Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

ĐỔI mới NGHỆ THUẬT NGUYỄN MINH CHÂU TRONG TRUYỆN NGẮN CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.81 KB, 7 trang )

đổi mới nghệ thuật của nguyễn minh châu
trong truyện ngắn chiếc thuyền ngoài xa
Phần mở đầu
guyễn Minh Châu (1930 - 1989) là nhà văn có một vị trí rất đặc biệt trong đời sống văn
học nớc ta, nhất là trong thời kỳ mà văn học Việt Nam đang có sự chuyển động rất phong
phú, sâu sắc và phức tạp, một thời kỳ chuyển mình, trở dạ quằn quại của đất nớc, của xã
hội, của văn học : thời kỳ đổi mới. Trong số những cây bút văn xuôi đơng đại, Nguyễn
Minh Châu là ngời cảm nhận sớm nhất, sâu xa nhất tận máu thịt, tâm tởng mình cái yêu cầu bức bách
sống còn của công cuộc đổi mới văn học. Và lặng lẽ, âm thầm, khiêm nhờng mà cực kỳ dũng cảm, nhà
văn đã kiên định đi vào con đờng chông gai, nguy hiểm đó. Trên hành trình đổi mới ấy, Nguyễn Minh
Châu là ngời đã đi đợc xa nhất, trở thành nhà văn tiên phong của sự nghiệp đời mới thuộc số những
nhà văn mở đờng tinh anh và tài năng của văn nhọc ta hiện nay (Nguyên Ngọc). Với những tìm tòi,
thể nghiệm của ông ở thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Nguyễn Minh Châu không chỉ góp phần khai phá, mở
đờng cho một giai đoạn văn học mới mà còn có những cách tân nghệ thuật táo bạo, góp phần đa văn
học Việt Nam hội nhập với văn học hiện đại thế giới.
N
Bắt đầu từ truyện ngắn đầu tay Sau một buổi tập (1960) đến truyện ngắn cuối cùng Phiên chợ
Giát (1988), sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu đã trải qua gần 30 năm với 13 tập văn xuôi và
một tập tiểu luận phê bình. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu có thể chia làm hai thời kỳ : trớc thập kỷ
80, ông là ngòi bút sử thi có thiên hớng trữ tình, lãng mạn ; sau thập kỷ 80, ông chuyển hẳn sang cảm
hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lý nhân sinh. Chiếc thuyền ngoài xa (1983) thuộc giai
đoạn sáng tác thứ hai của Nguyễn Minh Châu là một truyện ngắn tiêu biểu, xuất sắc, một minh chứng
rõ nét cho những tìm tòi, đổi mới về t tởng và nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong thời kỳ đổi
mới. Tác phẩm này đợc đa vào chơng trình giảng dạy và SGK Ngữ văn 12. Do đó, chọn đề tài Đổi mới
nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, chúng tôi hy vọng :
- Một là, tìm hiểu những đổi mới nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn Chiếc
thuyền ngoài xa nói riêng và sáng tác sau 1975 của Nguyễn Minh Châu nói chung. Từ đó, thấy đợc vai
trò mở đờng tinh anh và tài năng của nhà văn trong công cuộc đổi mới văn học Việt Nam
- Hai là, trên cơ sở đó, giúp các em học sinh hiểu đợc một cách đẩy đủ, sâu sắc về truyện ngắn
Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu nói riêng và về các tác phẩm văn xuôi sau 1975 nói
chung (trong sự đối chiếu với các tác phẩm văn xuôi giai đoạn 1945 - 1975).


Dới đây, chúng tôi xem xét sự đổi mới nghệ thuật của NMC trong truyện ngắn Chiếc thuyền
ngoài xa trên một số phơng diện cơ bản sau : đổi mới về đề tài, đổi mới quan niệm nghệ thuật về con
ngời, đổi mới về nhân vật, đổi mới về nghệ thuật trần thuật.
