Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Ý THỨC đối THOẠI của TRUYỆN NGẮN lê MINH KHUÊ SAU 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.97 KB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

PHẠM THỊ NHUNG

Ý THỨC ĐỐI THOẠI CỦA
TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU 1975
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại
Mã số: 60220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: TS Dương Thị Hương

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tác giả xin gửi lời cảm ơn trân trọng và sâu sắc nhất tới
TS. Dương Thị Hương, cô đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho tác giả trong
suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Tác giả trân trọng cảm ơn ban Giám hiệu trường Đại học sư phạm Hà
Nội, ban Chủ nhiệm khoa Ngữ văn, các thầy cô giáo bộ môn đã tham gia
giảng dạy, truyền đạt kiến thức, hướng dẫn khoa học, đóng góp ý kiến quý
báu và giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tại trường cũng như quá trình
thực hiện luận văn.
Cuối cùng tác giả xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã cổ vũ,
động viên nhiệt tình và tạo điều kiện giúp đỡ mọi mặt để tác giả hoàn thành
tốt chương trình học tập và nghiên cứu đề tài khoa học này.
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Tác giả



Phạm Thị Nhung


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, với sự kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Đất Nước ta bước vào một thời kỳ mới, hòa
bình, độc lập, thống nhất nhưng đồng thời cũng phải đối diện với rất nhiều
khó khăn, thử thách thời hậu chiến. Hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh
ác liệt và dài lâu trong lịch sử dân tộc không chỉ là sự tàn phá hủy diệt cơ sở
hạ tầng của nền kinh tế vốn nghèo nàn và lạc hậu mà còn để lại những thương
tổn về mặt tinh thần không thể nào đo đếm được. Cuộc khủng hoảng toàn
diện ở nửa đầu những năm 80 đã đòi hỏi đất nước phải tìm đường đổi mới để
tồn tại và phát triển. Sự vận động của bối cảnh lịch sử - xã hội tất yếu tác
động vào văn học, buộc văn học phải chuyển mình để kịp thời đáp ứng yêu
cầu thời đại. Từ một nền văn học diễn tả cảm hứng sử thi vận động theo cảm
hứng cách mạng hóa, đại chúng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh Đất Nước
trong những năm chiến tranh. Văn học Việt Nam sau 1975 đã từng bước vận
động theo xu hướng dân chủ hóa nỗ lực, đổi mới để theo kịp với thời đại đang
từng ngày đổi thay, có biết bao vấn đề cần phải được nhận thức, lý giải, bao
băn khoăn trăn trở không dễ gì hóa giải. Nhu cầu trao đổi bàn bạc trở nên
khẩn thiết. Trong không khí dân chủ của công cuộc đổi mới, văn học đã cất
lên tiếng nói dân tộc tích cực.
1.2. Lê Minh Khuê là nhà văn nữ chuyên viết truyện ngắn. Trong
kháng chiến chống Mĩ bà gia nhập thanh niên xung phong và bắt đầu viết văn
vào đầu những năm 70. Truyện của bà khi ấy viết về cuộc sống tuổi trẻ ở

tuyến đường Trường Sơn. Sau năm 1975 tác phẩm của bà bám sát những vận
động xã hội và con người trên tinh thần đổi mới. Bà thực sự chinh phục người
đọc bằng ngòi bút có nội lực và giàu ý thức đối thoại trong các tác phẩm của
mình. Bà đã gặt hái được một số giải thưởng trong nước và quốc tế như giải

