỡm, sự phồn thực giả tạo trong các hình
thức và nội dung thể hiện của lễ hộilà những tác động tiêu cực của hoạt động

8


văn hoá này. Hơn nữa, một điều cần tránh là sự lãng phí về tiền của diễn ra ở
các lễ hội hiện nay. Sự lãng phí xa xỉ với đầu óc mê tín dị đoan có xu hớng
phát triển. Những điều đó cần phải đợc loaị bỏ thông qua việc thực hiện
nghiêm túc Qui chế lễ hội của Bộ VHTT ban hành ngày 23/08/2001.


9


Chơng 2: lễ hội truyền thống Việt Nam
1. Dẫn luận về lễ hội truyền thống Việt Nam:
Với nền văn minh lúa nớc lâu đời ở xứ sở nhiệt đới, lễ hội cổ truyền
Việt Nam xuất phát từ đó với nhiều hình thức phong phú đa dạng và độc đáo.
Lễ hội là một sản phẩm và biểu hiện của một nền văn hoá. Nền văn hoá
Việt Nam là nền văn hoá nông nghiệp. Vậy lễ hội truyền thống Việt Nam là lễ
hội nông nghiệp. Cội nguồn sâu xa nhất là tín ngỡng phồn thực trong nông
nghiệp của dân tộc Việt Nam luôn cầu mong ma thuận gió hoà cho vạn vật
sinh sôi nảy nở.
Theo GS. Trần Quốc Vợng thì lễ hội nông nghiệp không chỉ bao hàm
những lễ hội gắn một cách trực tiếp với nghề nông mà ta có thể gọi là nghi
thức hay nghi lễ nông nghiệp nh lễ hội Tồng Ngồng của ngời Tày, lễ tế
Thần Nông, lễ hạ điền ( xuống đồng của ngời Mờng), lễ hội thợng điền của
ngời Việt mà bao gồm cả những hội săn chim, đuổi cuốc, săn hổ, bắt cáo,
hội đánh bắt cá ở suối, ao, hồ, hội hái lá, hái măng, hái nấm ở rừng, ở bụi bao
gồm cả những hội đền, hội phủ, hội chùa, hội đìnhTất cả chúng đều đợc gọi
là lễ hội nông nghiệp vì chúng diễn ra trong không gian thôn dã với một thời
gian thôn dã ( mang tính chất chu kì). Chủ nhân của những lễ hội này phần
lớn là nông dân, là thợ thủ công, địa chủ, quan lại, sống ở vùng quê và có lối
sống thôn dã. Bản sắc văn hoá Việt Nam đợc thể hiện đậm nét nhất ở văn hoá
làng . Lễ hội cổ truyền là sinh hoạt văn hoá điển hình của văn hoá dân gian
truyền thống thành tố làm nên bản sắc văn hoá làng đó
GSTS. Nguyễn Duy Quý có định nghĩa về lễ hội một cách chính xác nh
sau: Lễ hội truyền thống là một sinh hoạt văn hoá tổng hợp bao gồm các mặt
tinh thần và vật chất, tôn giáo, tín ngỡng và văn hoá nghệ thuật, linh thiêng và
đời thờng. Đó còn là một sinh hoạt có quy mô lớn về tầm vóc và có sức cuốn

hút một số lợng lớn những hiện tợng của đời sống xã hội
Lễ hội truyền thống xuất phát từ nhu cầu nội tại của con ngời. Lễ hội
bao giờ cũng hớng tới một đối tợng Thiên nhiên cần suy tôn: các vị tiên, Phật,
thần thánh, những vị Nhiên thần và Nhân thần mà xét đến cội rễ thì đó chính
là hình ảnh hội tụ những phẩm chất cao đẹp nhất của những anh hùng có công
khai phá và xây dựng, những anh hùng chống giặc ngoại xâm, những ngời có
công dạy dỗ, truyền nghề, chống thiên tai, trừ ác thú, chữa bệnh cứu ngời hoặc
những đấng thiên nhiên giúp con ngời hớng thiện, tạo dựng một cuộc sống tốt
lành, yên vui.
10


Lễ hội truyền thống chính là dịp để con ngời giao lu, cộng cảm và trao
truyền những đạo lý, tình cảm, mỹ tục và khát vọng cao đẹp, còn là cầu nối
giữa hiện tại và quá khứ, củng cố tinh thần cố kết dân tộc và tình yêu quê hơng đất nớc cùng niềm tự hào về gốc gác cuả mình.
Dù ai đi ngợc về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mồng mời tháng ba.
Chính vì vậy mà lễ hội truyền thống bao giờ cũng có sức thu hút, mời
gọi kì lạ đối với nhiều ngời, nhiều lứa tuổi. Ngời đến với lễ hội là đến với chốn
linh thiêng cao cả, với tâm thức chân thành và thanh thản với khát vọng, ớc
mong tốt lành.
Cái không gian trầm lặng, tôn nghiêm của những ngôi đình mái cong,
ngôi chùa rêu phong, ngôi đền cổ kính dới những tán cổ thụ bỗng sáng lên tng
bừng, rộn rịp bởi những sắc màu của cờ hoa, quạt, kiệu, tán lọng và những âm
thanh của hàng loạt nhạc khí, lời ca và những nhịp điệu uyển chuyểnNhng
yếu tố là nên sự sống động của lễ hội nhất là sự hội tụ của hàng ngàn, hàng
vạn ngời quy tụ về đây vui với tiền nhân. Không gian lộng lẫy uy nghi tạo nên
chất hoành tráng và thiêng liêng của lễ hội, có sự khơi dậy cái thiện và mỹ
trong tâm hồn mỗi ngời, thôi thúc họ vơn lên một lý tởng sống cao đẹp và giàu
ý nghĩa hơn.

