LỜI MỞ ĐẦU
Nhằm mục tiêu đến 2020 nước ta cơ bản trở thành quốc gia công nghiệp theo
hướng hiện đại, phát triển công nghệ nông thôn nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và
lao động các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng sản phẩm và lao động nông
nghiệp là phương hướng cần đạt tới. Trong những năm gần đây, công nghiệp nông thôn
tuy đạt tốc độ tăng trưởng cao nhưng chủ yếu quy mô nhỏ, đầu tư tài sản cố định nghèo
nàn, phát triển lệch ngành nghề, thiếu vốn và khả năng tiếp cận vốn hạn chế, công nghệ
lạc hậu, năng suất thấp, khả năng cạnh tranh kém. Đặc biệt, do thu nhập nông thôn thấp
nên sức mua trì trệ dẫn đến kinh tế khu vực này thiếu thị trường để phát triển. Lao động
nông thôn chiếm 75% lao động toàn xã hội nhưng chỉ tạo ra 20,8% giá trị GDP. Thời
gian nông nhàn chiếm 21%/năm, xấp xỉ 8 triệu lao động thất nghiệp. Khoảng cách giàu
nghèo giữa đô thị và nông thôn năm 1996 là 2,71 lần; 2001 là 4,45 lần; 2003 năm 4 lần
và 2005 là 5 lần. Hiện tại, giá trị sản xuất công nghiệp nông thôn (công nghiệp nông
thôn) chỉ chiếm 22,35% toàn ngành. Hiện nay ở nhiều nước, nhất là nước đang phát
triển, phát triển công nghiệp nông thôn được coi là vấn đề tất yếu có ý nghĩa chiến lược
lâu dài. Đối với Việt nam là một quốc gia lạc hậu, hơn 80% dân số sống ở nông thôn với
một cơ cấu kinh tế độc canh thuần nông, năng suất lao động thấp, nhu cầu việc làm rất
bức bách.
Để phát triển nông thôn một cách toàn diện chúng ta không chỉ tập trung vào
những hoạt động sản xuất chính (như các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và
khai thác mỏ và đá); các hoạt động sản xuất thứ hai như các ngành chế biến chế tạo; mà
chúng ta cần phải quan tâm đến những hoạt động thứ ba đó là ngành dịch vụ. Dịch vụ
nông thôn mà chúng ta quan tâm ở đây bao gồm các ngành sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp, các hoạt động cung ứng, phục vụ cho sản xuất; dịch vụ xã hội nông thôn là các
điều kiện về nhà ở, giáo dục, y tế, văn hóa, cung cấp nước sạch và vệ sinh. Cùng với việc
nâng cao thu nhập, đẩy mạnh dịch vụ sản xuất, việc đẩy mạnh các dịch vụ xã hội nông
thôn là điều kiện từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống người dân nông thôn, giảm
dần sự cách biệt giữa mức sống nông thôn và thành thị.
NỘI DUNG
I, Phát triển công nghiệp nông thôn.
1, khái quát về phát triển công nghiệp nông thôn.
Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất nông nghiệp
chiếm tỷ trọng lớn. Nông nghiệp theo nghĩa hẹp là ngành sản xuất ra của cải vật chất mà
con người phải dựa vào quy luật sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi để tạo ra sản phẩm
như lương thực, thực phẩm để thoả mãn các nhu cầu của mình. Còn theo nghĩa rộng còn
bao gồm cả lâm, ngư nghiệp, ở các nước nước kém phát triển và đang phát triển, nông
nghiệp thường chiếm tỷ trọng khá lớn trong GDP và thu hút một bộ phận quan trọng lao
động xã hội. Như vậy: Công nghiệp nông thôn là một bộ phận của ngành công nghiệp với
các trình độ phát triển, quy mô, phương thức sản xuất và quản lý khác nhau, được phân
bố ở nông thôn gắn liền với sự phát triển của kinh tế xã hội ở nông thôn, bao gồm nhiều
ngành nghề có quan hệ.
Nghị định 134/2004/NĐ - CP về hoạt động khuyến công hay còn gọi là phát triển
công nghiệp nông thôn đã được Chính phủ ban hành và triển khai từ 2005. Với nguồn
kinh phí quốc gia không nhiều nhưng chúng ta đã triển khai được 7 nội dung phục vụ
các chương trình hướng dẫn, hỗ trợ, giúp đỡ các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở vùng nông nghiệp và nông thôn. Nhiều địa phương đã biết gắn chương trình
khuyến công với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng hiện đại hóacông nghiệp hóa. Trong đó, đưa chế biến nông, lâm, thuỷ sản vào chương trình phát
triển công nghiệp tại địa phương và bước đầu đã gặt hái được những thành công nhất
định.
Để chuẩn bị cho giai đoạn II (2006- 2010), Bộ công nghiệp đã xây dựng chương
trình khuyến công quốc gia trình Chính phủ xem xét thông qua với 8 chương trình sau:
đào tạo nghề, truyền nghề và phát triển nghề; hỗ trợ phát triển doanh nghiệp mới; nâng
cao năng lực quản lý cho các cơ sở công nghiệp nông thôn; hỗ trợ xây dựng mô hình
trình diễn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ thuật; chương trình
mỗi xã một sản phẩm; phát triển hoạt động tư vấn, cung cấp thông tin; hỗ trợ liên
doanh, liên kết, hợp tác kinh tế, hình thành các cụm liên kết doanh nghiệp công nghiệp;
nâng cao năng lực quản lý, tổ chức thực hiện các hoạt động khuyến công. chương trình
khuyến công quốc gia 5 năm tới trong điều kiện nền kinh tế tham gia hội nhập ngày
càng sâu vào kinh tế thế giới và đặc biệt là sự cởi mở của Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ 10: đảng viên được làm kinh tế, đã mở ra một động lực mới, khuyến khích mọi
người làm giàu chính đáng. Đồng thời, điều này càng có ý nghĩa to lớn trong việc phát
triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề ở nông thôn. Để
triển khai nhiệm vụ này, vai trò của Bộ công nghiệp mà trực tiếp là cục công nghiệp địa
phương đã được Chính phủ giao làm đầu mối để triển khai nhiệm vụ trên. Nhưng quan
trọng hơn, để thúc đẩy phát triển công nghiệp nông thôn thì vai trò của lãnh đạo 64 tỉnh
thành, các sở công nghiệp, hiệp hội, nhất là hiệp hội ngành hàng, làng nghề, hiệp hội
doanh nghiệp vừa và nhỏ cực kỳ quan trọng.
2, Tính cấp thiết phải phát triển công nghiệp nông thôn.
Phát triển công nghiệp nông thôn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong quá
trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. do đó, phải được định hướng một cách
cụ thể:
Thứ nhất, phải hướng vào các ngành nghề chế biến nông – lâm – thuỷ sản, nâng
cao giá trị sản phẩm nông nghiệp trong xuất khẩu; trước hết là nâng cao giá trị sản
phẩm nông nghiệp dùng làm nguyên liệu cho các ngành nghề chế biến và tiếp theo đó là
nâng cao giá trị hàng hóa xuất khẩu, giảm nhanh và hết sức hạn chế việc xuất khẩu
nông, lâm thủy sản chưa qua chế biến. Ngoài ra, cần đặc biệt chú trọng các ngành tiểu
thủ công nghiệp (tiểu thủ công nghiệp), mỹ nghệ, dệt, may, da giầy, cơ khí nhỏ, thuỷ
điện nhỏ ở vùng sâu, vùng xa. Các ngành dịch vụ chủ yếu như tài chính, ngân hàng, xúc
tiến thương mại, dịch vụ khoa học kỹ thuật, đào tạo thông tin, tư vấn, xây dựng, vận
tải…phải được chú trọng phát triển để góp phần thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp
nông thôn.
Thứ hai, công nghiệp nông thôn phải nằm trong chiến lược phát triển công
nghiệp trong phạm vi cả nước, theo định hướng chiến lược phù hợp với đặc điểm tình
hình nước ta và hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra nhiều vấn đề rất mới. Nói cách
khác, phát triển ngành nghề, quy mô, trình độ công nghệ, phân bố trên địa bàn lãnh thổ
cũng đều phải được quy hoạch một cách tổng thể với tầm nhìn dài hạn, không thể chủ
quan duy ý chí, càng không thể manh mún theo lợi ích cục bộ. Vì lẽ đó, công tác quy
hoạch cơ cấu các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ ở nông thôn rất quan trọng.
