Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN - KCX - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.97 KB, 86 trang )

Lời nói đầu
Thành lập khu vực tập trung để thu hút vốn, khuyến khích sản xuất và các
dịch vụ sản xuất, phục vụ xuất khẩu và thị trờng trong nớc với những u đãi đặc
biệt đang là sự quan tâm của nhiều nớc trên thế giới. Trong gần 4 thập kỷ qua,
các nớc đang phát triển, nhất là các nớc Châu á đã thu đợc những kết quả nhất
định trong việc áp dụng mô hình kinh tế này nh là những thực thể kinh tế năng
động nhất, phản ánh những biện pháp kinh tế đặc biệt nhằm tăng cờng xu thế h-
ớng ngoại đẩy mạnh tăng trởng kinh tế, phát triển quá trình quốc tế hoá, khu
vực hoá kinh tế.
ở Việt Nam, sau khi Nhà nớc ban hành Luật Đầu t nớc ngoài, hoạt động đầu
t trực tiếp nớc ngoài đã thu đợc những kết quả quan trọng trong việc thu hút vốn
đầu t, tạo công ăn việc làm, gia tăng nguồn hàng xuất khẩu... góp phần tích cực
thực hiện chiến lợc kinh tế- xã hội của đất nớc. Là một bộ phận của hoạt động
đầu t trực tiếp, các khu công nghiệp, khu chế xuất đợc thành lập ở nớc ta đang
trở thành mô hình tổ chức kinh tế linh động, gắn kinh tế ngành với kinh tế lãnh
thổ, là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo ra
bớc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất n-
ớc.
Thời gian vừa qua, tình hình kinh tế- chính trị trên thế giới biến động đã
gây ảnh hởng rất lớn tới sự vận động của dòng đầu t trực tiếp, trong khi các khu
công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam cũng không ngừng thay đổi. Vì vậy, đầu
t trực tiếp nớc ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất, vốn là nội dung hoạt
động quan trọng nhất, quyết định sự thành công hay thất bại của các khu trong
hoàn cảnh đầu t trong nớc còn hạn hẹp, trở nên rất phức tạp. Đồng thời, đặt ra
một câu hỏi cần đợc quan tâm và giải đáp: làm thế nào để thu hút ngày càng
1
mạnh mẽ đầu t trực tiếp nớc ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế xuất đã đ-
ợc thành lập?
Để góp phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất, sau
một thời gian nghiên cứu, ngời viết mạnh dạn chọn đề tài:" Đầu t trực tiếp nớc


ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất - Thực trạng và giải pháp" để viết
khoá luận tốt nghiệp với hy vọng khoá luận sẽ phần nào có ích cho những ngời
quan tâm.
Khoá luận không đề cập đến hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài trong một
hay một vài khu cụ thể, mà xem xét, đánh giá hoạt động này một cách tổng thể
trên toàn bộ các khu trong khoảng thời gian gần mời năm trở lại đây, kể từ khi
khu chế xuất đầu tiên đợc thành lập cho đến thời điểm hiện tại.
Trong khi nghiên cứu vấn đề, khoá luận đã sử dụng phơng pháp duy vật
biện chứng, đi từ những nội dung có tính chất lý luận đến các vấn đề thực tiễn,
trên cơ sở đó đa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện vấn đề đang nghiên cứu.
Ngoài ra, các phơng pháp so sánh, phân tích tổng hợp, lấy ví dụ... cũng đợc sử
dụng để làm nổi bật vấn đề.
Khoá luận đợc trình bày với kết cấu gồm 3 chơng:
Chơng I: Tổng quan về khu công nghiệp, khu chế xuất - Đầu t trực tiếp nớc
ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất.
Chơng II: Thực trạng đầu t trực tiếp nớc ngoài vào khu công nghiệp, khu chế
xuất ở Việt Nam trong thời gian qua.
Chơng III: Giải pháp tăng cờng thu hút đầu t trực tiếp nớc ngoài vào khu
công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam.
Bản khoá luận này đợc hoàn thành với sự giúp đỡ, hớng dẫn và chỉ bảo tận
tình của các chuyên gia Vụ Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam,
TS Vũ Chí Lộc. Ngời viết xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với sự chỉ bảo
2
tận tình và những ý kiến đóng góp của các Thầy, đã giúp đỡ ngời viết hoàn tất
đề tài trong thời gian vừa qua.
Khoá luận đã đề cập đến một vấn đề khá lớn và tơng đối phức tạp, đòi hỏi
nhiều thời gian và kinh nghiệm thực tiễn. Do điều kiện thời gian nghiên cứu cha
nhiều, khả năng có hạn nên khoá luận khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất
mong nhận đợc sự đóng góp ý kiến và chỉ dẫn của thầy, cô giáo và những ngời
có quan tâm đến vấn đề này.

Hà Nội, tháng 12 năm 2000.
Nguyễn Hoàng Hải.
3
Chơng I:
Tổng quan về Khu Công Nghiệp, Khu Chế Xuất -
Đầu t trực tiếp nớc ngoài vào KCN, KCX
I. Vài nét về khu công nghiệp, khu chế xuất.
1. Khái niệm:
1.1 Khu chế xuất:
a. Cơ sở lí luận:
Sự hình thành và phát triển khu chế xuất trên thế giới xuất phát từ những
thay đổi trong môi trờng kinh tế- kĩ thuật của nền kinh tế toàn cầu sau chiến
tranh thế giới lần thứ II, và nhất là trong thập kỉ 60.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, sự phát triển nhanh chóng của các nớc
công nghiệp phát triển gặp phải những khó khăn gay gắt về nguồn nhân công
tiền công thấp ở trong nớc và nguồn nguyên liệu cho công nghiệp vốn trớc đây
đợc tớc đoạt một cách tự do từ các nớc thuộc địa, nay đã giành đợc độc lập. Mặt
khác, do trình độ công nghệ còn bị hạn chế, nền kĩ thuật tự động hoá cha đủ sức
giải quyết đợc những khó khăn này của các nớc phát triển.
Trong khi đó, các nớc đang phát triển vừa mới thoát ra khỏi ách đô hộ
thực dân của chủ nghĩa đế quốc lại rơi vào tình trạng khó khăn trong phát triển
kinh tế, thất nghiệp gia tăng, thiếu vốn đầu t và ngoại tệ để khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên, xây dựng nền kinh tế dân tộc. Mặt khác, do thiếu vốn, thiếu
kĩ thuật công nghệ tiên tiến, thiếu cán bộ quản lí và công nhân lành nghề có
trình độ cao nên các nớc đang phát triển khó có điều kiện kiến tạo đầy đủ ngay
một lúc trên phạm vi cả nớc những điều kiện và yếu tố để có đợc những sản
phẩm công nghiệp chế tạo đủ sức cạnh tranh trên thị trờng thế giới.
ở đây có điểm gặp nhau về nhu cầu phát triển kinh tế của các nớc phát
triển và các nớc đang phát triển. Sự thôi thúc tìm kiếm nguồn nhân công giá rẻ
và nguyên liệu đã thúc đẩy các nớc phát triển di chuyển các cơ sở sản xuất công