1


thưởng của hội nhà văn năm 1987 với tập truyện Một chiều xa thành phố (in
năm 1986). Giải thưởng của tổ chức Văn nghệ quân đội (in năm 1994) với tập
truyện Bi kịch nhỏ (in năm 1993), giải thưởng của hội nhà văn năm 2000 với
tập truyện Trong làn gió heo may (in 1999), giải thưởng văn học quốc tế
BYEONG-JUBE năm 2008 với tuyển tập Những ngôi sao, trái đất, dòng
sông (the stars, theearth, theriver), (in 2008). Truyện ngắn và một số bài
viết về truyện ngắn của bà còn được dịch và giới thiệu ở một số nước trên thế
giới như Mỹ, Nhật, Pháp, Malaysia, Hàn Quốc. Những điều này đã khẳng
định vị trí của bà trong nền văn học nước nhà. Bà đã tiếp cận đời sống ở cự ly
gần với thái độ thân mật, “suồng sã”. Do vậy tất yếu ngôn ngữ văn chương bà
lựa chọn không phải là thứ ngôn ngữ trang nhã, thi vị như giai đoạn trước mà
là thứ ngôn ngữ sinh hoạt đời thường phù hợp với tính cách ngôn ngữ nhân
vật, đậm tính khẩu ngữ thông tục. Đồng thời hoàn cảnh mới tạo ra một thế hệ
bạn đọc với nhu cầu mới. Nhà văn nhanh nhạy nắm bắt được nhu cầu, đó là
khả năng tự vấn, mời gọi đối thoại để cùng đi đến chân lý. Tính đối thoại là
đặc điểm nổi bật trong truyện ngắn của bà là yếu tố quan trọng kích thích mọi
giác quan của người đọc
Với những lý do trên tôi chọn “ý thức đối thoại của truyện ngắn Lê
Minh Khuê sau 1975” làm đối tượng để nghiên cứu
2. Lịch sử vấn đề
Từ khi cầm bút đến nay bên cạnh thành công trong tiểu thuyết và bút
ký Lê Minh Khuê luôn miệt mài theo đuổi thể loại truyện ngắn. Bà là cây bút

có quá trình sáng tác bền bỉ đã gặt hái được những thành công xứng đáng. Bà
được nhắc đến khá thường xuyên trong những bài phê bình nghiên cứu và
phỏng vấn, sáng tác của bà cũng được khảo sát trong một số khóa luận tốt
nghiệp Đại học, luận văn Thạc Sĩ khoa ngữ văn. Sau đây tôi xin điểm theo
trình tự thời gian xuất hiện.

2


Một là Hồ Anh Thái khi giới thiệu tập truyện Một chiều xa thành phố
(NXB Tác phẩm mới, 1986) đã viết : “Lê Minh Khuê đã thực sự thuyết phục
người đọc bởi chị đã thoát ra khỏi cái nhìn nhận duy cảm, trở nên khái quát
hơn, đa diện hơn nhưng không vì thế mà kém phần nồng hậu” [24]. Bùi Việt
Thắng cho rằng với tập truyện ngắn này Lê Minh Khuê đã cố gắng: “Tìm cho
truyện ngắn của mình những nẻo lối khác nhau để tiếp cận đời sống và cả sự
thể hiện hình thức của thể tài”. Khác với những tập truyện trước, “chị đã tập
trung thể hiện những biến động theo chiều hướng tiêu cực ở một số không ít
người vốn nghiêng về lối sống thực dụng. Ở đây tác giả đã men đến gần được
quá trình tâm lý phức tạp của con người hôm nay và thể hiện nó trong những
khoảnh khắc tiêu biểu, mặc dù cái nhìn của Lê Minh Khuê chưa thật mới
mẻ”[39]. Lê Đức Hạnh cũng có những đánh giá cao : “Lê Minh Khuê đã có
nhiều khám phá” khi viết về “sự mục ruỗng, sự tha hóa của con người”.
Những truyện gây ấn tượng sâu đậm trong tập truyện này “Là viết về sự tha
hóa, xuống cấp hầu hết của nữ trong hoàn cảnh hòa bình. Với bút pháp
cường điệu phóng đại Lê Minh Khuê đã mô tả cái ác, cái trơ tráo phi đạo lý
đang lấn lướt mà mọi người dường như bất lực đồng thời chị cũng miêu tả
sâu sắc, nhuần nhuyễn một số người tốt, sống trong sáng, nhân hậu giàu tình
nghĩa”. Theo người viết cảm hứng chủ đạo là nỗi niềm “băn khoăn day dứt,
thậm chí có lúc thảng thốt trước thực trạng tinh thần của đời sống xã hội sau
chiến tranh xấu đi rõ rệt” của một trái tim đa cảm và nhân hậu [ 65 ]. Nhìn

chung các bài viết này đều nhìn nhận một Lê Minh Khuê đang nỗ lực rất cao
để vượt lên những gì đã có.
Hai là tập Bi kịch nhỏ (NXB Hội nhà văn, 1993) gây được sự chú ý
nhiều nhất của dư luận đã có nhiều bài viết, nhiều cách đánh giá không thống
nhất, thậm chí ngược chiều nhau:
Xu hướng thứ nhất tập trung phê phán Bi kịch nhỏ là: “Tập truyện