Những quy hoạch này phải tiến hành đồng bộ, gắn bó chặt chẽ với nhau. Theo tôi, đây
là một công việc to lớn, cần có sự hợp tác của nhiều ngành, nhiều cơ quan và là cơ sở
cho việc xác định chương trình khuyến công cả nước cũng như của mỗi vùng.
Thứ ba, trong báo cáo chương trình khuyến công quốc gia giai đoạn II (2006 –
2010) có 8 chương trình, đó là những chương trình cần thiết, bảo đảm không những
củng cố và nâng cao khả năng cạnh tranh các sản phẩm, cơ sở công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp hiện có mà còn tạo thêm nhiều ngành nghề mới, cơ sở mới, tạo nên bộ mặt
mới của nông thôn. Tuy nhiên, cần có thứ tự ưu tiên trong các chương trình, những cơ
sở sản xuất kinh doanh mới phải gắn chặt với quy hoạch phát triển đô thị và môi
trường, lộ trình thực hiện sao cho mỗi năm làm được một việc thiết thực. Để tổ chức
thực hiện hiệu quả, ngoài việc đề ra kiện toàn hệ thống khuyến công từ trung ương đến
địa phương, tổ chức 4 trung tâm khuyến công vùng nhưng ở một góc độ khác, cần có sự
phối hợp đồng bộ giữa các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ, du
lịch. Đồng thời, tập trung huy động mọi nguồn lực của xã hội vào các chương trình.
Thứ tư, đường lối phát triển kinh tế của Đảng gần đây đã có nhiều thay đổi căn
bản, đặc biệt là tại Đại hội đảng toàn quốc lần thứ X. Theo đó, các thành phần kinh tế
hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh. Xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu, tạo môi trường
kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân, đầu tư phát triển không
hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực đầu tư, kể cả các lĩnh vực quan trọng
mà pháp luật không cấm. Theo quan điểm này, vào năm 2010, cả nước sẽ có 50 vạn
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
Tuy nhiên, đó không phải là hệ thống doanh nghiệp nhiều số lượng mà phải chú
trọng về chất, nâng cao tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, có thương hiệu uy
tín, đủ sức cạnh tranh trong nước và trên thị trường quốc tế. Mỗi doanh nghiệp phải
được tổ chức và hoạt động theo đúng bài bản, của đơn vị kinh tế tự chủ, chủ động trong
kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài
sản, vốn đầu tư, thu nhập và lợi ích khác của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp.
ở đây, cần lưu ý là để doanh nghiệp tự chủ, chủ động nhưng phải hướng dẫn họ phát
triển các quan hệ kinh doanh, liên doanh, liên kết.
Cùng với đó là những vấn đề nan giải cần khắc phục và phát triển. Thứ nhất, cần
có chiến lược, quy hoạch phát triển công nghiệp nông thôn gắn với chiến lược phát triển
ngành, vùng và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Trong đó, cần chú
ý về thị trường ưu tiên ngành nghề, sản phẩm, chất lượng và trình độ kỹ thuật của sản
phẩm. Thứ hai, đào tạo lao động quản lý và lao động làm việc. Tình hình chung cho
thấy, so với doanh nghiệp ở thành thị và khối doanh nghiệp Nhà nước thì nhân lực công
nghiệp nông thôn ít được đào tạo và trình độ thấp hơn. Trên thực tế, tỷ lệ giám đốc
công nghiệp nông thôn có trình độ cao đẳng, đại học chỉ 31% và phần lớn trong số họ
xuất phát từ lao động thực tiễn, hầu như không có ai được đào tạo làm giám đốc. Đối
với lao động trực tiếp, đa số không được đào tạo qua trường lớp mà chủ yếu qua truyền
nghề, tỷ lệ được đào tạo thấp. Vì vậy, để cải thiện chất lượng nhân lực cho công nghiệp
nông thôn, cần kết hợp với chương trình đào tạo hỗ trợ nhân lực cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa ban hành, sắp xếp lại hệ thống dạy nghề và
gắn chương trình giảng dạy với lao động thực tiễn. Thứ ba, cần nâng cao năng suất lao
động để đạt được hiệu suất sử dụng lao động cao và tăng khả năng cạnh tranh khi hội
nhập. Để làm được điều này, phải sử dụng các biện pháp đồng bộ sau: đẩy mạnh ứng
dụng tiến bộ công nghệ, nâng cao trình độ trang bị kỹ thuật cho lao động; phát triển các
khu công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công nghiệp làng nghề để tách khu vực sản xuất ra
khỏi khu dân cư. Đồng thời, đẩy mạnh chuyển các hộ kinh doanh sang các công ty
TNHH, tư nhân, cổ phần để minh bạch hoá quản lý; tạo điều kiện mở rộng quan hệ với
thị trường và quy mô sản xuất kinh doanh.Thứ tư, cần có chính sách giải quyết tốt các
vấn đề xã hội tại khu vực nông thôn như việc làm, thu nhập quá chênh lệch giữa 2 khu
vực nông thôn và thành thị, bảo hiểm, y tế...
Lâu nay, khi nhắc đến công nghiệp nông thôn, vấn đề vốn luôn được đặt lên
hàng đầu và không ít kêu ca về việc khó tiếp cận vốn từ ngân hàng: tiềm lực tài chính
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ không lớn, bình quân số vốn của loại hình doanh
nghiệp này chỉ khoảng 1,2 tỷ đồng/doanh nghiệp, trong khi một thống kê cho thấy chỉ
có 32,38% số doanh nghiệp có khả năng tiếp cận nguồn vốn Nhà nước, 35,24% doanh
nghiệp rất khó vay và 32,38% doanh nghiệp không thể vay vốn. Điều đáng lưu ý là 80%
lượng vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ lại từ ngân hàng. Mặt khác, thị trường chứng
khoán lại kém phát triển. Hiện tại có 30 công ty niêm yết thị trường chứng khoán nhưng
tổng số tài khoản đầu tư chứng khoán rất nhỏ nhoi. Trong vòng 5 năm tới, để hoàn
thành mục tiêu tăng trưởng 8%/năm thì nhu cầu vốn lên tới 140 tỷ USD. Vì vậy, gánh
nặng vốn trong thời gian tới, vẫn chủ yếu dựa vào ngân hàng. Nhưng ngân hàng cũng là
doanh nghiệp, họ cũng phải tính toán để thực sự cầm chắc không bị rủi ro mới cho vay.
Những doanh nghiệp nào chứng minh được năng lực thực sự, có khả năng hoàn trả nợ
vay và lãi suất đúng kỳ hạn mới được vay. Nếu không thì sẽ rất khó vay ngân hàng. Từ
đây, các doanh nghiệp muốn giải quyết tốt bài toán vốn, cần phải chứng minh năng lực
thật sự cũng như hướng phát triển khả thi: Sản xuất cái gì? Cho ai? Thị trường có cần
không? Khẳng định được điều này, doanh nghiệp sẽ xác lập được niềm tin với ngân
hàng và các kênh thu hút vốn khác. Ngoài ra, để giảm bớt gánh nặng vốn cho ngân
hàng, con đường lâu dài đối với doanh nghiệp là phải chứng khoán hoá nguồn vốn của
mình, tiếp cận vốn thông qua trái phiếu là chính thay vì chỉ vay ngân hàng. Làm thế nào
đó để cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp phải ở mức tự có 1/3; vay ngân hàng và phát
hành trái phiếu 1/3; phần còn lại huy động từ thị trường chứng khoán. Nên tránh tình
trạng, nguồn vốn doanh nghiệp có tới 80- 90% vay ngân hàng. Một vấn đề khác đặc biệt
quan trọng là doanh nghiệp phải có khả năng liên doanh liên kết thành những doanh
nghiệp lớn. Trên thế giới, đây là xu hướng phổ biến, nhiều doanh nghiệp khi đứng riêng
lẻ thì đơn độc, yếu ớt nhưng khi liên kết và có sự phân công cao trong sản xuất thì trở
thành những tập đoàn mạnh mẽ. Sự hạn chế trong cộng đồng doanh nghiệp nông thôn ở
nước ta là hoạt động theo dạng nhỏ lẻ. Điều này đã không còn phù hợp trong xu thế
hiện đại. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nông thôn cũng phải tận dụng những hỗ trợ
của Chính phủ dưới hình thức xúc tiến thương mại để tăng cường khả năng xuất khẩu;
tích cực đầu tư đổi mới công nghệ, năng lực quản lý, nâng cao chất lượng và mẫu mã
sản phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
3. Vai trò của việc phát triển công nghiệp nông thôn.
Phát triển công nghiệp nông thôn sẽ thu được nhiều cái lợi: Thứ nhất, động viên
và huy động được các nguồn lực trong và ngoài nước tham gia vào chương trình
này. Thứ hai, góp phần lớn vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng thu nhập, tạo việc làm và phân công lại lại thị trường lao
động. Thứ ba, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân đầu tư vào công nghiệp nông thôn có điều
kiện nâng cao năng lực cạnh tranh, chuẩn bị tốt cho hội nhập. Thứ tư, nâng tỷ trọng giá
trị sản xuất công nghiệp nông thôn lên 32% toàn ngành và kim ngạch xuất khẩu hàng
tiểu thủ công nghiệp đạt 1 tỷ USD vào 2010. Thứ năm, đóng góp lớn cho tốc độ tăng
trưởng công nghiệp bình quân từ 2006- 2010 là 15 - 15,5%/năm; tỷ trọng công nghiệp
và xây dựng/GDP là 42 - 43% vào 2010; tăng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm công
nghiệp giai đoạn 2006 - 2010 là 14 - 16%/năm; giảm lao động nông nghiệp dưới 50%
vào 2010, tạo việc làm cho 8 triệu lao động; giảm chênh lệch thu nhập giữa đô thị và
nông thôn xuống 3,5 lần vào 2010.