nghiệp dùng nhiều lao động, tài nguyên ra nớc ngoài, đến gần các nguồn lực đó.
4
Còn các nớc đang phát triển, thấy đợc lợi thế và hạn chế của mình, đã cố gắng
tạo ra một môi trờng kinh tế thích hợp để thu hút đầu t từ bên ngoài nhằm giải
quyết những bế tắc kinh tế của mình và thực hiện chiến lợc công nghiệp hoá h-
ớng về xuất khẩu.
Khu chế xuất đợc thành lập trên cơ sở kiến tạo những điều kiện, yếu tố
thuận lợi về pháp lý và kĩ thuật hạ tầng trên một địa bàn hạn chế phù hợp với
khả năng về tài chính, quản lý; là một sách lợc khôn khéo, linh hoạt và rất có ý
nghĩa cả về phơng diện vận dụng t duy lý thuyết kinh tế vào thực tiễn các quan
hệ kinh tế quốc tế của các nớc đang phát triển.
Khu chế xuất cũng chính là hình thức tạo ra những điều kiện để có thể lợi
dụng và phát huy nhanh chóng các lợi thế so sánh của một nớc hay một vùng
bằng cách tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế. Rõ ràng, xét về
mặt lợi ích và hiệu quả theo nguyên lý của lí thuyết lợi thế so sánh, khu chế
xuất là nơi hội tụ về quyền lợi của các nớc đang phát triển và các công ty xuyên
quốc gia, ngời nắm giữ phần lớn nguồn đầu t trực tiếp của nớc ngoài hiện nay
trên thế giới.
b. Định nghĩa:
Với tính chất là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, đứng ngoài chế độ
mậu dịch và thuế quan của một nớc, ngày nay có nhiều cách hiểu khác nhau về
khu chế xuất, và do đó, có nhiều định nghĩa khác nhau về mô hình kinh tế này.
- Định nghĩa của Hiệp hội các khu chế xuất thế giới( WEPZA):
Theo điều lệ hoạt động của WEPZA, khu chế xuất bao gồm tất cả các
khu vực đợc Chính phủ các nớc cho phép nh cảng tự do, khu mậu dịch tự do,
khu công nghiệp tự do hoặc bất kì khu vực ngoại thơng hoặc khu vực khác đợc
WEPZA công nhận. Định nghĩa này về cơ bản đồng nhất khu chế xuất với khu
vực miễn thuế. Theo định nghĩa này, có thể xếp Hồng Kông và Singapo vào các
khu chế xuất.
- Định nghĩa của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc( UNIDO):

5
Theo UNIDO, khu chế xuất là "khu vực đợc giới hạn về hành chính, có
khi về địa lý, đợc hởng một chế độ thuế quan cho phép tự do nhập khẩu trang bị
và sản phẩm nhằm mục đích sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Chế độ thuế quan đ-
ợc ban hành cùng với những qui định luật pháp u đãi, chủ yếu về thuế nhằm thu
hút đầu t nớc ngoài." Khái niệm khu chế xuất bao hàm viêc thành lập các nhà
máy hiện đại trong một khu công nghệp và một loạt những u đãi nhằm khuyến
khích việc đầu t của các nhà kinh doanh nớc ngoài vào nớc sở tại. Với định
nghĩa hẹp nói trên của UNIDO, về bản chất hoạt động kinh tế khu chế xuất
khác với khu mậu dịch tự do, cảng tự do. Bởi hoạt động chính trong khu chế
xuất là sản xuất công nghiệp, mặc dù trên thực tế các hoạt động kinh doanh
cũng đợc thực hiện tại một số khu chế xuất.
- Định nghĩa củaViệt Nam:
Theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao- ban
hành kèm theo Nghị định số 36/ CP ngày 24/ 4/ 1997, khu chế xuất là "khu
chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất
khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân c sinh
sống; do Chính phủ hoặc Thủ tớng chính phủ quyết định thành lập. Nh vậy, về
cơ bản, khu chế xuất ở Việt Nam cũng đợc hiểu theo nh định nghĩa hẹp của
UNIDO.
1.2 Khu công nghiệp:
a. Khu công nghiệp- sự cải biên cần thiết của khu chế xuất cổ điển.
- Hạn chế của mô hình khu chế xuất cổ điển:
Có thể thấy rằng, khu chế xuất là một trong những công cụ hành chính để
tạo ra thể chế thơng mại tự do cho các nghành công nghiệp chế biến xuất khẩu.
Sự thành công của các khu chế xuất, đặc biệt là ở các nớc Châu á nh Đài Loan,
Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Malaixia, đặc khu kinh tế Trung Quốc...
trong hơn 3 thập kỉ qua đã đóng góp tích cực vào trào lu phổ thông hoá công cụ
thúc đẩy xuất khẩu này.
Theo các chuyên gia kinh tế, sở dĩ khu chế xuất đợc thành lập nhiều và

thu đợc nhiều thành công lớn ở các nớc Châu á, vì đây là khu vực có lực lợng
6
lao động dồi dào, giá nhân công thấp, lại nằm trên các tuyến đờng hàng hải nối
liền các cảng và trung tâm thơng mại sôi động vào bậc nhất thế giới. Các khu
chế xuất châu á chiếm gần 70% số lao động trong các khu chế xuất trên toàn
thế giới và tuy chỉ chiếm một phần nhỏ lợng xuất khẩu của một nớc, nhng tổng
kim nghạch xuất khẩu của Đài Loan, Hàn Quốc, Malaixia gộp lại chiếm 80% l-
ợng xuất khẩu của các khu chế xuất trên thế giới.
Song sự thành công của những nớc nói trên với các khu chế xuất thực sự
rất khó lặp lại ở các nớc đang phát triển khác.Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
điều này:
+ Một là, có quá nhiều khu chế xuất đợc thành lập ở các nớc, tạo nên thị
trờng d thừa khu chế xuất tập trung với một mật độ cao trong một khu vực có
nhiều điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý giống nhau. Tình trạng đó dẫn đến sự
cạnh tranh gay gắt thu hút vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài giữa các khu chế xuất,
buộc các nớc này phải có nhiều nhân nhợng lớn hơn về tài chính và các yếu tố
sản xuất khác, trong khi cha tạo đợc môi trờng kinh doanh u đãi và cơ sở hạ
tầng tốt cho đầu t.
+ Hai là, khi thành lập các khu chế xuất, ngoài mục tiêu xuất khẩu, các
nớc đều hi vọng sẽ tạo đợc nhiều công ăn việc làm, lợi dụng đợc kĩ thuật nớc
ngoài, tạo mối liên kết và cung cấp đầu vào cho nền kinh tế bản địa. Trên thực
tế, các mục tiêu này của khu chế xuất rất khó thực hiện. Theo báo cáo của Ngân
hàng thế giới khả năng tạo việc làm, chuyển giao công nghệ và tạo mối liên kết
với các cơ sở sản xuất trong nớc của các khu chế xuất là rất hạn chế, trong khi
đó, đóng góp của các khu chế xuất trong tổng kim nghạch xuất khẩu các nớc
cũng rất khiêm tốn, chỉ ở mức 4-5%.
+ Ba là, do yêu cầu tăng xuất khẩu hàng hoá và nguồn thu ngoại tệ về
cho đất nớc, đồng thời phải bảo hộ nền sản xuất trong nớc, nên các nớc đều
buộc xí nghiệp khu chế xuất phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra thị trờng thế
giới. Chính vì vậy nên khu chế xuất thờng đợc bố trí là một khu vực lãnh thổ