3


ngắn không trung thực” (Trung Nguyễn). “Một cái nhìn bóp méo hiện
thực”(Lê Văn Duy). “Một đứa con tinh thần èo uột” (Dương Tùng). “Tác giả
thường cường điệu, bóp méo, chẳng những không có sức thuyết phục mà còn
gây ra những hiểu lầm tệ hại” (Trần Thanh). Những ý kiến này không phải
không có chỗ xác đáng, song về cơ bản chúng bộc lộ một cách thẩm định văn
chương theo cách: Đối chiếu những điều nhà văn viết với hiện thực lịch sử,
hiện thực ngoài cuộc sống rồi kết luận người viết “không trung thực”, “bóp
méo hiện thực”, như thế đã vô hình chung, đã xóa nhòa ranh giới văn và sử.
Bên cạnh đó, tác giả của những bài viết này cũng bộc lộ một thái độ thiếu
khách quan, thiếu thiện chí trong đánh giá.
Xu hướng thứ hai nhìn nhận và đánh giá truyện ngắn Lê Minh Khuê
với một thái độ bình tĩnh khách quan. Thuộc xu hướng này gồm các bài viết
của Ngô Thị Kim Cúc, Bùi Việt Sĩ, Phạm Xuân Nguyên, Lê Thị Đức Hạnh…
Theo Bùi Việt Sĩ thì Bi kịch nhỏ là một tập truyện gây được ấn tượng mạnh “
chín truyện ngắn – chín truyện khác nhau nhưng mang một nỗi buồn nghẹn
ngào của tác giả trước nỗi đau của thân phận con người”.“Tác giả chỉ cố
gắng khuôn mình vào một việc là kể chuyện và nhà văn suy ngẫm về những
truyện xảy ra một cách bình tĩnh, như trò chuyện với ai đó chứ không nói to
cho nhiều người biết, không ồn ào, không cho cái gì cũng to tát, với công việc
là kể chuyện, tác giả đã đưa người đọc vào một thế giới bình thường mà hàng

ngày ta đã gặp với biết bao số phận nhân vật” [24]. Bùi Việt Thắng thì nhận
xét: “Bi kịch nhỏ có thể là thể nghiệm một phép thử của Lê Minh Khuê trong
truyện ngắn, dường như bà muốn nhập cuộc hơn, muốn uyển chuyển và hiện
đại hơn trong cách viết” [65]. Phạm Xuân Nguyên cũng đồng tình với cách
thể hiện của Lê Minh Khuê trong Bi kịch nhỏ. Với quan niệm: “Quá khứ
phải nhìn thẳng vào nó để nó không còn cơ hội lặp lại theo xu hướng xấu,
chiều hướng ác, để hiện tại thanh thản đi tới”. Văn học phản ánh hiện thực thì

4


hiện thực được phản ánh làm sao có thể cắt khúc biệt lập quá khứ và hiện tại,
hôm qua và hôm nay”. Ông khẳng định: “Truyện ngắn Bi kịch nhỏ của bà là
một cố gắng của bà, của thể loại truyện ngắn và của văn học hôm nay đi tìm
lại lịch sử qua văn học thân phận con người”. Nhà văn Bảo Ninh thì cho
rằng: “vấn đề không phải xung đột, ở mâu thuẫn, ở bi kịch giữa các nhân vật
trong truyện mà là bi kịch trong lòng người đọc” [65]. Nhìn chung các ý kiến
này đều thống nhất ghi nhận sự tìm tòi của bà.
Ba là tập truyện ngắn Trong làn gió heo may (NXB Văn học,
1999). Nhà phê bình Bùi Việt Thắng, người đặc biệt quan tâm đến truyện
ngắn tiếp tục có bài viết khẳng định: “Lê Minh Khuê trong tập này không
sắc nhọn về cốt truyện, không đặc sắc về tình tiết nhưng bù lại là tính cách
tâm lý của câu chuyện, hành động và những đoạn kết có sức ám ảnh bởi sự
bất ngờ, sự trái khoáy.
Bốn là tập truyện Những dòng sông, buổi chiều, cơn mưa (in 2002),
thời báo New York nhận định: “Dù xảy ra trong quá khứ hay hiện tại, những
truyện ngắn sắc sảo, đôi lúc buồn khô quạnh trong tập truyện của Lê Minh
Khuê đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của chiến tranh và sự xâm lăng. Tập
truyện này quan tâm đến tình yêu và sự đói nghèo, lòng tham và ngờ vực,
phẩm giá và cái chết, hậu quả dai dẳng của cuộc chiến tới những ai may mắn

còn sống sót…Tác giả hiện ra là một người có văn phong đẹp, nghiêm trang
cùng với sự châm biếm tinh tường, đồng thời có khả năng trong những nhận
xét đầy khơi gợi”
Năm là Tập truyện Màu xanh man trá (NXB phụ nữ, 2005) được báo
Đời sống văn nghệ giới thiệu: “Người ta thường cho rằng truyện ngắn là
những lát cắt, những đoạn nhỏ của cuộc đời được đưa qua lăng kính nghệ
thuật”. Tập truyện “Màu xanh man trá” của Lê Minh Khuê cũng không nằm
ngoài phạm trù đấy. Tập truyện bao gồm những tác phẩm gây ám ảnh cho bạn