Lễ hội mang sức sống của một dân tộc đợc minh chứng qua thời gian
ngàn năm lịch sử, là một bảo tàng văn hoá sống lu giữ tín ngỡng tôn giáo, sinh
hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian, nơi phản ánh một cách trung thực nhất tâm
thức của một dân tộc cần cù chịu khó, yêu lao động.
Đối với cá nhân con ngời, tham gia lễ hội là một cách tham gia vào quá
trình sáng tạo và sáng tạo văn hoá, là đợc hoà mình trong dòng nớc đầu nguồn
của văn hoá dân tộc với một tinh thần cộng đồng và cộng cảm sâu sắc.
Lễ hội chia làm hai phần: Lễ và Hội
Lễ là tổng thể nghi thức thể chế hoá trật tự, gắn với sự tích, quyền năng
của thần, diễn đạt mối quan hệ của Ngời và Thần. Lễ cơ bản là linh thiêng.
Theo từ điển tiếng Việt 2002 Nhà xuất bản Đà Nẵng
Lễ là những nghi thức tiến hành nhằm đánh dấu hoặc kỉ niệm một sự việc,sự
kiện có ý nghĩa nào đó
Dới thời phong kiến, các nhà nho quan niệm Lễ là trật tự, là chữ đã định
sẵn của Trời Lễ nghĩa thiên chi tự, cần phải có và không thể đảo ngợc. Cuộc
sống xã hội cần phải có lễ để phân biệt, giữ gìn trật tự trong mối quan hệ đa

11


chiều, luôn diễn ra trong đời sống xã hội. Lễ đợc coi là cơ sở của một xã hội
có tổ chức và đã phát triển đến một trình độ nào đó.
Nghi lễ là những nghi thức tiến hành theo những quy tắc, luật tục nhất
định mang tính biểu trng để đánh dấu, kỉ niệm một sự kiện, nhân vật nào đó
nhằm mục đích cảm tạ, tôn vinh ớc nguyện về sự kiện nhân vật đó với mong
muốn nhận đợc sự may mắn tốt lành, nhận đợc sự giúp đỡ từ những đối tợng
mà ngời ta thờ cúng.
Lễ là các nghi lễ trang trọng gắn với một tôn giáo, một thần thoại, một
huyền thoại, một phong tục khẳng định nền nếp, đạo lý truyền thống của
dân tộc. Với những nghi thức tế lễ, rớc, dâng hơngPhần lễ tiến hành theo

một trật tự gần nh thống nhất: cáo, hiến tế, cầu xin, tạ ơn.
Lễ đơn giản diễn ra trong thần điện, đa số các lễ hội đền, hội chùa, đình nớc ta
tiến hành lễ đơn giản. Lễ mở rộng ra ngoài thần điện với đám rớc, diễn xớng.
Theo từ điển tiếng Việt 2002 Nhà xuất bản Đà Nẵng
Hội là những cuộc vui tổ chức chung cho đông đảo ngời dự, theo phong tục
hoặc nhân dịp đặc biệt
Hội là đời thờng diễn ra bên ngoài thần điện và mở rộng ra tất cả vùng
miền, cộng đồng, đến từng gia đình, diễn ra trong thời gian lễ sau đó. Hội
mang hai tính chất đó là chúc mừng thần linh và hởng thụ ân huệ. Thần ban ca
múa, đánh đu, chọi gàHội là phần của những trò chơi dân gian, diễn xớng
vui chơi, tất cả mọi ngời đều có thể tham gia vì nó đợc mô phỏng theo những
động tác lao động hàng ngày nh đấu vật, đánh đu, chơi cờ, hát đối Hội cơ
bản là đời
Hội bao giờ cũng mang tính công cộng cả về t cách tổ chức cũng nh
mục đích cần đạt đợc của những ngời tổ chức và ngời tham dự. Các hoạt động
này diễn ra thờng niên theo phong tục tập quán cổ truyền của các địa phơng
vùng miền hoặc tổ chức vào các dịp đặc biệt trong năm để hớng tới, tôn vinh
với mong muốn đạt đợc những mục tiêu, giá trị cụ thể nào đó trong đời sống
văn hoá cộng đồng.
Hội là tập hợp những hoạt động kinh tế- văn hoá- xã hội của một cộng
đồng dân c nhất định. Là cuộc vui tổ chức cho đông đảo ngời dự theo phong
tục truyền thống hoặc nhân dịp đặc biệt. Những hoạt động diễn ra trong hội
phản ánh điều kiện, khả năng, trình độ phát triển của địa phơng, đất nớc ở vào
thời điểm diễn ra sự kiện đó.
Lễ hội là hình thức sinh hoạt cộng đồng diễn ra trên một địa bàn dân c
trong thời gian, không gian xác định nhằm nhắc lại những sự kiện, nhân vật

12



lịch sử hay huyền thoại, đồng thời là dịp để biểu hiện cách ứng xử văn hoá của
con ngời với tự nhiên, thần thánh và con ngời trong xã hội mới.
Bản chất và nội dung của lễ hội truyền thống là một sinh hoạt văn hoá
cộng đồng bởi đây là hoạt động văn hoá tập thể thuộc về tập thể và do tập thể
tổ chức và tiến hành. Dù ở bất cứ nơi đâu vào bất cứ thời gian nào lễ hội cũng
phải do đông đảo quần chúng nhân dân tiến hành. Chính họ là những ngời
sáng tạo chân chính những giá trị bắt nguồn từ cuộc sống lao động sản xuất và
chiến đấu. Họ là chủ nhân đồng thời là ngời đánh giá thẩm định và hởng thụ
những thành quả sáng tạo văn hoá ấy. Không bao giờ lễ hội chỉ thuộc về một
nhóm ngời nào đó trong xã hội. Không có đông ngời đến dự không thành hội,
bởi thế mới có câu đông nh hội chính là vậy.
Mục đích lễ hội là một hoạt động văn hoá nổi bật trong đời sống con
ngời với nhiều hình thức khác nhau nhằm phục vụ lợi ích của con ngời.
Lễ hội không phải là mê tín dị đoan mà là một cách ứng xử thông minh
khôn ngoan cuả con ngời đối với sức mạnh vô hình hoặc hữu hình mà họ
không lý giải đợc nhng muốn khống chế - họ phải kính và sợ. Chính vì thế lễ
hội trở thành một hiện tợng văn hoá tổng hợp, giúp giải phóng năng lợng tâm
linh, tâm lý, vật chất của con ngời.
Lễ hội chính vì thế có tính chất tái tạo, con ngời hiến dâng để cầu xin
tốt lành trong tơng lai và hởng thụ vật chất và tinh thần thoải mái trong hiện
tại.
Lễ hội là cách thức giao cảm cộng đồng, giao hoà giữa con ngời với
trời đất, giữa hiện tại với hồi tởng trong quá khứ và hi vọng tơng lai.
Lễ hội truyền thống xa nhấn mạnh phần lễ, tức là phần nghi lễ vì nhu
cầu tâm linh rất lớn
Lễ hội truyền thống nay phần hội đợc nhấn mạnh nhiều hơn vì từ nhu
cầu tâm linh giờ đã chuyển sang giải quyết nhu cầu đợc vui chơi, sống lại
không khí dân dã của những trò chơi dân gian xa, không khí tng bừng náo
nhiệt hơn.
Nhu cầu sinh hoạt cộng đồng là một nét văn hoá tâm thức đặc biệt của