Phần nội dung
I. Đổi mới về đề tài. Trong văn học Việt Nam 1945-1975, các tác phẩm chủ yếu đợc viết theo
khuynh hớng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Với cảm hứng đó, văn xuôi đã dựng lên bức tranh hoành
tráng về lịch sử, tái hiện một thời kỳ đau thơng nhng hào hùng của dân tộc. Sau 1975, hiện thực mới
đòi hỏi phải đợc nhìn nhận toàn diện và thấu đáo hơn. Đặc biệt, trớc sự chuyển biến mau lẹ của đời
sống xã hội cùng sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trờng, đề tài văn xuôi sau 1975 ngày càng đ-
ợc triển khai, mở rộng. Văn xuôi nớc ta chuyển mạnh sang cảm hứng thế sự, sinh hoạt. Nhà văn tỏ rõ
thái độ của mình đối với cuộc sống hôm nay, hớng ngòi bút của mình vào đời sống thế sự, nhân sinh
thờng ngày với những chi tiết sinh hoạt đời thờng có khi nhỏ nhặt để khai thác triệt để cái hàng ngày
vốn rất đa dạng và phong phú của đời sống hiện thực. Chính cuộc sống ấy đã tác động đến từng ngời,
tạo nên số phận riêng, cảnh ngộ riêng của họ. Sự tiếp cận đời sống ở phơng tiện đời t thế sự nh vậy đã
đem đến cho văn học sau 1975 những trang viết mới mẻ, sâu sắc thể hiện mọi khía cạnh của đạo đức
cá nhân và những quan hệ thế sự đan dệt cuộc sống đời thờng phồn tạp và vĩnh hằng (Nguyễn Văn
Long).
Đi theo khuynh hớng trên của văn học sau 1975, các sáng tác của Nguyễn Minh Châu quan tâm
đến các vấn đề về thế sự và đời t. Sự đổi mới quan hệ giữa nhà văn và hiện thực trớc hết đợc bắt đầu với
nhu cầu nói thật, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Theo ông Văn học bao
giờ cũng phải trả lời những câu hỏi của ngày hôm nay, bao giờ cũng đối thoại với những ngời đơng
thời về những câu hỏi cấp bách của đời sống và công việc sáng tạo bao giờ cũng diễn ra trong cô đơn,
trong sự lắng sâu những kinh nghiệm sống, sau những chiêm nghiệm về lẽ đời và lòng ngời. Bởi vậy,
Nguyễn Minh Châu là ngời chủ trơng đa văn học trở về với những quy luật vĩnh hằng của đời sống con
ngời, coi tính chân thật là một phẩm chất quan trọng của văn học. Chính vì thế, trong Chiếc thuyền
ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã chọn số phận cá nhân con ngời trong cuộc mu sinh nhọc nhằn thời
hậu chiến làm đối tợng khám phá. Nhà văn nhìn thẳng vào hiện thực, để hiện thực hiện lên với tất cả
các xù xì, góc cạnh của nó. Truyện dờng nh không có bóng dáng bất cứ một sự kiện chính trị xã hội
nào, mà chỉ là cuộc sống bế tắc, quẩn quanh, thờng nhật của một gia đình dân chài vùng đầm phá
miền Trung, cách Hà Nội hơn 600 cây số. Qua phát hiện của nghệ sĩ Phùng, Nguyễn Minh Châu đã tái

hiện chân thực cuộc sống nghèo khổ, tăm tối của ngời lao động lam lũ, vất vả qua một cảnh tợng ngang
trái : ngời đàn bà làng chài bị chồng đánh đập dã man. Không chỉ phản ánh hiện thực mà nhà văn còn
nghiền ngẫm, suy ngẫm về hiện thực. Viết về tình trạng bạo hành trong gia đình làng chài, Nguyễn
Minh Châu không chỉ lên án thói vũ phu, báo động về tính trạng bạo lực mà còn bộc lộ những suy t,
trăn trở về những vấn đề của đời sống : chiến tranh đã qua đi, đất nớc đã đợc giải phóng nhng cuộc đời
của những con ngời lao động nghèo khổ sẽ thế nào, liệu có tơi sáng hơn ? tơng lai của những đứa trẻ
nh thằng Phác sẽ ra sao ? Cho nên, chắc không phải ngẫu nhiên khi tác giả để ngời đàn bà làng chài bị
chồng đánh ở bãi xe tăng hỏng. Hình ảnh này nh một gợi ý rằng : phải chăng cuộc chiến chống đói
nghèo, tăm tối còn gian nan, quyết liệt hơn cả cuộc đấu tranh chống ngoại xâm ? phải chăng đã đến lúc
chúng ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng con ngời, sao cho con ngời ngày một tốt hơn ? Khai
thác đề tài thế sự và đời t, Nguyễn Minh Châu đã đem đến một cách tiếp cận và khám phá mới về hiện
thực, về cuộc sống của con ngời sau chiến tranh.
II. Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con ngời. Sự đổi mới, sự phát triển của văn học suy cho
cùng là sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con ngời. Nếu văn xuôi trớc 1975 thờng phản ánh con ngời
trong mối quan hệ với cộng đồng, với giai cấp, với dân tộc thì quan niệm về con ngời trong văn xuôi
sau 1975 có sự biến đổi rất rõ, biểu hiện ở hai điểm cơ bản sau :
Thứ nhất, là sự chuyển biến từ quan niệm con ngời theo kiểu sử thi đến quan niệm về con ngời
kiểu thế sự, đời t, con ngời cá nhân phức tạp, nhiều bí ẩn. Trong văn xuôi sau 1975, con ngời đợc đặt
trong các mối quan hệ đa dạng, phong phú của đời sống, đợc soi chiếu từ nhiều góc độ.
Thứ hai, là mở rộng những bình diện khám phá con ngời : con ngời lịch sử, con ngời nhân loại, con
ngời tự nhiên
Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, nếu trớc 1975 con ngời đợc thể hiện chủ yếu ở bình diện
xã hội trong những mô hình giản đơn và vận động xuôi chiều thì sau 1975, con ngời không còn mang
vẻ đẹp lý tởng, hoàn hảo, không tắm rửa trong bầu không khí vô trùng nữa mà đợc khám phá trong
nhiều hoàn cảnh và nhiều mối quan hệ phức tạp, chằng chịt của đời sống. Tâm điểm khám phá nghệ
thuật của ông là con ngời trong cuộc mu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn
thiện nhân cách. Ông coi văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm của nó là con
ngời, còn nhà văn chân chính thì bao giờ cũng mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là
tình yêu thơng con ngời. Điều đó thôi thúc ông thực hiện đổi mới: nghiêng về đề tài thế sự, đi sâu vào
những vấn đề của cá nhân trong mối quan hệ đời thờng, đề xuất quan niệm mới mang nội dung dân

chủ và nhân văn sâu sắc về con ngời. Sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con ngời của Nguyễn Minh
Châu đợc biểu hiện ở hai điểm cơ bản sau:
Một là, nhìn con ngời trong tính toàn vẹn và tổng thể, luôn chuyển hoá, vận động. Cái nhìn này
giúp nhà văn khám phá con ngời sâu sắc, toàn diện hơn; sự phản ánh chính xác, thấu đạt nhân tình hơn.
Hai là, đề cao và thức tỉnh sự tự ý thức của con ngời cá nhân, coi đó không chỉ là biểu hiện thái
độ tôn trọng con ngời mà còn là phơng cách hữu hiệu để nhà văn tìm ra con ngời bên trong của con ng-
ời, miêu tả toàn bộ chiều sâu của tâm hồn con ngời. Có thể nhận thấy nỗi niềm thờng trực và ngày càng
da diết trong trái tim nhân ái của Nguyễn Minh Châu, thậm chí trở thành mạch cảm hứng chủ đạo, bao
trùm phần lớn những trang viết của ông là sự trăn trở khôn nguôi về số phận con ngời cá nhân, đúng
nh ông nói : Ông trời sinh ra tôi để kêu thét lên các nỗi thống khổ của con ngời và kêu gọi con ngời ta
hãy lại với nhau.
Trong Chiếc thuyền ngoài xa, qua hình tợng các nhân vật : ngời đàn bà làng chài, lão đàn ông vũ
phu, thằng bé Phác Nguyễn Minh Châu đã phản ánh chân thực đời sống thờng ngày của con ngời lao
động vất vả, lam lũ. Chiến tranh đã đi qua, cách mạng đã về nhng ở gia đình làng chài, bi kịch vẫn
diễn ra, tình trạng bạo lực gia đình vẫn hàng ngày hàng giờ tiếp diễn. Nguyên nhân trực tiếp của tình
trạng bạo lực này là do sự tăm tối và thói vũ phu của ngời đàn ông. Song nguyên nhân sâu xa là bởi
tình trạng đói nghèo, là đời sống bấp bênh kéo dài gây ra tâm lý bế tắc, u uất. Hành động đánh vợ dã
man của ngời đàn ông không chỉ là biểu hiện của sự độc ác, ích kỷ, vũ phu mà còn nh một sự giải toả
nỗi ấm ức, bế tắc trong lòng ông ta. Gánh nặng mu sinh đè nặng lên đôi vai khiến ngời chồng tha hoá
dần, từ một anh con trai hiền lành trở thành kẻ độc dữ, thô bạo. Hậu quả của tình trạng bạo lực ấy là
nỗi đau khổ nặng nề mà ngời mẹ và những đứa con phải gánh chịu. Ngời mẹ không chỉ bị hành hạ về
thể xác mà còn bị giày vò về tinh thần vì bà luôn nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thơng. Thằng Phác vì
yêu thơng mẹ mằ thành căm ghét bố, nó xông vào đánh bố để bảo vệ mẹ và nh vậy niềm tin trong trẻo
của tuổi thơ bị rạn vỡ. Nói về tình trạng này, Nguyễn Minh Châu không chỉ lên án thói vũ phu, báo
động về tình trạng bạo lực mà còn ca ngợi vẻ đẹp của tình mẫu tử, lên tiếng bảo vệ khát vọng đợc sống
trong yêu thơng, yên bình của trẻ em. Qua bi kịch của gia đình làng chài, nhà văn băn khoăn, trăn trở,
day dứt về số phận con ngời. Con mắt nhân đạo của tác giả còn thể hiện ở nỗi lo âu đầy trách nhiệm :
cậu bé Phác sẽ thành ngời nh thế nào ? tơng lai của những đứa trẻ sẽ ra sao ?