Công nghiệp nông thôn là động lực kinh tế của địa phương: điển hình là trong
đường lối phát triển kinh tế, tỉnh Hà Tây xác định: Huy động mọi nguồn lực, tạo bước
đột phá trong phát triển công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp, để trở thành ngành kinh tế
chủ lực của tỉnh. Để đạt được mục tiêu này, trong 2005, Hà Tây đã thực hiện tốt 7
chương trình phát triển công nghiệp: đào tạo nghề và nhân cấy nghề; hỗ trợ khởi sự
doanh nghiệp; tham quan học tập, trao đổi kinh nghiệm về phát triển công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp, thành lập Hiệp hội ngành nghề; hỗ trợ lập đề án xin chủ trương đầu tư
cụm - điểm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp; xúc tiến đầu tư công nghiệp, hướng dẫn
hỗ trợ các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn, nâng cao năng lực quản lý, hợp tác
hoá sản xuất, hạ giá thành sản phẩm; hướng dẫn, tư vấn các cơ sở sản xuất công nghiệp
nông thôn, đầu tư dây chuyền sản xuất mới, mở rộng sản xuất, đổi mới và ứng dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao năng lực sản xuất, quản lý chất lượng sản phẩm và bảo
vệ môi trường; quản lý quỹ khuyến công. Chương trình khuyến công tại Hà Tây đã góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong tỉnh, nhất là khu vực nông thôn. Theo đó, giá trị
sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp năm 2005 tăng 23,06%, giá trị sản xuất tiểu
thủ công nghiệp đạt 8.371,8 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 38,1% GDP của tỉnh. Do đó, việc
phát triển công nghiệp nông thôn nói chung và phát triển tiểu thủ công nghiệp nói riêng
phải gắn với phát triển nông nghiệp, công nghiệp và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cần
chú ý lựa chọn phát triển những ngành nghề có tiềm năng và lợi thế so sánh; lựa chọn
công nghệ, thiết bị phù hợp, kết hợp giữa truyền thống và tiên tiến; đầu tư nâng cao chất
lượng, phát triển các mặt hàng mới phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của thị trường; mở
rộng thị trường xuất khẩu, chú trọng xây dựng thương hiệu sản phẩm, kết hợp hài hoà
nhiều quy mô, nhiều loại hình tổ chức trong phát triển tiểu thủ công nghiệp. Đồng thời,
phát triển tiểu thủ công nghiệp phải phù hợp với chiến lược phát triển ngành công
nghiệp, và gắn kết quy hoạch phát triển kinh tế xã hội nói chung với quy hoạch phát
triển công nghiệp địa phương nói riêng.
Hợp tác xã là “hạt nhân” của chương trình công nghiệp nông thôn: Theo những
điều tra gần đây nhất, diện tích đất trồng trọt cho nông nghiệp ngày càng giảm, mỗi
năm chuyển khoảng 20 vạn ha đất nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Vì thế, thời gian
nông nhàn ngày càng tăng, tạo ra sức ép gay gắt về việc làm, thu nhập ở khu vực nông
thôn. Hợp tác xã là đối tượng của phát triển công nghiệp nông thôn, tham gia xoá đói
giảm nghèo và phát triển bền vững. Khi tham gia thị trường, hợp tác xã hoạt động như
một loại hình doanh nghiệp, bình đẳng với các doanh nghiệp và được nhìn nhận như là
hạt nhân phát triển, gắn với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nghề nông thôn theo
hướng sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Qua thống kê, giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp của các hợp tác xã tăng bình quân qua các năm là 20%, nhiều hợp tác
xã đạt hiệu quả kinh tế cao, giải quyết việc làm và thu nhập cho hàng ngàn lao động. Số
liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, tại 44 tỉnh, thành phố, có 1.024 hợp tác xã
tiểu thủ công nghiệp, hoạt động trong các ngành nghề chế biến nông sản, thực phẩm,
hoá chất, vật liệu xây dựng, chế biến gỗ, giấy bìa, dệt và cơ khí, da, giầy... trong đó có
nhiều hợp tác xã hoạt động điển hình: hợp tác xã Song Long (Hà Nội), hợp tác xã chế
biến thức ăn chăn nuôi Bình Minh (Tiền Giang), hợp tác xã khai thác vận chuyển đá
Mông Sơn (Yên Bái), hợp tác xã chế biến suất ăn công nghiệp Kim Sơn (Tp.HCM). Để
hợp tác xã thực sự là hạt nhân của chương trình công nghiệp nông thôn, cần làm tốt
những vấn đề sau.Một là, cần nhân rộng mô hình thành công, liên kết tạo thế mạnh cho
từng vùng. Chính sách khuyến công phải được thực hiện liên hoàn giữa đào tạo nghề thành lập mới - củng cố pháp nhân kinh doanh- hỗ trợ đầu tư công nghệ và phát triển thị
trường. Hai là, sản phẩm phải có mẫu mã đẹp phù hợp và đáp ứng thị hiếu người tiêu
dùng. Ba là, phát triển vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến: vùng nguyên liệu là
một tài nguyên, khi khai thác phải có sự chấp thuận của cơ quan quản lý, khai thác có
quy hoạch. Đồng thời với khai thác, cần có kế hoạch đưa những giống cây mới có năng
suất cao, phù hợp điều kiện thổ nhưỡng để duy trì sự ổn định của vùng nguyên liệu.
II, Phát triển dịch vụ nông thôn.
1, khái quát về phát triển dịch vụ nông thôn.
Theo Philip Kotler dịch vụ được định nghĩa như sau:
Dịch vụ là bất kì hoạt động, hoặc lợi ích gì mà một bên có thể công hiến cho bên
kia, thực chất là có tính chất vô hình và không dẫn đến việc sở hữu bất kì món gì. Việc
sản xuất ra nó có thể không bị ràng buộc với một sản phẩm vật chất.
Dịch vụ được coi là ngành kinh tế thứ ba trong nền kinh tế quốc dân, vì rằng trong
phát triển sản xuất và đời sống của nhân loại thì nông nghiệp là ngành kinh tế đầu tiên
tạo ra lương thực, thực phẩm nuôi sống con người nó được coi là ngành kinh tế thứ
nhất. Kể đến là ngành công nghiệp ( bao gồm cả tiểu thủ công nghiệp ) là ngành đã tạo
ra công cụ sản xuất và vật phẩm tiêu dung được coi là ngành kinh tế thứ hai. Cuối cùng
là ngành kinh tế ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu của hai ngành kinh tế trên về những điều
kiện sản xuất và cung cấp cho con người những yêu cầu dịch vụ cho cuộc sống được
gọi là ngành kinh tế thứ ba. Tuy ra đời sau nhưng ngành dịch vụ đã có những xu hướng
phát triển mạnh và chiếm dần tỉ trong cao trong nề kinh tế.
Sản phẩm của ngành dịch vụ cung cấp hầu hết là sản phẩm phi vật chất, sản xuất
và đời sống ngày càng cao thì yêu cầu cung cấp dịch vụ ngày càng tăng và đa dạng hơn.