ngời Việt Nam. Để lễ hội là dịp thể hiện sức mạnh cao nhất, sự tập trung sức
đoàn kết của cộng đồng, chúng ta phải giữ cho đợc nét văn hoá của từng lễ
hội.
2. Đặc trng của Lễ hội truyền thống
Việt Nam là mảnh đất đa sắc tộc và đa lễ hội.
Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu

13


Mồng chín đâu đâu trở về hội Gióng
Với 54 dân tộc anh em c trú trên khắp các miền đất nớc, sự đậm đặc của
Lễ hội đợc đúc kết trong nhiều câu ca dao tục ngữ đã in sâu vào trong trí nhớ
dân gian. Phong phú hơn cả là sinh hoạt lễ hội ở đồng bằng Bắc bộ của ngời
Kinh với 118 lễ hội lớn nhỏ từ vùng đất Tổ Phú Thọ tới Bắc Ninh với Hội Lim,
Hội Dâurồi tới Hà Tây của Hội chùa Hơng vòng qua Thái Bình với hội chùa
Keo, lại qua Hải Dơng để dự Hội Côn Sơn Kiếp Bạc. Tới dải đất miền Trung
của nắng và gió rồi tới Tây Ninh, Bà Chúa Xứ núi Xam (An Giang), Linh Sơn
Thánh Mẫu núi Bà Đen, lễ hội Lăng Ông Chiểu( TP. Hồ Chí Minh). Nhìn
chung lễ hội diễn ra chủ yếu vào mùa xuân, ở 3 tháng đầu năm, bởi thế mới có
câu Tháng Giêng là tháng ăn chơi và tháng 3 là tháng hội hè.
Lễ -hội truyền thống của ngời Kinh
a, Tết Nguyên Đán đánh dầu sự kết thúc của một năm cũ, khởi đầu một năm
mới
b, Giỗ tổ Hùng Vơng ( lễ hội Đền Hùng)
Hiếm có nơi nào trên thế giới lại có đợc hình thức tín ngỡng thờ tổ tiên
độc đáo nh ở Việt Nam. Truyền thống này gắn với truyền thuyết con Lạc cháu
Hồng. Lễ hội diễn ra trên núi Nghĩa Lĩnh thuộc thôn Cổ Tích xã Hy Cơng,
Phong Châu Phú Thọ từ ngày mồng 8 đến 10 tháng 3 Âm lịch. Tại lễ hội
diễn ra các hoạt động nh hát Xoan, hát chèo, tuồng, hát ghẹo

c. Lễ hội Cổ Loa
Đền Cổ Loa thờ vua An Dơng Vơng ngời có công tô lớn trong việc dựng nớc và giữ nớc. Lễ hội diễn ra từ mồng 6 tháng giêng, để tởng nhớ công ơn của
nhà vua.
d, Lễ hội tởng nhớ các vị anh hùng dân tộc nh:
* Lễ hội đền Đô ( Đền Lý Bát Đế )
Đền Đô đợc xây từ thế kỉ 11 tại Đình Bảng (Tiên Sơn Bắc Ninh) để tởng
nhớ Lý Công Uẩn ( Lý Thái Tổ) và các đời vua Lý tiếp theo.
Lễ hội có các hoạt động rớc kiệu khổng lồ, đấu vật, đánh cờ, chọi gà, hát
chèo, tuồng
* Lễ hội Đống Đa:
Giỗ trận Đống Đa- kỉ niệm ngày vua Quang Trung đại phá tiêu diệt gần 20
vạn quân Thanh tại gò Đống Đa năm Kỷ Dậu 1789. Lễ hội diễn ra vào mùng 5
tết ta
* Lễ hội Trờng Yên:

14


Diễn ra tại cố đô Hoa L để tởng nhớ công đức lớn lao của Đinh Tiên Hoàng và
Lê Đại Hành. Tại đây diễn ra các nghi thức rớc nớc, tế lễ ở hai đền. Đặc biệt,
phần Hội có diễn trò cờ lau tập trận, bơi chải, múa rồng
e, Lễ hội tôn vinh các vị thần:
* Hội Phù Đổng diễn ra tại xã Phù Đổng, Huyện Gia Lâm, Hà Nội từ ngày 6
đến 12 tháng t âm lịch.
* Hội Phủ Giầy thờ thánh Mẫu văn hoá dân tộc: Bà Chúa Liễu- là một trong tứ
bất tử của điện thần Việt Nam
* Hội đền Dạ Trạch thờ Chử ĐồngTử và Tiên Dung có công giúp dân khai
hoang, trồng trọt và chữa bệnh
f, Lễ hội các làng nghề
* Hội làng Đồng Kỵ: Làng thuộc xã Đồng Quang, Tiên Sơn, Bắc Ninh có