khép kín, có hàng rào bao quanh để thuận tiện cho quản lý hải quan.
7
Chính yêu cầu xuất khẩu đặt các nhà đầu t trong khu chế xuất trớc những
khó khăn trong việc tìm kiếm thị trờng xuất khẩu sản phẩm của khu chế xuất
vốn có nhiều loại tơng đồng, với đặc trng chung là hàng công nghiệp nhẹ và
công nghiệp điện tử. Trong khi đó thị trờng trong nớc có dung lợng lớn và là
điểm hi vọng của các nhà đầu t thì hầu nh bị khép lại trớc các xí nghiệp khu chế
xuất. Hơn nữa, việc không cho tiêu thụ hàng hoá của các khu chế xuất, mà chủ
yếu là của các công ty nớc ngoài trên thị trờng nội địa, không tạo nên môi trờng
kinh doanh có tính cạnh tranh cao giữa các loại sản phẩm - yếu tố chính để đa
dạng hoá và nâng cao chất lợng hàng sản xuất trong nớc. Điều đó có tác động
tiêu cực đối với khả năng tăng năng lực xuất khẩu của đất nớc nói chung.
Có thể thấy nguyên tắc "mở ngoài, đóng trong" đối với các khu chế xuất
có thể làm chậm tiến trình cải cách thơng mại cần thiết trên phạm vi cả nớc,
không còn thích hợp với quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế và nhu cầu đầu t phát
triển trong nớc giai đoạn mới. vì vậy, để khắc phục những hạn chế trên đây của
mô hình khu chế xuất cổ điển, nhiều nớc đã chuyển sang phát triển mô hình
kinh tế uyển chuyển, năng động hơn, trong đó thị trờng trong nớc đợc tính đến
nh một yếu tố hấp dẫn đối với các nhà đầu t nớc ngoài, đó chính là khu công
nghiệp tập trung.
Khu công nghiệp - mô hình kinh tế khắc phục những hạn chế của mô
hình khu chế xuất cổ điển.
Khu công nghiệp là mô hình kinh tế linh hoạt hơn do các nhà đầu t nớc
ngoài - đối tợng đầu t chủ yếu vào khu công nghiệp - tận dụng đợc thị trờng nội
địa nh một yếu tố hấp dẫn đối với hàng hoá của doanh nghiệp trong khu. Đây là
vấn đề hết sức quan trọng, thực sự thu hút các nhà đầu t nớc ngoài vì đối với họ
thị trờng nội địa còn là một thị trờng mới, có dung lợng lớn, trong khi đó thị tr-
ờng thế giới đã trở nên bão hoà đối với các loại sản phẩm của các doanh nghiệp
khu công nghiệp vốn giống nhau cả về chủng loại và chất lợng.
Hơn nữa, việc mở cửa thị trờng nội địa cũng phù hợp với xu hớng tự do

hoá mậu dịch trên thế giới và khu vực... Việc tiêu thụ hàng hoá của các doanh
nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài nói chung và doanh nghiệp khu công nghiệp nói
8
riêng tại thị trờng trong nớc góp phần tích cực đẩy lùi và ngăn chặn hàng nhập
lậu từ bên ngoài tràn vào , đây cũng là yếu tố kích thích cạnh tranh, nâng cao
chất lợng hàng sản xuất trong nớc, từ đó nâng cao khả năng xuất khẩu hàng hoá
ra thị trờng thế giới.
Do không bị sức ép phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra nớc ngoài, khu
công nghiệp có thể đợc các nhà đầu t trong nớc quan tâm do có môi trờng và
điều kiện kinh doanh dễ dàng hơn so với khu chế xuất.
b. Định nghĩa:
Tuỳ điều kiện từng nớc mà Khu công nghiệp có những nội dung hoạt
động kinh tế khác nhau. Nhng tựu trung lại, hiện nay trên thế giới có hai mô
hình phát triển Khu công nghiệp, cũng từ đó hình thành hai định nghĩa khác
nhau về khu công nghiệp.
- Định nghĩa 1:
Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công
nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công
nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thơng mại, văn phòng, nhà ở...
Khu công nghiệp theo quan niệm này về thực chất là khu hành chính - kinh tế
đặc biệt nh khu công nghiệp Batam Indonesia, các công viên công nghiêp ở Đài
Loan, Thái Lan và một số nớc Tây Âu.
- Định nghĩa 2:
Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập
trung các doanh nghiệp công nghệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có
dân c sinh sống. Đi theo quan niệm này, ở một số nớc nh Malaixia, Indonesia,
Thái Lan, Đài Loan đã hình thành nhiều khu công nghiệp với qui mô khác
nhau.
- Định nghĩa của Việt Nam:
Theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao - ban

hành kèm theo Nghị định số 36/ CP ngày 24/ 4/ 1997, khu công nghiệp là "khu
tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp
và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định,
9
kông có dân c sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tớng chính phủ quyết định
thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất". Nh vậy,
khu công nghiệp ở Việt Nam đợc hiểu giống với định nghĩa hai.
1.3 Sự giống và khác nhau giữa KCN, KCX:
a. Giống nhau:
- Một là, qui mô khu chế xuất và khu công nghiệp gần nh nhau, khoảng một
vài trăm ha. Thí dụ diện tích khu chế xuất Tân Thuận là 300 ha, khu chế xuất
Linh Trung là 60 ha, khu chế xuất Hải Phòng là 100 ha; diện tích khu công
nghiệp Biên Hoà là 365 ha, khu công nghiệp Nội Bài là 100 ha, khu công
nghiệp Sài Đồng là 97 ha...
- Hai là, các doanh nghiệp trong khu chế xuất và khu công nghiệp chủ yếu có
qui mô vừa và nhỏ, thờng dới 5 triệu đôla, với số lao động khoảng từ 300 đến
400 ngời. Những ngành nghề đặc trng trong khu chế xuất và khu công nghiệp
là: điện tử, sợi dệt, may mặc, chế biến thực phẩm, hàng tiêu dùng, cơ khí chế
tạo, các ngành không gây ô nhiễm môi trờng hoặc gây ô nhiễm ít có thể xử lí
bằng các biện pháp và phơng tiện trong khu...
- Ba là, đối tợng đầu t trong khu chế xuất và khu công nghiệp là các tổ chức
kinh tế và cá nhân Việt Nam, ngời Việt Nam định c ở nớc ngoài và ngời nớc
ngoài c trú lâu dài ở Việt Nam, các tổ chức kinh tế và cá nhân ở nớc ngoài.
- Bốn là, về hình thức đầu t, trong khu chế xuất và khu công nghiệp đợc thành
lập doanh nghiệp 100% vốn của nhà đầu t, doanh nghiệp liên doanh, hợp tác
kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Năm là, để xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu chế xuất và khu công
nghiệp, có thể dùng phơng thức trong nớc tự đầu t hoặc kêu gọi đầu t trực tiếp
của nớc ngoài theo hình thức doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100%
vốn nớc ngoài.

