Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

TƯ TƯỞNG NGHỆ THUẬT của NGUYỄN MINH CHÂU TRONG TRUYỆN NGẮN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.58 KB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

BẾ THỊ HỒNG

TƯ TƯỞNG NGHỆ THUẬT CỦA
NGUYỄN MINH CHÂU TRONG TRUYỆN NGẮN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại
Mã số:

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Trần Đăng Xuyền

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới GS.TS Trần Đăng
Xuyền, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình
thực hiện luận văn này.
Em xin trân trọng cảm ơn Khoa Ngữ văn, Phòng sau đại học, Phòng quản

lí khoa học trường Đại học sư phạm Hà Nội và đặc biệt là các thầy giáo, cô
giáo trong tổ Văn học Việt Nam hiện đại, những người đã dạy bảo và tạo điều
kiện thuận lợi cho em trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài này.
Hà Nội, tháng 09 năm 2015
Tác giả


Bế Thị Hồng


MỤC LỤC

PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ những bản hợp xướng sử thi anh hùng ca thời chống Mỹ đến những
bản nhạc trầm lắng suy tư, giàu triết lý, Nguyễn Minh Châu trên hành trình
văn học của mình luôn kiếm tìm “những hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm
hồn con người” với biết bao yêu thương và tin tưởng, lặng lẽ và sẻ chia, thấu
hiểu và dâng tặng, băng qua sức cản của thời gian và năm tháng, ánh sáng lấp
lánh của nó vẫn thu hút, hấp dẫn trái tim người đọc.
Từ truyện ngắn đầu tiên Sau một buổi tập (đăng trên tạp chí Văn nghệ
quân đội, số 10, 1960) và khép lại với truyện vừa Phiên chợ Giát (1989), sự
nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu không thật đồ sộ, chỉ dăm cuốn tiểu
thuyết, vài tập truyện ngắn, bút ký, tiểu luận, phê bình. Nhưng nhà văn đã tạo
dựng cho mình tư tưởng nghệ thuật riêng, một phong cách nghệ thuật độc
đáo, là một trong “những người mở đường tinh anh và tài năng người đã đi
được xa nhất”[20; 256] trong cao trào đổi mới của văn học Việt Nam đương
đại.
Chính vì vậy, sự nghiệp và phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu
vẫn tiếp tục được sự quan tâm đông đảo bạn đọc và giới nghiên cứu, phê bình.
Mỗi bài viết, mỗi công trình nghiên cứu là một cách nhìn, một tiếng nói, một suy
nghĩ, một cảm nhận riêng của người viết. Trong những bài viết đó, ít nhiều các
vấn đề về hình tượng nghệ thuật, nghệ thuật trần thuật, giọng điệu trong sáng tác
của Nguyễn Minh Châu đã được đề cập và lý giải. Nhưng chưa có công trình

khoa học nào lấy việc tìm hiểu “Tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu
trong truyện ngắn” làm đối tượng nghiên cứu toàn diện và sâu sắc.
Đề tài “Tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong truyện
ngắn” được nghiên cứu thấu đáo sẽ góp phần tìm hiểu sự chuyển biến tư
1


tưởng nghệ thuật của nhà văn đi từ tư tưởng chung của cộng đồng trong
những sáng tác thời kì chiến tranh sang khẳng định một tư tưởng riêng độc
đáo của cá nhân mình trong thời kì đổi mới.
Nguyễn Minh Châu cũng là tác giả có tác phẩm truyện ngắn được đưa
vào giảng dạy trong chương trình trung học (trước đây là Bức tranh – THCS,
Mảnh trăng cuối rừng – THPT; sau này là Bến quê – THCS, Chiếc thuyền
ngoài xa – THPT). Việc nghiên cứu “Tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn
Minh Châu trong truyện ngắn” giúp cho việc giảng dạy phân tích tác phẩm
truyện ngắn của ông trở nên đúng hướng, sâu sắc, thỏa đáng hơn.
Mặt khác việc tìm hiểu “Tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh
Châu trong truyện ngắn” sẽ góp phần làm rõ nét bức chân dung tinh thần
của nhà văn. Đồng thời, từ đó có thể soi chiếu được cả những hiện tượng văn
học khác, và rộng hơn cả nền văn học.
Với tất cả những lý do trên, trên cơ sở kế thừa thành tựu của người đi
trước, người viết mong trong giới hạn nhất định, đề tài mà luận văn đã chọn
“Tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn” sẽ là cơ
hội để người viết tìm hiểu hành trình, nhân tố tạo nên tư tưởng nghệ thuật của
Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn trên tinh thần khoa học và toàn diện
nhất có thể, để từ đó hướng đến một cách hiểu, cách lý giải thuyết phục về cái
hay, cái đẹp, cái độc đáo và hấp dẫn trong cách nhìn chân thực và sinh động
về của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
2. Lịch sử nghiên cứu
- Nguyễn Minh Châu là tác giả có vị trí quan trọng trong văn xuôi hiện đại

Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn đổi mới. Văn nghiệp và phong cách
Nguyễn Minh Châu đã được các nhà nghiên cứu chú ý trên nhiều phương diện.
- Có tới hơn 150 bài viết được in rải rác trên các báo và tạp chí. Ngoài
ra, còn rất nhiều công trình nghiên cứu trong các trường đại học thuộc khối

2


khoa học xã hội, viện văn học và các hội thảo đặt vấn đề nghiên cứu Nguyễn
Minh Châu bằng nhiều hình thức và kiểu loại khác nhau.
- Trong những bài viết quan tâm đến truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu, có thế kể đến những ý kiến đáng chú ý của: Lại Nguyên Ân, Trần Đình
Sử, Nguyễn Đăng Mạnh, Tôn Phương lan, Nguyễn Văn Long, Trịnh Thu
Tuyết, Đỗ Đức Hiểu, Phạm Vĩnh Cư, Bùi Việt Thắng, Hoàng Ngọc Hiến,
Nguyễn Đức Hạnh, Mai Hương….
2.1. Những nhận xét về cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu.
- Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá đã đưa ra nhận định: “Chưa có
một thành tựu nào thật tài hoa, xuất sắc. Nhưng bước đi của anh – dù sao
cũng đã 10 năm rồi, nói chung là chắc chắn. Từ những bút ký, truyện ngắn
đến Cửa sông, anh cứ tiến dần từng bước rõ ràng về con đường đi, với thái
độ cần cù, thận trọng của một con người không chủ quan, tự mãn”[31; 27]
- Phan Cự Đệ đưa ra nhận xét khái quát về giai đoạn sáng tác của
Nguyễn Minh Châu: “Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất
sắc của chúng ta. (…). Trong truyện ngắn của ta sau bảy năm có một bước
phát triển mới, ngày càng hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu bạn đọc ngày càng
cao hơn. Truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu cũng có
những ưu điểm ấy. Nó không dừng lại ở trực giác mà đi sâu vào tâm lý tiềm
thức. Nguyễn Minh Châu muốn đóng góp vào sự thức tỉnh con người từ phần
sâu kín bên trong của bạn đọc”[31; 292].

