Tải bản đầy đủ (.docx) (125 trang)

GIáO dục kĩ NĂNG SốNG TRONG dạy học PHầN CÔNG dân với VIệC HìNH THàNH THế GIớI QUAN, PHƯƠNG PHáP LUậN KHOA học” ở TRƯờNG THPT TRầN NHậT DUậT, TỉNH yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.35 KB, 125 trang )

B GIO DC V O TO
TRNG I HC S PHM H NI
--------

NGUYN NHT LINH

GIáO DụC Kĩ NĂNG SốNG TRONG DạY HọC PHầN CÔNG DÂN
VớI VIệC HìNH THàNH THế GIớI QUAN, PHƯƠNG PHáP LUậN KHOA
HọC
ở TRƯờNG THPT TRầN NHậT DUậT, TỉNH YÊN BáI
Chuyờn ngnh: LL&PP ging dy Giỏo dc chớnh tr
Mó s: 60.14.01.11

LUN VN THC S KHOA HC GIO DC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS. Nguyn Vn C

H NI 2015

LI CM N


Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn này, tôi đã nhận được
sự giúp đỡ nhiệt tình của các nhà trường, các tổ chức và các cá nhân. Tôi xin
bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất tới tất cả các tập thể, cá nhân đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu luận văn này.
Trước hết tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, Phòng Đào tạo và Phòng Sau đại học của nhà trường cùng các
thầy cô giáo, những người đã trang bị kiến thức cho tôi trong suốt quá trình
học tập.
Với lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất, tôi xin trân trọng cảm ơn


thầy giáo PGS. Tiến sĩ Nguyễn Văn Cư, người thầy đã trực tiếp chỉ bảo,
hướng dẫn khoa học và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu Trường THPT
Trần Nhật Duật, các thầy cô trong trường đã giúp đỡ tôi trong việc thu thập
thông tin, số liệu trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu luận văn.
Xin chân thành cảm ơn đến gia đình, tất các bạn bè đã động viên, giúp đỡ
nhiệt tình và đóng góp nhiều ý kiến quý báu để tôi hoàn thành luận văn này.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn của tôi chắc hẳn không thể
tránh khỏi những sơ suất, thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự đóng góp của
các thầy cô giáo cùng toàn thể bạn đọc.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 11 năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Nhật Linh

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

2


GDCD

: Giáo dục công dân

KNS

: Kĩ năng sống


PPDH

: Phương pháp dạy học

THPT

: Trung học phổ thông

UNESCO

: United Nations Educational, Scientific and Cultural
Organization

3

UNICEF

: The United Nations Children’s Fund

WHO

: World Health Organization


MỤC LỤC

4


DANH MỤC BẢNG


5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Môi trường sống, hoạt động và học tập của thế hệ trẻ hiện nay đang
có những thay đổi đáng kể. Sự phát triển nhanh chóng của các lĩnh vực kinh
tế - xã hội và giao lưu quốc tế đã và đang tạo ra những tác động đa chiều,
phức tạp ảnh hưởng quá trình hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ
trẻ. Thực tiễn này khiến các nhà giáo dục và những người tâm huyết với sự
nghiệp giáo dục đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho thế
hệ trẻ, trong đó có học sinh THPT.
Bởi vậy, tiếp cận kĩ năng sống trong giáo dục đã được quán triệt trong
đổi mới mục tiêu, nội dung, và phương pháp giáo dục phổ thông ở Việt Nam.
Tuy nhiên, nhận thức về kĩ năng sống, cũng như việc thể chế hóa giáo dục kĩ
năng sống trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam chưa thật cụ thể, đặc biệt về
hướng dẫn tổ chức hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh các cấp. Từ
năm 2001, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh phổ thông với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, đặc biệt là của
Unicef tại Việt Nam. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh được thực
hiện bằng việc khai thác nội dung của một số môn học có ưu thế như môn
GDCD. Bởi môn GDCD trường THPT có vai trò quan trọng trọng việc thực
hiện mục tiêu giáo dục, góp phần hình thành nhân cách toàn diện cho học
sinh, là môn học có nhiều khả năng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Ngoài nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những kiến thức phổ thông về kinh tế,
chính trị, triết học, mĩ học... ở mức độ phù hợp với lứa tuổi, các em còn được
cung cấp những kiến thức của môn học phù hợp với đặc điểm lứa tuổi mà
điều quan trong hơn là được hình thành và phát triển những kĩ năng, vận dụng
kiến thức đã học vào cuộc sống. Đồng thời môn học cũng hình thành và phát

