Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

Đầu tư trực tiếp từ Việt Nam sang Lào thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.72 KB, 79 trang )

1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn tốt nghiệp là trung thực xuất phát từ tình hình
thực tế của đơn vị thực tập.

Tác giả luận văn

Vũ Thị Ánh Tuyết


2

MỤC LỤC
Trang bìa............................................................................................................i


3

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu vốn FDI từ Việt Nam ra nước ngoài theo vùng/lãnh thổ
(tính lũy kế đến 31/12/2015)
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu vốn FDI từ Việt Nam ra nước ngoài theo lĩnh vực đầu tư
(tính lũy kế đến 31/12/2015)
Biểu đồ 2.3: Điểm tương đối về mức độ thuận lợi kinh doanh của một số nước
năm 2015
Biểu đồ 2.4: Quy mô vốn FDI Việt Nam sang Lào giai đoạn 2005 - 2015(chỉ
tính các dự án còn hiệu lực)
Biểu đồ 2.5: Cơ cấu lĩnh vực FDI từ Việt Nam sang Lào giai đoạn 2005 2015 (chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Biểu đồ 2.6: Cơ cấu vùng FDI từ Việt Nam sang Lào giai đoạn 2005-2015


(chỉ tính các dự án còn hiệu lực)

DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Quy mô vốn đầu tư trực tiếp từ Việt Nam ra nước ngoài giai đoạn
2005 - 2015
Bảng 2.2: Các hình thức đầu tư FDI Việt Nam sang Lào giai đoạn 2005 2015 (chỉ tính các dự án còn hiệu lực)


4

TỪ VIẾT TẮT
AEC

Cộng đồng kinh tế ASEAN

AVIL

Hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam sang Lào

BIDV

Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

CHDCND

Cộng hòa dân chủ nhân dân

FDI

Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài


GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

HAGL

Hoàng Anh Gia Lai

IMF

Quỹ tiền tệ quốc tế

MNC

Công ty đa quốc gia

OECD

Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

WTO

Tổ chức Thương mại thế giới



5

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cấp thiết của đề tài:
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (Lào) - quốc gia láng giềng của Việt
Nam với nhiều điểm tương đồng về văn hóa, chính trị, kinh tế - xã hội luôn
được coi là một điểm đến tiềm năng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Trên
thực tế, Lào đã và đang là một trong những quốc gia đứng đầu trong số các
quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư nói chung và đầu tư trực tiếp
nói riêng của các nhà đầu tư Việt Nam. Trong thời gian gần đây, hoạt động
đầu tư của các nhà đầu tư Việt Nam tại Lào đã có nhiều bước phát triển mạnh,
tăng cả về số lượng, chất lượng và quy mô dự án đầu tư, có đóng góp nhiều
mặt cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Lào và được chính phủ Lào ghi
nhận và đánh giá cao.
Tuy nhiên, hoạt động đầu tư trực tiếp từ Việt Nam sang Lào còn bộc lộ
một số tồn tại như một số dự án đầu tư chậm tiến độ, cơ cấu ngành và cơ cấu
vùng đầu tư chưa hợp lý, hiệu quả các dự án còn thấp và nhìn chung là chưa
xứng tầm với quan hệ và tiềm năng của hai nước. Ngoài ra, hoạt động đầu tư
của các doanh nghiệp Việt Nam vào Lào mới được nhìn nhận từ phương diện
lợi ích của từng doanh nghiệp mà chưa nhìn nhận từ phương diện lợi ích quốc
gia, chưa được định hướng và tổ chức chặt chẽ nên dẫn tới tình trạng đầu tư
manh mún, thiếu liên kết.
Việc tìm hiểu và đánh giá hoạt động đầu tư trực tiếp của các doanh
nghiệp Việt Nam sang Lào trong thời gian qua cũng như phân tích những cơ
hội và thách thức trong giai đoạn sắp tới sẽ là những căn cứ cụ thể giúp các
doanh nghiệp và các cơ quan chức năng đưa ra những giải pháp thiết thực
nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp sang Lào. Chính vì vậy, em đã lựa
chọn đề tài “Đầu tư trực tiếp từ Việt Nam sang Lào: thực trạng và giải
pháp” làm đề tài nghiên cứu.



6

2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu:
a. Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng đầu tư trực tiếp từ Việt Nam sang
Lào.
b. Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp của các
doanh nghiệp Việt Nam sang Lào, đề tài sẽ đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy
mạnh hoạt động đầu tư trực tiếp của từ Việt Nam sang Lào.
c. Nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá cơ sở lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Nghiên cứu môi trường đầu tư tại Lào cũng như tìm hiểu thực trạng
đầu tư FDI từ Việt Nam vào Lào từ đó chỉ rõ những thuận lợi, khó khăn trong
hoạt động đầu tư từ Việt Nam sang Lào thời gian qua.
- Tìm hiểu các định hướng FDI từ Việt Nam sang Lào của Chính phủ
Việt Nam, đánh giá cơ hội và thách thức đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt
Nam đầu tư vào Lào làm cơ sở để đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm thúc
đẩy hoạt động đầu tư từ Việt Nam sang Lào trong giai đoạn tiếp theo.
3. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu vào hai nước: Việt
Nam, Lào.
- Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu số liệu về tình hình FDI từ Việt
Nam sang Lào trong giai đoạn từ năm 2005 đến 2015. Từ việc nghiên cứu
này, đề tài sẽ tập trung phân tích các kết quả đã đạt được và những hạn chế
trong hoạt động đầu tư của Việt Nam vào Lào và đề xuất một số giải pháp
nâng cao hiệu quả đầu tư.
4. Phương pháp nghiên cứu:



7

Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài dự kiến sẽ sử dụng những
phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu,
phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp thống kê.
5. Kết cấu đề tài
Đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài
Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp từ Việt Nam sang Lào
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy đầu tư trực tiếp từ Việt
Nam sang Lào
Qua đây, em xin chân thành cảm ơn ThS. Lê Thanh Hà đã tận tình
hướng dẫn chỉ bảo, em cũng xin cảm ơn các anh chị ở Cục Đầu tư nước ngoài
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nhiệt tình hỗ trợ, cung cấp số liệu để em hoàn
thành bài luận văn này. Do khuôn khổ thời gian và trình độ còn hạn chế, bài
nghiên cứu này chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong
thầy cô và các bạn góp ý để bài luận văn này được hoàn thiện hơn.


8

CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1 Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Theo khái niệm của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) là những hoạt động nhằm đạt được những lợi ích lâu dài trong
doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế
của nhà đầu tư, mục đích của nhà đầu tư là giành quyền được tiếng nói có
hiệu quả trong công việc quản lý của hãng đó.

Theo Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đưa ra định nghĩa về FDI như
sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước
(nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư)
cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt
FDI với các công cụ tài chính khác.Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư
lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong
những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là “công ty mẹ” và các
tài sản được gọi là “công ty con” chi nhánh công ty.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) thì lại tiếp cận FDI theo
một hướng khác. Theo tổ chức này, đầu tư trực tiếp được thực hiện nhằm thiết
lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp, đặc biệt là những
khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh
nghiệp nói trên bằng cách: (1) thành lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc
một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư; (2) mua lại toàn bộ
doanh nghiệp đã có; (3) tham gia một doanh nghiệp mới; (4) cấp tín dụng dài
hạn (lớn hơn 5 năm).
Như vậy, mặc dù có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái niệm
về FDI, song ta có thể đưa ra một khái niệm tổng quát nhất, đó là: Đầu tư trực


9

tiếp nước ngoài (FDI) là hoạt động đầu tư dài hạn, trong đó chủ đầu tư trực
tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Đồng thời, nhà đầu tư cũng
chịu trách nhiệm theo mức sở hữu về kết quả sản xuất kinh doanh của dự án.
1.2 Đặc điểm của FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm cơ bản sau:
- Trong thời gian sử dụng vốn đầu tư, quyền sở hữu và quyền sử dụng
vốn luôn thuộc về chủ đầu tư. Nhà đầu tự chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết
quả đầu tư. Hiệu quả sử dụng vốn phụ thuộc chủ yếu vào năng lực của chủ

đầu tư.
- Lợi nhuận của các nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt
động kinh doanh: Sau khi trừ đi thuế và các khoản đóng góp cho nước nhận
đầu tư nhà đầu tư nước ngoài nhận được phần lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp
trong vốn pháp định. Chủ đầu tư nước ngoài có thể tăng lợi nhuận, tăng khả
năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới do lợi dụng được các
yếu tố lợi thế và tránh được hàng rào thương mại của nước chủ nhà. Nhưng có
thể gặp rủi ro vì quá trình đầu tư chịu tác động của những yếu tố biến động về
kinh tế trên thị trường và yếu tố biến động về chính trị - xã hội của nước chủ
nhà.Chủ đầu tư sẽ lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp với điều kiện, trên cơ sở
kỳ vọng vào lợi ích tối đa khi đầu tư vốn.
- Trên góc độ của nước nhận đầu tư: đây là dòng vốn kinh doanh, có tính
ổn định cao, thời hạn đầu tư dài, quá trình trao đổi vốn thường gắn liền với
chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý - kinh doanh. Khai thác nguồn
vốn này giúp khắc phục tình trạng thiếu vốn đầu tư cho phát triển sản xuất
kinh doanh, tạo điều kiện khai thác tốt hơn lợi thế trong nước, mở rộng cạnh
tranh,… thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tăng thu cho ngân sách nhà
nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,…


10

- Việc tiếp nhận FDI không ảnh hưởng tới nợ Chính phủ, nên các Chính
phủ có xu hướng điều chỉnh luật pháp, tạo môi trường đầu tư thuận lợi,
khuyến khích hình thức đầu tư này để tăng nguồn lực cho phát triển sản xuất
trong nước.
1.3 Vai trò của FDI đối với các nước đang phát triển
1.3.1 Đối với nước thực hiện đầu tư:
Vai trò của FDI đối với các nước thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài:
- Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp doanh nghiệp các nước đang phát