- Tô Hoài khẳng định: “Đọc Nguyễn Minh Châu, người ta thấy cuộc đời
và trang sách liền nhau. Chặng đường hôm nay cũng như từng đoạn sáng tác
tạo nên trang giấy của tài năng. Những cái tưởng như bình thường lặt vặt
trong cuộc sống hàng ngày dưới con mắt và ngòi bút Nguyễn Minh Châu đều
trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý”[31; 295].
3


- Đánh giá cao sự tìm tòi đổi mới của Nguyễn Minh châu: Lê Lựu
ngoài sự khẳng định khả năng “nhìn đâu cũng ra truyện ngắn”, còn thấy ở
Nguyễn Minh Châu điều đáng kể “anh là một trong những nhà văn duy trì sự
tìm tòi, góp phần làm cho văn học không nhạt, giúp cho văn học có cái để
bàn”. Đặc biệt, Lê Lựu đã khẳng định Nguyễn Minh Châu đã “thành công”
trong “những thể nghiệm” của mình. Phong Lê nhìn ra “cái đa giọng điệu,
cái đa thanh của cuộc đời đã vào tác phẩm”
Trần Đình Sử xác định: “Cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Minh châu
đã mang lại những đề tài và chủ đề mới , có ý nghĩa bức thiết với đời sống
hôm nay”[34; 212]. “Thành công của ông trong những năm gần đây là sự
gặp gỡ kì diệu giữa thời đại và cảm quan nghệ thuật nhạy bén của nghệ sĩ với
những tìm kiếm chân lý kiên trì, những suy ngẫm trăn trở đầy trách nhiệm
của một nhà văn tài năng và tâm huyết”(Lã Nguyên)[34; 288].
2.2. Những nhận xét về tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu
trong truyện ngắn
- Tiêu biểu là ý kiến của Mai Hương trong Lời giới thiệu Nguyễn Minh
Châu toàn tập (Nxb Văn học, H.,2001):“Suốt trong những năm chống Mĩ,
Nguyễn Minh Châu đã dành trọn vẹn nửa đời văn của mình đi sâu khám phá,
phản ánh những “đề tài sinh tử” trong mảng hiện thực chiến tranh và người
lính cách mạng… Những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trong chiến tranh
thường nghiêng về vẻ đẹp hào hùng…”.
Vào tháng 6 năm 1985, báo Văn nghệ đã tổ chức một cuộc Trao đổi về

truyện ngắn Nguyễn Minh Châu những năm gần đây. Trong cuộc hội thảo
này, có những ý kiến vẫn còn tỏ ra băn khoăn, nghi ngờ về những tìm tòi đổi
mới của ông, cho rằng trong tác phẩm còn có điều gì đó “mung lung”, “hụt
hẫng”, “khó nắm bắt”, “kém đi vẻ chân thực sinh động ”. Nhiều ý kiến khác
thì đánh giá cao những tìm tòi, trăn trở trong ngòi bút của ông, ghi nhận tác
4


phẩm của ông “có nhiều thành tựu, có nhiều đóng góp rất đáng quý” [69;
288-311].
- Trần Đình Sử nhận xét rằng: “Bắt đầu từ truyện ngắn Bức tranh, rồi
tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và nay là tập Bến quê, truyện
ngắn của Nguyễn Minh Châu xuất hiện như là một hiện tượng văn học mới,
một phong cách trần thuật mới… Đặc sắc của tập Bến quê chủ yếu là sự thể
nghiệm một hướng trần thuật có chiều sâu…, phát hiện các hiện tượng đời
sống trong chiều sâu triết học và lịch sử, thể hiện nhu cầu chiêm nghiệm, tự
đối thoại với chính mình và với ý thức của mình… Có thể nói thiên hướng
muốn nắm bắt hiện thực ở bề sâu ẩn kín là một đặc điểm nổi bật mới mẻ của
phong cách Nguyễn Minh Châu” [75; 505-508].
- Lại Nguyên Ân, “khi nhận xét về xu hướng triết lí nhận thức trong
những truyện ngắn gần đây của Nguyễn Minh Châu”, đã tạm xếp thử các
truyện ấy vào một số dạng chính, “Từ loại truyện “tự thú” mà trung tâm
thường là một nhân vật đang sám hối,…nhà văn chuyển sang thể nghiệm loại
truyện tuy có dạng thức tự nhiên khách quan nhưng phê phán gay gắt những
lối sống vô ý thức… Thêm một mức nữa, nhà văn đi tới loại truyện cũng có
dạng khách quan tự nhiên, nhưng không phải để lên án phê phán đối tượng
cụ thể nào mà chủ yếu để nhận thức những tình thế, những khía cạnh trái
ngược vốn có trong đời sống con người…” [69; .269].
- Ngoài những bài viết đề cập trực tiếp đến truyện ngắn nêu trên, không
thể không nhắc đến hai chuyên luận nghiên cứu về Nguyễn Minh Châu là

Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu (Nxb KHXH, 2002) của tác giả
Tôn Phương Lan và Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi mới văn học Việt
Nam sau 1975 (Nxb ĐHSP, H. 2007) của các tác giả Nguyễn Văn Long Trịnh Thu Tuyết. Những công trình này, dù có đối tượng và phạm vi nghiên

5


cứu khác nhau, nhưng đều dành nhiều dung lượng cho phần nghiên cứu mảng
truyện ngắn.
Cuốn Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu - tác giả Tôn
Phương Lan đã khái quát và nhận diện phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh
Châu, bằng việc tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật cũng như quan niệm nghệ thuật
về con người của Nguyễn Minh Châu, tìm hiểu các hệ thống nhân vật cũng
như nghệ thuật trần thuật, những đặc điểm về ngôn ngữ và giọng điệu, …từ
đó phác họa được những nét cơ bản về phong cách nghệ thuật của nhà văn.
3. Mục đích nghiên cứu
- Xác định“Tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong truyện
ngắn”.
- Phân tích để làm rõ sự thể hiện tư tưởng nghệ thuật của nhà văn qua
hình tượng nghệ thuật.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn đi sâu tìm hiểu “Tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh
Châu trong truyện ngắn”.
- Phạm vi nghiên cứu: 42 tác phẩm truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tác giả.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.