- Sáu là, để quản lí Nhà nớc đối với khu chế xuất và khu công nghiệp, Thủ t-
ớng Chính phủ thành lập Ban quản lí. Ban quản lí khu chế xuất và khu công
nghiệp là cơ quan thực hiện dịch vụ quản lí "một cửa" cho các nhà đầu t.
b. Khác nhau:
10
- Thứ nhất, về mục tiêu hoạt động, doanh nghiệp khu chế xuất phải xuất khẩu
toàn bộ sản phẩm ra thị trờng ngoài nớc, còn doanh nghiệp khu công nghiệp đ-
ợc tiêu thụ sản phẩm tại thị trờng trong nớc và xuất khẩu.
- Thứ hai, do xuất phát từ mục tiêu khác nhau, nên có một số điều kiện u đãi
dành cho các doanh nghiệp trong khu chế xuất và khu công nghiệp cũng khác
nhau.
Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu t nớc ngoài ban hành vào
tháng 7 năm 2000 và Nghị định số 24/ 2000/ NĐ- CP ngày 31 tháng 7 năm
2000 qui định chi tiết thi hành Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt Nam, điều kiện u
đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp dành cho doanh nghiệp khu công nghiệp và
doanh nghiệp khu chế xuất nh sau:
+ đối với doanh nghiệp khu chế xuất, bất kể là của chủ đầu t trong hay
ngoài nớc đều đợc hởng mức u đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cao và nh
nhau, doanh nghiệp sản xuất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10%, đợc miễn 4
năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo; doanh
nghiệp dịch vụ thuế thu nhập doanh nghiệp là 15%, đợc miễn 2 năm kể từ khi
kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo.
+ đối với doanh nghiệp khu công nghiệp, doanh nghiệp sản xuất thuế thu
nhập doanh nghiệp là 10% (với điều kiện xuất khẩu từ 80% sản phẩm trở lên) đ-
ợc miễn 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo,
là 15% (với điều kiện xuất khẩu trên 50% sản phẩm) đợc miễn 2 năm kể từ khi
kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo; doanh nghiệp dịch vụ
thuế thu nhập doanh nghiệp là 20%, đợc miễn 1 năm kể từ khi kinh doanh có lãi
và giảm 50% trong 2 năm tiếp theo.
2. Mục tiêu và đặc điểm của khu công nghiệp, khu chế xuất:

2.1 Mục tiêu:
Sự hình thành và phát triển của các khu công nghiệp, khu chế xuất trên
thế giới gắn liền với những mục tiêu của các nớc thành lập khu công nghiệp,
khu chế xuất và những mục tiêu của nhà đầu t nớc ngoài.
11
2.1.1 Mục tiêu của nhà đầu t n ớc ngoài:
- Giảm chi phí sản xuất sản phẩm bằng cách tận dụng các yếu tố sản xuất rẻ ở
các nớc đang phát triển.
Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế các nớc phát triển, nhất là từ
đầu những năm 60, đã vấp phải khó khăn về nguồn lao động ở các nớc đó. Khi
tại các nớc này, nguồn nhân công tiền công thấp ngày càng khan hiếm, giá lao
động, chi phí bảo hiểm xã hội ngày một tăng, đã thúc đẩy các công ty xuyên
quốc gia nhanh chóng quyết định chuyển các ngành công nghiệp có hàm lợng
lao động sống cao sang các nớc đang phát triển. Thêm vào đó, do giá đất ngày
càng cao, sự phát triển của các ngành dùng nhiều nguyên liệu, công nghiệp tiêu
chuẩn hóa nh cơ khí chế tạo, sản xuất cấu kiện... không đòi hỏi trình độ công
nghệ cao tại các nớc t bản phát triển tỏ ra không còn hiệu quả do các khoản chi
phí vận chuyển nguyên liệu nhập khẩu từ bên ngoài ngày càng tăng, làm giảm
khả năng cạnh tranh của họ trên thị trờng thế giới. Điều này có thể giúp chúng
ta lí giải vì sao các công ty xuyên quốc gia lại thờng đầu t vào những ngành
công nghiệp nhẹ, chế biến, lắp ráp nh dệt, may mặc, điện tử, sản xuất kim khí ở
các khu công nghiệp, khu chế xuất của các nớc đang phát triển.
- Tránh hàng rào thuế quan do chính sách bảo hộ mậu dịch của các nớc đang
phát triển, tận dụng các chính sách u đãi về tài chính, nhất là về thuế và các u
đãi khác của các nớc này nhằm tăng cờng lợi ích của các công ty xuyên quốc
gia.
- Bảo vệ môi trờng của các nớc phát triển.
Sự phát triển ồ ạt các ngành công nghiệp, nhất là các ngành công nghiệp
nhiều phế thải đã gây nên tình trạng ô nhiễm môi trờng không kiểm soát nổi ở
các nớc phát triển, làm cho chi phí bảo vệ môi trờng ngày càng tăng. Xu hớng

chung của các công ty xuyên quốc gia là muốn chuyển các ngành công nghiệp
này sang các nớc đang phát triển để bảo vệ môi trờng nớc họ và giảm chi phí
sản xuất.
- Tạo địa bàn hoạt động và thực hiện chiến lợc phát triển lâu dài.
12
Khi đầu t ra nớc ngoài, trong đó có đầu t vào khu công nghiệp, khu chế xuất,
các công ty t bản nớc ngoài muốn mở rộng địa bàn hoạt động, tạo chỗ đứng,
chuẩn bị cho những bớc đi lâu dài trong chiến lợc phát triển của họ. Đầu t của
các nớc phơng Tây, Nhật Bản, Đài Loan và Hồng Kông vào Trung Quốc là điển
hình của xu hớng đó.
2.1.2 Mục tiêu của các n ớc thành lập:
Trong khi các công ty t bản nớc ngoài tìm kiếm lợi ích của mình thông
qua các động cơ không cần che giấu đó, thì các nớc tiếp nhận đầu t cũng cố
gắng đạt đợc những mục tiêu chiến lợc của mình thông qua việc thành lập các
khu công nghiệp, khu chế xuất. ở đây khó có thể đề cập đến mục tiêu của từng
nớc đang phát triển, bởi lẽ mỗi nớc trong mỗi khu vực có những điều kiện và
mục tiêu phát triển kinh tế riêng. Song nếu phân tích từ giác độ vĩ mô, có thể
tóm lại mục tiêu cơ bản và thống nhất của các nớc này nh sau:
- Thu hút vốn đầu t nớc ngoài.
Đây là mục tiêu quan trọng nhất của khu công nghiệp, khu chế xuất. Với
tính chất là "vùng lãnh thổ" hoạt động theo một qui chế riêng trong môi trờng
đầu t chung của cả nớc, khu công nghiệp, khu chế xuất trở thành công cụ hữu
hiệu thu hút đầu t trực tiếp nớc ngoài để mở mang hoạt động sản xuất kinh
doanh trong khu và đạt tới tốc độ tăng trởng kinh tế chung của cả nền kinh tế.
Các nớc chủ nhà, trong nhiều trờng hợp, đã thông qua khu công nghiệp,
khu chế xuất nh một cầu nối trung gian để thu hút vốn đầu t nớc ngoài vào các
phần lãnh thổ còn lại của đất nớc.
- Mở rộng hoạt động ngoại thơng.
Thông qua việc thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất, nớc chủ nhà
muốn đẩy mạnh hoạt đông ngoại thơng với các nớc.