nghề mộc làm đổ khảm trai trên các tủ chè, sập gụ, bàn ghế xuất khẩu. Trong
lễ hội có tục rớc và đốt pháo
* Hội làng Chuông
* Lễ hội làng Triều Khúc: làng có nghề làm nón quai thao, thêu may tuyệt
xảo, làm đồ thờ tự. Thêm vào đó là hơn 10 nghề thủ công, buôn bán
g, Lễ hội văn hoá:
* Lễ hội chùa Hơng
* Hội Lim
Lễ hội các dân tộc ít ngời
Bên cạnh lễ hội của ngời Kinh, các dân tộc anh em còn lại cũng đóng góp vào
kho tàng văn hóa dân tộc những lễ hội truyền thống đặc sắc và độc đáo nh: Lễ
hội đâm trâu: tục đâm trâu, ăn trâu. dâng trâu của ngời Banar ở Tây Nguyên,
Lễ hội OK om Bok (dân tộc Khơ Me) hay còn gọi là lễ hội cúng trăng của ngời Khơ Me Nam Bộ ở các tỉnh Nam Bộ. Tại đây ngoài những nghi thức còn có
các trò chơi nh đua ghe
Lễ hội Tồng Ngồng (dân tộc Tày) hay còn gọi là lễ hội xuống đồng mở mùa
gieo trồng lúa mới. Đặc sắc của lễ hội có màn cúng thần nông, ném còn màn
múa kỳ lân, ném còn, đánh đu
Lễ hội Bỏ mả truyền thống của ngời Bana ở Gia Lai
Lễ hội Tôn giáo:
Lễ hội Rằm tháng bảy hay còn gọi là lễ Vu Lan, cầu khấn cô hồn, là ngày
mở cửa địa ngục
Lễ hội Phật Đản
Lễ hội Thiên Chúa Giáo
3. Đặc điểm Lễ hội truyền thống thể hiện trên Báo chí:
15


Lễ hội truyền thống chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hoá tinh
thần của ngời Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên mà từ ngàn đời, cha ông ta
lại chọn mùa xuân là mùa của lễ hội. Mùa xuân vốn là của đất trời, mùa của

hoa lan, hoa đào, hoa ban, và hàng vạn ngọn lửa hồng tơi trên tháp đèn cây
gạo chùa Hơng và xóm làng quê ta miền Bắc. Và mận vùng xuôi, lê rẻo cao,
nghiêng hoa nở trắng rừng
Xuân Việt Nam là xuân làm ăn, xuân đánh giặc, xuân vui chơi. Mùa
Xuân của Hai Bà Trng, Bà Triệu, Lý Nam Đế, Ngô Quyền, Lý Thờng Kiệt,
Trần Hng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang TrungNhững mắt xích chủ yếu
của một truyền thống về tài thao lợc lâu đời của dân tộc- đợc thế hệ Hồ Chí
Minh kế thừa và phát triển lên một trình độ mới.
Lễ hội mùa xuân là một nhân tố cổ truyền của nền văn hoá Việt Nam.
Hàng ngàn năm nay, với gái trai đất Việt, Xuân đã là mùa ca hát nam nữ
đối ca mùa yêu đơng, mùa của trao duyên Trong Xuân ca giáo phờng (phờng hát xoan) trong hội Rô 36 năm mới mở hội một lần tại Khánh xuân điện,
thờ thánh Tản Viên, vị thần linh tối cổ đợc coi là Bách thần nguyên thủ
trong Vạn thần miếu Việt Nam tại xã Liệp Tuyết, Liệp Mai, miền Quốc Oai,
xứ Đoài xa có đoạn ngâm ngợi mùa xuân:
Tháng giêng giai tiết ở đầu
Bao nhiêu mỹ nữ đá cầu đánh đu
Tháng hai hoa nở tranh đua
Đậm lòng con gái ngâm ngơ tinh thần
Tháng ba nắng tốt thập phần
Nhng màng lần nữa hết Xuân sang Hè!
Các trò chơi mùa xuân, hoặc nhấn nhá vào ý niệm tình tứ (đánh đu,
tung còn) hoặc xoay quanh quả bóng, quả cầu, tợng trng cho mặt trời và tín
ngỡng thờ mặt trời thần cổ ( đá cầu, vật cầu, hất phết) hoặc tợng trng cho sự
đấu tranh và hoà đồng, mâu thuẫn mà thống nhất giữa hai xung lực Đất
Trời, Âm Dơng, Đực- Cái ( đấu vật, kéo co, hát đối đáp..) tất cả hoà quyện
vào hội mùa xuân, sau màn sơng tôn giáo, tín ngỡng, ánh bừng nên sức sống
của tuổi thanh xuân thiết tha yêu đời, vui tơi, lành mạnh, hồn nhiên, trong
sáng. Hội mùa xuân: một đỉnh cao của phong cách trữ tình dân gian Việt
Nam.
Hội mùa xuân cổ truyền dân gian đã gắn với hội đền: đền Thính thờ

thánh Tản, đền Gióng và hội làng Phù Đổng, đền Hùng và hội hát Xoan

16


Phật giáo từ ấn độ và Trung Quốc truyền bá vào đất Việt, chùa chiền
mọc lên dần trong làng xóm Việt Nam, tín ngỡng Phật giáo hoà trộn với tín
ngỡng dân gian và hội mùa xuân cổ truyền cũng gắn với hội chùa: Hội
Lim(chùa Lim), hội Khám(chùa Long Khám), hội Dâu(chùa Pháp Vân, Thuận
Thành, Bắc Ninh), hội Láng (chùa Láng Yên Lãng, Từ Liêm) hội Thầy( chùa
Sài, Quốc Oai, Hà Tây), hội chùa Hơng với Nam Thiên Đệ nhất động
Vui tết, vui hội mùa xuân, vui hội mùa thu với những hình thức lễ tiết
nông nghiệp, ca múa nhạc, trò chèo, các hình thức đọ sức, đua tài, vật, võ,
đánh cầu, hất phết ngoài tác dụng hun đúc trí thông minh, tài khéo léo, rèn
luyện thể lực, trao đổi tinh thần, tu dỡng mỹ cảmđã góp phần củng cố tinh
thần cộng đồng của làng quê.