6. Đóng góp của luận văn
- Khảo sát và lí giải một cách có hệ thống, thuyết phục đối hạt nhân cơ
bản làm nên tính độc đáo “Tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu
trong truyện ngắn”
6


- Lần đầu tiên, luận văn với tính chất là một công trình nghiên cứu khoa
học đặt vấn đề tìm hiểu “Tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu
trong truyện ngắn”, trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu
cả trong thời kì chiến tranh đến sau đổi mới, để từ đó chỉ rõ sự chuyển biến tư
tưởng nghệ thuật giữa hai chặng đường sáng tác.
- Nguyễn Minh Châu còn là tác giả có tác phẩm được chọn giảng ở trường
phổ thông nên kết quả luận văn nghiên cứu sẽ có những đóng góp nhất định cho
việc nghiên cứu và giảng dạy của người giáo viên đứng lớp sau này.
7. Cấu trúc luận văn
Luận văn, ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, được
tổ chức triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Cấu trúc tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu
Chương 3: Những hình tượng nghệ thuật tiêu biểu

7


NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm tư tưởng nghệ thuật của nhà văn
Văn học là một hình thái hoạt động tư tưởng. Công việc sáng tạo của

nhà văn mang tính đặc thù rất cao. Để tìm hiểu nghiên cứu một nhà văn, điều
cốt yếu nhất là tìm ra được tư tưởng nghệ thuật của nhà văn đó. Tìm được ra
tư tưởng nghệ thuật, cũng có nghĩa là ta đã có được chìa khóa để mở cánh cửa
bước vào thế giới nghệ thuật của nhà văn.
Tư tưởng của nhà văn không thể hiểu một cách phiến diện và máy móc
để đánh đồng nó với tư tưởng chính trị. Khi nhà văn sáng tạo, anh ta viết theo
tư cách một con người nghệ sĩ, chứ không phải một con người công dân. Vậy,
tư tưởng nhà văn cần được hiểu là tư tưởng của người nghệ sĩ chi phối toàn
bộ quá trình sáng tạo.
Đã có nhiều định nghĩa về tư tưởng nghệ thuật của nhà văn.
Biêlinxki và Khrapchenco đã có những đề xuất và kiến giải về vấn đề này.
Theo Biêlinxki, “một tư tưởng nghệ thuật không phải là một tam đoạn luận,
một giáo điều hay một qui tắc, đó là một say mê mãnh liệt, một nhiệt hứng”.
Tư tưởng nghệ thuật vừa thể hiện thông qua tất cả các yếu tố trong thế giới
nghệ thuật của nhà văn, vừa ở trong mối quan hệ tiếp nhận, đồng sáng tạo của
độc giả đối với văn bản. Do đó, tư tưởng nghệ thuật của nhà văn vừa ở dạng
“tĩnh” vừa ở dạng “động”. Dạng “tĩnh” là những nét bất biến trong suốt quá
trình nhận thức của người đọc qua các thời đại, dạng “động” là những nhận
thức mới, lý giải mới của các thế hệ sau so với thế" hệ trước đối với tác
8


phẩm.Tư tưởng nghệ thuật có mối quan hệ với các lĩnh vực, loại hình khác
của tử tưởng như tư tưởng chính trị, tư tưởng triết học - tôn giáo, tư tưởng đạo
đức, nhưng không đồng nhất với những loại tư tưởng này. Tư tưởng nghệ
thuật của nhà văn không phải nhất thành, bất biến ở một thời điểm sáng tác
nào đấy mà biến chuyển, phát triển trong suốt cả quá trình sáng tạo của họ.
GS Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng tư tưởng nghệ thuật là “thứ tư tưởng có tính
tổng hợp cao rút ra từ toàn bộ tác phẩm của nhà văn. Nói cách khác, đó là
một tư tưởng bao trùm cả sự nghiệp sáng tác của nhà văn, chi phối về căn

bản toàn bộ thế giới nghệ thuật của ông ta. Nó tạo ra cho sự nghiệp ấy, cho
thế giới nghệ thuật ấy tính thống nhất, tính hệ thống, hay nói đúng hơn, tính
chỉnh thể” [50; 9].
Như vậy, tư tưởng nghệ thuật của nhà văn là sự nhận thức, là cái nhìn, là
quan niệm của nhà văn về thế giới – nhận thức bằng toàn bộ con người tinh thần
với tất cả nội dung phong phú và tính tổng thể toàn vẹn của nó. Hình thái nhận
thức này đòi hỏi nhà văn phải huy động toàn bộ mọi năng lực tinh thần của mình
mà nội dung chính bao gồm lí trí và tình cảm cảm xúc kết hợp hài hòa với nhau
giống như xương cốt và máu thịt, như thể xác với linh hồn con người. Hình thái
nhận thức này thấm nhuần lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn. Đó là một hình thái tư
duy – tình cảm thẩm mỹ đặc thù của người sáng tác
1.2. Những nhân tố hình thành tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn
Minh Châu
1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử xã hội và hoàn cảnh riêng
1.2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội
Cách mạng tháng Tám thành công (1945) mở ra một giai đoạn mới
trong lịch sử dân tộc, văn học đã làm một cuộc “đổi đời” và bền bỉ gắn với
sứ mạng cổ vũ chiến đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội trong suốt 30 năm
(1945 -1975).
9