Sau khi giành đợc độc lập sau chiến tranh thế giới lần thứ II, nhiều nớc đang
phát triển ở Châu á - Thái Bình Dơng muốn đẩy mạnh công nghiệp hoá, xây
dựng nền kinh tế độc lập của mình. Họ vấp phải khó khăn không thể vợt qua do
thiếu nguồn ngoại tệ. Thành lập khu chế xuất để tăng nhanh xuất khẩu hàng hoá
và thu ngoại tệ là con đờng mà nhiều nớc theo đuổi.
13
Những nớc xa nay vốn dựa vào hoạt động xuất khẩu và chuyển khẩu để phát
triển kinh tế nh Singapo, Hồng Kông thờng thông qua việc mở khu chế xuất,
bảo đảm những biện pháp quản lý đặc biệt và điều kiện u đãi nhằm thu hút ph-
ơng tiện và nguồn hàng các nớc đến để thực hiện dịch vụ xuất khẩu và chuyển
khẩu.
Đối với nớc đang phát triển khác, việc lập ra các khu công nghiệp, khu chế
xuất để thu hút vốn đầu t và kĩ thuật tiên tiến của nớc ngoài, mở rộng công
nghiệp xuất khẩu, từ đó tạo ra những mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn là điều
quan tâm nhất. Theo hớng này, ở nhiều nớc Châu á - Thái Bình Dơng, xuất
khẩu hàng công nghiệp sản xuất ở khu công nghiệp, khu chế xuất chiếm tỉ
trọng đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu ở các nớc đó.
- Tạo công ăn việc làm.
Khuyến khích toàn dụng lao động là một trong những mục tiêu quan trọng
của các nớc đang phát triển. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, sự bùng nổ dân
số và tình trạng thất nghiệp đã làm cho bức tranh kinh tế của các nớc này càng
trở nên ảm đạm. Trong khi các nớc mới dành đợc độc lập d thừa sức lao động
thì tình trạng thiếu nguồn lao động, đặc biệt là lao động tiền công thấp ở các n-
ớc t bản phát triển đặt các nớc này trớc sự lựa chọn sử dụng nguồn lao động dồi
dào trong đội quân thất nghiệp khổng lồ ở các nớc đang phát triển.
Mở mang khu công nghiệp, khu chế xuất để tạo ra nhiều hơn chỗ làm việc
là mục tiêu chung của các nớc đang phát triển. Thực tiễn cho thấy, khu công
nghiệp, khu chế xuất là công cụ hữu hiệu thực hiện chiến lựoc lâu dài về toàn
dụng lao động ở các nớc đó.
- Du nhập kĩ thuật, công nghệ tiên tiến và học tập kinh nghiệm quản lý của các

công ty t bản nớc ngoài.
Vào những năm của thập kỷ 70 và 80, để tránh bị tụt hậu về kinh té, đặc
biệt là trong sản xuất công nghiệp và tăng sức cạnh tranh hàng xuất khẩu trên
thị trờng thế giới, các nớc đang phát triển muốn mau chóng phát triển khoa học
kĩ thuật của mình, nâng cao trình độ quản lý kinh tế đất nớc. Xây dựng khu
công nghiệp, khu chế xuất để thu hút vốn đầu t nớc ngoài, từ đó tạo điều kiện
14
nhập khẩu kĩ thuật, công nghệ của các công ty t bản nớc ngoài, học tập kinh
nghiệm quản lý kinh tế của họ là biện pháp hữu hiệu mà nhiều nớc từng áp
dụng.
ở Đài Loan, khi xây dựng khu chế xuất Cao Hùng, thu hút các bí quyết kĩ
thuật hiện đại trong các ngành điện tử, sản xuất hàng tiêu dùng là nhiệm vụ
trọng tâm đợc đặt lên hàng đầu. Phát triển hợp tác và trao đổi kĩ thuật phục vụ
cho công cuộc bốn hiện đại hoá là mục tiêu luôn đợc quan tâm của Trung Quốc,
đặc biệt ở các đặc khu kinh tế đợc thành lập trong những năm cuối thập kỷ 70
đầu thập kỷ 80 và các khu khai phát, khu công nghiệp kỹ thuật cao đợc thành
lập trong những năm gần đây.
- Làm cầu nối hội nhập nền kinh tế trong nớc với kinh tế thế giới, thúc đẩy sự
phát triển kinh tế trong nớc.
Trớc hết, hàng tiêu dùng từ các khu công nghiệp cung cấp cho thị trờng
nội địa ở thành thị và nông thôn đủ sức cạnh tranh và ngăn chặn hàng nhập lậu
từ nớc ngoài, đồng thời góp phần tăng sản xuất hàng xuất khẩu. Còn khu chế
xuất, với tính chất là khu vực sản xuất hàng xuất khẩu, hoạt động của khu chế
xuất chủ yếu hớng ra thị trờng thế giới. Vì vậy, có thể xem khu công nghiệp,
khu chế xuất nh là một cửa ngõ khai thông nền kinh tế trong nớc với kinh tế khu
vực và thế giới.
Mặt khác, khu công nghiệp, khu chế xuất vốn là một bộ phận cấu thành
của kinh tế trong nớc, tạo nên sức hút với nhà đầu t nớc ngoài. Tạo ra năng lực
sản xuất mới, thu hút lao động trong nớc vào làm việc ở các khu công nghiệp,
khu chế xuất, phát triển mối liên kết với các doanh nghiệp trong nớc nằm ngoài

khu công nghiệp, khu chế xuất thông qua các hợp đồng gia công, cung cấp
nguyên liệu giữa các xí nghiệp này là thực tế diễn ra ở nhiều khu công nghiệp,
khu chế xuất, đặc biệt là các đặc khu kinh tế Trung Quốc, khu công nghiệp, khu
chế xuất ở Hàn Quốc và Đài Loan.
Dù đợc thành lập trong những điều kiện khác nhau, với tính chất và thời
điểm khác nhau, nhng những mục tiêu của khu công nghiệp, khu chế xuất đều
gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế của từng quốc gia. Chính vì vậy, liều l-
15
ợng và tính chất u tiên đối với mục tiêu cụ thể của từng nớc cũng rất khác nhau,
thể hiện qua những u đãi mà Chính phủ các nớc này dành cho khu công nghiệp,
khu chế xuất. Thí dụ, trong khi Đài Loan, Hàn Quốc, Malaixia, Philipin dờng
nh đặt lên hàng đầu mục tiêu xuất khẩu và tạo việc làm, Xrilanca và ấn Độ chú
trọng vào việc thu hút vốn, thì Trung Quốc lại u tiên nhiều hơn cho mục tiêu
thúc đẩy, lôi kéo sự phát triển nền kinh tế khu vực ngoài khu công nghiệp, khu
chế xuất.
ở Việt Nam, thu hút vốn đầu t nớc ngoài, tăng nhanh xuất khẩu để có thu
nhập ngoại tệ, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, tạo
công ăn việc làm cho ngời lao động là nhiệm vụ quan trọng nhất của hoạt động
đầu t trực tiếp. Việc thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam là
biện pháp tích cực để thực hiện mục tiêu chiến lợc đó.
Song để có các khu công nghiệp, khu chế xuất thành công, điều cơ bản của
các nớc chủ nhà là phải gắn mục tiêu của các khu với mục tiêu của các công ty
xuyên quốc gia - đối tợng đầu t chủ yếu của các khu. Nói cách khác hai bên
phải tìm đợc điểm gặp nhau, đó chính là lợi ích của các bên mà khu công
nghiệp, khu chế xuất là công cụ thực hiện. Lợi ích đó chỉ có thể đạt đợc trong
môi trờng đầu t do các nớc chủ nhà tạo ra để sẵn sàng đón nhận đầu t của các
công ty xuyên quốc gia.
2.2 Đặc điểm:
Các khu công nghiệp, khu chế xuất đều là công cụ thu hút vốn đầu t trực
tiếp nớc ngoài để tạo ra những năng lực sản xuất mới, hiện đại đáp ứng nhu cầu