triển cảm xúc, thái độ đúng đắn trước các vấn đề liên quan đến nội dung bài
6


học cho các em.
Đặc biệt, với học sinh hiện nay, các em đang phải đương đầu với rất
nhiều nguy cơ, cám dỗ không lành mạnh của xã hội hiện đại nhưng lại
không có hoặc thiếu những kĩ năng để ứng phó với khó khăn và lựa chọn
cách sống lành mạnh, tích cực cho bản thân và xã hội. Những năm gần đây,
tình trạng trẻ vị thành niên phạm tội có xu hướng gia tăng, đặc biệt là ở các
đô thị và thành phố lớn, đã xuất hiện những vụ án giết người, cố ý gây
thương tích mà đối tượng gây án là học sinh và nạn nhân chính là bạn học
và thầy cô giáo của họ. Bên cạnh đó là sự bùng phát hiện tượng học sinh
phổ thông hút thuốc lá, uống rượu, tiêm chích ma tuý, quan hệ tình dục
sớm,... thậm chí là tự sát khi gặp vướng mắc trong cuộc sống. Nhiều em
học giỏi, nhưng ngoài điểm số cao, khả năng tự chủ và k ĩ năng giao tiếp lại
rất kém, các em sẵn sàng đánh nhau, chửi bậy, sa đà vào các tệ nạn xã
hội, thậm chí liều lĩnh từ bỏ cả mạng sống... Có nhiều nguyên nhân
khác nhưng nguyên nhân sâu xa là do các em thiếu kĩ năng sống, không
được tiếp cận với chương trình giáo dục kĩ năng sống nên học sinh phổ
thông nói chung, học sinh THPT nói riêng còn thiếu hụt những kĩ năng
sống cần thiết. Chính vì thiếu kĩ năng sống mà nhiều học sinh đã giải quyết
các vấn đề về gặp phải một cách tiêu cực dẫn đến các tệ nạn, rủi ro…Vì
vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phổ thông là hết sức cần thiết,
giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình,
cộng đồng và Tổ quốc, giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các
tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn
bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài hòa, lành mạnh
Tuy đã có những công trình nghiên cứu khoa học giáo dục và xã hội,
những chương trình giáo dục ở một số Trung tâm, những đề án, dự án …

nghiên cứu về kĩ năng sống nhưng chủ yếu là nghiên cứu những vấn đề
7


chung, những nhóm kĩ năng lớn mà vẫn chưa có những nghiên cứu thực sự
đầy đủ, đi sâu về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phổ thông....Bởi vậy để
nâng cao nhận thức cũng như phương pháp dạy học môn giáo dục công dân
cho học sinh THPT tôi chọn đề tài: “ Giáo dục kĩ năng sống trong dạy học
phần Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa
học” ở trường THPT Trần Nhật Duật, Tỉnh Yên Bái”
2. Lịch sử nghiên cứu
Quan niệm giáo dục kĩ năng sống được nhiều chuyên gia, nhà nghiên
cứu các tổ chức quốc tế và các nhà sư phạm quan tâm nghiên cứu. Do đó vấn
đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua giáo dục đào tạo ngày càng
được nghiên cứu một cách đầy đủ, công phu như:
Tổ chức văn hóa khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) đã
đưa ra nguyên tắc cơ bản để định hướng giáo dục kĩ năng sống trong thực
tiễn: tất cả các thế hệ trẻ và người lớn có quyền hưởng lợi từ một nền giáo
dục chứa đựng các hợp phần học để biết, học để làm, học để chung sống
với mọi người và học để khẳng định mình. Giáo dục hướng vào yêu cầu bồi
dưỡng năng khiếu tiềm năng và phát triển cá tính người học cần quan tâm
kết hợp kĩ năng thực hành và các khả năng tâm lí xã hội, đánh giá chất
lượng giáo dục phải bao hàm đánh giá mức độ đạt được các kĩ năng và tác
dụng của kĩ năng sống
Ngày 22 tháng 7 năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Chỉ thị Số:
40/2008/CT-BGDĐT “Về việc phát động phong trào thi đua Xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực trong các trường phổ thông giai đoạn 2008 2013”. Nội dung của Chỉ thị có đề cập tới việc rèn luyện các KNS như: “kĩ
năng ứng xử; kĩ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; kĩ năng phòng, chống tai
nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác; kĩ năng ứng xử
văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội”

8


[16,tr.1-2]. Văn bản chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc phát động
phong trào thi đua Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực giúp
chúng ta có định hướng rõ ràng hơn trong việc giáo dục KNS cho học sinh.
Ngày 28 tháng 7 năm 2013, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn
Vinh Hiển ký duyệt Kế hoạch Số 1088/KH-BGDĐT về Hoàn thiện bộ tài liệu
giáo dục kĩ năng sống trong một số môn học và hoạt động giáo dục cấp tiểu
học, trung học cơ sở và trung học phổ thông trên toàn quốc với mục tiêu nâng
cao chất lượng và đảm bảo tính thiết thực của bộ tài liệu theo ý kiến góp ý của
các cán bộ quản lý giáo dục các cấp và giáo viên trực tiếp giảng dạy; bổ sung
nội dung hướng dẫn đánh giá kết quả giáo dục KNS và bộ công cụ đánh giá
KNS theo từng môn học và hoạt động giáo dục. Với danh mục tài liệu đính
kèm vừa bổ sung cho giáo viên nguồn tài liệu phong phú về KNS vừa có thể
lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học, các giáo viên trực tiếp giảng
dạy để bộ tài liệu thực sự hữu ích đối với nhà trường phổ thông. Kế hoạch trên
căn cứ vào chỉ thị 40/2008/CT-BGDĐT về việc phát động phong trào thi đua
xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực cho thấy, vấn đề KNS và
giáo dục KNS thực sự được quan tâm, đầu tư nghiên cứu, phát triển.
Năm 2010, Luận án tiến sĩ của nghiên cứu sinh Phan Thanh Vân “Giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông thông qua hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp”, đây là một đề tài khai thác thế mạnh của hoạt động
ngoài giờ lên lớp để thực hiện giáo dục KNS cho học sinh trong nhà trường.
Nội dung đề tài nhằm giáo dục cho các em một cuộc sống tích cực trong xã
hội hiện đại, xây dựng hoặc thay đổi hành vi ở các em theo hướng tích cực
phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách người học, dựa trên cơ sở
giúp học sinh có giá trị, thái độ và kỹ năng phù hợp.
Nguyễn Thanh Bình trong cuốn “ Giáo trình chuyên đề giáo dục kĩ
năng sống” khẳng định về yêu cầu cụ thể đổi mới nội dung phương pháp.