III. Đổi mới thế giới nhân vật. Trớc 1975, Nguyễn Minh Châu khái quát hiện thực chủ yếu qua hình
tợng các nhân vật loại hình, những nhân vật có chức năng cơ bản là thể hiện sinh động, sắc nét những phẩm

chất, tính cách cơ bản của cộng đồng ; trong đó nhân vật trung tâm là ngời lính, những ngời anh hùng của
thời đại. Sau 1975, ông đã xây dựng đợc những kiểu loại nhân vật mới, những nhân vật đa chức năng phản
ánh cuộc sống đời t, thế sự. Trong thế giới nhân vật của Nguyễn Minh Châu, nổi bật lên hai loại nhân vật
đặc trng : loại nhân vật t tởng và loại nhân vật tính cách - số phận.
1. Nhân vật t tởng. Đây là loại nhân vật tập trung thể hiện một t tởng, một ý thức tồn tại trong
đời sống tinh thần của xã hội. Các nhân vật này hoặc mang nhu cầu đợc sống trung thực với bản thân
mình hoặc đòi hỏi phải nhận thức lại một số vấn đề của đời sống xã hội. Trong Chiếc thuyền ngoài xa,
nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu thuộc loại nhân vật t tởng. Xây dựng hai nhân vật này, Nguyễn Minh
Châu không chú trọng khai thác tính cách nhân vật mà tập trung làm nổi bật hành trình tự nhận thức
của Phùng và Đẩu thông qua một tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống và
nghệ thuật.
Phùng là một nghệ sĩ giàu tâm huyết, tâm hồn tinh tế, thiết tha với cái đẹp. Thực hiện yêu cầu
của anh trởng phòng khó tính muốn có tấm ảnh cho lý lịch cuối năm sau, Phùng đã tìm đến một vùng
ven biển miền Trung. Sau nhiều ngày phục kích, ngời nghệ sĩ đã bắt gặp cái khoảnh khắc xuất thần
của cái đẹp nghệ thuật và chụp đợc một cảnh đắt trời cho : cảnh thuyền đánh cá thu lới lúc bình minh.
Trong màn sơng sớm trắng soá, phớt chút hồng của ban mai trinh khiết, con thuyền ngoài xa đẹp nh
mơ lặng lẽ lớt tới. Trên mui thuyền, những dáng ngời ngồi im phăng phắc đầy chất tạo hình, cận cảnh
là mắt lới vó, hậu cảnh là chiếc thuyền ng phủ nhoè trong sơng. Toàn bộ khung cảnh từ đờng nét đến
ánh sáng đều hài hoà đến độ toàn bích. Đó là một bức hoạ diệu kỳ, một sản phẩm nghệ thuật tuyệt tác
của hoá công mà trong đời ngời nghệ sĩ không phải lúc ào cũng chộp đợc. Trớc cái đẹp tuyệt đỉnh của
ngoại cảnh, tâm hồn ngời nghệ sĩ rung động thực sự và phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức.