Hiên nay ở nhiều nước phát triển, ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng tới 70% trong cơ cấu
GDP của đất nước. Những năm gần đây ở Việt Nam ngánh dịch vụ chiếm 38-39%
trong cơ cấu GDP của cả nước. Ngành dịch vụ còn tạo ra cơ cấu kinh tế ngày càng tiến
bộ. Vì một khi dịch vụ phát triển, nhu cầu con người được đáp ứng, sản xuất công
nghiệp, nông lâm, ngư nghiệp…có cơ sở để tiêu thụ, nhiều khi phế liệu của các mặt
hàng sản xuất chính sẽ được ứng dụng làm các sản phẩm mỹ nghệ, các mặt hàng đồ
chơi, đồ trang trí …lúc đó nhờ dịch vụ mà các hoạt động sản xuất chính cũng như các
hoạt động sản xuất thứ được thúc đẩy, mở rộng sản xuất hơn nữa, áp dụng nhiều tiến bộ
để đáp ứng được đúng và đủ nhu cầu của xã hội. chính vì vậy mà cơ câu kinh tế ngày
càng tiến bộ. Cũng có thể xem nó như những hoạt động trợ giúp nhằm hoàn thiện và
khuếch trương hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2, Tính tất yếu phải phát triển dịch vụ nông thôn.
Việc tiếp cận các dịch vụ công của người dân nông thôn vẫn còn nhiều hạn chế,
đặc biệt là các dịch vụ y tế và nước sạch.Các cơ sở dịch vụ Nhà nước ở khu vực nông
thôn làm ăn kém hiệu quả, sức cạnh tranh yếu do cơ chế quản lí yếu kém, giá thành cao,
hoạt động cứng nhắc. Nhiều hợp tác xã mang tính hình thức, yếu kém, biểu hiện sự thiếu
hấp dẫn với người dân, giá dịch vụ cao. Không ít cơ sở dịch vụ tư nhân ở nông thôn được
khuyến khích hình thành nhưng lại yếu về năng lực tài chính, không có chuyên môn,
cung ứng dịch vụ tương đối thấp… Sự tăng trưởng và hiệu quả hoạt động dịch vụ ở nông
thôn bị hạn chế do khó khăn về kinh tế và cơ sở hạ tầng yếu như giao thông, điện viễn
thông đặc biệt là dịch vụ còn nghèo nàn ở vùng sâu vùng xa. Chưa có điều tra, đánh giá
toàn diện đội ngũ lao động chuyên môn trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Chưa quan
tâm đúng mức những vấn đề trao đổi kinh nghiên cứu lí luận, định hướng các vấn đề
nghiên cứu cơ bản và triển khai trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Quản lí của Nhà
nước còn nhiều bất cập, nhiều vấn đề có chính sách nhưng thiếu sự chỉ đạo cụ thể cho
từng lĩnh vực, từng địa bàn làm hạn chế tính tiêu cực của chính sách. Chưa có sự kết hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước về hoạt động dịch vụ sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra
còn nhiều vấn đề bất cập khác trong từng vùng từng địa phương cũng như trong từng lĩnh
vực hoạt động dịch vụ sản xuất nông nghiệp.
Do đó, phát triển dịch vụ nông thôn trở thành một yêu cầu bức thiết góp phần phát
triển nông thôn toàn diện và tạo ra cơ cấu kinh tế ngày càng tiến bộ. Những năm gần đây
cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, nhiều loại hình dịch vụ mới mang
đậm nét của nền kinh tế thị trường đã hình thành, phát triển trong sản xuất và đời sống
nông thôn như các hoạt động dịch vụ tài chính, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, du lịch,
kinh doanh bất động sản, tư vấn tin học, pháp lý…
3. Đặc trưng cơ bản của việc phát triển dịch vụ nông thôn.
a. Các ngành dịch vụ nông nghiệp ở nước ta:
Để phát triển dịch vụ ở nông thôn, trước hết chúng ta cần biết được có
những ngành dịch vụ về nông nghiệp như thế nào? Dịch vụ trong nông nghiệp
gồm: Dịch vụ thủy lợi, Dịch vụ điện, Dịch vụ giống cây trồng và vật nuôi, Dịch vụ
làm đất, Dịch vụ vật tư nông nghiệp, Dịch vụ bảo vệ thực vật, Dịch vụ bảo vệ
ruộng đồng, Dịch vụ thú y, Dịch vụ chế biến nông sản, Dịch vụ tiêu thụ nông sản,
Dich vụ khuyến nông.
Hợp tác xã nông nghiệp đơn vị kinh tế tập thể cơ sở có chức năng hoạt
động dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ gia đình xã viên và kinh doanh trong mọi lĩnh
vực sản xuất chế biến, tiêu thụ nông sản… sau những năm chuyển đổi với các mức
độ khác nhau đã tổ chức một số hoạt động dịch vụ chủ yếu. Tuy nhiên các loại
hoạt động dịch vụ trong hợp tác xã trong cả nước rất khác nhau. Số lớn các hợp
tác xã chỉ hoạt động trong lĩnh vực đầu tư và gần như bắt buộc vỡi những công
trình có giá trị lớn như thủy lợi, điên. Những dịch vụ mà thị trường cạnh tranh
như vật tư nông nghiệp, thương mại tiêu thụ nông sản thì thấp hơn rất nhiều,
thậm chí nhiều địa phương các hợp tác xã không đủ điều kiên để tổ chức hoạt
động dịch vụ này. Phần lớn các hoạt động dịch vụ trong hợp tác xã nông nghiệp
mang tính phục vụ hạch toán kinh doanh còn ít.
Kết quả điều tra của bộ Nông nghiệp và PTNT năm 2003 cho ở bảng sau: Tổng
kết mức độ tham gia hoạt động dịch vụ nông nghiệp trong hợp tác xã nông
nghiệp.
Tỉ lệ % hợp tác xã trong nông nghiệp
Cả nước
St
Tên hoạt động dịch vụ
10 tỉnh
Hợp tác
Hợp tác
điều tra
xã chuyển
xã mới
đổi
1
- Dịch vụ thủy lợi
94.90
92.70
100.00
100.00
2
-Dịch vụ điện
52.02
47.52
66.70
25.00
3
- Dịch vụ giống cây trồng
41.30
45.18
46.60
50.00
4
- Dịch vụ làm đất
36.00
39.22
40.00
25.00
5
- Dịch vụ vật tư nông nghiệp
14.40
25.47
16.70
-
6
-Dịch vụ bảo vệ thực vật
61.20
66.40
56.60
50.00
7
-Dịch vụ thú y
37.70
21.67
20.00
-
8
- Dịch vụ tín dụng
-
10.26
20.00
25.00
9
-Dịch vụ chế biến
0.40
2.02
6.60
-
10 -Dịch vụ tiêu thụ
10.03
12.60
13.20
-
11 -Dịch vụ bảo vệ ruồng đồng
95.20
93.60
100.00
100.00
12 - Định hướng khuyến nông
100.00
100.00
100.00
100.00
Cơ sở vật chất kỹ thuật là điều kiện quan trọng cho mức độ và chất lượng trong
sản xuất nông nghiệp còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của hoạt động dịch vụ sản
xuất nông nghiệp, nhất là trong điều kiện của công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn. Những vấn đề đang đặt ra là phải tiếp tục hoàn thiện nâng cao bổ sung và tổ
chức lại các hệ thống dịch vụ cho phát triển nông nghiệp nông thôn. Công tác đào tạo
nguồn nhân lực cho hoạt động dịch vụ sản xuất nông nghiệp cũng như tổ chức công tác
nghiên cứu khoa học cho dịch vụ sản xuất nông nghiệp cả về phương diện lý luận và thực
tiễn còn nhiều hạn chế.
b.Các lĩnh vực dịch vụ chủ yếu ở nông thôn.
Lĩnh vực dịch vụ thương mại: Lĩnh vực thương mại và dịch vụ nói chung bao gồm
những lĩnh vực hết sức nhạy cảm và có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế.