9


Trong đó:“ Cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học là hướng vào học
tập chủ động, chống thói quen thụ động, đồng thời coi dạy học thông qua tổ
chức hoạt động của học sinh là đặc trưng thứ nhất của phương pháp dạy học
tích cực”[6,tr.25].
Nguyễn Dục Quang trong cuốn “ Hướng dẫn Giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh phổ thông” cho rằng: “ Cách thức giáo dục kĩ năng sống được
hiểu bao gồm những phương pháp tiếp cận, các phương pháp dạy học tích cực
và các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục kĩ năng sống cần quan tâm đến
vai trò người học” [29,tr.32]
Đặng Thúy Anh, Lưu Thu Thủy trong cuốn “ Giáo dục kĩ năng sống
trong môn GDCD ở trường THPT” đã giới thiệu những vấn đề về nội dung
gợi ý phương pháp và phương tiện dạy học tích cực có thể áp dụng trong dạy
học về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh và khẳng định: “ Môn GDCD ở
trường THPT rất thuận lợi cho việc giáo dục đa dạng các kĩ năng sống cho
học sinh” [1,tr.39]
Trên cơ sở kế thừa, tham khảo các công trình của những nhà nghiên
cứu trước đó. Tác giả đi sâu nghiên cứu, phân tích một hướng mới cơ bản hệ
thống nhằm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ở trường THPT.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Làm sáng tỏ cơ sở khoa học của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
trong phần công dân với việc hình thành thế giới quan phương pháp luận khoa
học nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
đồng thời trên cơ sở đó đề xuất một số phương pháp giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh trường THPT Trần Nhật Duật trong dạy học môn GDCD
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp giảng dạy phần công dân với
việc hình thành thế giới quan phương pháp luận khoa học nhằm giáo dục kĩ

10


năng sống cho học sinh trường THPT Trần Nhật Duật
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Luận giải cơ sở lí luận phần công dân với việc hình thành thế giới
quan, phương pháp luận khoa học nhằm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
+ Phương pháp dạy học phần công dân với việc hình thành thế giới
quan, phương pháp luận khoa học nhằm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
trường THPT Trần Nhật Duật
+ Khảo sát ở trường THPT Trần Nhật Duật – Tỉnh Yên Bái
5. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả
- Đề tài làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh trường THPT Trần Nhật Duật
- Đề xuất một số phương pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
trường THPT Trần Nhật Duật thông qua giảng dạy phần Công dân với việc
hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học
6. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sơ phương
pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ trương chính sách của Nhà nước
trong giáo dục; tư tưởng Hồ Chí Minh về sự nghiệp giáo dục; nội dung
chương trình môn GDCD ở trường THPT
- Các phương pháp nghiên cứu lí luận: Phương pháp nghiên cứu lí
thuyết, phương pháp logic và lịch sử
- Các phương pháp thực tiễn:
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm
+ Phương pháp điều tra khảo sát phỏng vấn
+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp lấy ý kiến của các chuyên gia

11


+ Phương pháp thống kê toán học
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học của việc giáo dục kĩ năng sống trong dạy
học môn GDCD ở trường THPT
Chương 2: Biện pháp giáo dục kĩ năng sống trong dạy học phần “công
dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học” ở trường
THPT Trần Nhật Duật, Tỉnh Yên Bái
Chương 3: Thực nghiệm giáo dục kĩ năng sống trong dạy học phần “
công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học” ở
trường THPT Trần Nhật Duật

12


Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG TRONG
DẠY HỌC MÔN GDCD Ở TRƯỜNG THPT
1.1. Kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống trong dạy học phần “
Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học”
1.1.1. Kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống

Kĩ năng sống

1.1.1.1.


Kĩ năng sống ( life skills) là khái niệm được sử dụng rộng rãi nhằm vào
mọi lứa tuổi trong lĩnh vực hoạt động thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội. Ngay những năm đầu thập kỷ 90, các tổ chức Liên Hợp Quốc
(LHQ) như WHO ( Tổ chức Y tế Thế giới), UNICEF ( Quỹ hỗ trợ Nhi đồng
LHQ), UNESCO ( Tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục của LHQ) đã
chung sức xây dựng chương trình giáo dục kĩ năng sống cho thanh thiếu niên.
Tuy nhiên, cho đến nay, khá niệm này vẫn nằm trong tình trạng chưa có một
định nghĩa rõ ràng và đầy đủ.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): “Kỹ năng sống là khả năng để có
hành vi thích ứng và tích cực, giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước
các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày” (Bộ Giáo dục và Đào tạo)
[15,tr.7].
Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF): Kỹ năng sống là cách
tiếp cận giúp thay đổi hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về
tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng
Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc
(UNESCO): “ KNS gắn với bốn trụ cột của giáo dục đó là học để biết gồm
các kỹ năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải
quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả…; Học làm người gồm các kỹ năng cá
13


nhân như: ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin…;
Học để sống với người khác gồm các kỹ năng xã hội như: giao tiếp, thương
lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông;
Học để làm gồm kỹ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ như: kỹ năng
đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm…
UNESCO (2003) quan niệm: Kĩ năng sống là năng lực các nhân để
thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Đó là
khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi của mình phù hợp với cách ứng xử