5


đọc… Lối viết trong sáng của chị Vũ Thị Miền xưa dường như không còn
nữa trong tập truyện, thay vào đó là cách viết sắc sảo, giễu cợt, dửng dưng…
Dường như tất cả những gì nhà văn muốn nói đều ngỡ là: “Diễm xưa” nhưng
hiện thực ấy vẫn tồn tại nhức nhối trong xã hội thời nay. Qua lăng kính riêng
của mình, Lê Minh Khuê tìm được tiếng nói đồng cảm trong suy nghĩ của lớp
trẻ… Có lẽ vậy nên văn của bà như tri ân được với tin yêu, với thiết tha cuộc
sống, cho dù khe khẽ đâu đây người đọc vẫn nghe thấy tiếng thở dài nơi trang
viết “Màu xanh man trá” [24]. Báo Đời sống văn nghệ đã chỉ ra sự thay đổi
quan trọng trong cách viết, giọng điệu Lê Minh Khuê khi phản ánh hiện thực,
ghi nhận tiếng nói tri ân từ truyện ngắn của bà với bạn đọc.
Sáu là Báo Tiền Phong – VDC đã trân trọng giới thiệu tập truyện Một
mình qua đường (in 2006): “Là tuyển tập tâm đắc nhất của Lê Minh Khuê
trong những năm vừa qua. Đọc truyện của bà hơn lúc nào hết, ta thấy bức
tranh cuộc sống muôn màu được tái hiện một cách sinh động, đậm chất nhân
văn và đặc biệt có sức tác động sâu sắc trong tâm trí mỗi người”. Báo Tin
Sáng Dallas cũng cho rằng: “Độc giả Mỹ của ngày hôm nay đã đến mức đòi
hỏi tính ẩn dụ tinh tế. Lê Minh Khuê thực sự làm chủ được phép so sánh
chính xác. Dưới ngòi bút của bà, lối so sánh này không gì khác hơn là mang

tính giản dị...Từng truyện ngắn khuấy động để người đọc nghĩ ngợi xa hơn,
đưa con người đến một tương lai mà nhà văn hàm ý hơn là nói trực diện”.
Báo The Pilot đã đánh giá cao: “Đây là những truyện nên được dạy trong
những giờ văn học và lịch sử trên toàn nước Mỹ, cả ở trường trung học phổ
thông lẫn đại học”. Báo Việt Nam, Lào & Cambodia Broadsheet cũng có
nhận định: “Lê Minh Khuê viết ra được một ngôn ngữ mạnh bạo và trực tiếp
cũng như đầy cảm xúc và say mê. Truyện của bà cũng đạt đến mức độ tạo ra
được khoảng cách của một người quan sát từ bên ngoài, không có chỗ cho
những cảm nghĩ mù quáng trước hiện thực”[24]. Tập truyện này đã được ghi

6


nhận như một bức tranh phản ánh được đời sống bằng bút pháp nỗ lực đổi
mới. Đằng sau mỗi truyện ngắn, Lê Minh Khuê luôn khiến người đọc phải
suy tư về nhiều lẽ. Có đôi khi là đời người là hạnh phúc, là tình yêu và có khi
là sự day dứt về số phận con người ở những hoàn cảnh khác nhau.
Bảy là tập truyện ngắn “Những ngôi sao trái đất dòng sông”(NXB
phụ nữ, 2008) do nhà xuất bản Curbstone Press ấn hành ở Mỹ được giải
thưởng văn học mang tên Hàn Quốc Byeong-Julee. Đây là giải thưởng lần
đầu tiên tổ chức, mỗi năm xét trao một giải duy nhất giành cho các nhà văn
xuất sắc của Hàn Quốc và nhiều nước trên thế giới. Giải thưởng quốc tế khiến
giới văn chương Việt Nam xôn xao. Trên Việt báo Vietnamnet đã có nhiều
bài viết về tuyển tập này. Thảo Hương đã khẳng định: “Những ngôi sao trái
đất dòng sông – thấm đẫm tình người”. Chị viết: “Qua những truyện ngắn
của Lê Minh Khuê, độc giả sẽ hiểu thêm về những khốc liệt của cuộc chiến –
không bằng những cảnh khốc liệt của chiến trường bom rơi đạn réo, mà bằng
những trăn trở, day dứt trong mỗi con người bước ra từ cuộc chiến. Cảm
giác tác giả viết lại câu chuyện về những người thân, bạn bè và có cả hình
ảnh chính tác giả của những năm tháng chiến tranh và cuộc sống sau ngày