Việc đẩy mạnh và mở cửa về lĩnh vực này cần được xem xét một cách toàn diện để có thể
xác định và tiến hành những bước đi và giải pháp phù hợp. Nhằm một mặt góp phần cùng
thành phố và cả nước thực hiện thành công tiến trình mở cửa, mặt khác cùng góp phần
đảm bảo giữ vững độc lập dân tộc, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hoạt động của
thương mại và dịch vụ có vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: Thương mại và dịch vụ góp phần thúc đẩy sản xuất,
lưu thông, phân phối hàng hóa, thúc đẩy thương mại hàng hóa phát triển trong phạm vi
quốc gia cũng như quốc tế. Thật vậy, dịch vụ - thương mại chính là cầu nối giữa các yếu
tố “đầu vào” và “đầu ra” trong quá trình sản xuất hàng hóa, tiêu thụ sản phẩm. Buôn bán
quốc tế, đặc biệt là buôn bán hàng hóa sẽ lưu hành như thế nào nếu không có dịch vụ vận
tải? Dịch vụ thanh toán? Chính sự ra đời và phát triển của dịch vụ vận tải như vận tải
đường bộ, đường không, đường biển đã góp phần khắc phục được trở ngại về địa lý, đẩy
nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa, thúc đẩy nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa từ Quốc
gia này đến quốc gia khác, từ khu vực này đến khu vực địa lý khác... Các dịch vụ ngân
hàng cũng cho phép khâu thanh toán được diễn ra một cách có hiệu quả, giúp cả hai bên
xuất khẩu và nhập khẩu đạt được mục đích trong quan hệ buôn bán. Các dịch vụ viễn
thông, thông tin cũng có vai trò hỗ trợ cho các hoạt động thương mại trong việc kích cầu,
rút ngắn thời gian ra quyết định mua hàng của người tiêu dùng. Các dịch vụ như dịch vụ
đại lý, buôn bán, bán lẻ giữ vai trò trung gian kết nối giữa người sản xuất với người tiêu
dùng; đồng thời góp phần đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng hóa, rút ngắn thời gian hàng
hóa lưu thông, giúp các nhà sản xuất nhanh chóng thu hồi vốn để đầu tư tái sản xuất. Như
vậy, dịch vụ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các hoạt động thương mại hàng hóa. Thương mại
và dịch vụ tạo điều kiện để thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Thông qua hoạt động
dịch vụ - thương mại trên thị trường, các chủ thể kinh doanh mua bán được sản phẩm,
góp phần tạo ra quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục và như vậy các dịch vụ sẽ
lưu thông, các dịch vụ được thông suốt. Có thể nói, nếu không có dịch vụ - thương mại
thì sản xuất hàng hóa khó có thể phát triển được. Trong quá trình CNH - HĐH đất nước,
thương mại và dịch vụ đã trở thành yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất là bởi vì
nhu cầu về dịch vụ xuất phát từ chính các nhà sản xuất khi họ nhận thấy rằng, để có thể
tồn tại trong sự cạnh tranh khốc liệt ở cả thị trường nội địa và thị trường nước ngoài, phải
đưa nhiều hơn các yếu tố dịch vụ vào trong quá trình sản xuất để hạ giá thành và nâng
cao chất lượng như dịch vụ khoa học công nghệ. Hiện nay, sự phát triển thương mại và
dịch vụ phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Người ta thấy rằng, trình
độ phát triển kinh tế của một nước càng cao thì tỷ trọng của dịch vụ - thương mại trong
cơ cấu ngành kinh tế nước đó càng lớn. Dịch vụ phát triển sẽ thúc đẩy phân công lao
động xã hội và chuyên môn hóa, tạo điều kiện cho lĩnh vực sản xuất khác phát triển.
Thông qua mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường, khả năng tiêu dùng, nâng cao mức
tiêu thụ và hưởng thụ của cá nhân và doanh nghiệp cũng tăng lên góp phần thúc đẩy sản
xuất, mở rộng thị trường lao động và phân công lao động trong xã hội.Trong xu thế hội
nhập quốc tế, thị trường trong nước sẽ liên hệ chặt chẽ với thị trường nước ngoài thong
qua hoạt động ngoại thương, điều này nếu dịch vụ và thương mại phát triển mạnh mẽ,
phong phú, đa dạng chắc chắn sẽ mở rộng được thị trường thu hút các yếu tố đầu vào,
đầu ra của thị trường.
Dịch vụ ngân hàng và tín dụng: Mạng lưới ngân hàng và các tổ chức tín dụng
mấy năm gần đây phát triển mạnh mẽ, các cơ sở giao dịch của ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn rộng khắp trên tất cả các huyện của các tỉnh trong cả nước. Hoạt
động của các ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn hết công suất và rất có hiệu
quả. Theo báo cáo của các ngân hàng này thì mỗi năm họ đều vượt chỉ tiêu đặt ra từ 57%. Doanh thu của ngân hàng đáng kể, đồng thời dịch vụ này đã đáp ứng được một
lượng vốn lớn cung cấp, tạo điều kiện cho nhiều hộ nông dân phát triển kinh tế nông
thôn. Bên cạnh đó các tổ chức tín dụng đi vào hoạt động khá hiệu quả, các tổ chức này có
nhiều hình thức vay vốn phù hợp với điều kiện khó khăn về tài sản, tài chính của một số
người dân.
Dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp: Hệ thống dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp được áp
dụng rất hiệu quả, đáp ứng được phần thiếu kiến thức về kỹ thuật, công nghệ trong nông
nghiệp, góp phần thúc đẩy tăng năng suất, sản lượng cho các lĩnh vực nông nghiệp.
Dịch vụ vận tải và các loại dịch vụ khác cũng đã phát huy mọi khả năng sẵn có
của các vùng, địa phương. Việc thực hiện các dịch vụ này đã góp phần không nhỏ vào
tiến trình phát triển nông thôn. Ngoài ra còn nhiều loại dịch vụ cũng có tác động không
nhỏ tới phát triển nông thôn như: tiêu thụ sản phẩm, phục vụ đời sống sản xuất của người
dân; cung cấp năng lượng, nhiên liệu cấp thoát nước; dịch vụ thông tin liên lạc, quảng
cáo, tuyên truyền tư vấn, bảo dưỡng máy móc thiết bị; giáo dục y tế; dịch vụ khách sạn
du lịch, văn hóa giải trí...
c. Tình hình phát triển dịch vụ nông thôn trong những năm gần đây.
Trong những năm gần đây chính phủ Việt Nam rất quan tâm phát triển dịch vụ ở
nông thôn nhằm đáp ứng đầy đủ những điều kiện cần thiết cho phát triển kinh tế xã hội
nông thôn. Các hoạt động dịch vụ thu hút khoảng 14% việc làm ở nông thôn, 11,2% số
hộ làm dịch vụ, tỷ trọng GDP từ hoạt động dịch vụ nông thôn chiếm 13,8% trong cơ cấu
kinh tế nông thôn đã góp phần làm giảm đáng kể tính thuần nông trong kinh tế nông thôn.
Các loại hình dịch vụ của khu vực kinh tế nhà nước, hợp tác xã và tư nhân cùng song
song phát triển đáp ứng các yếu tố đầu vào cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của nhân
dân. Cung cấp hàng hóa và các điều kiện ăn, ở, đi lại, học hành, khám chữa bệnh, văn
hóa, tinh thần cho người dân và đáp ứng du khách trong và ngoài nước về du lịch giải
trí…ở nông thôn Việt Nam. Một số loại hình dịch vụ được nhà nước trợ giá hoặc ưu đãi
cho người dân nông thôn như trợ giá vật tư nông nghiệp khi giá thị trường lên cao, giảm
giá điện phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, hỗ trợ kinh phí cho hoạt động khuyến nông,
cấp không cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao thuốc chữa bệnh, dầu đốt, sách giáo
khoa phổ thông, muối ăn….
Tuy nhiên theo đánh giá chung tính đồng bộ còn thấp mối quan hệ giữa các tổ
chức đơn vị trong hệ thống vẫn còn nhiều bất cập nhất là lợi ích kinh tế xã hội của từng
hoạt động dịch vụ cũng như tổ chức.
Hệ thống dịch vụ: Tạo ra một hệ thống từ trung ương tới cơ sở với sự tham gia
của nhiều thành phần kinh tế trong hệ thống, có những loại hình dịch vụ đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của người dân. Các loại hình dịch vụ trong phát triển kinh tế xã hội ở nước ta
hiện nay:
Một Là, Dịch vụ tiêu thụ sản phẩm bán hàng hóa phục vụ sản xuất đời sống ở
nông thôn nước ta ngày càng đa dạng và phong phú. Như hoạt động dịch vụ tiêu thụ cho
các mặt hàng sản phẩm công nghiệp như hàng thiết yếu. ngoài ra còn các sản phẩm
thường ngày phục vụ cho đời sống người dân như: áo quần, giày dép, đồ dùng cần thiết…
hay những dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp ở nông thôn như dịch vụ phân bón,
giống cây trồng, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn gia súc gia cầm…Theo thống kê của
Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ doanh nghiệp (BSA), thị trường nông thôn Việt Nam
(tỉnh lẻ và các vùng nông thôn gọi chung là thị trường nông thôn) đang chiếm 70% lượng
tiêu thụ hàng hóa nói chung, số hộ gia đình và số lượng các cửa hàng bán lẻ cũng phân bổ
tập trung ở vùng nông thôn với 70%. Tuy nhiên, trên thực tế, hệ thống bán hàng của
doanh nghiệp Việt Nam hiện vẫn chưa bao kín và hoạt động có hiệu quả ở thị trường này.