Sự phong phú, đa dạng của văn học (1945 -1975) có cơ sở từ sự thay
đổi lớn trong quan niệm văn học mang tính đặc thù. Sự phát hiện ra con người
quần chúng đã “bẻ lái” vận động văn học theo hướng sử thi: “Đó không chỉ
là kỉ nguyên biến con người nô lệ thành con người tự do, làm chủ vận mệnh
mình, mà còn là thời đại biến con người nhỏ bé rời rạc, yếu đuối trong xã hội
cũ thành con người của dân tộc, của đoàn thể, của sự nghiệp chung”. “Cách
mạng đã mở ra một chân trời mới bao la cho con người tự vươn lên khẳng
định mình. Chỉ trong sự nghiệp chung đó, con người mới cảm thấy hạnh

phúc, tự do, có tầm quan trọng và có ý nghĩa. Người ta vào cách mạng như đi
trẩy hội. Cái chung lấn át cái riêng, đời sống chính trị lấn át đời sống hằng
ngày. Nói cách khác, đời sống chung được cảm nhận như là đời sống riêng
của mỗi người” [44; 225-226].
“Từ quan niệm con người quần chúng trong văn học thời chống Pháp,
với những hình tượng tập thể còn khá đơn giản, tuy sinh động và mới mẻ ở
buổi đầu, đến thời kì chống Mĩ nhận thức về nhân dân đã đạt tới chiều sâu
mới và hình tượng nhân dân là một thành công đáng kể, văn học thời chống
Mĩ đã sáng tạo những hình tượng con người mang được dấu ấn, tầm vóc, tư
tưởng và ý chí của thời đại ấy. Con người sử thi trong văn học thời kì này với
hai phương diện nổi bật là chủ nghĩa anh hùng và vẻ đẹp tâm hồn, là một
đóng góp của văn học vào việc khám phá con người, đề cao sức mạnh và vẻ
đẹp của con người Việt Nam” [41; 43].
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã chấm dứt một giai đoạn lịch sử đau
thương của dân tộc, để từ đây đất nước bước vào một chặng đường mới, khắc
phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, từng bước phát triển theo quy luật của
đời sống hòa bình. Sau năm 1975, văn học đã làm một cuộc đổi mới trong đại,
cái mốc 1986 đã trở thành một điểm khởi đầu mới chưa từng có cho một dòng
chảy sâu rộng cho đến hết thế kỉ XX và tiếp diễn đương đại sang đầu thế kỉ
10


XXI, với những tên tuổi tiêu biểu Nguyễn Khải, Ma văn Kháng, Lê Lựu, Bảo
Ninh, Nguyễn Huy Thiệp,…Và đặc biệt Nguyễn Minh Châu được coi là một
trong số “người mở đường tinh anh và tài năng nhât”, với “Bến quê” thì ý
thức đổi mới đã thực sự rõ rệt.
1.2.1.2. Hoàn cảnh riêng
Nguyễn Minh Châu sinh ngày 20 tháng 10 năm 1930 tại làng Thơi, xã
Quỳnh Hải, thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Từ nhỏ Nguyễn Minh
Châu đã được tạo điều kiện học hành khá chu đáo. Học ở quê rồi vào Huế,

học tiếp đến năm 1945 thi đỗ bằng thành chung. Những năm đầu cuộc kháng
chiến chống pháp, Nguyễn Minh Châu tiếp tục học trung học trong vùng
kháng chiến. Đầu năm 1950, khi đang là học sinh chuyên khoa trường Huỳnh
Thúc Kháng ở Nghệ Tĩnh, Nguyễn Minh Châu tình nguyện vào quân đội,
theo học trường sĩ quan Trần Quốc Tuấn. Sau đó, Nguyễn Minh Châu về
công tác tại sư đoàn 320. Năm 1961, ông theo học trường văn hóa quân đội ở
Lạng Sơn. Từ năm 1962 cho đến khi mất, Nguyễn Minh Châu làm việc tại tạp
chí Văn nghệ quân đội. Ông mất ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội.
Vốn là một sĩ quan tham mưu trong quan đội, Nguyễn Minh Châu sống
và làm việc trước hết với tư cách là một người lính, nhưng lại là một người
lính viết văn. Cũng như đối với nhiều nhà văn mặc áo lính cùng thời, công
việc sáng tác đòi hỏi người cầm bút phải có nhiều lặn lội thực tế ở những nơi
đầu sóng ngọn gió, ông đã tham gia nhiều chiến dịch, đã từng trải qua những
khó khăn gian khổ ở rừng Trường Sơn. Hòa bình lặp lại, ông cũng đi nhiều
nơi, vào thành phố Hồ Chí Minh rồi trở ra Hà Nội, nhưng có lẽ dải đất miền
Trung mới là miền đất để lại cho ông nhiều yêu thương nhất. Hình ảnh cái
làng quê nghèo ven biển miền Trung cứ trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm của
ông như một nỗi ám ảnh khôn nguôi. Những năm cuối đời, ông còn ấp ủ dự
định viết một cuốn tiểu thuyết về cuộc chiến ở thành cổ Quảng Trị, rất tiếc nó
11


không thể hoàn thành vì ông đã đột ngột ra đi khi đang ở giai đoạn tài năng
chín muồi nhất. Sau hơn một năm trời vật lộn với cơn bệnh ung thư máu hiểm
nghèo, ông đã vĩnh viễn chia tay với cuộc đời vào ngày 23 tháng 1 năm 1989
tại viện Quân y 108 Hà Nội.
Những người thân, những người bạn của ông cùng với nhiều người trong
giới nghiên cứu đương thời luôn dành cho ông một sự yêu quý và kính trọng sâu
sắc. Họ nhìn thấy ở ông “một sự dũng cảm điềm đạm” (Vương Trí Nhàn), “một
chiên sĩ chiến đấu đến cùng cho điều mình nhận thức là đúng” (Thái Bá Lợi),