Anh cảm nhận đợc cái chân, cái thiện của cuộc đời và cảm thấy tâm hồn mình nh đợc gột rửa trở nên
thật trong trẻo, tinh khôi, có nghĩa là cái đẹp đã có tác dụng thanh lọc tâm hồn con ngời. Thế nhng,
ngay khi tâm hồn đang bay bổng trong những xúc cảm thẩm mỹ thì Phùng đã kinh ngạc khi phải chứng
kiến một cảnh tợng khủng khiếp : ngời đàn bà làng chài bị chồng đánh đập tàn nhẫn mà vẫn nhẫn nhục
chịu đòn không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy. Anh bàng hoàng
nhận ra đằng sau cảnh đẹp nh mơ là bao nghịch lý éo le, bao ngang trái đời thờng xót xa. Phải sau khi
gặp và nghe ngời đàn bà kể về cuộc sống của mình, Phùng mới vỡ ra nhiều điều về cuộc sống và con
ngời. Anh đã phát hiện ra những vẻ đẹp khác đằng sau những bức ảnh mà anh dày công săn tìm. Nó
không toàn diện toàn mỹ nh chiếc thuyền ngoài xa mà là cái đẹp của cuộc sống đời thờng đa đoan, đa

sự. Anh vỡ lẽ đừng bao giờ giữ cái nhìn một chiều để phát hiện cuộc sống vốn đa diện, phức tạp và
luôn bí ẩn, bất ngờ. Phùng ngộ ra mối quan hệ giữa hiện thực và nghệ thuật. Anh hiểu rằng ngời nghệ
sĩ không thể vì khao khát cái đẹp nghệ thuật mà quên đi cuộc đời, bởi nghệ thuật chân chính luôn đợc
khơi nguồn từ cuộc đời và vì cuộc đời.
Song trùng với hành trình nhận thức của Phùng là quá trình bừng ngộ của chánh án Đẩu. Vốn là
ngời lính xuất ngũ về làm chánh án toà án huyện vùng biển, Đẩu vẫn giữ nguyên chất lính hồn hậu,
nhiệt tình tấn công cái ác, cái xấu. Phẫn nộ trớc sự ngợc đãi của ngời chồng, xót thơng ngời vợ bị bạo
hành ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng, anh đã đi ngợc với phơng châm lấy hoà giải làm
đầu trong khi giải quyết các vụ án ly hôn mà bảo thẳng với ngời đàn bà : Chị không sống nổi với lão
đàn ông đó đâu. Anh thực hiện pháp luật bằng sự thông hiểu sách vở và những nguyên tắc đạo đức phổ
biến trong cuộc đời. Chính vì vậy, anh đã ứng xử có phần đơn giản trớc cảnh ngộ riêng biệt của ngời
đàn bà làng chài. Thế nhng, chính ngời đàn bà quê mùa, thất học mà sâu sắc nớc đời ấy đã giúp anh
ngộ ra những nghịch lý của cuộc sống, những nghịch lý mà con ngời buộc phải chấp nhận Một cái gì
mới vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển. Anh bắt đầu hiểu ra rằng : muốn thoát
khỏi tăm tối, đói khổ cần phải có những quả pháp luật thực chứ không phải chỉ là những thiện chí hoặc
các lý thuyết đẹp đẽ mà xa rời thực tiễn.
Nh vậy, hành trình nhận thức của Phùng và Đẩu là một quá trình đi từ lầm lẫn, ngộ nhận đến
hiểu biết, giác ngộ. Họ đã bừng ngộ những chân lí của cuộc sống và nghệ thuật, làm thay đổi cách
nhìn, cách nghĩ quen thuộc. Thông qua hai hình tợng nhân vật này, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm
những suy t sâu lắng của mình về những vấn đề của đời sống nhân sinh, của nghệ thuật: hiện thực đời
sống vốn phức tạp, đầy bí ẩn, chứa đựng vô vàn những nghịch lý nên không thể nhìn cuộc đời bằng cái
nhìn giản đơn, dễ dãi, xuôi chiều, mà cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều về cuộc sống và con
ngời. Nhà văn còn khẳng định mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: nghệ thuật chân chính không
bao giờ rời xa cuộc đời ; nghệ thuật phải dành u tiên trớc hết cho con ngời, phải góp phần giải phóng
con ngời khỏi sự cầm tù của đói nghèo, tăm tối và bạo lực. Do đó, yêu cầu ngời nghệ sĩ không thể nhìn
cuộc đời bằng con mắt đơn giản, dễ dãi ; phải có cách nhìn đa chiều và đặc biệt phải mang nặng trong
mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thơng con ngời. Trớc khi là một nghệ sĩ biết rung động tr-
ớc cái đẹp, hãy là một con ngời biết yêu ghét, vui buồn trớc mọi lẽ đời thờng tình, biết hành động để có
cuộc sống xứng đáng với danh hiệu con ngời. Nghệ thuật và cuộc đời phải hoà hợp trong cái chân -
thiện - mỹ.