(VietNamNet (12/09/2005) Lễ hội chọi Trâu, Đồ Sơn, Hải Phòng)
3.1 Lễ hội truyền thống luôn luôn đợc tìm hiểu và giới thiệu nh một sản
phẩm đặc sắc của nền văn hoá dân tộc.
Báo chí luôn theo dõi bám sát các sự kiện lễ hội diễn ra trong cả nớc để
phản ánh kịp thời tới công chúng, giúp họ có đợc cái nhìn trọn vẹn về lễ hội
Việt Nam. Qua báo chí công chúng có thể có đợc nhãn quan tổng thể về lễ hội
Việt Nam cũng nh những đổi thay của lễ hội truyền thống trong thời đại mới.
Một mặt báo chí thực hiện chức năng thông tin của mình mặt khác gián tiếp đa tới cho công chúng những hiểu biết, kiến thức về nền văn hoá dân tộc từ đó
góp phần giáo dục t tởng, thẩm mỹ cũng nh khơi dậy niềm tự hào của nhân
dân cả nớc đối với những giá trị tinh thần của dân tộc ta.
Chúng ta tự hào vì có đợc một quốc lễ thờ cúng tổ tiên chung cho cả
dân tộc con Lạc cháu Hồng. Lễ hội gắn với sự hình thành dân tộc hoặc một
vùng đất nh giỗ tổ Hùng Vơng từ ngày 9 đến 13-3 âm lịch tại xã Hy Cơng,

Phong Châu, Phú Thọ. Dựa trên truyền thuyết vua Hùng ở vùng đất Tổ, hàng
17


năm con cháu ở các địa phơng về tụ hội dâng hơng, cúng lễ. Theo quy định
năm chẵn do Trung ơng làm chủ lễ, năm lẻ do địa phơng chủ trì. Đảng và Nhà
nớc ta luôn chăm lo tới đời sống tinh thần cũng nh gìn giữ phát huy truyền
thống dân tộc chính vì thế từ năm 2005 lễ hội đền Hùng đợc tổ chức theo quy
chế Quốc lễ. Lễ hội đền Hùng đã trở thành lễ hội mang tính Quốc gia một
cách chính thức, chính vì thế việc tổ chức lễ hội sẽ đợc nâng lên tầm cao mới
với những nghi thức trang trọng và những màn biểu diễn hoành tráng.
Báo VietNamNet cập nhật hồi 14:59 28/03/2005 có bài phỏng vấn
NSND Phạm Thị Thành : Lễ vua Hùng phải có dấu ấn riêng với tít dẫn:
Năm nay, giỗ tổ Hùng Vơng lần đầu tiên tổ chức theo quy chế quốc lễ, Đạo
diễn, NSND Phạm Thị Thành đợc giao trọng trách làm Tổng đạo diễn chơng
trình này. Vậy quy mô, tầm vóc của lễ hội đền Hùng có gì khác với những năm
trớc đây?
Trả lời câu hỏi của phóng viên về quy mô tổ chức lễ hội đền Hùng,
NSND Phạm thị Thành cho biết: Lễ hội lần này phải thể hiện đợc nội dung
trải dài 4000 năm lịch sử đồng thời cũng phải mang tính huyền thoại, tâm linh
và mang tính thời sự cập nhập đơng đại... Tôi muốn lễ hội đền Hùng phải
mang một dấu ấn riêng đó là làm thế nào để khách trong nớc cũng nh quốc tế
biết đợc đây là một lễ hội của Việt Nam. Đồng thời lễ hội đền Hùng phải
mang đậm tính lịch sử và huyền thoại, vừa mang tính văn hóa Việt Nam.

(Đoàn hành lễ dâng hơng lên đền Thợng)
Những lễ hội truyền thống đã mang phần nào đó màu sắc của lễ hội
hiện đại đó là tính hoành tráng thể hiện cả trong không gian và thời gian diễn
ra lễ hội. Trả lời phỏng vấn của Phóng viên VietNamNet bà Phạm Thị Thành
cho biết: Lễ hội đền Hùng năm 2005 diễn ra trong 4 ngày từ 06/4 đến 10/4 sẽ

thu hút khoảng 1,5 triệu lợt ngời. Không gian lễ hội từ đền Hùng đến thành
phố Việt Trì. Phần lễ chủ yếu diễn ra tại các đền, chùa ở núi Nghĩa Lĩnh. Phần
hội ở những địa điểm có diện tích rộng, mang ý nghĩa lịch sử từ cổ xa tới thời
kỳ cách mạng với sự tham gia của 2.500 cho đến 3000 ngời cả chuyên và
18


không chuyên, 10 đoàn tổ chức tại các tỉnh bạn, 5 đoàn trong tỉnh và 3 đoàn
nghệ thuật quốc tế (Thuỵ Điển, Hàn Quốc, Trung Quốc). Riêng đêm đại lễ hội
sẽ đợc trình diễn trên sân vận động Việt Trì, trung tâm là một sân khấu lớn
rộng 500m2. Khai mạc gồm có 5 chơng 10 cảnh, trong đó có cảnh mang tính
huyền thoại rồng tiên nh Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh 100 con; cảnh về lịch
sử chống giặc ngoại xâm với hình tợng của Thánh Gióng; một số cảnh mang
tính văn hoá Việt Nam nối từ thời đại vua Hùng tới thời đại Hồ Chí Minh.
Điểm mới của lễ hội đền Hùng so với trớc đây theo bà Phạm thị Thành
cho biết: Ngoài phần khai lễ có ban thờ và khai mạc tại các nhà thi đấu thể
thao Việt Trì thì phần hội nơi công chúng có thể tham gia tại các địa điểm từ
núi Nghĩa Lĩnh đến ngã ba Bạch Hạc với các trò chơi dân gian nh: Trò Trám,
Đánh Phết; Cớp cầu; Hội vật; Cớp cờ; Bắt chạch trong chumBiểu diễn nghệ
thuật nh hát xoan, ghẹo; hoà nhạc cổ điển; múa balê; ca Huế, Nam bộ, quan
họ Bắc Ninh, biểu diễn của các nớc bạn. Triển lãm tranh ảnh Xa và Nay, tổ
chức Chợ Trung du
Nh vậy ta có thể thấy rõ, để tổ chức một lễ hội truyền thống nh thế này
cần một khoản kinh phí khá lớn. Tuy nhiên, điều đáng quan tâm ở đây đó là
làm thế nào để lễ hội dù đã mang màu sắc hiện đại mà vẫn giữ đợc cái tinh
thần dân tộc cốt lõi và nét đặc sắc của từng lễ hội, làm thế nào để cái tinh
hoa cái riêng của từng lễ hội đợc chính cái hiện đại tôn vinh lên để ngời
dân đợc hồi tởng lại, sống lại không khí hùng thiêng đó mới là điều mà nhân
dân thực sự trông chờ.