với vẻ ngoài “hiền lành, có khi lại còn nhút nhát nữa, nhưng bên trong dường
như có một ngọn lửa, ngọn lửa ấy luôn luôn tạo ra sức nóng ở nơi đầu ngọn
bút” (Ngỗ Vĩnh Bình)… Đọc những bài viết của họ về ông, ta hình dung ra một
Nguyễn Minh Châu thâm trầm, lặng lẽ, ít nói những giàu lòng thương yêu, luôn
sống trung thực với chính mình và mọi người. Ông không thích ồn ào, không
thích bon chen tranh đoạt mà lặng lẽ nhẫn nại theo đuổi những công việc và mục
đích mà mình đã lựa chọn. Có cảm giác như ông ngơ ngác giữa dòng đời xuôi
ngược đầy những hệ lụy phiền toái. Nhưng ông rất nhạy cảm và quyết liệt với
những gì được coi là cái xấu, cái ác, làm tổn hại đến con người. Và trên hết,
Nguyễn Minh Câu là một người có ý thức sâu sắc về thiên chức của nhà văn, về
trách nhiệm và lương tâm của người cầm bút.
Ở góc độ công dân, ông đã làm hết sức mình để sống một cuộc sống có
ích cho xã hội và những người xung quanh mình. Ở góc độ một nhà văn, bằng
tài năng và tấm lòng nhiệt tình yêu nghệ, với thái độ điềm đạm nhưng cũng
hết sức dũng cảm, ông cũng đã dành trọn cuộc đời mình để cống hiến hết thảy
cho những mục tiêu cao đẹp của văn chương nghệ thuật, xứng đáng là “niềm
hãnh diện của những người cầm bút về một đời văn trong sáng và trọn vẹn”
(Nguyễn Khải).
1.2.2 Vốn sống, tài năng và quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu
1.2.2.1. Vốn sống, tài năng
12


Con đường sáng tác văn chương của Nguyễn Minh Châu bắt đầu tương đối
muộn, mãi đến năm 1960 mới bắt đầu có những sáng tác đầu tiên, và chỉ thực sự
được bạn đọc biết đến với tiểu thuyết Cửa sông in năm 1967. Trong suốt cuộc đời
sáng tác của mình, Nguyễn minh Châu đã để lại 9 cuốn tiểu thuyết, 4 tập truyện
ngắn, 1 tập tiểu luận phê bình và một số bút kí, truyện ngắn khác đăng rải rác trên
các báo, tạp chí.
Các tác phẩm xuất bản gồm: Cửa sông (tiểu thuyết, 1967), Những vùng

trời khác nhau (tập truyện ngắn,1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972),
Từ giã tuổi thơ (tiểu thuyết, viết cho thiếu nhi, 1981), Những người đi từ trong
rừng ra (tiểu thuyết, 1982), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (tập truyện
ngắn, 1983), Đảo đá kì lạ (tiểu thuyết viết cho thiếu nhi, 1985), Bến quê (tập
truyện ngắn, 1985), Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987), Cỏ lau (tập truyện,
1989), tập tiểu luận phê bình Trang giấy trước đèn…
Có thể nói với một khối lượng sáng tác tương đối dày dặn như trên,
Nguyễn Minh Châu đã kịp ghi tên mình vào lịch sử văn học Việt Nam hiên đại
như một tên tuổi hết sức quan trọng.
Là nhà văn quân đội, tiểu thuyết và truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
viết nhiều về đề tài chiến tranh như là một tất yếu. Tác phẩm Dấu chân
người lính của ông từ khi mới ra đời đã được bạn đọc và giới nghiên cứu
đánh giá cao, được xem như là một trong những tiểu thuyết tiêu biểu viết
về chiến tranh chống Mỹ. Bám sát hiện thực đời sống những năm chiến
tranh, các sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước 1975 (Cửa sông, Những
vùng trời khác nhau, Dấu chân người lính…) đã cho chúng ta một cái nhìn
tương đối trọn vẹn về một thời kì hào hùng của dân tộc.
Sau 1975, hiện thực cuộc sống mới đòi hỏi văn học phải có sự nhìn nhận
toàn diện và thấu đáo hơn. Là một nhà văn có ý thức gắn bó với đời sống, nhạy
cảm với những đổi thay của thời cuộc, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận ra những
13


vẫn đề mới của đất nước ngay vào thời điểm chuyển giao từ chiến tranh sang hòa
bình. Trong các tiểu thuyết Miền cháy, Những người đi từ trong rừng ra, Mảnh
đất tình yêu…,mảng hiện thực quen thuộc về chiến tranh cách mạng và người lính
vẫn tiếp tục được ông quan tâm nhưng các vấn đề đặt ra trong tác phẩm đã cho
thấy ở nhà văn một cách nhìn khác trước. Ngòi bút nhà văn hướng đến nhiều vấn
đề đặt ra ở thời kì hậu chiến như việc tổ chức lại cuộc sống và làm ăn kinh tế trong
thời kì mới, vấn đề giải quyết hậu quả và hàn gắn những vết thương chiến tranh,

vấn đề chống lại những tiêu cực mới nảy sinh trong cuộc sống hôm nay.
Trước đây, ngay trong những năm tháng chiến đấu chống Mỹ ác liệt,
Nguyễn Minh Châu từng băn khoăn: “Ngòi bút của chúng ta sẽ trở nên phản bội
người chiến sĩ nếu chỉ biết cái lúc họ vác súng ra mặt trận với một tâm hồn phơi
phới mà không biết cái buồn bã, đau đớn, những lúc đói rét, những lúc nằm giữa
đồng đội chết và bị thương, trong bùn lầy, trong mưa bom bão đạn…” [2; 190].
Sau chiến tranh, cái nhìn sử thi lí tưởng hóa về con người của văn học một thời tỏ ra
không còn phù hợp khi đối mặt với thực tế bộn bề, phức tạp của cuộc sống thường
nhật. Ý thức hướng tới một thứ văn chương sâu sắc hơn đã trở thành một nhu cầu
hết sức bức xúc trong ông, đòi hỏi ở ông một sự thay đổi quyết liệt hơn. Với tiểu
luận “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn minh họa” (1987), Nguyễn Minh
Châu đã đề nghị đoạn tuyệt với lối văn chương minh họa “chỉ quen với công việc
cài hoa kết lá, vờn mây cho những khuôn khổ đã có sẵn”, quyết tâm chọn cho mình
một hướng đi mới, tiếp cận đời sống và con người dưới góc độ nhân bản. Nhà văn
lặng lẽ và kiên trì thực hiện một loạt những cuộc đối chứng lại với quá khứ để nâng
tầm tác phẩm, tạo ra trong tác phẩm của mình một chiều sâu suy nghĩ và nhận thức
mới về con người. Ông muốn tác phẩm văn chương phải làm “hiện lên những mẫu
người của xã hội với tất cả da thịt và hơi thở, với tất cả mầu vẻ của những mối
quan hệ bên ngoài và những gì đang giấu kín và cũng đang giao tranh với nhau ở
bên trong: những lý tưởng và dụng vọng, trí tuệ và bản năng, thiện và ác, những
14