triển tiếp cận với những nguồn lực mới, tiếp cận với thị trường nguyên liệu
đầu vào dồi dào với giá rẻ.
- Tránh được hàng rào bảo hộ, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Có thể dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng các quốc gia trên thế giới đều
ít nhiều đặt ra những rào cản về thuế quan, hạn ngạch hay những rào cản kỹ
thuật nhằm bảo hộ cho sản xuất trong nước. Ngoài thuế quan và hạn ngạch,
chi phí vận tải cũng được xem là một bộ phận cấu thành rào cản thương mại.
Với các quốc gia đang phát triển, sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là các nguyên
vật liệu, sản phẩm có hàm lượng chất xám thấp, khối lượng lớn. Chính vì
vậy, chi phí vận chuyển chiếm một phần không nhỏ trong giá thành của sản
phẩm. Điều này làm giảm sức cạnh tranh và lợi nhuận của các doanh nghiệp,
trở thành một rào cản không nhỏ cho việc đẩy mạnh xuất khẩu. Trong trường
hợp này, các nhà đầu tư có thể thực hiện FDI để giảm chi phí vận tải, tránh
được hàng rào bảo hộ thương mại của các nước, làm cho sản phẩm đến gần
hơn với người tiêu dùng, giúp cung và cầu đến gần nhau hơn.
- Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đem lại sự giàu có, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế trong nước. Mục tiêu hàng đầu của mọi dự án đầu tư là lợi
nhuận. Các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cũng vậy, các doanh nghiệp
tiến hành đầu tư ra nước ngoài khi họ thấy cơ hội kiếm lời ở thị trường ngoài


11

nước hấp dẫn hơn thị trường nội địa. Và tất nhiên, một khi dự án đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài thành công, lợi nhuận của dự án cuối cùng cũng sẽ quay
trở về để phục vụ cho phát triển kinh tế trong nước. Hơn thế nữa, nhiều dự án
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn có vai trò quan trọng, khi sản phẩm của dự
án là các nguyên liệu đầu vào mà thị trường trong nước đang có nhu cầu.
- Tái cấu trúc nền kinh tế, hiện đại hóa công nghệ. Nhờ có FDI mà hàng
loạt các thiết bị, công nghệ hiện có của nền kinh tế được tháo dỡ chuyển đến

cho nước tiếp nhận đầu tư. Từ đây nền kinh tế có cơ hội để tái cấu trúc lại,
bỏ đi những ngành nghề không còn hiệu quả, tiêu tốn nhiều nguyên liệu, gây
ô nhiễm,... thay thế vào đó là những ngành mới hiệu quả hơn, sạch hơn...
Đồng thời, đây cũng là cơ hội tốt để thay thế những công nghệ hiện có bằng
những công nghệ mới, tiên tiến, nhằm hiện đại hóa nền kinh tế.
- Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp có thể nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thường được
thực hiện cùng với việc đưa chuyên gia, người lao động của doanh nghiệp
sang quốc gia nhận đầu tư. Đây sẽ là cơ hội để các chuyên gia, người lao
động của doanh nghiệp có thể nâng cao khả năng chuyên môn của mình.
Với việc được tiếp cận với các công nghệ, kinh nghiệm quản lý mới của các
quốc gia khác, người lao động sẽ tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu.
Điều này được thể hiện rõ nét khi doanh nghiệp các quốc gia đang phát triển
đầu tư vào các quốc gia phát triển hơn dưới hình thức các doanh nghiệp liên
doanh.
1.3.2 Đối với nước nhận đầu tư:
Đối với các nước đang phát triển, FDI có những vai trò:
- Bổ sung một lượng vốn đầu tư lớn, giúp nền kinh tế phát triển theo
chiều rộng. Các dự án FDI sẽ tận dụng, thúc đẩy các tiềm năng, lợi thế sẵn có
của quốc gia về tài nguyên khoáng sản, đất đai, rừng, biển, nguồn nhân lực,…


12

tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, tăng GDP. Từ đó mà nền kinh tế có điều
kiện phát triển theo chiều rộng.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh, giúp nền kinh tế phát triển theo chiều
sâu. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ mang đến cho nước tiếp
nhận đầu tư tiền vốn mà kèm theo đó là công nghệ và quản lý. Điều này góp
phần làm cho sản phẩm được sản xuất ra có chất lượng tốt hơn, phù hợp hơn

mà giá thành lại thấp hơn. Không chỉ vậy, nước tiếp nhận đầu tư còn có cơ
hội nhận cải thiện công nghệ và nâng cao trình độ quản lý. Tất cả những điều
đó cho phép tăng năng lực của sản phẩm, chiếm lĩnh thị trường nội địa, đẩy
mạnh xuất khẩu, tiến tới làm chủ khoa học công nghê, quản lý, … làm cho
nền kinh tế phát triển theo chiều sâu và ngày càng có điều kiện hội nhập sâu
rộng vào nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên nước nhận đầu tư khó chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư
theo ngành và theo vùng lãnh thổ, vì chủ đầu tư quốc tế trực tiếp chỉ quan tâm
đến lợi nhuận đầu tư. Nếu không có hệ thống luật pháp cùng với trình độ quản
lý kinh tế tốt, bên nhận đầu tư còn có thể gặp phải bất lợi như: trở thành bãi
rác thải công nghiệp của thế giới, tài nguyên bị khai thác quá mức, ô nhiễm
môi trường, gây ra sự lệ thuộc về kinh tế - chính trị, gánh nặng nợ cho tương
lại, có thể tác động đến khủng hoảng tiền tệ do hiện tượng rút vốn đầu tư ồ ạt
của chủ đầu tư nước ngoài khi có biến động xấu của thị trường trong nước,các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể là tác nhân làm phá sản các
doanh nghiệp trong nước vì họ là đối thủ cạnh tranh giàu kinh nghiệm kinh
doanh và mạnh về tiềm lực kinh tế. Vì vậy nước nhận đầu tư phải có hệ thống
luật pháp để điều chỉnh hành vi của các nhà đầu tư và đảm bảo lợi ích của
nước chủ nhà.