(VietNamNet (10/02/2005), Lễ hội Đua Voi của đồng bào Tây Nguyên)
Lễ hội ngợi ca anh hùng dân tộc Việt Nam trong quá trình dựng nớc và
giữ nớc nh các lễ hội: Hội Gióng mở vào ngày 9- 4 kỉ niệm Thánh Gióng tại
xã Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội; Hội đền Hai Bà từ 3- 6 tháng hai tại Đồng
Nhân, quận Hai Bà, Hà Nội; Hội đền Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải Dơng thờ Hng
Đạo Vơng Trần Quốc Tuấn vào ngày 20- 8; Lễ hội

19


Lễ hội luôn là sự kiện thu hút đợc sự quan tâm đông đảo của mọi tầng
lớp nhân dân. Chính bởi vì, lễ hội không của riêng ai, ai cũng muốn đợc tham
dự, đợc hoà vào hứng khởi non sông nên những thông tin về lễ hội đợc xem là
điểm nhấn số một của tin tức xung quanh thời gian diễn ra lễ hội.
Bài đinh và ảnh đinh luôn có một vị trí đặc biệt trên trang nhất các báo, nó thu
hút mắt nhìn của công chúng và luôn dành để đăng tải những sự kiện quan
trọng có ý nghĩa của đất nớc, những sự kiện chính trị xã hội văn hoá nổi bật.
Bài đinh và ảnh đinh của các số báo đều dành chỗ để đăng tải về lễ hội
lớn. Các hoạt động trong lễ hội đợc thông tin đầy đủ cho công chúng tham
khảo và từ đó có sự đánh giá một cách tổng quan về sự kiện. Việc sử dụng bài
đinh và ảnh đinh thông tin về lễ hội thể hiện đợc tầm quan trọng của lễ hội đối
với đời sống tinh thần và sinh hoạt văn hoá của nhân dân.
Báo Lao Động số 45/2005 ra ngày 15 tháng 2 có bài đinh, ảnh đinh
Cảm hứng miền quê dấu Phật Lễ hội chùa Hơng 2005 của Việt Văn,
tác giả dẫn lời: Hiếm có một lễ hội nào mà tính đại chúng, sức hấp dẫn, lan
toả không gian và thời gian nh lễ hội chùa Hơng. Một lễ hội tng bừng khai
mạc và mồng 6 tết và kéo dài hết mùa xuân. Tiếp theo, tác giả đa ra dự đoán
của mình: Năm 2004 đã có trên 80 vạn khách tham quan chùa Hơng còn
năm nay lợng khách hứa hẹn đông hơn khi chỉ mấy ngày Tết đã có hơn 2 vạn
ngời hành hơng về đất Phật Chiều sâu của bài viết nằm ở phần tác giả khai

thác gốc tích hình thành lễ hội chùa Hơng có từ bao giờĐiều đó có thể chỉ là
phần thêm vào nhng lại chính là nơi mà công chúng có thể có đợc một cái
nhìn đúng và sâu về lễ hội và nét đặc sắc của nó và có đợc niềm thích thú khi
tham dự lễ hội.
Báo Tiền Phong số (24 +25) / năm 2006 có bài đinh Khai hội đầu
xuân và ảnh đinh là ảnh chụp chùa Hơng với dòng chú thích ảnh Năm nay
du khách có thể đi thuyền và ngồi cáp treo để vào chùa Hơng Phần đầu tác
giả viết: Giới trẻ chen chân về đất Phật xu hớng giới trẻ đi du xuân khác
mọi năm không phải là những địa điểm mang tính chất hiện đại nữa. Điều này
cho thấy, lễ hội truyền thống đã cuốn hút đợc giới trẻ bằng những nét độc đáo
và giá trị tinh thần của nó.
Cùng số này có hàng loạt các tin bài về những hoạt động lễ hội diễn ra
trên khắp cả nớc. Tin Độc đáo làng Đồng Kỵ- Bắc Ninh đa tin về lễ hội
làng Đồng Kỵ.
Tin ngắn Lạng Sơn- trẩy hội xuân PácMòng: Từ mồng 3 tết, lễ
hội đợc tổ chức liên miên tới hết tháng 3 âm lịch. Có 260 lễ hội dân gian đợc

20


tổ chức liền kề nhau giữa các bản làngHội PácMòng đợc coi là hội lớn
nhất, khởi nguồn cho mạch nguồn của các lễ hội
Tin tại Hà Nội có hội Gò Đống Đa vào mùng 5 tháng Giêng âm lịch,
hội kỷ niệm chiến thắng của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ và tởng niệm
các chiến sĩ vong trận trong đại chiến thắng Đống Đa 1789.
Tại Quảng Trị có hội đình Bích La diễn ra từ ngày 1 đến 4 Tết Bính
Tuất thu hút hàng ngàn ngời dân trong vùng đến dự: Lễ hội đã tồn tại hàng
trăm năm nay, phần Lễ có các nghi thức kính cáo tổ tiên, lễ cúng đầu năm, lễ
cầu khấn thần Kim Quy. Phần hội có hội bình thơ, hội bài chòi, cờ chòi, kéo
co, chơi cờ tớng. Theo các bậc hào lão của làng Bích La, lễ cầu khấn thần Kim

Quy luôn đợc xem là đại lễ. Vì đó là ớc vọng của cả dân làng về một năm ma
thuận gió hoà, mùa màng bội thu, cuộc sống sung túc, thịnh vợng. Lễ hội này
là nét văn hoá đặc sắc, là sự hoà quyện các yếu tố tín ngỡng, tâm linh và nhân
văn phong phú của vùng đất và con ngời khu vực đồng bằng phía Nam của
Quảng Trị.
Báo Lao động số 52 ra ngày 22/2/2005 có bài đinh và ảnh đinh: Hội
Lim 2005: Còn duyên kẻ đón ngời đa. Lịch những lễ hội diễn ra trong tháng
đợc đa tới công chúng kèm theo những chỉ dẫn về nét độc đáo của từng lễ hội
Báo điện tử VietNamNet ngày 19/02/2005 cập nhập vào 16:35 có bài
Hội Lim trớc ngày khai cuộc: Vùng Kinh Bắc trong những ngày này đâu
đâu cũng náo nức không khí chuẩn bị vào hội. Các liền anh cố cày bừa cho
xong mảnh ruộng khoán, các liền chị cố thu xếp công việc chợ búa để kịp mặc
áo the khăn xếp, nón thúng, quai thao bớc vào canh hát giao duyên. Khách
thập phơng đã lẻ tẻ tìm về để nghe quan họ làng hát mộc tr ớc khi lên đồi
Lim trẩy hội
Tiếp theo, tác giả đã miêu tả không khí hứng khởi rộn rịp của dân miền
quan họ: Trong khắp 49 làng quan họ thì vùng Lim gồm 3 xã Nội Duệ, Liên
Bão, Vân Tơng nổi tiếng hơn cả. Bắt đầu từ hôm nay 11 tháng Giêng, dân xã
Nội Duệ đã làm lễ rớc thần hoàng theo lộ trình Đình Cả- chùa Nghè. Cờ phớn
lộng lẫy, nghi trợng trang nghiêm; kèn, trống hoà âm tng bừng nh một dòng
sông hoa chảy qua làng.