phần con người ý thức được và những phần vô thức của con người mà chỉ ngòi bút
nhà văn mới có thể soi sáng, lý giải và báo hiệu” [13; 345].
Bằng tài năng và tâm huyết của một nhà văn luôn trăn trở với sự nghiệp
văn học nước nhà, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện những thay đổi trong tư duy
nghệ thuật của mình qua một loạt tác phẩm có nhiều tìm tòi, khám phá. Những
truyện ngắn viết vào những năm 80 của thế kỉ XX in trong các tập Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Cỏ lau của ông đã tạo nên một hiện tượng

mới lạ trong văn học đương đại. Bạn đọc từng biết đến Nguyễn Minh Châu như
một cây bút tiểu thuyết tên tuổi giờ đây còn phát hiện ở ông một tài năng viết
truyện ngắn rất tài hoa, độc đáo. Đánh giá về vai trò của Nguyễn Minh Châu đối
với văn học sau 1975, nhà văn Nguyên Ngọc trân trọng khẳng định: “Thời gian,
nhà phê bình nghiêm khắc và công bằng ấy rồi sẽ xác định lại đúng đắn hơn nữa
vị trí của Nguuyễn Minh Châu. Song tôi nghĩ, hôm nay có lẽ cũng đã có thể nói
không sai rằng Nguyễn Minh Châu thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh
và tài năng nhất của văn học ta hiện nay”.
Nguyễn Minh Châu mở đầu nghiệp văn của mình bằng một truyện ngắn và
kết thúc cũng bằng một truyện ngắn. Truyện ngắn đầu tay “Sau một buổi tập” của
Nguyễn Minh Châu được in trên tạp chí Văn nghệ quân đội vào năm 1960. Tiếp
sau đó là một loạt các truyện ngắn khác cũng được đăng trên tạp chí này. Theo tài
liệu mà người viết có trong tay, tính đến năm 1975, ông có tất cả 19 truyện ngắn,
gồm 7 truyện in trong tập “Những vùng trời khác nhau”, 11 truyện khác in trên tạp
chí Văn nghệ quân đội (Xem phụ lục, Nguyễn Minh Châu toàn tập, tập 5, Nxb Văn
học, 2001) và 1 tập truyện in trong tập “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”
(1983) những thời gian sáng tác là năm 1967 (truyện Mùa hè năm ấy). Ngoài ra có
thể kể thêm “Ký sự hai bờ đất” mà tác giả luận văn cho là có tính chất của một
truyện ngắn hơn là một bài kí. Nhìn chung, chất lượng truyện ngắn giai đoạn này
không đồng đều. Nhưng truyện ngắn ở giai đoạn đầu như Sau một buổi tập, Con
15


đường đến trường… chỉ có tính chất thử nghiệm, chất lượng nghệ thuật chưa cao.
Nhưng những truyện ngắn hay hơn đã được chuyển vào tập Những vùng trời khác
nhau, trong số đó “Mảnh trăng cuối rừng”được coi là hay nhất và cũng tiêu biểu
nhất cho cảm hứng và bút pháp trữ tình, lãng mạn của nhà văn.
Sau 1975, Nguyễn Minh Châu có 23 truyện ngắn, gồm 8 truyện in trong tập
“Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, 9 truyện in trong tập “Bến quê”, 3
truyện in trong tập “Cỏ lau”, 3 truyện in trên tạp chí Văn nghệ quân đội (Chú

chim, Chợ tết, Sân cỏ Tây Ban Nha – Xem phụ lục Nguyễn Minh Châu toàn tập,
tập 5).
Nhiều tác phẩm được đánh giá cao hơn giai đoạn trước như Bức tranh,
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc thuyền ngoài xa, Bến quê, Cỏ
lau, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát…
Căn cứ vào thời gian ra đời và những chuyển đổi trên nhiều phương diện
nghệ thuật, có thể coi Bức tranh là tác phẩm đánh dấu bước ngoặt trong sáng tác
của Nguyễn Minh Châu qua hai giai đoạn trước và sau 1975. Thiên truyện này
được viết từ năm 1976, ngay sau khi kết thúc chiến tranh nhưng mãi đến năm
1982 mới được in. Dù không phải là tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Minh
Châu nhưng truyện ngắn này đã cắm một mốc quan trọng trong hành trình sáng
tạo văn học của nhà văn, dự báo cho sự ra đời những tác phẩm tiếp theo với một
quan niệm, một mô hình, một bút pháp hoàn toàn mới. Từ đây, cái nhìn của nhà
văn đã có sự thay đổi tiến gần đến sự thực hơn, quan tâm nhiều hơn đến hiện thực
đời thường với số phận của con người cá nhân.
Xuất phát từ mối quan tâm lo lắng của nhà văn về những vấn đề phức tạp
nảy sinh trong cuộc sống mới thời hậu chiến, mỗi truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu thời kì này thường ngầm chứa một bức thông điệp nào đó về đạo đức lối
sống, về quan niệm nhân sinh. Cùng với Bức tranh, một loạt truyện ngắn ra đời
sau đó đã cho người đọc thấy được nhiều ưu tư trăn trở của ông về cuộc sống và
16


con người, trong đó nổi bật lên vấn đề về sự thức tỉnh của lương tâm để hướng tới
cái đẹp và sự hoàn thiện nhân cách. Ông lưu ý mọi người về sự độc ác hồn nhiên
ngoài ý muốn (Đứa ăn cắp); nhắc nhở về lối sống ứng xử của con cái đối với cha
mẹ (Mẹ con chi Hằng); cảnh báo về hậu quả của lối sống gia trưởng (Giao thừa);
ông day dứt về hậu quả của sự đánh mất bản thân (Sắp vai); mong muốn mỗi
người hãy luôn tự đối chứng, tự vấn lương tâm (Bức tranh, Hạng)…
Tiếp theo những thể nghiệm bước đầu trong tập Người đàn bà trên chuyến