13

1.4 Điều kiện thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.4.1 Chủ thế thực hiện đầu tư
Chủ thể thực thiện đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể là chính phủ, tổ
chức quốc tế, công ty hoặc tập đoàn kinh tế, các cá nhân, phổ biến nhất trong
đó là các công ty đa quốc gia (MNC). Chủ thể thực hiền đầu tư quốc tế hiện
nay không chỉ ở các nước phát triển mà có xu hướng gia tăng nhanh chóng ở
các nước đang phát triển đầu tư vào các lĩnh vực họ có lợi thế cạnh tranh. Chủ

thể thực hiện đầu tư quốc tế trực tiếp ngoài không gian kinh tế của quốc gia
nhà đầu tư. Mỗi chủ thể đều dựa vào mục tiêu và điều kiện cụ thể để tính toán
và lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp nhằm đạt tới lợi ích cao nhất.
1.4.2 Vốn đầu tư
Chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài thường phải đóng một lượng vốn tối
thiểu theo quy định của từng nước để họ có quyền trực tiếp tham gia điều phối
và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh. Mức độ góp vốn và hình thức đầu
tư quyết định vị trí của nhà đầu tư trong doanh nghiệp, quyết định địa vị pháp
lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Lợi nhuận của nhà đầu tư phụ
thuộc kết quả kinh doanh và được chia theo tỷ lệ vốn góp.
Vốn đầu tư có thể được góp dưới các hình thức:
- Tiền: Vốn đầu tư có thể được thực hiện thông qua nhiều đồng tiền khác
nhau, đồng tiền đầu tư có thể là ngoại tệ mạnh, đồng tiền của quốc gia đầu tư
hoặc đồng tiền của quốc gia nhận đầu tư tùy theo quy định của từng quốc gia
nhận đầu tư.
- Tài sản hữu hình: các tư liệu sản xuất, máy móc, thiết bị, nhà xưởng,
hàng hóa, các công trình xây dựng khác, ...
- Tài sản vô hình: sức lao động, công nghệ, phát minh, sáng chế, nhãn
hiệu, biểu tượng, uy tín, thương hiệu ...


14

Dù ở dưới dạng nào nó cũng được tính ra giá trị để xác định tổng giá trị
đầu tư của chủ đầu tư, qua đó xác định địa vị pháp lý, lợi ích và trách nhiệm
của chủ đầu tư khi vốn được sử dụng.
1.4.3 Lĩnh vực đầu tư
Mỗi quốc gia tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của mình mà có
những chính sách khuyến khích và hạn chế đầu tư khác nhau nhằm thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài. Muốn thực hiện đầu tư nước ngoài, các nhà đầu

tư cần được sự cho phép của các nước nhận đầu tư, tùy thuộc chính sách của
các nước khác nhau thì có các ngành nghề được cho phép, hạn chế, bị cấm
kinh doanh hoặc các ngành nghề kinh doanh có điều kiện khác nhau, có hay
không các ưu đãi nhằm khuyến khích FDI. Do vậy các nhà đầu tư khi thực
hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể lựa chọn các lĩnh vực đầu tư khác
nhau, tùy thuộc vào năng lực, mục tiêu của nhà đầu tư. Các nhà đầu tư có thể
lựa chọn các lĩnh vực đầu tư mà ở nước nhận đầu tư có điều kiện phát triển
tốt, thu được lợi nhuận cao hoặc đầu tư vào các lĩnh vực mà được Chính phủ
nước nhận đầu tư khuyến khích, giành nhiều ưu đãi. Ví dụ như ở Việt Nam,
theo Luật đầu tư 2014, một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện như: kinh
doanh casino, kinh doanh rượu, kinh doanh xăng dầu, kinh doanh khoáng
sản,...
1.4.4 Các hình thức FDI
Tuỳ theo quy định của luật pháp của nước nhận đầu tư, FDI có thể được
tiến hành dưới nhiều hình thức pháp lý khác nhau. Trong đó có các hình thức
pháp lý chủ yếu sau:
1.4.4.1 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Đây là hình thức phổ biến nhất hiện nay trên thế giới. Theo hình thức này,
doanh nghiệp mới đựơc thành lập với 100% vốn là của nhà đầu tư nước ngoài.


15

Cũng từ đó, nhà đầu tư nước ngoài quyết định toàn bộ các vấn đề liên quan đến
sự hoạt động và phát triển của doanh nghiệp, từ quy mô doanh nghiệp, chiến
lược kinh doanh…đến thị trường tiêu thụ. Điều này đã cắt nghĩa tại sao hình
thức này lại được các nhà đầu tư ưa thích.
1.4.4.2 Doanh nghiệp liên doanh
Đây là hình thức đầu tư được thực hiện khá phổ biến ở các thị trường
mới nổi. Để thực hiện hình thức này, nhà đầu tư nước ngoài sẽ liên kết với