về hàng hoá của thị trờng trong nớc và thế giới. Với cơ cấu đợc hình thành trên
cơ sở kĩ thuật và công nghệ tiên tiến, khu công nghiệp, khu chế xuất bao gồm
những đặc điểm sau:
- Thứ nhất, trong khu chế xuất và khu công nghiệp đợc thành lập các doanh
nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp (đối với khu công nghiệp) hàng xuất
khẩu (đối với khu chế xuất), và các doanh nghiệp thực hiện các dịch vụ cho sản
xuất công nghiệp (đối với khu công nghiệp) cho sản xuất hàng xuất khẩu và
hoạt động xuất khẩu (đối với khu chế xuất), là những doanh nghiệp cơ bản đáp
16
ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
- Thứ hai, việc hình thành khu chế xuất và khu công nghiệp tạo nên sự thay đổi
một cách căn bản về hạ tầng kĩ thuật trong và ngoài khu, là cơ sở để hình thành
các khu vực đô thị, các thành phố công nghiệp trong tơng lai.
- Thứ ba, khu chế xuất và khu công nghiệp góp phần vào việc tạo ra hiệu quả
kinh tế - xã hội, trớc hết là giải quyết công ăn việc làm cho ngời lao động, tăng
thu nhập và nâng cao phúc lợi cho khu vực lãnh thổ có các khu này.
- Thứ t, tạo nên sự liên kết với các cơ sở kinh tế trong nớc, trớc hết là khu vực
quanh khu chế xuất và khu công nghiệp.
Nh vậy, việc thành lập khu chế xuất và khu công nghiệp cùng có tác động
nhiều mặt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc, từ việc tổ chức cơ
cấu lại kinh tế vùng lãnh thổ, bố trí dân c, phát triển hạ tầng kiến trúc, bảo vệ
môi trờng đến việc nâng cao mức sống nhân dân
II. Quan hệ giữa việc phát triển khu công nghiệp, khu chế
xuất ở Việt Nam với việc tăng cờng thu hút vốn đầu t
trực tiếp nớc ngoài.
1. Khu công nghiệp, khu chế xuất- sự phát triển tất yếu của hoạt động đầu t
trực tiếp n ớc ngoài.
Bớc vào thập kỉ cuối cùng của thế kỉ 20, tình hình kinh tế thế giới và quan
hệ kinh tế giữa các nớc, các khu vực có những biến chuyển nhanh chóng và sâu

sắc do tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, cũng nh
tình hình chính trị thế giới. Để nhanh chóng thích ứng với những biến đổi ấy, ở
nhiều nớc đã diễn ra quá trình cơ cấu lại kinh tế theo hớng tận dụng tốt nhất
những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động quốc tế, đồng thời mở
rộng quan hệ kinh tế quốc tế với tất cả các nớc.
Phù hợp với xu thế chung của quan hệ kinh tế quốc tế đó, ở nớc ta cải cách
kinh tế theo hớng "mở cửa" đã đạt đợc những thành tựu quan trọng. Vào thời
điểm khi nền kinh tế đang đi dần vào thế ổn định, vấn đề tăng nhanh vốn đầu t
17
để duy trì và tăng tốc độ tăng trởng kinh tế, khắc phục nguy cơ tụt hậu về phát
triển giữa nớc ta và các nớc đợc đặt ra hết sức cấp bách. Khuyến khích đầu t
trong nớc, đồng thời thu hút vốn đầu t nớc ngoài là giải pháp chính cho vấn đề
nói trên. Nhng khi nguồn đầu t trong nớc còn hạn chế, hơn nữa lại cha tạo ra đ-
ợc môi trờng để huy động tối đa nguồn vốn đó, thì nguồn lực bên ngoài chiếm
tỷ trọng lớn hơn và đáp ứng cho việc xây dựng các công trình quan trọng có ý
nghĩa quyết định đối với công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thu hút vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài là một trong những bộ phận quan
trọng nhất của chính sách "mở cửa". Thêm vào đó Luật đầu t nớc ngoài tại Việt
Nam, đợc Quốc hội CHXHCN Việt Nam ban hành ngày 29 tháng 12 năm 1987
và đã qua nhiều lần sửa đổi, đã tạo môi trờng pháp lý cho hoạt động đầu t trực
tiếp nớc ngoài. Theo Luật đầu t, Nhà nớc Viêt Nam cam kết bảo đảm lợi ích của
các nhà đầu t nớc ngoài trong đầu t vốn, bảo đảm cho tiền vốn và tài sản của họ
không bị quốc hữu hoá hoặc bị tịch thu trong quá trình hoạt động; khuyến khích
đầu t thông qua các điều kiện u đãi về thuế, bao gồm miễn, giảm thuế chuyển
lợi nhuận ra nớc ngoài và các điều kiện thuận lợi khác về c trú, đi lại ở Việt
Nam... Luật đầu t nớc ngoài bảo đảm đối xử công bằng đối với tất cả các đối tác
nớc ngoài, khuyến khích họ đầu t vào tất cả các hình thức, từ hợp đồng hợp tác
kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn của các nhà đầu
t nớc ngoài; hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao để xây dựng, khai
thác các công trình hạ tầng... Cũng theo Luật đầu t nớc ngoài, hoạt động đầu t

trực tiếp nớc ngoài chịu sự quản lý của Uỷ ban Nhà nớc về hợp tác và đầu t -
nay là Bộ Kế hoạch và Đầu t, cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý Nhà n-
ớc về hoạt động đầu t nớc ngoài. Nội dung quản lý bao gồm: xúc tiến đầu t,
hình thành dự án; thẩm định, cấp giấy phép đầu t; quản lý doanh nghiệp sau khi
đợc cấp giấy phép đầu t.
Với nền tảng pháp lý nói trên, với những mục tiêu cơ bản: thu hút vốn, kĩ
thuật, tạo việc làm, mở rộng thị trờng và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến
của thế giới, hoạt động đầu t trực tiếp đã thu đợc những kết quả quan trọng và
gia tăng với tốc độ nhanh chóng. Tính đến thời điểm cuối năm 1994, tổng số dự
18
án đợc cấp giấy phép hoạt động là 1.190 với tổng vốn đăng ký là 10.700 triệu
đôla. Nhịp độ thu hút vốn đầu t nớc ngoài nhanh, năm 1994 tăng gấp 9,7 lần
năm 1988, trong đó riêng năm 1994 bằng 53% của 6 năm trớc đó cộng lại.
Tuy đã đạt đợc mức tăng trơng tơng đối cao trong những năm đầu thực
hiện Luật đầu t, nhng dòng đầu t trực tiếp nớc ngoài "chảy vào" nớc ta vẫn gặp
phải trở ngại rất lớn là cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội kém phát triển, cơ chế quản
lý và thủ tục đầu t còn quá phức tạp, phiền hà, chịu nhiều ảnh hởng của cơ chế
hành chính quan liêu, bao cấp, nói "một cửa" nhng trên thực tế là nhiều cửa.
Trong khi đó, khi gọi vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài, chúng ta mới chỉ chú trọng
vào những mục tiêu chính của mình, đặc biệt là xuất khẩu và tạo công ăn việc
làm, mà cha đẩy mạnh vấn đề xây dựng môi trờng đầu t tốt, nhất là một hệ
thống chính sách toàn diện, đồng bộ; một cơ chế quản lý thích hợp giải quyết
nhanh mọi thủ tục và yêu cầu của nhà đầu t; một cơ sở hạ tầng đáp ứng đợc yêu
cầu cơ bản của sản xuất công nghiệp để thu hút đầu t nớc ngoài và trong nớc
sản xuất hàng xuất khẩu đủ sức cạnh tranh trên thị trờng thế giới và hàng cung
cấp cho thị trờng trong nớc.
nhằm thúc đẩy sản xuất hớng về xuất khẩu khi trong nền kinh tế và cơ chế
quản lý đầu t trực tiếp nớc ngoài cũng nh sự hiểu biết về thị trờng thế giới còn
hạn chế, ở nớc ta khu công nghiệp và khu chế xuất đợc sử dụng nh những công
cụ để thu hút đầu t nớc ngoài, là biện pháp tăng năng lực xuất khẩu bằng cách