tàu tốc hành, các tập Bến quê, Cỏ lau ra đời sau đó càng được dư luận đặc biệt chú
ý, được xem “như là một hiện tượng văn học mới, một phong cách trần thuật
mới”. Lấy số phận con người làm tiêu điểm cho lăng kính nghệ thuật của mình,
Nguyễn Minh Châu đi sâu khám phá những tầng vỉa sâu thẳm của thế giới bên
trong con người. Trong các truyện ngắn của ông, xu hướng triết lí nhận thức ngày
càng rõ nét hơn, con người trong tác phẩm luôn khao khát nhận thức, chiêm nghiệm
đời sống, tự đối thoại và tự nhận thức mình trong mối tương quan với tự nhiên và
xã hội. Đằng sau những câu chuyện đời thường trong Dấu vết nghề nghiệp, Bến
quê, Chiếc thuyền ngoài xa, Một lần đối chứng… là những chiêm nghiệm sâu sắc
về lẽ đời, là những suy nghĩ da diết về chân lí nghệ thuật và đời sống.
Các truyện như Khách ở quê ra, Sống mãi với cây xanh, Cỏ lau, Phiên chợ
Giát… còn như bao quát thêm nhiều vấn đề có tính lịch sử vào trong cái nhỏ bé
của một đời người. Về nội dung phản ánh, ở các truyện này vấn đề không chỉ là
"một lát cắt của đời sống” mà đã có tham vọng muốn tái hiện diễn tiến của cuộc
đời, một số phận với nhiều mối quan hệ đan xen phức tạp. Nhà văn dường như
muốn thông qua câu chuyện về một cuộc đời mà gợi lên những vấn đề có tầm vóc
dân tộc, thời đại.
Không chỉ trong sáng tác, ông còn lưu lại dấu ấn cá nhân của mình qua
những trang tiểu luận phê bình hết sức sâu sắc được viết rải rác suốt một khoảng
thời gian dài, sau này được tập hợp lại trong cuốn Trang giấy trước đèn. Các bài
17


tiểu luận của ông đã đề cập đến nhiều phương diện trong quá trình văn học: từ tác
dụng của văn học đến mối quan hệ giữa văn học và đời sống chiến tranh cách
mạng, mối quan hệ giữa nhà văn – nhân vật – bạn đọc, vai trò và trách nhiệm của
người cầm bút, chân dung nhà văn, kinh nghiệm sáng tác… Những bài viết của
ông cũng góp phần không nhỏ vào việc tạo nên một không khí sôi nổi trong đời
sống văn học những năm cuối thế kỉ XX, đồng thời giúp cho người đọc hiểu thêm
về con người và sáng tác của ông, một trong những nhà văn đi đầu công cuộc đổi

mới văn học.
Muôn mặt đời thường đã đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, đem lại
cho tác phẩm của ông sự đóng góp quan trọng trong việc nỗ lực lấp đầy một
khoảng trống của văn chương trước đó bằng cái hàng ngày, bằng những số phận
cá nhân trong đời sống cộng đồng. Ông quan niệm: “Con người vừa dễ hiểu vừa
đầy bí ẩn. Chúng ta đào bằng ngòi bút cho đến cùng đáy cái sự thật chứa đầy bí
ẩn, đầy nỗi niềm nguồn cơn của con người đất nước mình thì sẽ gặp con người
nhân loại, sẽ gặp cái nhân bản của nhân loại, con người Việt Nam sẽ giao hòa
với nhân loại” [2; 144]. Việc tìm tòi khám phá, đào sâu vào bản chất con người
cũng là con đường để tác phẩm của ông vươn đến tiếp cận những giá trị vĩnh hằng
của cuộc đời.
Đời văn của Nguyễn Minh Châu khép lại với thiên truyện ngắn nổi tiếng
Phiên chợ Giát. Được viết trên giường bệnh trong những ngày cuối đời, thiên
truyện đặt dấu chấm hết cho một đời văn đầy nhọc nhằn nhưng cũng rất đáng tự
hào của ông. Với những đóng góp sau ba mươi năm miệt mài cầm bút, nguyễn
Minh Châu đã vinh dự được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn
học và Nghệ thuật (đợt II, năm 2000).
1.2.2.2. Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu
Là một người không chỉ dựa vào bản năng thiên bẩm mà luôn quan sát và
suy nghĩ về chính công việc của mình và đồng nghiệp, ở Nguyễn Minh Châu đã
18


hình thành ý thức nghệ thuật khá nhất quán và ngày càng toàn diện, sâu sắc trong
hành trình sáng tạo của nhà văn.
Như mọi nhà văn chân chính, mối quan tâm trước hết ở Nguyễn Minh
Châu là quan hệ giữa văn học với đời sống, với thời đại. Ngay từ thời kì đầu cầm
bút, nhà văn đã quan niệm: “Văn học bao giờ cũng trả lời những câu hỏi của ngày
hôm nay, bao giờ cũng phải đối mặt với những người đương thời về những câu
hỏi cấp bách của đời sống” (Nhà văn, đất nước và dân tộc mình). Ngay từ năm

1971, trong bài Trang sổ tay viết văn, khi nhìn lại những sáng tác văn học trong
giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Minh Châu đã nhận ra
được hạn chế của nhiều tác phẩm “Hình như cuộc chiến đấu anh hùng sôi nổi hiện
nay đang được văn xuôi và thơ ca tráng lên một lớp men “trữ tình” hơi dày, cho
nên ngắm nó thấy mỏng manh, bé bỏng và óng chuốt quá khiến người ta phải ngờ
vực”. Sau năm 1975, nhận thức của nhà văn về hiện thực càng được rộng mở và
đạt tới chiều sâu mới. Ngòi bút của Nguyễn Minh Châu không bị khuôn vào
những đường hướng,những khuôn khổ có sẵn mà mở ra để khám phá toàn bộ đời
sống xã hội và con người trong tính “đa sự, đa đoan” của nó. Đồng thời quan
niệm về hiện thực ở Nguyễn Minh Châu cũng luôn gắn liền với nền tảng tinh thần
nhân bản: “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là
con người” (Trả lời phỏng vấn báo Văn nghệ đầu xuân năm 1987).
Nhìn lại văn học viết về chiến tranh trước năm 1975, nhà văn nhận ra rằng
các sự kiện thường lấn át con người, nhân vật nhiều khi chỉ là phương tiện để nhà
văn tái hiện, xâu chuối các biến cố lịch sử. Từ đó ông nghiệm ra rằng : “Phải viết
về con người. Tất nhiên là con người không tách rời sự kiện chiến tranh”, “Rồi
trước sau con người cũng leo lên trên các sự kiện để đòi “quyền sống”. Với
Nguyễn Minh Châu, cái hiện thục phong phú, nhiều vẻ đẹp nhất những cũng bí ẩn
nhất đó là thế giới bên trong của con người. Nếu như trong thời kì chiến tranh,
khát vọng của nhà văn là “gắng đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm
19