2. Nhân vật tính cách - số phận Đây là loại nhân vật chứng tỏ độ chín của Nguyễn Minh Châu
về tài năng, bản lĩnh sáng tác. ở loại nhân vật này, t tởng của tác giả cũng nh những vấn đề đặt ra trong
xã hội đợc thể hiện đằng sau cá tính, sau số phận của cá nhân. Hình tợng ngời đàn bà làng chài trong
truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là một nhân vật tiêu biểu. Số phận và vẻ đẹp của con ngời trong
cuộc mu sinh nhọc nhằn thời hậu chiến chính là một khám phá mới của Nguyễn Minh Châu sau 1975.
Trớc hết, ngời đàn bà làng chài hiện lên trong tác phẩm với ngoại hình xấu xí, thô kệch: thân
hình cao lớn, khuôn mặt mệt mỏi tấm lng áo bạc phếch và rách rới. Chị là hiện thân của sự nghèo khổ,
vất vả, cam chịu. Tơng hợp với ngoại hình, cuộc đời ngời phụ nữ này là một chuỗi dài những khổ đau,
éo le và nghịch cảnh : lam lũ, nhọc nhằn để nuôi nấng đặng một sắp con trên dới chục đứa, trở thành
nạn nhân của tình trạng bạo hành, nơi trút giận của ngời chồng vũ phu, thô bạo. Nỗi đau đớn của chị
không chỉ là sự đày đoạ về thể xác mà còn là nỗi lo sợ, nơm nớp sẽ làm tổn thơng tâm hồn những đứa
trẻ. Cho nên, cái nhìn nhân đạo của nhà văn đã phát hiện ra đằng sau câu chuyện buồn này, đằng sau vẻ
ngoài xấu xí kia lại là vẻ đẹp tâm hồn cao đẹp của ngời phụ nữ. Chị thất học mà không dốt nát, tăm
tối, trái lại là ngời rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Kể cho Phùng và Đẩu nghe về cuộc đời mình là một
cách để ngời đàn bà lý giải những nguyên nhân vì sao chị nhất định không bỏ lão chồng vũ phu. Trớc
hết, gã chồng ấy là chỗ dựa quan trọng trong cuộc đời của những ngời đàn bà làng chài nh chị, nhất là
những khi biển động, phong ba. Trong cái nhìn đầy thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ của ngời đàn bà nhân
hậu, ngời chồng vũ phu kia cũng chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Bởi thế, chị đau đớn
nhng không oán hận vì chị thấu hiểu nguyên nhân sâu xa của những hành động thô bạo đó. Sau nữa,
chị cần ngời chồng vì còn phải nuôi những đứa con, chị đâu có thể chỉ sống cho riêng mình mà phải
sống vì chúng nữa. Vả lại, trên thuyền có những lúc vợ chồng con cái sống hoà thuận, vui vẻ. Chính vì
thế, thái độ cam chịu, nhẫn nhục của chị trớc những đòn roi của chồng thực chất là một sự lựa chọn bất
đắc dĩ nhng đã đợc suy tính kỹ lỡng, sáng suốt. Bởi trong hoàn cảnh con đông mà cuộc sống trên mặt
nớc đầy nhọc nhằn, bất trắc, nỗi lo cơm áo không lúc nào buông tha, ngời đàn bà chỉ còn cách lựa chọn
duy nhất là nhẫn nhục để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Chị đã không hề cam chịu một cách vô lý, không
hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà là ngời hiểu sâu sắc lẽ đời. Thái độ nhẫn nhịn ấy là kết quả của
bao tình cảm vị tha, thánh thiện. Chị đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn, phiền não để đảm bảo
cho sự tồn tại của gia đình. Tình yêu thơng nh một bản năng mãnh liệt ngàn đời của ngời phụ nữ đợc
phát lộ dới hình thức bất ngờ nhất và cũng cảm động nhất. Nó cho chị can đảm vể chịu đựng những
trận đòn tàn bạo của chồng nhng lại khiến chị xấu hổ, nhục nhã khi vô tình làm tổn thơng tâm hồn đứa

con thơ dại. Tâm hồn chị thật đẹp đẽ, thánh thiện, nhân hậu, bao dung, giàu đức hy sinh và lòng vị tha.