tích cực giúp con người có thể kiểm soát, quản lí có hiệu quả các nhu cầu và
những thách thức trong cuộc sống hàng ngày.
Từ các quan niệm và KNS nêu trên có thể rút ra nhận xét:
- Có nhiều cách biểu đạt khái niệm kĩ năng sống với quan niệm rộng
hẹp khác nhau tùy theo cách tiếp cận vẫn đề. Khái niệm KNS được hiểu theo
nghĩa hẹp chỉ bao gồm những năng lực tâm lí xã hội. Theo nghĩa rộng, KNS
không chỉ bao gồm năng lực tâm lý xã hội mà còn bao gồm cả những kĩ năng
tâm vẫn động
- Mặc dù cách biểu đạt khái niệm KNS có khác nhau ( việc xác định
nội hàm của khái niệm nông, sau khác dẫn đến phảm vi phản ánh của khái
niệm rộng, hẹp khác nhau) nhưng điểm thống nhất trong các quan niệm về
KNS là: khẳng định KNS thuộc về phạm trù năng lực ( hiểu kỹ năng theo
nghĩa rộng) chứ không thuộc phạm trù kỹ thuật của hành động, hành vi ( hiểu
kỹ năng theo nghĩa hẹp).
- Do tính chất phức tạp của KNS nên trong thực tế, các tài liệu về kĩ
năng sống đề cập đến mọi lĩnh vực hoạt động từ học tập để chuẩn bị vào
nghề, cách học ngoại ngữ, kĩ năng làm cha mẹ đến tổ chức trại hè. Tuy nhiên
cần phân biệt giữa những kĩ năng để sống còn (livelihood skills, survival
skills) như học chữ, học nghề, làm toán,v.v..tới bơi lội, v.v.. với các khái niệm
KNS đã được đề cập ở các định nghĩa nêu trên.
14


Tóm lại, khái niệm KNS được hiểu theo nhiều cách khác nhau ở từng
khu vực và từng quốc gia. Ở một số nước KNS được hướng vào giáo dục vệ
sinh, dinh dưỡng và phòng bệnh. Một số nước khác KNS lại được hướng vào
giáo dục hành vi và cách ứng xử, giáo dục an toàn giao thông, bảo vệ mội
trường hay giáo dục lòng yêu hòa bình. Theo đó, vấn đề phát triển KNS cho
thanh thiếu niên ở các nước cũng khác nhau. Có nước chỉ hạn chế những KNS
cần cho lĩnh vực bảo vệ sức khỏe, phòng tránh các tệ nạn xã hội, nghĩa là

KNS chỉ dành cho một số đối tượng có nguy cơ cao để đương đầu với những
thách thức của xã hội, KNS không phải là cần cho mọi người. Nhưng ở một
số nước khác, sự nhận thức về KNS sâu sắc hơn, do đó KNS, được phát triển
cho mọi đối tượng để với những KNS đó con người có thể vận dụng vào giải
quyết các vấn đề xã hội khác nhau, trong các hoàn cảnh và tình huống khác
nhau của từng loại đối tượng. Tuy nhiên, xu hướng chung là sử dụng khái
niệm KNS của UNESCO ( sử dụng khái niệm KNS theo nghĩa rộng) để triển
khai các hoạt động phát triển KNS cho các đối tượng trong xã hội, đặc biệt là
thanh thiếu niên. Điều này được lý giải bởi hai lý do: Thứ nhất, nếu hiểu KNS
theo nghĩa hẹp là đồng nhất KNS với năng lực tâm lý xã hội do đó làm giảm
đi phạm vi ảnh hưởng cũng như tác dụng của KNS. Năng lực tâm lý xã hội đề
cấp đến khả năng của con người biểu hiện những các ứng xử đúng hoặc chính
xác khi tương tác với người khác trong các tình huống khác nhau của môi
trường xung quanh dựa trên nền văn hóa nào đó. Nhưng, điều cần lưu ý là,
con người không chỉ cần có năng lực thích ứng với những thách thức của
cuộc sống mà con người còn cần và phải biết cách thay đổi một cách phù hợp
và mang tính tích cực; Thứ hai, khái niệm KNS theo nghĩa rộng đã bao hàm
trong nó năng lực tâm lý xã hội với ý nghĩa là thành phần có vai trò chung
trong việc hỗ trợ cho sức khỏe tinh thần và sức khỏe thể chất, giúp cá nhân
sống hạnh phúc với những người khác trong xã hội. Bên cạnh đó, theo nghĩa
15


rộng, khái niệm KNS còn đề cập đến khả năng con người quản lí được các
tình huống rủi ro, không chỉ đối với bản thân mà còn có thể gây ảnh hưởng
đến mọi người trong công việc chấp nhận các biện pháp ngăn ngừa rủi ro.
Đây chính là khả năng con người quản lý một cách thích hợp với bản thân,
người khác và xã hội trong cuộc sống hàng ngày.
Do tiếp cận kĩ năng sống tương đối đa dạng nên cũng có nhiều cách
phân loại KNS. Theo tổng hợp của tác giả Nguyễn Thanh Bình, tồn tại cách