tạo ra môi trờng đầu t tự do, điều kiện thơng mại tự do và cung cấp cơ sở hạ
tầng tốt, thuận lợi với một cơ chế quản lý phù hợp.
Nh vậy, việc thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất để tăng năng lực
xuất khẩu, thu hút vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài nhằm khai thác có hiệu quả các
nguồn lực trong nớc, tận dụng tối đa lợi thế so sánh của nớc ta trong nền kinh tế
thế giới và khu vực, góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa theo
hớng hớng vào xuất khẩu là một tất yếu khách quan, là bớc phát triển có tính
chất lôgic của các chính sách phát triển kinh tế đất nớc nói chung và hợp tác
đầu t nớc ngoài nói riêng.
19
2. Sự cần thiết xây dựng và phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế
xuất ở Việt Nam để thu hút đầu t trực tiếp n ớc ngoài.
Đối với những nền kinh tế có trình độ phát triển thấp nh nớc ta, việc tạo ra
những sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đủ sức cạnh tranh trên thị trờng thế giới
là điều không dễ dàng, đơn giản. Muốn có dợc nh vậy, phải có những điều kiện
và yếu tố cần thiết, trớc hết là vốn, kỹ thuật công nghệ tiên tiến, đội ngũ cán bộ
quản lý và công nhân lành nghề có trình độ cao để sản xuất hàng hoá với giá cả
và chất lợng tốt, có khả năng cạnh tranh cao. Khu công nghiệp, khu chế xuất đ-
ợc coi là công cụ quan trọng và hữu hiệu nhất để thu hút vốn đầu t và kỹ thuật,
sản xuất hàng hoá cung cấp cho thị trờng trong nớc và xuất khẩu, đồng thời là
cửa ngõ khai thông ra thị trờng thế giới.
ở Việt Nam, cần thiết phải phát triển mạnh hệ thống khu công nghiệp, khu
chế xuất để thu hút đầu t trực tiếp nớc ngoài là vì:
- Trong việc thu hút vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài, đầu t của các nớc phát triển,
trớc hết là của các công ty xuyên quốc gia và tập đoàn t bản lớn là nguồn đầu t
quan trọng nhất. Trong cuộc cạnh tranh bành trớng thị trờng, các công ty xuyên
quốc gia có xu hớng di chuyển một bộ phận năng lực sản xuất công nghiệp, th-
ờng là ngành công nghiệp có hàm lợng lao động, vật chất cao, không đòi hỏi
trình độ thật tinh vi đến gần những nơi có nguồn nguyên liệu và nhân công rẻ,
cớc phí vận chuyển không quá lớn và có những điều kiện u đãi. ở những nơi

này, các công ty xuyên quốc gia vừa không bị hạn chế bởi hàng rào quan thuế
bảo hộ mậu dịch và các thủ tục hành chính quản lý phức tạp của nớc chủ nhà,
vừa phát huy đợc hiệu quả đầu t do giảm chi phí sản xuất. Khu công nghiệp,
khu chế xuất chính là môi trờng thuận lợi nhất giúp cho các công ty xuyên quốc
gia đầu t sản xuất hàng xuất khẩu.
- Sự yếu kém về kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội trên những vùng rộng lớn
của đất nớc đã hạn chế khả năng tăng trởng kinh tế và thu hút vốn đầu t trực tiếp
nớc ngoài của cả nớc nói chung và của từng vùng nói riêng. Mặc dù chúng ta đã
có nỗ lực to lớn trong xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng nhng do khả năng
nguồn vốn hạn hẹp, nên trong một thời gian ngắn không thể khắc phục nhợc
20
điểm này trên qui mô toàn quốc, mà cần thiết phải có các biện pháp đặc biệt đối
với từng khu vực, từng vùng, trớc hết là ở những địa bàn có nhiều điều kiện phát
triển công nghiệp, nhằm khuyến khích các nhà đầu t nớc ngoài chuyển vốn, ph-
ơng tiện kỹ thuật để sản xuất hàng hoá, tạo môi trờng liên kết với nền kinh tế
trong nớc. Khu công nghiệp, khu chế xuất là một địa bàn nhỏ hẹp có thể tập
trung mọi điều kiện cần thiết để tạo ra cơ sở hạ tầng đạt trình độ quốc tế, với chi
phí thấp đáp ứng đòi hỏi của các nhà đầu t nớc ngoài.
- Trở lại thời kỳ 1991- 1994, xuẫt khẩu nớc ta đã đạt đợc tốc độ tăng trởng
cao, chủ yếu là do xuất khẩu dầu mỏ ngày càng tăng trong khi gạo, hàng hải
sản, nông sản và hàng may mặc vẫn duy trì ở mức xuất khẩu khá. Song dự trữ
dầu mỏ có hạn, khả năng xuất khẩu gạo và nông sản nguyên dạng cũng có giới
hạn bởi diện tích đất trồng trọt, nên muốn tiếp tục tăng trởng xuất khẩu phải có
những chuyển biến về cơ cấu xuất khẩu theo hớng tăng các mặt hàng công
nghiệp chế tạo. Phát triển công nghiệp chế tạo vừa nâng cao hiệu quả xuất khẩu,
tận dụng đợc u thế lao động rẻ, vừa góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng
xuất khẩu Việt Nam trên thị trờng thế giới.
Xây dựng và phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất ở nớc ta sẽ
có tác dụng tăng cờng thu hút vốn đầu t từ các nhà đầu t trong nớc và các nhà
đầu t nớc ngoài, qua đó có thể xây dựng đợc một số lợng lớn các doanh nghiệp

chế biến và chế tạo trong các khu, thực hiện chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu và
nâng cao năng lực xuất khẩu.
- Luật đầu t nớc ngoài là cơ sở pháp lý quan trọng tạo ra môi trờng thuận lợi
cho các nhà đầu t nớc ngoài. Tuy vậy những qui định về quản lý và thủ tục hành
chính đối với các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài vẫn còn phức tạp, rờm
rà, đã hạn chế tính năng động, linh hoạt của các doanh nghiệp trớc những biến
đổi của thị trờng. Khu công nghiệp, khu chế xuất cho phép áp dụng qui chế
riêng với những qui định pháp lý rõ ràng, cụ thể; thủ tục hành chính, trớc hết là
thủ tục hải quan, thuế tơng đối đơn giản, thông thoáng, dễ áp dụng nên hấp dẫn
các nhà đầu t nớc ngoài. Hơn nữa đối với việc quản lý khu công nghiệp, khu chế
xuất, chúng ta có điều kiện áp dụng chế độ dịch vụ "một cửa", theo đó các chủ
21
doanh nghiệp trong khu chỉ cần tiếp xúc với một đầu mối là Ban quản lý khu
công nghiệp, khu chế xuất để giải quyết mọi công việc; còn phía mình, cơ quan
Nhà nớc các cấp có thể phối hợp thông qua đầu mối này trong quá trình quản lý
khu công nghiệp, khu chế xuất mà không tạo nên nhiều tầng nấc quản lý, giảm
nhẹ thủ tục cho các chủ doanh nghiệp.
- Khu công nghiệp, khu chế xuất đợc xây dựng thành công sẽ trở thành một
mô hình kinh tế năng động, có hiệu quả cao. Các khu có khả năng đón nhận
nhiều nguồn đầu t lớn vào nhiều lĩnh vực, trớc hết là vào các ngành công nghiệp
truyền thống, đã tiêu chuẩn hoá, sử dụng nhiều lao động. Các khu cũng là nơi
đào tạo cán bộ quản lý có trình độ cao, am hiểu phơng pháp quản trị kinh doanh
hiện đại theo cơ chế thị trờng và thông lệ quốc tế, cung cấp cán bộ kỹ thuật và
công nhân lành nghề có chuyên môn kỹ thuật cho các ngành kinh tế. Vì vậy,
khu công nghiệp, khu chế xuất là giải pháp có hiệu quả đối với vấn đề thu hút
vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài, tạo công ăn việc làm.
Tóm lại, với vị trí địa lý thuận lợi, trên một địa bàn nhỏ, nhng có mật độ
cao các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp (hàng xuất khẩu đối
với khu chế xuất) và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp (các dịch
vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu đối với khu chế xuất)