một hoặc một số đối tác của nước sở tại, cùng nhau góp vốn hình thành doanh
nghiệp mới để tiến hành sản xuất kinh doanh. Theo quy định của Luật Đầu tư
tại Việt Nam, doanh nghiệp liên doanh thường được thành lập theo hình thức
công ty TNHH, có tư các pháp nhân. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài hoặc
các bên nước ngoài do các bên liên doanh thỏa thuận nhưng không được thấp
hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh và trong quá trình hoạt
động không được giảm vốn pháp định.
Hình thức này có ưu điểm là phát huy được thế mạnh của mỗi bên tham
gia liên doanh. Tuy vậy cũng không hiếm những trường hợp sau một thời gian
đi vào hoạt động đã nảy sinh những bất đồng về lợi ích, về quan điểm kinh
doanh…và hậu quả là liên doanh bị tan vỡ.
1.4.4.3 Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC)
Đây là hình thức được coi là đơn giản nhất của FDI. Nhà đầu tư nước
ngoài sẽ cùng với cơ sở kinh tế của nước sở tại ký kết hợp đồng cùng nhau
phối hợp thực hiện sản xuất kinh doanh những mặt hàng nào đó và mỗi bên sẽ
đảm nhiệm những khâu công việc nhất định. Hình thức này không dẫn tới
việc thành lập doanh nghiệp mới và tận dụng ngay những thế mạnh sẵn có của
mỗi bên, từ nguồn nguyên liệu, nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nhân công…
cho đến thị trường tiêu thụ. Các hợp đồng thường có thời hạn vừa phải, phổ


16

biến là khoảng 1 năm. Trường hợp nếu chúng vẫn có khả năng tiếp tục thực
hiện tốt thì có thể được gia hạn thêm.
1.4.4.4 Hợp đồng xây dựng - chuyển giao ( BT), xây dựng - khai thác chuyển giao (BOT), xây dưng - chuyển giao - khai thác(BTO), …
Những hình thức đầu tư này được thực hiện phổ biến trong lĩnh vực xây
dựng cơ sở hạ tầng, như đường sá, cầu cống…Tuy vậy trong những năm gần
đây chúng cũng được thực hiện bởi FDI. Để thực hiện các hợp đồng BOT,
BT… nhà đầu tư thường lập các dự án theo đơn đặt hàng của nước sở tại.

Trong hình thức BT, sau khi đầu tư xong nhà đầu tư chuyển giao lại cho bên
đặt hàng sở tại khai thác, sử dụng hầu hết theo phương thức “chìa khoá trao
tay” để thu lại vốn đầu tư và lợi nhuận. Còn trong hình thức BOT, sau khi xây
dựng xong nhà đầu tư được quyền khai thác, sử dụng công trình trong một
thời gian nhất định nhằm thu hồi lại vốn đầu tư và một lượng lợi nhuận thoả
đáng, sau đó chuyển giao lại cho cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại quản
lý và tiếp tục khai thác, sử dụng.
Ngoài các hình thức trên đây, FDI còn có thể được thực hiện bằng một
số hình thức khác, như sáp nhập hoặc mua lại các cơ sở sản xuất kinh doanh
sẵn có ở nước ngoài, hoặc tham gia mua cổ phần của các công ty nước ngoài
với khối lượng đủ lớn để có thể tham gia trực tiếp vào tổ chức điều hành hoạt
động sản xuất kinh doanh của các công ty này.
1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
1.5.1 Các yếu tố thuộc nước chủ đầu tư
Các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài sẽ tiến hành hoạt động FDI khi
phát huy được lợi thế độc quyền riêng và lợi thế nội bộ hóa.
Lợi thế độc quyền riêng: Khi tiến hành đầu tư FDI ra nước ngoài, các
doanh nghiệp gặp phải rất nhiều bất lợi: sự khác biệt về văn hóa, thể chế,
ngôn ngữ, thông tin thị trường,… Để có thể tồn tại, các doanh nghiệp này


17

phải sở hữu một số lợi thế cạnh tranh đặc biệt gọi là lợi thế độc quyền. Các lợi
thế này phải là lợi thế riêng của doanh nghiệp, sẵn sàng chuyển giao trong nội
bộ doanh nghiệp và giữa các nước.
Lợi thế nội bộ hóa: Các hình thức mở rộng hoạt động ra nước ngoài
gồm: xuất khẩu, cấp giấy phép quản lý, nhượng quyền thương mại, liên
doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài,… Khi thị trường bên ngoài
không hoàn hảo, các doanh nghiệp có được lợi thế nội bộ hóa khi lựa chọn

hình thức FDI. Chính các lợi thế nội bộ hóa giúp các MNCs tiến hành hoạt
động kinh doanh đồng bộ và hoàn chỉnh, sản xuất ở nhiều nước và sử dụng
thương mại trong nội bộ doanh nghiệp để lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ và
các yếu tố vô hình giữa các chi nhánh của chúng.
Ngoài ra, khi xét trên phương diện nước chủ đầu tư, hoạt động đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài có thể được khuyến khích hoặc hạn chế dựa trên các
chính sách được đề ra. Các chính sách khuyến khích đầu tư có thể kể đến:
- Tham gia kí kết các hiệp định song phương và các hiệp định đa phương
về đầu tư hoặc có liên quan đến đầu tư.
- Chính phủ bảo hiểm cho các hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Việc đầu
tư ra nước ngoài có thể gây ra cho chủ đầu tư rất nhiều rủi ro lớn. Nếu chính
phủ các nước đứng ra bảo hiểm cho các rủi ro này thì các nhà đầu tư sẽ cảm
thấy an tâm và có thêm tự tin khi quyết định thực hiện đầu tư ra nước ngoài.
- Ưu đãi thuế và tài chính, có thể dưới dạng hỗ trợ tài chính trực tiếp cho
các chủ đầu tư, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, miễn hoặc giảm thuế.
- Khuyến khích chuyển giao công nghệ. Chính phủ các nước có thể hỗ
trợ vốn, trợ giúp về kĩ thuật, dành các ưu đãi cho các dự án về FDI ở nước
ngoài kèm theo chuyển giao công nghệ.
- Trợ giúp tiếp cận thị trường, ưu đãi thương mại (thuế quan và phi thuế
quan) cho hàng hóa của các nhà đầu tư ra nước ngoài.