Cả nước hiện có hơn 400 siêu thị, trung tâm thương mại thì hầu hết tập trung tại các
thành phố, thị xã. Ngay cả một số mặt hàng thiết yếu như muối, dầu hỏa… đôi khi cũng
là hàng hiếm với bà con một số nơi ở vùng sâu, vùng xa và dù có tới hơn 8.000 chợ các
loại nhưng không phải tất cả người dân nông thôn đều dễ tiếp cận với các mặt hàng nhu
yếu phẩm với giá hợp lý nhất. Thực tế tại nông thôn cho thấy cần xóa bỏ quan niệm thị
trường nông thôn chỉ dành cho các sản phẩm rẻ tiền và mãi lực yếu. Theo một Nghiên
cứu mới đây của Công ty Nghiên cứu thị trường TNS thì có tới 95% gia đình nông thôn
được hỏi cho biết sẵn sàng mua tivi, 92% có thể mua bếp điện hoặc gas, 33% có thể mua
máy cassette/radio, 30% muốn mua tủ lạnh, máy giặt và 9% muốn mua máy vi tính…
Các con số thống kê riêng lẻ cũng cho thấy, hiện số người có thu nhập trên 1,5 triệu
đồng/tháng ở nông thôn ngày càng tăng, do đó nhu cầu mua sắm thực phẩm, nhu yếu
phẩm cũng tăng theo. Tiềm năng của thị trường nông thôn là rất lớn, cần được khai thác
đúng mức nhưng có thể nói chưa có doanh nghiệp nội địa nào thực sự làm chủ được thị
trường này, trở thành thương hiệu sáng giá, giữ ưu thế tuyệt đối trên thị trường nông
thôn. Hiện nay, ở nước ta, dịch vụ này ở nước ta chủ yếu là các doanh nghiệp triển khai
nhằm quảng bá thương hiệu, kích cầu tiêu dùng. Nhằm kích cầu cho người tiêu dùng, các
doanh nghiệp không chỉ đưa hàng về tiêu thụ tại thị trường nông thôn mà còn tổ chức các
hoạt động khuyến mại nhằm quảng bá sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ, thu hút và khuyến
khích người tiêu dùng sử dụng hàng Việt Nam. Chẳng hạn Tổng công ty Thương mại Hà
Nội có chương trình giảm giá 10% cho một số mặt hàng thực phẩm chế biến; tặng quà
cho mỗi hóa đơn thanh toán trị giá từ 50.000 đ trở lên…Nhằm khuyến khích doanh
nghiệp tăng cường đưa hàng về nông thôn, Sở Công thương đã có văn bản đề nghị
UBND thành phố có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Theo đo, thành phố sẽ hỗ trợ doanh
nghiệp một phần kinh phí vận chuyển hàng hóa với mức 500.000 đ/xe. Hỗ trợ kinh phí
trong việc xây dựng điểm bán hàng cũng như kinh phí tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu
hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đưa về nông thôn. Đảm bảo an ninh trật tự an toàn
tiền hàng và con người trong quá trình kinh doanh lưu động.
Hai là, Cung cấp năng lượng, nhiên liệu cấp thoát nước: Theo đánh giá tại đề
án, hiện nay tất cả các ngành dịch vụ phục vụ nông nghiệp nông thôn như cơ khí, hóa
chất, năng lượng, dệt may, da giầy, chế biến nông lâm sản thực phẩm, sản xuất vật liệu
xây dựng, … đều chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước. Sức cạnh tranh của mặt hàng
nông sản chế biến còn thấp, việc chuyển dịch cơ cấu và đổi mới cách thức sản xuất còn
chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ. Khu vực công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn chưa
tạo ra nhiều cơ hội việc làm để thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp. Kết cấu hạ tầng
kinh tế xã hội nông thôn đã được tăng cường nhưng vẫn còn yếu kém, năng lực thích
ứng, đối phó với thiên tai thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Cụ thể, với ngành cơ khí sẽ tập
trung đầu tư, hỗ trợ xây dựng, nâng cấp các cơ sở chuyên ngành chế tạo máy nông
nghiệp, lựa chọn một số nhóm sản phẩm ưu tiên để hỗ trợ phát triển nhằm đáp ứng nhu
cầu trong nước, từng bước xuất khẩu. đáp ứng nhu cầu trong nước tiến tới xuất khẩu.
Những nhóm có tiềm năng tiêu thụ lớn sẽ có chính sách tiếp nhận chuyển giao công nghệ
nước ngoài để thiết kế, chế tạo trong nước. Có chính sách kích cầu cho các sản phẩm dịch
vụ công nghiệp, nông nghiệp nông thôn. Dịch vụ năng lượng điện được đưa đến tận các
thôn, xóm bản, vùng sâu xa…ngày nay, điện thắp sáng đã đến với từng nhà, điện trong
sinh hoạt, trong sản xuất tưới tiêu cho nông nghiệp, công nghiệp nông thôn. Việc cung
cấp nước cho sản xuất nông nghiệp như tưới tiêu đáp ứng đầy đủ tiêu chí đầu vào cho sản
xuất nông nghiệp, góp phần phát triển nông thôn. Trong sản xuất công nghiệp ở nông
thôn, việc cung cấp năng lượng điện rất cần thiết. Hiện nay, ngành điện hoạt động chuyên
nghiệp hơn, trong thời gian qua, hoạt động của các Hợp tác xã kinh doanh và dịch vụ
điện nông thôn đã góp phần không nhỏ trong việc quản lý, cung cấp điện và giải quyết
việc làm cho một bộ phận dân cư. Song, hiện tại, phần lớn lưới điện ở đây đã bị xuống
cấp nghiêm trọng, trong khi đó, vốn đầu tư của Hợp tác xã lại bị thiếu nên ảnh hưởng rất
lớn đến việc cung cấp điện cho nhân dân. Vì vậy, để chủ trương của Chính phủ sớm đi
vào cuộc sống thì hiện tại, ngoài sự nỗ lực của ngành Điện, còn rất cần sự đồng thuận và
hỗ trợ tích cực từ các cấp chính quyền địa phương cũng như người dân, và nhất là bản
thân các Hợ tác xã. Do đó dịch vụ cung cấp năng lượng nhiên liệu, cấp thoát nước hiện
nay đã phần nào đáp ứng được nhu cầu về sản xuất cũng như tiêu dùng của người dân.
Hạn chế ở đây chỉ là chưa đưa vào được những vùng sâu, vùng xa.
Ba là, Giao thông vận tải, thuê mướn tài sản: Hiện nay dịch vụ về giao thông vận
tải, thuê mướn tài sản rất đa dạng và phong phú, dịch vụ này đáp ứng tương đối một
lượng lao động đang thiếu vốn để mở rộng sản xuất hoặc thiếu vốn để đầu tư mua tài sản,
phương tiện vận chuyển với nhiều hình thức như: dịch vụ vận tải hành khách công cộng
thuận lợi từ trung tâm huyện về các trung tâm xã, tạo điều kiện đi lại thuận tiện cho người
nông dân sống ở khu vực nông thôn, góp phần giảm phương tiện cơ giới cá nhân. Về giao
thông làm đường giao thông nông thôn ở nước ta được các UBND tỉnh, huyện, xã và
nhân dân quan tâm. Việc bê tông hóa đường sá kênh mương trên địa bàn nông thôn cả
nước đã triển khai hầu hết. Nhiều gia đình tự nguyện hiến đất để mở rộng mặt đường liên
thôn, liên xã. Nhờ hệ thống giao thông nông thôn, kinh tế giữa các vùng trong tỉnh phát
triển đồng đều, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Tuy nhiên nhiều xã có
đường rất nhỏ, chật hẹp, việc đi lại khó khăn.