21


Lễ hội dù cha đến ngày chính thức nhng không khí náo nhiệt đã tng
bừng khắp nẻo. Tại Lộ Bao, ngời ta đang trang hoàng cho cặp thuyền rồng
nổi giữa ao làng để các liền anh liền chị hát đối trong dịp lễ hội. Cụ Hoàng
Trọng Ngôn, ngời làng Lộ Bao đang sửa sang cỗ xe Bạch Mã cho hay: Hôm
nay làng tôi tập trung trang hoàng cổng làng, đình làng chuẩn bị cho lễ rớc

vào hội sáng sớm ngày 13 âm lịch tới.
Với u thế đa phơng tiện của báo điện tử, VietNamNet đã lập một đờng
link kết nối cho công chúng có thể nghe đợc quan họ cổ chỉ bằng một cú nhấp
chuột:
Mời các bạn nghe quan họ lời cổ do
nghệ sĩ Thanh Nhàn thể hiện:
- Tởng đến gần xa
- Ngời về dọn quán bán hàng
- Đôi ta nh thể đào nguyên
- Lòng vẫn đợi chờ
Những bài báo đợc sự hỗ trợ của công nghệ nh thế này đợc VietNamNet
thực hiện rất thành công và đợc công chúng đón nhận một cách rất thích thú vì
họ có thể thởng thức quan họ cổ tại nhà. Khi quan họ di sản văn hóa phi vật
thể của Việt Nam đang trong nguy cơ bị thất truyền thì những việc làm nh thế
này rất có ý nghĩa.
Báo Tiền Phong số 40(Thứ 6: 10/2/2006) với bài đinh Quan họ không
míc Hội Lim 2006 : Hội Lim năm nay to hơn mọi năm vì Bắc Ninh trở thành
Thành phố và Hát Quan họ đang lập hồ sơ di sản văn hoá phi vật thể UNESCO
Những bài ghi chép, bút kí, bình luận, tổng hợp giới thiệu về lễ hội
nh: Trong mục sự kiện và bình luận trên Báo Lao động số 47 năm 2005 ra
22


ngày 17/2/2005 có bài Văn Hoá Lễ hội của Tô Phán. Tác giả dẫn lời : ở
Việt Nam, ngày xuân gắn liền với lễ hội. Những ngày sau tết, các lễ hội diễn
ra ở nhiều địa phơng diễn ra tng bừng trong đó có nhiều lễ hội nổi tiếng đã đi
vào trí nhớ của ngời dân Việt Nam qua nhiều thế hệ. Lễ hội ở Việt Nam gắn
với danh lam thắng cảnh, truyền thống, sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử,
gắn với truyền thống yêu nớc, yêu thơng con ngời, yêu thiên nhiên của ngời
dân Việt Nam. Để nhấn mạnh vai trò quan trọng của lễ hội trong đời sống

tinh thần của ngời Việt Nam, tác giả viết: Đến nay có thể xác định một số
loại hình lễ hội văn hoá sau: Lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử; lễ hội tôn giáo; lễ
hội du nhập từ nớc ngoài vào Việt Nam Nói tóm lại, lễ hội là một nét văn
hoá không thể thiếu đợc của ngời Việt Nam.
Hình ảnh về lễ hội đợc truyền tải tới công chúng với những chùm
ảnh đầy màu sắc rực rỡ của những lễ hội truyền thống mang lại cho công
chúng không khí rộn ràng của lễ hội. Các chùm ảnh sống động trên báo điện
tử Vietnamnet nh : Lễ hội Đánh Phết, Hội Lim, Trảy hội chùa Hơng..

(Chùm ảnh Hội Lim trớc ngày khai hội / ảnh Lê Anh Dũng
/VietNamNet)
Việc sử dụng loại hình nhiếp ảnh trong việc phản ánh lễ hội thực chất
đã là chép sử bằng ảnh, tự thân nó đã chứa đựng trọng trách quan trọng
trong việc tuyên truyền, giáo dục, hớng dẫn, phản ánh gìn giữ và phát huy
những nét văn hoá truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc. Lễ hội chính là để tài
để nhiếp ảnh hớng ống kính thể hiện. Lễ hội truyền thống Việt Nam là lễ hội
đa sắc màu cả về nghĩa đen và nghĩa bóng. Những sắc màu tơi vui sống động
của hàng trăm cờ xí, những tấm áo mớ năm mớ bảy của liền chị quan họ,
23


những sắc màu của áo quần nh nêm trong dòng ngời trẩy hội và cả sắc màu
của đất trời vào độ đẹp nhất trong năm của hai mùa hội xuân- thu nhị kì
3.2 Những yếu tố tiêu cực tồn tại ở các lễ hội truyền thống:
Thơng mại hoá lễ hội- vấn đề làm đau đầu những ngời có tâm huyết với
truyền thống dân tộc.
Nhiều năm trở lại đây, đáp ứng tâm lý trở về cội nguồn, lễ hội đã phát
triển thành phong trào trên khắp cả nớc, lễ hội có thể nói nhiều nh nấm sau
ma, có làng chẳng có đền thiêng chùa lớn cũng cố tạo ra thần nọ, phả kia rồi
dựng cờ, dựng rạp làm lễ. Còn những lễ hội có tiếng từ xa có nơi nay đã thay