18

- Cung cấp thông tin, trợ giúp kỹ thuật. Chính phủ hoặc các cơ quan của
Chính phủ đứng ra cung cấp cho các chủ đầu tư các thông tin cần thiết về môi
trường và cơ hội đầu tư.
Các chính sách hạn chế đầu tư có thể bao gồm:
- Hạn chế chuyển vốn ra nước ngoài. Để kiểm soát cán cân thanh toán,
hạn chế thâm hụt, các nước chủ đầu tư có thể áp dụng biện pháp này.

- Hạn chế bằng thuế, đánh thuế đối với thu nhập của chủ đầu tư ở nước
ngoài, có các chính sách ưu đãi về thuế đối với đầu tư trong nước, khiến cho
việc đầu tư ra nước ngoài trở nên kém ưu đãi hơn.
- Hạn chế tiếp cận thị trường, đánh thuế cao hoặc áp dụng chế độ hạn
ngạch hay các rào cản phi thương mại đối với hàng hóa của công ty nước
mình sản xuất ở nước ngoài và xuất khẩu ngược lại.
1.5.2 Các yếu tố thuộc nước nhận đầu tư
Theo Hội nghị của Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển
(UNCTAD), các yếu tố quyết định FDI của nước tiếp nhận đầu tư được chia
thành 3 nhóm: khung chính sách, các yếu tố của môi trường kinh tế, các yếu
tố tạo thuận lợi trong kinh doanh.
1.5.2.1 Khung chính sách về FDI của nước tiếp nhận đầu tư
Khung chính sách về FDI của nước nhận đầu tư gồm các quy định liên
quan trực tiếp đến FDI và các quy định có ảnh hưởng gián tiếp đến FDI.
Các quy định và chính sách liên quan trực tiếp FDI bao gồm các quy
định về việc thành lập và hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài (cho phép,
hạn chế, cấm đầu tư vào một số ngành, lĩnh vực; cho phép tự do hay hạn chế
quyền sở hữu của các chủ đầu tư nước ngoài đối với các dự án; cho phép tự
do hoạt động hay áp đặt một số điều kiện hoạt động, có hay không các ưu đã
nhằm khuyến khích FDI), các tiêu chuẩn đối xử với FDI (phân biệt hay không
phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư có quốc tịch khác nhau) và cơ chế hoạt


19

động của thị trường trong đó có sự tham gia của thành phần kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài (ví dụ như cạnh tranh có bình đẳng hay không, có hiện
tượng độc quyền không, thông tin trên thị trường có rõ ràng, minh bạch
không). Các quy định này có ảnh hưởng trực tiếp tới khối lượng và kết quả
của hoạt động FDI.

Bên cạnh đó, một số các quy định, chính sách trong một số ngành, lĩnh
vực khác cũng có ảnh hưởng đến quyết định của chủ đầu tư như: chính sách
thương mại (ví dụ: chính sách thay thế nhập khẩu), chính sách tư nhân hóa (ví
dụ: chính sách cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước), chính sách tiền tệ và
chính sách thuế (ví dụ: chính sách kiềm chế lạm phát), chính sách tỷ giá hối
đoái, chính sách liên quan đến cơ cấu các ngành kinh tế và các vùng lãnh thổ,
chính sách lao động, các quy định trong hiệp định quốc tế mà nước nhận đầu
tư tham gia ký kết…
Nhìn chung, chủ đầu tư nước ngoài thích đầu tư vào các nước có hành
lang pháp lý, cơ chế, chính sách đầy đủ, đồng bộ, thông thoáng, minh bạch và
có thể dự đoán được. Điều nay đảm bảo cho sự an toàn của vốn đầu tư.
1.5.2.2 Các yếu tố của môi trường kinh tế.
Tùy động cơ của chủ đầu tư nước ngoài mà có thể có các yếu tố của môi
trường kinh tế ảnh hưởng đến dòng vốn FDI.
Các chủ đầu tư có động cơ tìm kiếm thị trường sẽ quan tâm đến dung
lượng thị trường và thu nhập bình quân đầu người; tốc độ tăng trưởng của thị
trường; khả năng tiếp cận thị trường khu vực và thế giới; các sở thích đặc biệt
của người tiêu dùng và cơ cấu thị trường.
Các chủ đầu tư tìm kiếm nguồn nguyên liệu và tài sản sẽ quan tâm đến
tài nguyên thiên nhiên; lao động chưa qua đào tạo với giá rẻ; lao động có tay
nghề; công nghệ, phát minh, sáng chế và các tài sản doanh nghiệp sáng tạo ra;
cơ sở hạ tầng phần cứng.


20

Các chủ đầu tư tìm kiếm hiệu quả sẽ chú trọng đến chi phí mua sắm các
nguồn tài nguyên; các chi phí đầu vào khác: chi phí vận chuyển và thông tin liên
lạc; chi phí mua bán thành phẩm; tham gia các hiệp định hội nhập khu vực tạo
thuận lợi cho việc thành lập mạng lưới các doanh nghiệp toàn khu vực.