Bốn là, Thông tin, liên lạc, tuyên truyền,quảng cáo hay tư vấn rất cần ở nông
thôn: Như chúng ta đã biết thì ở nông thôn dân đa số dân số làm nông nghiệp, nên dịch
vụ tư vấn cho người dân về các kiến thức về dịch vụ nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp,
giống mới, các phương pháp kỹ thuật gieo trồng hay chăn nuôi là rất cần thiết. Ví dụ về
hướng dẫn kỹ thuật trong nông nghiệp: Theo Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông Thôn), do nhu cầu lớn nên lượng thuốc bảo vệ thực vật nhập khẩu vào
nước ta tăng nhanh. Nếu như năm 2008, giá trị nhập khẩu ước đạt 472 triệu USD thì năm
2010 tăng lên 537 triệu USD; riêng 7 tháng đầu năm 2011, con số này đạt ngưỡng 386
triệu USD, tăng 25,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Trên thị trường hiện có 3.008 tên
thương mại các sản phẩm thuốc bảo vệ thực vật đã được đăng ký (trong đó thuốc trừ cỏ
có 450 loại, thuốc trừ sâu 930 loại, thuốc trị bệnh thực vật 661 loại), tăng gấp 3 lần so với
cách đây 10 năm. Từ chỗ chỉ có 4-5 hoạt chất và hỗn hợp hoạt chất được đăng ký từ năm
1996 thì đến năm 2011, Việt Nam đã có 800 hoạt chất và các hỗn hợp hoạt chất được
đăng ký nhập khẩu. Con số này vượt xa số lượng các hoạt chất được đăng ký sử dụng tại
Trung Quốc, nơi cung cấp hơn 90% lượng thuốc cho Việt Nam, hiện mới có 630 hoạt
chất được đăng ký sử dụng. Điều đáng nói là việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không
đúng cách sẽ gây nguy hại tới môi trường và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người sản
xuất. Xét ở góc độ ý thức người dân, những con số mà Cục Bảo vệ thực vật cung cấp
khiến chúng ta lo ngại hơn về mức độ an toàn trên đồng ruộng và trên từng sản phẩm. Có
đến 81,4% số người mua thuốc để ngay trong nhà, 16% để ngoài vườn và 7% để trong...
chuồng lợn; 94% số hộ sử dụng thuốc không có hướng dẫn; chỉ có 20% hiểu biết về tính
chất độc hại của thuốc; 70% số người pha chế và sử dụng thuốc không theo hướng dẫn;
50% dùng tay pha chế thuốc...
Năm là, Hành chính công: Dịch vụ hành chính công có thể hiểu khái quát là
những dịch vụ do Nhà nước chịu trách nhiệm, phục vụ các nhu cầu cơ bản, thiết yếu
chung của người dân không vì mục tiêu lợi nhuận (khác với dịch vụ tư, do tư nhân đảm
nhiệm vì mục tiêu lợi nhuận). Trên cơ sở đó, dịch vụ công ở nông thôn được hiểu là
những loại dịch vụ do Nhà nước đảm nhiệm để đáp ứng nhu cầu của khu vực nông thôn.
Có nhiều dịch vụ công nông thôn (DVCNT), trong đó các dịch vụ thiết yếu là: giáo dục,
y tế, văn hoá thông tin, thuỷ lợi, giao thông…
Sáu là, Ngân hàng, tài chính, tín dụng: Ở nông thôn, dịch vụ ngân hàng tài
chính, tín dụng ngày nay đang phát triển rất mạnh, do xu thế của đất nước và sự phát triển
của nhân loại nên người dân ở nông thôn có ý thức làm giàu và thoát khỏi đói nghèo rất
lớn. Muốn làm giàu hay thoát nghèo thì phải có phương pháp làm ăn và vốn. Thiếu vốn
để mở rộng sản xuất, đầu tư vào các hoạt động sản xuất, hoạt động kiếm tiền của người
dân nông thôn là phổ biến. Do yêu cầu đó nên ngân hàng ở nông thôn phát triển khá
mạnh trong những năm gần đây. Đặc biệt là hệ thống ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn. Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp hình thành trên cơ sở tiếp nhận từ
Ngân hàng Nhà nước: tất cả các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước huyện, Phòng Tín dụng
Nông nghiệp, quỹ tiết kiệm tại các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố. Ngân
hàng Phát triển Nông nghiệp TW được hình thành trên cơ sở tiếp nhận Vụ Tín dụng
Nông nghiệp Ngân hàng Nhà nước và một số cán bộ của Vụ Tín dụng Thương nghiệp,
Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng, Vụ Kế toán và một số đơn vị. Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn hoạt động theo mô hình Tổng công ty 90, là doanh nghiệp Nhà
nước hạng đặc biệt, hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng và chịu sự quản lý trực tiếp
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Với tên gọi mới, ngoài chức năng của một ngân
hàng thương mại, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn được xác định thêm
nhiệm vụ đầu tư phát triển đối với khu vực nông thôn thông qua việc mở rộng đầu tư vốn
trung, dài hạn để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy
hải sản góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn.
Bảy là, Bảo dưỡng, sửa chữa máy móc, thiết bị: Dịch vụ sửa chữa máy móc trang
thiết bị ở nông thôn không phát triển mạnh như ở thành thị, nhưng mấy năm gần đây dịch
vụ này ở nông thôn đã thay đổi rất nhiều. Do chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn cũng
như tiến trình hội nhập kinh tế của nước nhà mà dịch vụ này ở nông thôn cũng đã có
nhiều tiến bộ hơn những năm trước. Các cửa hàng sửa chữa máy móc cũng mọc lên khắp
những nẻo đường nông thôn, dịch vụ sửa chữa bảo dưỡng thiết bị máy móc sản xuất nông
nghiệp là chủ yếu, máy cắt cỏ, máy gặt đập liên hợp, máy xay xát, máy cày, máy bơm
nước…ngoài ra còn bảo dưỡng sửa chữa máy móc thiết bị của các ngành nghề công
nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp. Muốn nâng cao năng suất cũng như chất lượng sản
phẩm cần đẩy mạnh cơ khí hóa nông nghiệp, nhất là trong trồng trọt. Bản thân người
nông dân phải chủ động nhưng trước hết các ngành, các cấp, nhất là cơ quan nhà nước và
các doanh nghiệp xuất khẩu phải đi đầu trong công cuộc cơ giới hóa này. Do đó, việc cơ
khí hóa sản xuất nông nghiệp, cần chú ý ở tầm vĩ mô, Nhà nước phải có chính sách thúc
đẩy phát triển sản xuất các phương tiện, máy móc phục vụ nông nghiệp. Đó là Nhà nước
tài trợ các phát minh, sáng chế, hỗ trợ vốn, ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp sản xuất
máy móc dùng trong nông nghiệp… Nhà nước quy hoạch cụ thể, khoa học để tập trung
tăng quy mô sản xuất từng loại nông sản ở mỗi địa phương với tính cạnh tranh và lợi thế
so sánh cao nhất. Ngoài việc xác định rõ vùng nào nên tập trung trồng loại cây gì, quy mô
ra sao, cần thúc đẩy công tác “dồn điền đổi thửa”, tích tụ ruộng đất để giảm dần sự manh
mún trong quy mô sản xuất, từ đó áp dụng các phương tiện cơ khí một cách thuận lợi
hơn. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần có nhiều ưu đãi hơn để nông dân có thể mua sắm
được máy móc, phương tiện phục vụ nông nghiệp, được sử dụng các phương tiện cơ khí
trong sản xuất, vận chuyển, bảo quản, chế biến. Các biện pháp trợ giúp nông dân gồm
cho vay vốn lãi suất thấp, tặng máy móc cho nông dân sản xuất giỏi hoặc có sáng kiến
tăng năng suất, đầu tư các cơ sở phơi sấy, điểm dự trữ, trạm bơm phục vụ tưới tiêu, cơ sở
sơ chế…Bên cạnh đó, cần thành lập các hợp tác xã cơ khí nông nghiệp, các cơ quan chức
năng cử cán bộ hướng dẫn, thành lập các trung tâm phân phối, bảo trì máy móc, thiết
bị… để hướng dẫn nông dân sử dụng phương tiện, máy móc có hiệu quả. Các doanh
nghiệp xuất khẩu cần hợp tác chặt chẽ với nông dân để giúp người trồng lúa có thêm điều
kiện trang bị thiết bị, máy móc phục vụ sản xuất. Cụ thể doanh nghiệp có thể ứng trước
bằng vốn hoặc máy móc cho nông dân hoặc các hợp tác xã trồng lúa, sau đó nông dân trả
bằng lúa (theo giá cả thị trường) để đôi bên cùng có lợi…Về phía nhà khoa học, cần đẩy
mạnh nghiên cứu để sản xuất các phương tiện, máy móc phù hợp với điều kiện đồng
ruộng, tập quán sản xuất của nông dân và tình hình thu nhập của người dân. Trên thực tế,
nếu đẩy mạnh cơ khí hóa ở nông thôn, nhất là với khu vực trồng lúa, sẽ góp phần giải
quyết nhiều việc làm phi nông nghiệp ngay tại nông thôn, như lái máy cày, máy kéo, mua
bán, sửa chữa máy móc cùng nhiều dịch vụ khác, góp phần giúp nông dân nâng cao đời
sống.