màu biến sắc, thành nơi nhốn nháo làm ăn kiếm chác bằng mọi mánh lới. Đi
lễ hội ở những nơi này về tâm không sáng thêm lòng không thanh tịnh mà bực
bội mệt mỏi vì bị hành hạ, bị lừathì còn đâu niềm vui lễ hội. Hiện tợng thơng mại hoá lễ hội đang diễn ra hầu khắp các lễ hội trong cả nớc.
Báo Lao Động số 47 /2005, mục Sự kiện và bình luận bài Văn hoá lễ
hội của Tô Phán có viết: Thế nhng đáng lo ngại là ngày nay lễ hội đang bị
thơng mại hoá. Không ít ngời lợi dụng lễ hội để kiếm lợi nhuận cao bằng cách
kinh doanh các loại hình dịch vụ ăn nghỉ với giá cắt cổ, bán các sản phẩm mê
tín dị đoan, thậm chí có nơi còn phục hồi thủ tục trái với thuần phong mỹ tục
dân tộc, làm mất trật tự trị an. Ngời đi dự hội trở thành đối tợng để họ móc túi
dới nhiều hình thứcVà chỉ vì có chỗ bán hàng và đợc quyền kinh doanh, tổ
chức hoạt động nào đó mà nảy sinh ra những chuyện đau lòng, hàng xóm
đánh nhau, thôn làng kiện nhau các cơ quan đa nhau ra toàThơng mại hoá lễ
hội là một cuộc xâm lấn đầy nguy cơ, lúc thầm lặng, lúc công khai dữ dội.
Điều nguy hiểm là những ngời tổ chức cũng nh những ngời đi dự hội đã dần
dần quen với cuộc xâm lấn đó và coi thơng mại hoá lễ hội là chuyện bình thờng.
Trang nhất Báo Lao động số 45 ra ngày 15/2/2005 có bài đinh, ảnh
đinh: Cảm hứng miền quê dấu Phật- lễ hội chùa Hơng 2005 của tác giả
Việt Văn. Tác giả đa thông tin về những hoạt động đã chuẩn bị của ban tổ
chức lễ hội nh việc nạo vét suối Yến, xây dựng và cải tạo đờng vào chùabên
cạnh đó là những điều còn tồn tại cha đợc giải quyết nh: Cha xây dựng đợc
cáp treo phục vụ đành lỗi hẹn với du khách, hay nạn tắc đờng, xe đò lậu vé,
các loại hình dịch vụ phục vụ du khách nh ăn uống không đảm bảo vệ sinh;
dân chụp ảnh quấy nhiễu du khách
Mục Sự kiện và Bình Luận trên báo Lao Động số 80 ra ngày 22/02/2005
có bài: Chuyện Buồn ở chùa Hơng phản ánh tình trạng rác ở chùa Hơng

24


quá nhiều mà không hề đợc can thiệp. Đồ ăn uống, hàng hoá bày bán tràn lan,

nhà trọ bẩn thỉu, nạn tắc đờngĐó là những hiện tợng không phải là mới mà
đã tồn tại quá lâu ở các lễ hội nói chung. Chuyện cũ nhng không thể không
nói.
Báo Lao động số 52 ra ngày 22/2/2005 có bài đinh và ảnh đinh: Hội
Lim 2005: Còn duyên kẻ đón ngời đavới tít dẫn Còn nhiều chuyện đáng
buồn nhiều địa phơng tổ chức lễ hội theo cách cho t nhân đấu thầu khiến Bộ
VH- TT rất không đồng tình.
Tiếp theo tác giả trình bày: Năm nào hội cũng đông. Và năm sau còn
đông hơn năm trớc. Đứng từ đồi Lim nhìn xuống dòng ngời đầy màu sắc cuồn
cuộn đổ về đúng ngày chính hội, mới thấy Hội Lim còn duyên lắm. Nhng đắm
mình vào không gian lễ hội, lại có cảm giác Hội Lim nh tấm áo đã phai nhạt
màu, hay đúng hơn là sắc màu qua năm tháng đã không còn giữ đợc tinh khôi
nh thuở ban đầu
Phần tiếp theo tác giả viết với tít phụ Vẫn muốn hoài niệm. Tại đây
tác giả đã miêu tả lại những hoạt động lễ hội đặc trng của Hội Lim trớc đây
mà giờ theo tác giả đã phai nhạt: Hội Lim làm tonhiều trò vui hơn do
tỉnh tổ chức. Lễ tế từ mùng 10 đến hết 13 tháng Giêng tại các đình, đền chùa
trong cùng Lim Đoàn dân ca quan họ Bắc Ninh biểu diễn và các tốimúa
rối nớc, múa kỳ lân, múa trốngcủa đoàn Nhà hát Tuổi Trẻ từ thủ đô về biểu
diễnCác môn thể thao mới nh: Bóng chuyền đợc tổ chứcGiao lu thơ, thi
dệt vải, tổ tôm điếmVăn hoá ẩm thực với Bún cá, nem làng Bùi, rợu làng
Vân không lôi kéo đợc mấy khách. Ngợc lại, mực nớng, cá chỉ vàng, dứa, táo
xanhnhững đồ ăn mất vệ sinh đợc bầy bán ở đồi Lim thì lại rất đông khách.
Sản phẩm địa phơng nh tranh dân gian Đông Hồ đợc xếp cạnh các loại kính
mắt, tợng thần tài, đĩa hài Thẩy Dởm in lậu. Các trò xiếc môtô bay, các trò
chơi có thởng nhan nhản với tiếng loa nhức đầuQuan họ vẫn là đặc sản nhng
trên đồi Lim khó nghe đợc do ồn quá, không có giọng hát suất sắc. Dới thuyền
làng Lộ Bao, quan họ không hát hết mình, các liền anh liền chị hát vì tiền
Quan họ chất muốn đợc nghe thì phải đến nhà nghệ nhân nhng không phải
ai cũng biết và đủ thời gian để tìm lại phần ký ức đẹp đó.

Sự biến chất, biến dạng của lễ hội truyền thống do có sự mô phỏng hay
du nhập, đan xen văn hoá của các dân tộc trong và ngoài nớc. Lễ hội bị thơng
mại hoá gây ra lãng phí, tốn kém làm mất trật tự trị an và tinh thần xã hội gây
nguy hiểm cho xã hội và nguy hại đến cá nhân con ngời. Không ít ngời trớc
nguồn lợi thu đợc từ lễ hội đã không ngần ngại biến hoạt động tinh thần này
trở thành một dịch vụ kinh doanh kiếm lời béo bở. Hàng loạt nhà hàng, khách
25


×