khu công nghiệp, khu chế xuất có tác dụng nh một cầu nối gắn thị trờng trong
nớc với thị trờng thế giới, là nhân tố quan trọng trong việc thu hút vốn đầu t nói
chung và đầu t trực tiếp nớc ngoài nói riêng để thúc đẩy tăng trởng kinh tế đất
nớc và đa nền kinh tế nớc ta hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Với những lý do trên, việc xây dựng và phát triển hệ thống khu công
nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam là một yêu cầu khách quan đối với việc tăng
cờng thu hút vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài, phát triển kinh tế nớc ta.
22
CHƯƠNG II
Thực trạng đầu t trực tiếp nớc ngoài vào khu
công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam trong
thời gian qua.
I. Tình hình các khu công nghiệp, khu chế xuất cho đến
hết quí II năm 2000:
1. Sự thành lập và qui hoạch khu công nghiệp, khu chế xuất:
1.1 Sự thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất:
- Qui mô và số lợng các khu công nghiệp, khu chế xuất:
Đến tháng 6/ 2000, đã có 67 khu công nghiệp, khu chế xuất đợc thành lập
(không kể khu công nghiệp Dung Quất rộng 14000 ha nằm ở vùng Trung Bộ).
Tổng diện tích đất tự nhiên của các khu công nghiệp, khu chế xuất là 11.023 ha,
trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê là 7.290 ha.
Nh vậy, qui mô bình quân của một khu là 164,5 ha. Khu công nghiệp có
diện tích lớn nhất (không kể khu công nghiệp Dung Quất mà thực chất là khu
kinh tế tổng hợp với diện tích 14.000 ha) là khu công nghiệp Phú Mỹ I tại Bà
Rịa- Vũng Tàu với diện tích 954,4 ha, còn khu công nghiệp có qui mô nhỏ nhất
là khu công nghiệp Bình Chiểu tại thành phố Hồ Chí Minh với diện tích 28 ha.
So với các khu công nghiệp, khu chế xuất châu á - thờng có diện tích từ 10,5
đến 425 ha mà phần lớn là từ 100 đến 200 ha thì khu công nghiệp, khu chế xuất
của Việt nam thuộc loại khá lớn về diện tích.
- Phân loại khu công nghiệp, khu chế xuất:

Trong 67 khu đợc thành lập nói trên, có 63 khu công nghiệp, 3 khu chế
xuất và đặc biệt là 1 khu công nghệ cao.
Diện tích đất tự nhiên và đất công nghiệp của các khu công nghiệp, khu
chế xuất và khu công nghệ cao.
23
Số l-
ợng
Diện tích đất tự
nhiên (ha)
Diện tích đất
công nghiệp (ha)
Tổng cộng
Khu công nghiệp
Khu chế xuất
Khu công nghệ cao
67
63
3
1
11.023
9.313
510
200
7.715
7.191
374
150

Nh vậy, khu công nghiệp chiếm số lợng áp đảo, chỉ có 3 khu chế xuất trong
khi có tới 63 khu công nghiệp. Có thể kể đến một số khu công nghiệp lớn, có

diện tích trên 200 ha nh khu công nghiệp Daewoo-Hanel ở Hà Nội, khu công
nghiệp Phú Mỹ I thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (954,4 ha), khu công nghiệp
Nhơn Trạch I, II, III thuộc tỉnh Đồng Nai (với diện tích tơng ứng là 430, 350,
368 ha), khu công nghiệp Hiệp Phớc I ở thành phố Hồ Chí Minh (332 ha)...
Ba khu chế xuất hiện nay là: khu chế xuất Tân Thuận và khu chế xuất Linh
Trung ở thành phố Hồ Chí Minh, khu chế xuất Hải Phòng ở thành phố Hải
Phòng.
Khu công nghệ cao Hoà Lạc thuộc địa phận tỉnh Hà Tây là khu công nghệ
cao duy nhất hiện nay ở Việt Nam. Đây là "khu tập trung các doanh nghiệp kĩ
thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm
nghiên cứu-triển khai khoa học, công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan, có
ranh giới địa lý xác định; do Chính phủ hoặc Thủ tớng Chính phủ quyết định
thành lập. Trong khu công nghệ cao có thể có doanh nghiệp chế xuất." (theo
Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ban hành kèm theo
Nghị định số 36/CP ngày 24/ 4/ 1997 của Chính phủ)
- Phân bố khu công nghiệp, khu chế xuất tại các vùng:
Số các khu đã đợc thành lập tại các vùng.
Vùng
Số khu công Diện tích
24
nghiệp (ha)
Vùng núi Bắc Bộ
Vùng Tây Nguyên
Vùng đồng bằng sông Cửu Long
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ ( ch-
a kể khu công nghiệp Dung Quất)
Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ
Các vùng khác
2

0
6
10
7
33
9
139
0
649,6
1307
628,6
7110
1188,8
Các khu công nghiệp, khu chế xuất phân bố không đều theo lãnh thổ: tập
trung chủ yếu tại 3 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ và đồng
bằng sông Cửu Long (chiếm 56/ 64 khu). Trong khi đó, vùng Tây Nguyên cha
có một khu công nghiệp hay khu chế xuất nào. Vùng núi Bắc Bộ có 2 khu công
nghiệp, đó là khu công nghiệp Thụy Vân thuộc tỉnh Phú Thọ đợc thành lập
năm 1997 và khu công nghiệp Sông Công thuộc tỉnh Thái Nguyên mới đợc
thành lập năm 1999 với diện tích nhỏ so với mặt bằng chung của cả nớc. Tại
những vùng này, việc xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất là rất khó khăn
do vị trí địa lý kém thuận lợi, cơ sở hạ tầng cha phát triển.
Về diện tích, vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc có 10 khu với tổng diện tích
1.307 ha, chiếm 11,86%; vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có 33 khu với tổng
diện tích 7.110 ha, chiếm 64,5%; vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có 7 khu
với diện tích 628,6 ha, chiếm 5,7% tổng diện tích các khu công nghiệp, khu chế
xuất đã đợc thành lập. Nh vậy, các khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung chủ
yếu tại 3 vùng kinh tế trọng điểm không chỉ về mặt số lợng mà còn cả về mặt
diện tích.
Ngoài ra, tại vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ, Chính phủ đã quyết định

thành lập khu công nghiệp Dung Quát( thực chất là khu kinh tế tổng hợp với
diện tích 14.000 ha) và nghiên cứu xây dựng mô hình kinh tế mở Chu Lai.
1.2 Qui hoạch khu công nghiệp, khu chế xuất đến năm 2000.
25

×