hồn con người”, mà mỗi con người trong chiến tranh là cả một kho báu, người
cầm bút suốt đời cũng không khám phá hết được. Còn sau chiến tranh, khi đã có
điều kiện để tiếp cận con người trong tính hiện thực toàn vẹn của nó, nhà văn lại
thấy bên trong mỗi con người “đang lẫn lộn người tốt kẻ xấu, rồng phượng lẫn
rắn rết, thiên thần và ác quỷ”.
Như mọi nhà văn chân chính, khi lựa chọn công việc cầm bút làm sự
nghiệp của đời mình, Nguyễn Minh Châu đã ý thức sâu sắc về trách nhiệm, về sứ

mệnh của nhà văn trước cuộc đời, trước đất nước, trước con người. Trong những
năm tháng kháng chiến, khi cùng với đông đảo những người cầm bút đứng vào
hàng ngũ của nhân dân để đánh giặc, nhà văn thấu hiểu trách nhiệm thiêng liêng
của người cầm bút là trách nhiệm công dân: “Khi chúng ta ngồi viết những câu
văn thì bố mẹ anh chị em ta đang đổ mồ hôi và vắt óc nghĩ cách đánh giặc, mọi
người chung quanh ta đang đứng trên từng vị trí kháng chiến cứu nước của họ.
Chúng ta ngồi viết giữa khi kẻ thù đang châm lửa đốt nhà và kề miệng súng vào
ngực đứa con ta. Lẽ nào có thể làm ngơ được? Lẽ nào chúng ta có thể viết những
câu văn trái với nhiều người xung quanh hiện đang phải lo nghĩ để chiến thắng
giặc”. Nhưng khi cuộc chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc đã được hoàn
thành, thì cuộc đấu tranh cho tự do và sự hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân
còn phải tiếp tục lâu dài và khó khăn, nhà văn cần phải dùng “ngòi bút của mình”
trợ lực cho con người trong cuộc đấu tranh giữa thiện và ác”.
Càng ngày Nguyễn Minh Châu càng tha thiết với sứ mệnh của văn chương
và nhà văn trong mục tiêu cao cả vì con người. Ông viết: “Nhà văn tồn tại ở trên
đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những
ngươi cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến
chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hiu và đọa đầy đến ê
chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại trên
đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực” (Ngồi buồn mà
20


chơi). Để làm được như thế, phẩm chất đầu tiên cần có của một người viết văn
phải là tình yêu thương con người: “Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà
văn lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu
thương con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say
mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số
phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cầm giữ cái tình yêu ấy
trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ,

bất hạnh của người đời, giúp họ có thể vượt qua những khủng hoảng tinh thần và
đứng vững được trước cuộc sống” (Phỏng vấn đầu xuân năm 1986).
Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đặc biệt là những sáng tác từ sau
1975, đã thể hiện “mối quan hoài sâu sắc” và thường trực của nhà văn với số
phận và nỗi đau khổ của con người.
Điều đáng chú ý là ở Nguyễn Minh Châu giữa những quan niệm, nhận
thức được phát biểu trực tiếp với tác phẩm luôn có sự thống nhất, quá trình
sáng tác cũng là quá trình nhà văn tự tìm kiếm và xác định ngày càng toàn
diện và sâu sắc quan niệm của mình.

21


Chương 2
CẤU TRÚC TƯ TƯỞNG NGHỆ THUẬT
CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Trên hành trình sáng tạo văn học của mình, Nguyễn Minh Châu chủ
trương đi tìm “ hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người”, nhà văn đã
tạo cho mình tư tưởng nghệ thuật riêng: “ Là linh hồn, là kết tinh của những
cảm nhận, suy nghĩ về cuộc đời. Tư tưởng thấm nhuần trong tác phẩm như
máu chảy trong huyết quản thấm đến từng tế bào cơ thể [23; 283] nhờ đó đã
tạo nên cho mình một phong cách nghệ thuật riêng độc đáo, là một trong
“những người mở đường tinh anh và tài năng người đi được xa nhất trong
cao trào đổi của văn học Việt Nam đương đại”.
2.1. Đi tìm vẻ đẹp sâu kín trong tâm hồn con người
Nguyễn Minh Châu cho rằng trong bể sâu tâm hồn con người đều có
hạt ngọc ẩn giấu. Đó là những vẻ đẹp cao quý và đáng trân trọng trong phẩm
chất mỗi con người. Những vẻ đẹp đó không phải dễ tìm, dễ kiếm. Trải qua
những gian lao thử thách, những khó khăn khắc nghiệt của cuộc sống, “hạt
ngọc ẩn giấu” ấy dần dần hé lộ.

Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, cả dân tộc chung một kẻ thù,
chung một quyết tâm, đồng tâm hiệp lực “tất cả cho chiến thắng” hiện thực
lớn nhất trong văn học đương nhiên phải là hiện thực của cuộc chiến tranh
giải phóng, “cái nhìn nghệ thuật” của nhà văn đương nhiên phải đồng hướng
tới tầm nhìn của cộng đồng với những chuẩn mực đánh giá thống nhất theo
quan điểm của cộng đồng, trên cơ sở lợi ích của cộng đồng. Nhà văn Nguyên
Ngọc từng phát biểu: “Trong chiến tranh, mọi quan hệ xã hội và con người
dồn lại và thu hẹp vào một quan hệ duy nhất: Sống và chết. Người ta phải
sống phi thường, phi thường có thể là cao cả, nhưng phi thường cũng đồng
thời là triệt tiêu đi bao nhiêu quan hệ bình thường mà vô cùng phong phú và
phức tạp của con người, đẩy tất cả các quan hệ ấy về phía sau” [43; 169].
22


×