1.5.2.3 Các yếu tố tạo thuận lợi trong kinh doanh
Các yếu tố tạo thuận lợi trong kinh doanh bao gồm các chính sách xúc
tiến đầu tư; các biện pháp ưu đãi khuyến khích đầu tư; giảm các tiêu cực phí
bằng cách giải quyết nạn tham nhũng, cải cách thủ tục hành chính để nâng cao
hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước; nâng cao chất lượng các
dịch vụ tiện ích xã hội để đảm bảo cuộc sống cho các chủ đầu tư nước ngoài;
các dịch vụ hậu đầu tư.
1.5.3 Các yếu tố quốc tế
Các yếu tố thuộc môi trường quốc tế cũng có ảnh hưởng đến hoạt động
FDI, cụ thể hơn, đó là môi trường kinh tế, chính trị, xã hội toàn cầu có ổn
định hay không, các yếu tố đó thuận lợi hay không thuận lợi cho nước chủ
đầu tư, nước nhận đầu tư, và chính bản thân nhà đầu tư. Tình hình cạnh tranh
giữa các nước trong thu hút FDI ảnh hưởng nhiều đến dòng chảy FDI. Để
nâng cao năng lực cạnh tranh trong thu hút FDI, các nước sẽ phải cải tiến môi
trường đầu tư, tạo thuận lợi và đưa ra những ưu đãi cho các nhà đầu tư
nước ngoài. Nước nào xây dựng được môi trường đầu tư có sức hấp dẫn
cao hơn thì nước đó sẽ có khả năng thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn. Cùng
với sự gia tăng độ mở và độ hấp dẫn của các môi trường đầu tư, dòng vốn
FDI sẽ dễ dàng lưu chuyển hơn, làm tăng trưởng lượng vốn FDI toàn cầu.


21

1.6 Kinh nghiệm đầu tư ra nước ngoài của các quốc gia và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam
1.6.1 Kinh nghiệm của Nhật Bản
Hiện tại, Nhật Bản đã tự do hóa hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Tuy
nhiên, nước này thực hiện chính sách mở cửa đầu tư ra nước ngoài theo lộ
trình chắc chắn và có tính toán. Việc tự do hóa đầu tư ra nước ngoài chỉ thực
hiện khi nền kinh tế và các doanh nghiệp Nhật Bản có tiềm lực tài chính

mạnh, quy mô sản xuất tốt và cần mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra bên ngoài
để tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế trong nước.
Mục tiêu chính trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản là tận
dụng tất cả các cơ hội tốt nhất để mở rộng quy mô sản xuất và xuất khẩu hàng
hóa (bao gồm cả xuất khẩu từ trong nước ra, xuất khẩu tại chỗ và xuất khẩu
sang nước thứ ba) của các doanh nghiệp Nhật Bản. Do vậy, các doanh nghiệp
Nhật Bản có chiến lược đầu tư theo từng thời điểm, từng địa bàn, từng đối tác
rất cụ thể và rõ ràng. Sự hỗ trợ của Chính phủ và chiến lược tiếp cận đầu tư ra
nước ngoài của các DN Nhật Bản đều xoay quanh mục tiêu đó.
Nhật Bản cũng lo ngại đầu tư ra nước ngoài làm rỗng nền kinh tế và làm
gia tăng nguy cơ thất nghiệp trong nước. Chính vì thế, Chính phủ Nhật Bản
đã sớm có chính sách khuyến khích các DN Nhật Bản đầu tư ra nước ngoài sử
dụng lao động quản lý là người Nhật Bản. Mặt khác, Nhật Bản có chính sách
phân khúc thị trường thông qua việc thúc đẩy và hỗ trợ DN nghiên cứu, đổi
mới công nghệ, tập trung sản xuất ra các sản phẩm công nghệ cao và có chính
sách đào tạo cho người lao động trong nước để phát triển những ngành công
nghệ mới, sản xuất những sản phẩm công nghệ cao và xuất khẩu.
Cả thời kỳ dài, Nhật Bản dùng chính sách đồng tiền yếu để thúc đẩy xuất
khẩu, tăng nguồn dự trữ ngoại tệ. Khi có đủ lực và đồng Yên mạnh lên so với
USD và một số đồng tiền mạnh khác trên thế giới, Nhật Bản mới thúc đẩy đầu


22

tư ra bên ngoài để mở rộng quy mô hoạt động của doanh nghiệp và duy trì
khả năng xuất khẩu cao. Điều này cho thấy, Chính phủ Nhật Bản đã thành
công trong việc sử dụng chính sách tiền tệ để điều tiết sự dịch chuyển dòng
vốn đầu tư đạt hiệu quả nhất.
Nhật Bản cũng đã hình thành được hệ thống công cụ hỗ trợ các nhà đầu
tư ra nước ngoài rất hiệu quả gồm: xúc tiến tìm kiếm trị trường (thông qua Tổ

chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản - JETRO); hỗ trợ tài chính để triển khai
các dự án đầu tư (thông qua hoạt động của Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật
Bản - JBIC); hỗ trợ phát triển hạ tầng cho nước tiếp nhận đầu tư (thông qua
nguồn viện trợ nước ngoài ODA của Chính phủ Nhật Bản) và hỗ trợ bảo vệ
quyền lợi của nhà đầu tư thông qua quan hệ cấp chính phủ và các hiệp định
song phương, đa phương đã ký kết với các quốc gia trên khắp thế giới.
1.6.2 Kinh nghiệm của Malaysia
Chính phủ nước này luôn khuyến khích các doanh nghiệp kể cả doanh
nghiệp vừa và nhỏ mở rộng ra bên ngoài thông qua sự hỗ trợ của các cơ quan
chuyên trách, các chương trình xúc tiền và các ưu đãi về tài chính, thuế,...
Ngoài ra, chính phủ Malaysia còn thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài. Malaysia còn tác động đến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
doanh nghiệp bằng việc ký kết nhiều hiệp định song phương. Ngoài ra, nước
này thường xuyên mở cửa đối với cả dòng vốn ra lẫn dòng vốn vào và xem
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một phần quan trọng trong chiến lược tăng
cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên,
Malaysia không mở cửa hoàn toàn ngay từ đầu đối với dòng vốn đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài. Ban đầu, chính phủ nước này vẫn cho phép đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài nhưng với một số hạn chế và thúc đẩy vào một số ngành
chiến lược. Trong thời gian tiếp theo, tùy theo tình hình mà chính phủ nới


23

lỏng các quy định và định hướng ngành, nước đầu tư có lợi cho doanh nghiệp
nhưng vẫn phù hợp với chiến lược phát triển của đất nước.
1.6.3 Kinh nghiệm của Thái Lan
Chính phủ Thái Lan đã có nhiều chính sách thúc đẩy các doanh nghiệp
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Các công ty đầu tư hầu hết ở các lĩnh vực: dệt
may, nhà hàng, xây dừng thủy điện, máy móc nông nghiệp,... Tuy nhiên, vấn

đề mà doanh nghiệp Thái Lan muốn là giảm những rắc rối khi chuyển tiền ra
khỏi nước. Các nhà đầu tư Thái Lan cho rằng, trong hoạt động đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài trong những năm qua còn gặp những khó khăn, trở ngại, như
chậm trễ trong đàm phán đi đến ký kết các hạng mục đầu tư, cơ sở hạ tầng
của nước nhận đầu tư còn yếu kém, đặc biệt là chế độ quản lý ngoại tệ nghiêm
ngặt của một số quốc gia đã làm cho đối tác Thái Lan gặp nhiều khó khăn khi
chuyển ngoại tệ ra nước ngoài.
1.6.4 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Từ những kinh nghiệm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản,
Malaysia và Thái Lan, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
như sau:
Thứ nhất, Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi, xây dựng hành lang
pháp lý rõ ràng, minh bạch, theo hướng đơn giản hóa nhằm tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp có thể nhanh chóng tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài,
tận dụng được cơ hội đầu tư.
Thứ hai, Chính phủ cần phải linh hoạt trong việc thực hiện các mục tiêu
khuyến khích xuất khẩu hay thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Cần duy
trì một chính sách tỷ giá hợp lý, đảm bảo giá trị đồng nội tệ để khuyến khích
các doanh nghiệp xuất khẩu vốn.


24

Thứ ba, Chính phủ cần chú trọng khâu đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân
lực. Cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam trong khâu đào tạo người lao
động. Mặt khác, Chính phủ cần có chế độ đãi ngộ hợp lý, tạo động lực cho
người lao động tích cực tham gia lao động tại nước ngoài.
Thứ tư, chính phủ cần có cơ chế khuyến khích, tạo điều kiện để phát huy
vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong việc thực hiện đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài. Các doanh nghiệp cần phải được tạo cơ hội bình đẳng

trong việc cấp phép, triển khai dự án và các hoạt động liên quan khác như
thực hiện nghĩa vụ thuế, xúc tiến đầu tư…
Thứ năm, bản thân các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần không ngừng
tăng cường nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Bằng cách nâng cao sức
mạnh tài chính, trình độ khoa học công nghệ, trình độ nguồn nhân lực nhằm
mở rộng thị trường, tận dụng những lợi thế có sẵn, nhất là sự ưu đãi đặc biệt
của chính phủ nước bạn dành cho các doanh nghiệp Việt Nam để tìm cách
khai thác các nguồn lực mới.


25

CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA VIỆT NAM SANG LÀO
2.1 Khái quát về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
2.1.1 Cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Việt Nam khuyến khích nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước
ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng xuất khẩu
hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng
lực quản lý và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Ngày 1/7/2015, Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 đã bắt đầu có hiệu lực,
thay thế cho Luật Đầu tư 2005 và nghị định 78/2006/NĐ-CP. Trong Luật đầu
tư 2014, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được quy định tại chương V (từ điều
51 đến 66), tạo môi trường thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam
muốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Căn cứ vào Luật đầu tư 2014, ngày
25/09/2015 Thủ tướng chính phủ đã ký quyết định ban hành nghị định số
83/2015/NĐ-CP quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Nghị định này
bao gồm 6 chương và 41 điều quy định chi tiết về hoạt động đầu tư ra nước
ngoài, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước
ngoài, góp phần mở rộng và nâng cao hiệu quả của hợp tác kinh tế, kỹ thuật,

thương mại với nước ngoài.
Ngoài ra, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn được quy định tại Thông tư
09/2015/TT-BKHĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về các mẫu các văn bản
thực hiện thủ tục đầu tư trực tiếp ra nước ngoài áp dụng với các tổ chức, cá
nhân liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài, Quyết định 236/QĐ-TTg
ngày 20/02/2009 của Thủ tướng phê duyệt Đề án “Thúc đẩy đầu tư của Việt
Nam ra nước ngoài”.


×