phân loại KNS như sau:
- Phân loại xuất phát từ lĩnh vực sức khỏe. Theo cách phân loại này có
3 nhóm kĩ năng: Nhóm thứ nhất, là nhóm kĩ năng nhận thức bao gồm các kĩ
năng: tư duy, phê phán, giải quyết vấn đề, nhận thức hậu quả, tư duy phân
tích, khả năng sáng tạo, tự nhận thức, đặt mục tiêu, xác định giá trị..; Nhóm
thứ hai, là các kĩ năng đương đầu với xúc cảm, gồm các kỹ năng cụ thể: ý
thức trách nhiệm, cam kết, kiềm chế sự căng thẳng, kiềm chế được cảm xúc,
tự quản lý, tự giám sát và tự điều chỉnh; Nhóm cuối cùng, là nhóm kỹ năng xã
hội ( hay kĩ năng tương tác) với các kĩ năng thành phần: giao tiếp, quyết đoán,
thương thuyết, từ chối, hợp tác, sự cảm thông chia sẻ, khả năng nhận thấy
thiện cảm của người khác.
- UNESCO cho rằng cách phân loại KNS theo 3 nhóm trên mới chỉ
dừng ở các KNS chung, trong khi đó, còn có những KNS thể hiện trong
những vấn đề cụ thể khác nhau trong đời sống xã hội. Vì thế, UNESCO đề
xuất thêm các KNS như: vệ sinh, vệ sinh thực phẩm, sức khỏe, dinh dưỡng,
các vấn đề về giới, giới tính, sức khỏe sinh sản; ngăn ngừa và chăm sóc người
bệnh HIV/AIDS; phòng tránh rượu, thuốc lá và ma túy, phòng ngừa thiên tai,
bạo lực và rủi ro; hòa bình và giải quyết xung đột; gia đình và cộng đồng;
giáo dục công dân; bảo vệ thiên nhiên và môi trường; phòng chống buôn bán
phụ nữ và trẻ em.
16


- Với mục đích giúp người học ứng phó với các vấn đề của cuộc sống
và tự hoàn thiện mình, UNICEF phân loại KNS theo các mối liên hệ của cá
nhân với các nhóm KNS:
+ Nhóm kĩ năng nhận biết và sống với chính mình bao gồm các kĩ
năng: kĩ năng tự nhận thức, lòng tự trọng, sự kiên định, đương đầu với cảm
xúc, đương đầu với căng thẳng
+ Nhóm kĩ năng nhận biết và sống với người khác, với các kĩ năng

thành phần: kĩ năng quan hệ tương tác liên nhân cách, sự cảm thông, đứng
vững trước áp lực tiêu cực của bạn bè hoặc của người khác, thương lượng,
giao tiếp có hiệu quả.
+ Nhóm kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả, gồm các kĩ năng, tư
duy phế phán, tư sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề.
Những cách phân loại nêu trên đã đưa ra bảng danh mục các KNS có
giá trị trong nghiên cứu phát triển lý luận về KNS và chỉ có tính chất tương
đối. Trên thực tế, các KNS có mối quan hệ mật thiết với nhau bởi khi tham
gia vào một tình huống cụ thể con người cần phải sử dụng rất nhiều kĩ năng
khác nhau.
1.1.1.2.Giáo dục kĩ năng sống
Khái niệm giáo dục được hiểu theo nghĩa rộng, hẹp khác nhau ở cấp độ
xã hội và cấp độ nhà trường. Ở cấp độ nhà trường khái niệm giáo dục chỉ quá
trình giáo dục tổng thể (dạy học và giáo dục theo nghĩa hẹp) được thực hiện
thông qua các hoạt động giáo dục. Hoạt động giáo dục là những hoạt động do
các cơ sở giáo dục (trường học và các cơ sở khác) tổ chức thực hiện theo kế
hoạch, chương trình giáo dục, trực tiếp điều hành và chịu trách nhiệm về
chúng. Trong các hoạt động giáo dục, hoạt động dạy học là nền tảng và chủ
đạo không chỉ trong các môn học, mà ở tất cả các hoạt động giáo dục khác
trong nhà trường. Nó là hoạt động giáo dục cơ bản nhất, có vị trí nền tảng và
17


chức năng chủ đạo trong hệ thống các hoạt động giáo dục. Hoạt động giáo
dục được tổ chức có định hướng về mặt giá trị nhằm tạo ra những môi trường
hoạt động và giao tiếp có định hướng của người học. Khi tham gia các hoạt
động giáo dục, người học tiến hành các hoạt động của mình theo những
nguyên tắc chung, những mục tiêu chung, những chuẩn mực giá trị chung và
những biện pháp chung, nhờ vậy họ được giáo dục theo những tiêu chí chung
(tuy hoạt động của mỗi người luôn diễn ra ở cấp cá nhân).

Giáo dục KNS là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là
xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu
cực trên cơ sở giúp người học có cả kiến thức và kĩ năng thích hợp.
Giáo dục KNS có mục đích là thay đổi hành vi của người học từ thói
quen thụ động, có thể gây rủi ro, mang lại hậu quả tiêu cực chuyển thành
những hành vi mang tính xây dựng, tích cực và có hiệu quả để nâng cao chất
lượng cuộc sống cá nhân và góp phần phát triển bền vững cho xã hội.
Đồng thời giáo dục KNS cần được thực hiện thống nhất trong nhiệm vụ
giáo dục nhân cách toàn diện thông qua quá trình dạy học và giáo dục vừa
hướng tới mục tiêu hình thành tâm lí xã hội để người học có thể vượt qua
được những thách thức của cuộc đời, vừa phát triển toàn diện các chỉ số thông
minh, và các lĩnh vực trí tuệ, xúc cảm, trí tuệ xã hội..
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT cần tuân theo những nguyên
tắc thống nhất tạo ra mối liên hệ cũng như đảm bảo nội dung trong quá trình
kết hợp giảng dạy như:
- Thời gian – môi trường giáo dục: Giáo dục KNS cần thực hiện ở mọi
nơi, mọi lúc và thực hiện càng sớm càng tốt đối với trẻ em. Môi trường giáo
dục được tổ chức nhằm tạo cơ hội cho học sinh áp dụng kiến thức, kĩ năng
vào các tình huống thực trong cuộc sống
- Giáo dục kĩ năng sống được thực hiện trong gia đình, trong nhà
18