Nguyễn Minh Châu thật sâu sắc khi phát hiện sự cam chịu của ngời đàn bà là một phẩm chất, là cái
đẹp đáng giá nhất vì nó cần thiết nhất cho những ngời dân làng chài cơ cực kia khi xã hội cha có một
giải pháp thực sự hiệu quả để thay đổi số phận họ. Với những phẩm chất đáng quý ấy mà trong cuộc
đối thoại với Phùng và Đẩu, chính ngời đàn bà thất học ấy lại có đủ t cách giảng dạy cho hai vị trí thức
về những nghịch lý mà con ngời buộc phải chấp nhận khi bị cầm tù trong hoàn cảnh đói nghèo, cùng
cực. Chính chị đã dần dần mở mắt cho Phùng và Đẩu, buộc họ phải đặt cuộc sống vào cái nhìn nhiều
chiều để nhận ra vô vàn nghịch lý : bãi xe tăng bị bốc cháy (chứng tích về những chiến công anh hùng
trong chiến đấu) lại là nơi ngời đàn bà thờng xuyên bị đánh đập, những đứa trẻ đói khát và thất học,
ngời mẹ yêu con cố che giấu sự thật nhng không ngờ lại làm nó tức giận đến mù quáng. Nh thế, chọn
số phận cá nhân trong cuộc mu sinh nhọc nhằn thời hậu chiến làm đối tợng khám phá, Nguyễn Minh
Châu đã thể hiện một chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc, mới mẻ, đã phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp của những hạt
ngọc khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp, lam lũ của đời thờng. Chủ nghĩa nhân đạo ấy trong nghệ thuật
không thể xa lạ với số phận cụ thể của con ngời.
IV. Đổi mới nghệ thuật trần thuật
1. Đổi mới về phơng diện kết cấu tác phẩm. Các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trớc 1975
chủ yếu đợc kết cấu thông qua những cốt truyện có hành động bên ngoài và sự sắp xếp một cách có
nghệ thuật tiến trình sự kiện, biến cố. Đến thời kỳ đổi mới, khai thác những mảng đời trong cuộc sống
nhân sinh, thế sự, cốt truyện trong các sáng tác sau 1975 của ông hầu hết dựa vào những hành động bên
trong của nhân vật, những trạng thái tâm lý, cảm xúc dựa trên cái nền của tình huống xung đột cố hữu, tái
hiện cuộc sống trong dòng chảy tự nhiên, dung dị ở những tầng sâu của nó. Cũng nh vậy, trong Chiếc
thuyền ngoài xa, từ một xung đột đầy nghịch lý Nguyễn Minh Châu đã nêu ra một vấn đề nhận thức cần
suy nghĩ. Cốt truyện tác phẩm dựa trên hai phát hiện của ngời nghệ sĩ nhiếp ảnh, phát hiện thứ nhất đầy
mơ mộng, nên thơ, huyền ảo khi anh bất chợt gặp và chụp đợc một bức ảnh tuyệt đẹp. Phát hiện thứ hai
bất ngờ và trớ trêu nh một trò đua quái ác của cuộc sống : hoá ra bên trong cái đẹp toàn bích mà ngời
nghệ sĩ vừa bắt gặp trên mặt biển xa lại chẳng phải là đạo đức, là chân lý của sự toàn thiện mà là cảnh
một ngời đàn ông làng chài đánh đập vũ phu và độc ác ngời vợ nhẫn nhục, cam chịu của mình. Mở đầu
tác phẩm là cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh nh một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Kết
thúc truyện là ấn tợng, ám ảnh của Phùng về tấm ảnh đợc chọn trong bộ lịch năm ấy. Trong cái nhìn của
ngời nghệ sĩ có sự đối lập giữa màu hồng hồng của ánh sơng mai và hình ảnh ngời đàn bà làng chài lam

lũ. Cái màu hồng hồng của ánh sơng mai là chất thơ của cuộc sống, là vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, là
biểu tợng của nghệ thuật ; còn hình ảnh ngời đàn bà là hiện thân của những lam lũ, khốn khó của đời th-
ờng, nó là sự thật cuộc đời, là hiện thực trần trụi, khắc nghiệt đằng sau vẻ đẹp lãng mạn của bức tranh.
Qua sự đối lập giữa cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh với hiện thực nhọc nhằn, cùng cực của ngời dân
chài, Nguyễn Minh Châu muốn khẳng định mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời, và bổn phận của
ngời nghệ sĩ là phải phát hiện sự thật cuộc đời. Cái đẹp, cái thiện trớc hết phải là cái chân thực.