Tám là, Giáo dục, đào tạo, khám chữa bệnh, khoa học kỹ thuật và các dịch vụ xã
hội khác: Giáo dục đào tạo, y tế ở nông thôn phát triển rất mạnh mẽ. Rất nhiều địa
phương nông thôn có truyền thống giáo dục chất lượng, số lượng học sinh giỏi của các
trường tiểu học và trung học cơ sở là rất lớn, số lượng vào đại học của các trường trung
học phổ thông khá cao. Những năm gần đây, số lượng học sinh ở nông thôn đi học là rất
lớn. lượng mù chữ đã giảm hẳn so với những năm trước. Tuy nhiên, trong giáo dục ở
vùng sâu thì còn nhiều bất cập. Giáo dục được xác định là quốc sách hàng đầu nên thời
gian qua Nhà nước đã dành rất nhiều công sức, tiền của ưu tiên đầu tư nâng cao chất
lượng sự nghiệp trồng người. Đời sống giáo viên được cải thiện, lương giáo viên hiện nay
cao gấp 1,5 lần lương nhân viên kỹ thuật có trình độ tương đương. Ngoài ra, giáo viên
đang công tác tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn ngoài lương còn được
hưởng thêm nhiều khoản ưu đãi khác. Do đó lương một giáo viên tiểu học mới ra trường
(trình độ trung cấp) tuy nằm ở hệ số khởi điểm 1,57 nhưng nếu nhận nhiệm sở ở các vùng
còn khó khăn sẽ có thu nhập thực tế hằng tháng cao hơn trưởng phòng giáo dục (Theo qui
định người giữ chức vụ này phải có trình độ ít nhất là đại học) Sở dĩ nhắc nhiều về tiền
lương như vậy không ngoài mục đích nhấn mạnh rằng toàn xã hội đã tôn vinh, đánh giá
cao công việc của những người đang trực tiếp đứng trên bục giảng, tạo điều kiện cho họ
sống một cách thanh thản để dốc toàn tâm toàn ý trong công tác chuyên môn. Thế nhưng
tại sao hiện nay chất lượng giáo dục vẫn chưa có dấu hiệu khả quan? Một thực tế tồn tại
cần được nhìn nhận và đánh giá đúng để tìm biện pháp khắc phục là chất lượng học sinh
không đồng đều. Giữa học sinh thành thị và học sinh nông thôn cùng cấp lớp vẫn còn
khoảng cách khá xa về kiến thức. Sự chênh lệch ấy bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân
nhưng, theo tôi, không thể phủ nhận trách nhiệm của những người thầy. Có lẽ do công tác
“ở xa mặt trời” nên một số ít giáo viên nông thôn đã có những biểu hiện cần được chấn
chỉnh kịp thời như: bỏ tiết dạy không lý do, không soạn giáo án dẫn đến việc truyền thụ
sai kiến thức, thiếu tác phong sư phạm (như lên lớp trong trạng thái say rượu, đánh bài
trong giờ ra chơi trước mắt học sinh...) Có lần, tại một trường vùng sâu, một giáo viên bộ
môn văn cấp trung học cơ sở giảng bài cho học sinh có trích dẫn câu “Chở bao nhiêu đạo
thuyền không khẳm/Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” và bảo tác giả là... Nguyễn Du.
Kiến thức mà nhà trường phổ thông có trách nhiệm trang bị cho học sinh là kiến thức nền
tảng nên phải tuyệt đối chuẩn xác để làm cơ sở cho những kiến thức chuyên ngành sau
này của các em. Nếu người giáo viên chịu đầu tư tâm huyết, soạn giáo án đầy đủ, chuẩn
bị tốt các bước lên lớp theo qui định của ngành thì những sai sót sơ đẳng như vậy đã
không xảy ra. Được biết, ngành giáo dục các địa phương đã và đang có nhiều biện pháp
chấn chỉnh thực trạng này. Đơn cử huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng trong năm học 2002-
2003, song song với việc tổ chức kiểm tra chéo giữa các trường với nhau, lãnh đạo phòng
giáo dục-đào tạo huyện còn trực tiếp thanh tra đột xuất, toàn diện các điểm trường vùng
sâu. Qua đó đã phát hiện và xử lý kỷ luật một số trường hợp giáo viên thiếu tinh thần
trách nhiệm với học sinh, vi phạm qui chế ngành. Đây là một việc làm cần thiết được dư
luận phụ huynh học sinh tán thành. Về y tế ở nông thôn, dịch vụ y tế còn nhiều bất cập
nhất ở nước ta nói chung và ở nông thôn nói riêng. Hiện nay nhiều bệnh viện ở nông thôn
hoạt động với chỉ có 2 bác sỹ bệnh viện huyện, các trạm xã ở nhiều vùng không có bác sỹ
nào. Hiện tượng thiếu bác sỹ giỏi về các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa là rất lớn.
Đội ngũ cán bộ y tế thiếu y đức, nhiều trường hợp bệnh nhân có thể cứu chữa được thì
cũng dẫn đến tử vong… bên cạnh đó,thì ngành y tế đã có nhiều nỗ lực và cứu chữa nhiều
bệnh nhân và nhiều cơ quan bệnh viện được nhận nhiểu danh hiệu và tặng thưởng. Việc
xây dựng các trạm xã, bệnh viện huyện được triển khai khá rộng rãi trên các địa phương,
nhiều dự án cho y tế đã và đang được triển khai thực hiện như dự án “Phòng chống bệnh
truyền nhiễm khu vực sông Mê Kông giai đoạn 2” được triển khai từ 2011- 2015 trên
phạm vi 20 tỉnh, thành phố trong nước và các khu vực biên giới Trung Quốc, Việt Nam,
Lào, Campuchia, Thái Lan. Mục tiêu tổng quan của dự án là giảm tỷ lệ mắc, tử vong do
bệnh truyền nhiễm, đặc biệt các bệnh truyền nhiễm vùng nhiệt đới ít được quan tâm; hỗ
trợ công tác kiểm soát bệnh truyền nhiễm trong nước và phối hợp với các nước trong khu
vực phòng chống dịch bệnh; nâng cao sức khoẻ cho người dân khu vực tiểu vùng sông
Mê Kông, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Tổng vốn đầu tư cho dự
án
là
30
triệu
USD,
trong
đó
vay
ADB
27
triệu
USD.
Dự án “Phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn bền vững các tỉnh miền núi phía Bắc” có tổng
vốn đầu tư 138 triệu USD, vốn vay ADB là 108 triệu USD, vốn vay ADF 26 triệu USD,
vốn đối ứng Chính phủ 30 triệu USD. Dự án triển khai tại 15 tỉnh nghèo miền núi phía
Bắc trong thời gian từ 2011-2017, với mục tiêu tổng quát là xoá đói giảm nghèo, phát
triển kinh tế xã hội bền vững thông qua phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, cải thiện điều
kiện và mức sống của người dân khu vực miền núi phía Bắc. Mục tiêu của dự án “Nâng
cấp mạng lưới giao thông GMS phía Bắc lần 2- giai đoạn 1” nhằm cải thiện khả năng lưu
thông trong khu vực dân cư và khu vực phát triển, qua đó nâng cao khả năng tiếp cận thị
trường, các dịch vụ xã hội nhằm cải thiện điều kiện sống và giảm đói nghèo, đồng thời
nâng cao hiệu quả mạng lưới đường bộ và giao thông trong khu vực dự án Tiểu vùng Mê
Kông mở rộng bằng việc kết nối với Thái Lan và Lào. Dự án có tổng mức đầu tư 97,4
triệu USD, trong đó vốn vay ADB là 75 triệu USD, vốn đối ứng của Chính phủ là 22,4
triệu USD. Dự kiến, các hoạt động dự án sẽ hoàn thành vào ngày 30/6/2016 và khoá sổ
vào ngày 31/12/2016. Nói chung, về y tế nông thôn nước ta hiện nay tuy đã có nhiều
thành tựu nhưng còn rất nhiêu vấn đề cần giải quyết. Để đời sống nhân dân ngày càng
được nâng cao và cải thiện hơn nữa thì cần tập trung nguồn lực đầu tư cho cơ sở hạ tầng
nông thôn và đội ngũ cán bộ công nhân viên trong ngành phát triến cả chiều sâu lẫn chiều
rộng.