trường và cộng đồng. Người tổ chức giáo dục kĩ năng sống có thể là bố mẹ; là
thầy cô, là bạn cùng học hay các thành viên cộng đồng. Trong nhà trường phổ
thống, giáo dục KNS được thực hiện trong các giờ học, trong các hoạt động
lao động, hoạt động đoàn thể, xã hội, trong hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp và các hoạt động giáo dục khác.
- Tiến trình: Giáo dục KNS đòi hỏi phải có quá trình: Nhận thức - hình
thành thái độ - thay đổi hành vi. Đây là một quá trình mà mỗi yếu tố có thể là

khởi đầu của một chu trình mới, do đó các nhà giáo dục có thể tác động lên
bất ký mắt xích nào trong chu trình trên: Thay đổi thái độ dẫn đến mong
muốn thay đổi nhận thức và hành vi hoặc hành vi thay đổi tạo nên sự thay đổi
nhận thức và thái độ.
- Trải nghiệm: KNS chỉ được hình thành khi người học được trải
nghiệm qua các tình huống thực tế. Học sinh chỉ có kĩ năng khi các em tự làm
việc đó, chứ không chỉ đơn thuần là nói về việc đó. Kinh nghiệm có được khi
học sinh được hành động trong các tình huống đa dạng giúp các em dễ dàng
điều chỉnh các kĩ năng phù hợp với điều kiện thực tế
- Tương tác: KNS không thể được hình thành chỉ qua việc nghe giảng
và tự đọc tài liệu mà phải thông qua các hoạt động tương tác với người khác.
Việc nghe giảng với tự đọc tài liệu chỉ giúp cho học sinh nhận thức về một
vấn đề nào đó. Nhiều KNS được hình thành trong quá trình học sinh tương tác
với các bạn học cùng lớp và những người xung quanh thông qua học tập hoặc
các hoạt động xã hội trong nhà trường. Khi tham gia hoạt động có tính tương
tác học sinh có dịp thể hiện ý tưởng của mình, xem xét ý tưởng của người
khác, được đánh giá và xem lại những kinh nghiệm sống cả mình trước đây
theo một cách nhìn nhận khác. Vì vậy, việc tổ chức các hoạt dộng có tính
tương tác cao trong nhà trường tạo cơ hội quan trọng để giáo dục KNS hiệu
quả.
19


- Thay đổi hành vi: Mục đích của giáo dục KNS là giúp người học thay
đổi hành vi theo hướng tích cực, giúp người học định hướng lại các giá trị,
thái độ, và hành động của mình. Bởi thay đổi thái độ hành vi và giá trị ở từng
con người là một quá trình khó khăn, không đồng thời, có những thời điểm
người học sẽ quay lại những thái độ, hành vi và giá trị trước. Do đó, các nhà
giáo dục cần kiên trì chờ đợi và tổ chức các hoạt động liên tục để học sinh
duy trì hành vi mới, thói quen mới tạo động lực cho học sinh thay đổi hoặc

điều chỉnh những hành vi trước đây, thích nghi hoặc chấp nhận các giá trị,
thái độ và hành vi mới.
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
Trung học phổ thông
- Đặc điểm tâm lý của học sinh trung học phổ thông
Tuổi học sinh THPT là giai đoạn đã trưởng thành về mặt thể lực, nhưng
sự phát triển cơ thể còn chưa vững chắc, các em bắt đầu thời kỳ phát triển
tương đối êm ả về mặt sinh lý. Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay
đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng của
não phát triển. Cấu trúc của tế bào bán cầu đại não có những đặc điểm như
trong cấu trúc tế bào đại não của người lớn. Số lượng dây thần kinh liên hợp
tăng lên, liên kết các phần khác nhau của vỏ não lại, điều đó tạo tiền đề cần
thiết cho sự phức tạp hóa hoạt động phân tích, tổng hợp của vỏ bán cầu đại
não trong quá trình học tập và rèn luyện.
Ở học sinh THPT, tính chủ định trong nhận thức được phát triển, tri giác
đã đạt tới mức cao, quan sát trở nên có mục đích, hệ thống và toàn diện hơn.
Tuy nhiên, nếu thiếu sự chỉ đạo của giáo viên thì quan sát của các em cũng khó
đạt kết quả cao. Vì vậy, giáo viên cần quan tâm hướng quan sát của các em vào
những nhiệm vụ nhất định, không vội kết luận khi chưa tích lũy đủ các sự kiện.
Cũng ở lứa tuổi này, các em đã có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng
20


một cách độc lập sáng tạo. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất
quán hơn, tính phê phán cũng phát triển. Có thể nói, nhận thức của học sinh
THPT chuyển dần từ nhận thức cảm tính sang nhận thức lý tính, do đó, học tập
và rèn luyện KNS sẽ dễ đạt kết quả tốt hơn.
Sự phát triển tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân
cách của học sinh THPT, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý của
các em. Học sinh THPT có nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những đặc điểm tâm