2. Đổi mới trong điểm nhìn trần thuật. Sự trần thuật từ nhiều điểm nhìn là một đổi mới của văn
học thời hậu chiến, trong đó có sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Trớc những năm 80, điểm nhìn trần
thuật của nhà văn cơ bản theo xu thế hớng ngoại. Điểm nhìn của ông bắt đầu từ khi xuất hiện sự hiện
và kết thúc khi sự kiện dừng lại, chủ thể trần thuật vừa là ngời dẫn chuyện, vừa là ngời hớng đạo cho
độc giả, và nhân vật thờng ở ngôi thứ ba. Sau 1980, từ quan điểm trần thuật sử thi, Nguyễn Minh Châu
dần chuyển sang quan điểm đời t, thế sự, do vậy các hình thức trần thuật của ông cũng có những
chuyển đổi với hai kiểu trần thuật cơ bản : trần thuật khách thể (trần thuật từ ngôi thứ ba) và trần thuật
từ ngôi thứ nhất. Nếu trần thuật khách thể là lối kể chuyện theo lời của tác giả thì trần thuật từ ngôi thứ
nhất là lối trần thuật mà chủ thể trần thuật đợc nhân vật hoá. Thực ra kiểu trần thuật này đã xuất hiện
trong một số tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trớc 1975 (nh Mảnh trăng cuối rừng) nhng cái tôi chủ
thể thực chất vẫn là cái tôi hớng ngoại, đại diện cho cộng đồng. Còn trong các sáng tác sau này, cái tôi
đó trở thành cái tôi hớng nội, nói tiếng nói của cá nhân, kể lại câu chuyện theo quan điểm cá nhân. Tôi
trong loại truyện này hoặc ở t cách là nhân vật chính đang tự kể về mình hoặc ở t cách nhân chứng.
Trong Chiếc thuyền ngoài xa, câu chuyện về gia đình ngời đàn bà làng chài chủ yếu đợc kể theo quan
điểm, cách nhìn của nghệ sĩ Phùng với t cách là một nhân chứng không chỉ chứng kiến mằ còn tham
gia trực tiếp vào diễn biến của câu chuyện. Sử dụng lối trần thuật này, tác giả đợc tự do trong quan sát,
bình luận theo chủ kiến của mình, câu chuyện đợc kể lại nhờ vậy mà trở nên chân thực, sinh động, hấp
dẫn.
Phần kết luận
ruyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là một thành công nghệ thuật xuất sắc của
Nguyễn Minh Châu, minh chứng sinh động cho những tìm tòi, đổi mới của nhà văn
trong công cuộc đổi mới văn học sau 1975. Với những tìm tòi, khám phá dũng cảm và điềm đạm,
Nguyễn Minh Châu không phải là nhà văn đổi mới đầu tiên sau 1975 nhng ông lại giữ vai trò tiên
phong trong công cuộc đổi mới văn học nớc ta. Trên hành trình nhọc nhằn của sự đổi mới ấy, Nguyễn

Minh Châu vừa chịu sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử - xã hội, vừa biết tự v ợt lên chính mình, thậm
chí đi trớc cả thời đại mình trong những nỗ lực khai phá, ảnh hởng trở lại với hiện tại, mở đờng cho t-
ơng lai. Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, ông quả là có một vị trí xứng đáng, nói nh nhà văn
Nguyễn KhảI : Mãi mãi nền văn học kháng chiến, cách mạng ghi nhớ những cống hiến to lớn của anh
Châu. Anh là ngời kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là ngời mở đờng
cho những cây bút trẻ đầy tài năng sau này. Anh Châu là bất tử, là một nghệ sĩ lớn của đất nớc, một
đời trong sáng, trọn vẹn, không chút tì vết.
T
Trên đây là một vài suy ngẫm của ngời viết về đổi mới nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong
truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa. Rất mong đợc cùng trao đổi với các thầy cô và đồng nghiệp.
Tài liệu tham khảo
1. Lại Nguyên Ân - Văn học và phê bình - NXB Tác phẩm mới, H, 1984
2. Nguyễn Minh Châu - Trang giấy trớc đèn - NXB Khoa học xã hội, H, 1990
3. Nguyễn Văn Long - Văn học Việt Nam trong thời đại mới - NXB Giáo dục, H, 2003
4. Hà Minh Đức - Nhà văn nói về tác phẩm - NXB Văn học, H, 1994
5. M. B. Khrapchencô - Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học - NXB Tác phẩm mới,
H, 1978
6. Phong Lê -Văn học và công cuộc đổi mới - NXB Hội nhà văn, H, 1994
7. Phơng Lựu - Lí luận văn học - NXB Giáo dục, H, 2003
8. Nguyễn Đăng Mạnh - Nhà văn t tởng và phong cách - NXB Văn học, H, 1979
9. Nguyễn Đăng Mạnh - Con đờng đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn - NXB Giáo dục, H, 1994
10. Nguyễn Minh Châu - Con ngời và tác phẩm, NXB Hội nhà văn, H, 1991

×