lý của mình: quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, phẩm chất nhân cách và
năng lực riêng, xuất hiện ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng, tình cảm nghĩa vụ
đó là những giá trị nổi trội và bền vững. Các em có khả năng đánh giá mặt
mạnh, mặt yếu của bản thân mình và những người xung quanh, có những biện
pháp kiểm tra đánh giá sự tự ý thức bản thân như viết nhật ký, tự kiểm điểm
trong tâm tưởng, biết đối chiếu với các thần tượng, các yêu cầu của xã hội,
nhận thức vị trí của mình trong xã hội, hiện tại và tương lai.
Học sinh THPT là lứa tuổi quyết định sự hình thành nhân sinh quan,
thế giới quan về xã hội, tự nhiên, các nguyên tắc và quy tắc cư xử. Chỉ số đầu
tiên của sự hình thành thế giới quan là sự phát triển hứng thú nhận thức đối
với những vấn đề thuộc nguyên tắc chung nhất của vũ trụ, những quy luật phổ
biến của tự nhiên, xã hội và của sự tồn tại xã hội loài người. Lứa tuổi này, các
em quan tâm nhiều tới các vấn đề liên quan tới con người, vai trò của con
người trong lịch sử, quan hệ giữa con người và xã hội, giữa quyền lợi và
nghĩa vụ, giữa lý trí và tình cảm.
Tóm lại, sự phát triển nhân cách của học sinh THPT là một giai đoạn
rất quan trọng, giai đoạn chuyển đổi từ trẻ em lên người lớn. Đây là lứa tuổi
đầu thanh niên với những đặc điểm tâm lý đặc thù khác với tuổi thiếu niên,
các em đã đạt tới sự trưởng thành về thể lực và sự phát triển nhân cách. Đặc
điểm tâm sinh lý của học sinh THPT là điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục
21


KNS cho các em có hiệu quả. Các lực lượng giáo dục phải biết phát huy các
yếu tố tích cực, khắc phục những hạn chế trong sự phát triển tâm sinh lý lứa
tuổi này để lựa chọn nội dung, hình thức tổ chức thích hợp, phát huy được
tính tích cực, chủ động của các em trong hoạt động giáo dục theo định hướng
của mục tiêu giáo dục KNS.
- Các yếu tố về chương trình giáo dục trung học phổ thông
Theo khoản 1, Điều 29, Luật Giáo dục năm 2005: “Chương trình giáo

dục trung học phổ thông quy định chuẩn kiến thức, kĩ năng, phạm vi và cấu
trúc, nội dung giáo dục phổ thông, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt
động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở
mỗi lớp của giáo dục phổ thông” [25,tr.7]. Theo đó, mục tiêu giáo dục THPT
là học sinh được phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, con người cá nhân
và con người xã hội trên cơ sở duy trì, tăng cường và định hình các phẩm
chất, năng lực đã hình thành ở cấp Trung học cơ sở; có kiến thức, kĩ năng phổ
thông cơ bản, được định hướng theo lĩnh vực nghề nghiệp, phù hợp với năng
khiếu và sở thích; phát triển năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển,
tiếp tục học lên hoặc bước vào cuộc sống lao động với phẩm chất, năng lực
của một công dân. Để thực hiện giáo dục KNS cho học sinh THPT thì mục
tiêu về giáo dục KNS phải được đặt ra trong chương trình giáo dục THPT. Do
đó, nội dung giáo dục KNS cho học sinh THPT phải được hoạch định; các
hình thức, phương pháp, kiểm tra, đánh giá giáo dục KNS cho học sinh phải
được xác định cụ thể. Các yếu tố nêu trên phải được mô tả trong văn bản
chương trình giáo dục KNS cho học sinh THPT và trở thành một nội dung
của chương trình giáo dục THPT.
Những phân tích trên cho thấy, nếu vấn đề KNS chưa được đặt ra, chưa
được xác định như một yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của chương trình giáo dục
THPT thì khó có thể thực hiện giáo dục KNS cho học sinh THPT.
22


- Tác động của môi trường gia đình và xã hội
Dưới góc độ giáo dục, gia đình, xã hội không chỉ là lực lượng tham gia
vào quá trình giáo dục mà còn là môi trường giáo dục quan trọng. Trong lĩnh
vực giáo dục KNS cho học sinh THPT, môi trường gia đình và môi trường xã
hội có thể tác động theo hướng tích cực hoặc không tích cực đối với quá trình
hình thành và phát triển KNS của học sinh. Do KNS thuộc phạm trù năng lực
nên sự trải nghiệm có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình hình thành và phát

triển KNS. Gia đình và xã hội chính là môi trường nơi xác lập các tình huống
diễn ra sự trải nghiệm của học sinh.
Gia đình là nơi diễn ra những mối quan hệ xã hội đầu tiên của con
người. Những mối quan hệ trực tiếp giữa đứa trẻ và cha mẹ là những tác động
qua lại đầu tiên trong đời sống xã hội. Trong gia đình, các em nhận được
những kinh nghiệm và KNS đầu tiên. Môi trường gia đình giúp các em có thể
học hỏi và tiếp nhận những KNS, cách giao tiếp, cách ứng xử xã hội từ cha
mẹ và các thành viên trong gia đình. Cha mẹ, ông bà hay anh chị là biểu
tượng, hình mẫu cho sự phấn đấu và hoàn thiện nhân cách của các em. Tuy
nhiên, gia đình ít dành thời gian dạy các em KNS cần thiết, ngay cả những kỹ
năng tự chăm sóc và phục vụ bản thân. Với thực trạng hiện nay, rất nhiều em
học sinh THPT ở các thành phố lớn, thị xã hoặc một số gia đình giàu có thiếu
hụt những KNS cơ bản và cần thiết, các em không biết làm bất cứ một công
việc nào cho dù là những công việc tự phục vụ nhu cầu của bản thân hay
những công việc nhà đơn giản mà đáng lẽ ở lứa tuổi này các em bắt buộc phải
biết để chuẩn bị cho bản thân những KNS cần thiết trước khi bước vào cuộc
sống của một người trưởng thành. Chính vì vậy, hướng dẫn, khuyến khích và
tạo điều kiện để các em tham gia tích cực vào công việc gia đình, chú trọng
dạy các KNS cho các em là việc làm cần thiết của các bậc phụ huynh.
Các mối quan hệ trong xã hội tác động tích cực tới việc hình thành và phát
23


triển năng lực của học sinh THPT. Xã hội là môi trường thực tế, giúp học sinh
hoàn thiện các kĩ năng cuộc sống, chi phối một phần lớn trong suy nghĩ và hành
động của học sinh. Bước ra môi trường xã hội, học sinh có thể học hỏi và hình
thành cho mình những KNS cơ bản, cần thiết một cách tự nhiên. Từ những tình
huống thực tế, các em tự tìm cách giải quyết hay tìm kiếm sự hỗ trợ từ người
thân, bạn bè đều có thể hình thành KNS cho bản thân. Môi trường xã hội cũng
cần tạo điều kiện để học sinh tham gia các hoạt động hình thành năng lực cho

bản thân bằng việc chung tay góp sức của toàn thể cộng đồng.
1.1.3. Nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong dạy học
phần “ công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận
khoa học”
Có 21 kĩ năng để giáo dục KNS cho học sinh thông qua dạy học môn
GDCD. Tuy nhiên, theo giới hạn nghiên cứu luận văn tập trung giáo dục các kĩ
năng như: kĩ năng hợp tác; kĩ năng tìm kiếm và xử lý thông tin; kĩ năng giao
tiếp; kĩ năng thể hiện sự tự tin; kĩ năng lắng nghe tích cực; kĩ năng tư duy
sáng tạo; kĩ năng đảm nhận trách nhiệm, kĩ năng giải quyết vấn đề.
Giáo dục kĩ năng hợp tác: hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ,
hỗ trợ nhau trong một công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung. Kĩ
năng hợp tác là khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và
cùng làm việc có hiệu quả với những thành viên khác trong nhóm. Môn học
GDCD sẽ hình thành ở học sinh những kĩ năng hợp tác cơ bản như tôn trọng
mục đích, mục tiêu hoạt động chung của nhóm; tôn trọng quyết định chung
những điều đã cam kết; biết giao tiếp hiệu quả, tôn trọng, đoàn kết và cảm
thông chia sẻ với các thành viên khác trong nhóm; biết bày tỏ ý kiến, tham gia
xây dựng kế hoạch hoạt động của nhóm; đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng,
xem xét các ý kiến, quan điểm của mọi người trong nhóm; nỗ lực phát huy
năng lực, sở trường của bản thân để hoàn thành nhiệm vụ đã được phân công,
biết hỗ trợ, giúp đỡ các thành viên khác trong quá trình hoạt động.
24


Giáo dục kĩ năng tìm kiếm và xử lý thông tin: trong thời đại bùng nổ
thông tin hiện nay, kĩ năng tìm kiếm và xử lý thông tin là một KNS quan
trọng giúp con người có thể có được những thông tin cần thiết một cách đầy
đủ, khách quan, chính xác kịp thời. Trong quá trình học tập môn GDCD, giáo
viên có thể giúp các em hình thành khả năng tìm kiếm và xử lý thông tin
thông qua các kĩ năng: xác định rõ chủ đề mà mình cần tìm kiếm thông tin là

chủ đề gì? Xác định loại thông tin về chủ đề mà mình cẩn phải tìm kiếm là gì?
Xác định các nguồn, các địa chỉ tin cậy có thể cung cấp những loại thông tin
đó; tiến hành thu thập thông tin theo kế hoạch đã định; sắp xếp các thông tin
đã thu thập được theo nội dung một cách có hệ thống; phân tích, so sánh, đối
chiếu, lí giải các thông tin thu thập được, đặc biệt là các thông tin trái chiều;
xem xét một cách toàn diện, thấu đáo, sâu sắc các thông tin đó.
Giáo dục kĩ năng giao tiếp: kĩ năng giao tiếp là khả năng có thể bày tỏ
ý kiến của bản thân theo hình thức nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ cơ thể
một cách phù hợp với hoàn cảnh và văn hóa, đồng thời biết lắng nghe, tôn
trọng ý kiến người khác, ngay cả khi bất đồng quan điểm. Bày tỏ ý kiến bao
gồm cả bày tỏ về suy nghĩ, ý tưởng, nhu cầu, mong muốn và cảm xúc, đồng
thời nhờ sự giúp đỡ và sự tư vấn khi cần thiết. Trong quá trình học tập môn
GDCD, giáo viên có thể giúp học sinh rèn luyện kĩ năng giao tiếp bằng cách
đánh giá các tình huống và xử lý các tình huống bằng các hình thức nói, viết
hay trả lời bằng ngôn ngữ cơ thể. Qua quá trình rèn luyện, các em sẽ có cách
đánh giá đúng đắn, điều chỉnh cách giao tiếp phù hợp, hiệu quả hơn; dần dần
các em sẽ cởi mở hơn trong bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc. Giáo viên GDCD bằng
việc tạo điều kiện để các em giao tiếp thường xuyên sẽ điều chỉnh, giúp đỡ
các em có cách ứng xử phù hợp khi làm việc và ở cùng với những người
khác, từ đó các em cũng sẽ biết quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ, tôn trọng tới
những người xung quanh.
25


×