Đất Nước giải phóng. Những trang viết thấm đẫm tình người – một người
bước ra từ cuộc chiến được thể hiện bằng một văn phong đẹp, chua xót, sâu
sắc và thật trang nghiêm [ 65]
Tám là tập truyện Nhiệt đới gió mùa ( NXB Hội Nhà Văn 2012) Nhà
giáo Bùi Việt Thắng nói: “đọc Nhiệt đới gió mùa, ông “rã rời” – bởi thế hệ
ông cũng bước ra từ chiến tranh, từ những đau thương mất mát, tàn khốc dữ
dội đó. Và Lê Minh Khuê đã đi thẳng “tim đen”mọi chuyện, khuấy lên sự
không yên ổn trong tâm hồn mỗi con người mà thường ngày họ dường như
quen với việc quá yên ổn. Và đó là điều cần thiết để người ta nhìn nhận lại
cuộc sống đúng bản chất để sống nhân văn hơn”. Nhà văn Tạ Duy Anh nhận

7


định Lê Minh Khuê là một tay lão luyện, tay nghề cao khi khiến người đọc
không nhận ra đâu là hư cấu và đời thật. 100 trang Nhiệt đới gió mùa là cả
lịch sử mấy mươi năm đau thương, dữ dội, là số phận của cả dân tộc. Tạ Duy
Anh tin rằng, công chúng sẽ đón nhận tác phẩm không chỉ bằng sự trân trọng
với một nhà văn và văn chương mà còn bằng trách nhiệm với dân tộc. Theo
Phạm Xuân Nguyên, cái tên “Nhiệt đới gió mùa” dễ khiến người đọc liên
tưởng đến những thứ nhẹ nhàng, lãng mạn như bên trong lòng tác phẩm lại là
cả một câu chuyện âm ĩ, sôi sục. Ông trích dẫn một đoạn trong tác phẩm, xem
như một cách nhà văn cắt nghĩa tiêu đề Nhiệt đới gió mùa: “Vùng nhiệt đới
gió mùa mang theo hơi ẩm từ biển vào luôn gây ra cho con người ta những
cơn bức bối, khó chịu, không biết trút vào đâu, người ta hay trút vào nhau.
Dải đất hẹp, trần trụi, chạy dọc Biển Đông nhiều khi nhìn trên bản đồ thấy
mong manh như làn khói biển thổi mạnh là có thể cuốn phăng. con người lại
không biết sự mong manh đó cứ cố sống, cố chết chạy theo thù hận. Thù hận
làm đời ta ngắn lại”. Bản thân tác giả lên tiếng, bà chỉ muốn sau tất cả là hòa
bình, là tha thứ, là con người yêu thương nhau hơn.

Nghiên cứu, tìm hiểu về đề tài ý thức đối thoại trong văn xuôi sau 1975
thì đã có rất nhiều các đề tài như hình tượng nhân vật nữ trong sáng tác của
Nguyễn Minh Châu sau 1975- đối thoại giàu triết lý về con người của luận
văn Thạc Sĩ Nguyễn Thị Thanh Tâm. Ý thức đối thoại trong tiểu thuyết Nỗi
buồn chiến tranh của Nguyễn Huy Thiệp vvv. Ngoài ra đã có một số đề tài
luận văn thạc sĩ đụng chạm đến vấn đề đối thoại nhưng ở khía cạnh nhỏ như
cảm hứng thế sự trong sáng tác của Lê Minh Khuê sau 1975 của Phạm Thị
Hoa, nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê của Trần Thị
Toan, thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê của Nguyễn Thị
Hương. Nhưng luận văn nghiên cứu hẳn một đề tài ý thức đối thoại trong
truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975 thì chưa có. Tuy nhiên những công trình

8


đi trước đã là tiền đề , là những gợi mở có ý nghĩa quan trọng cho tôi làm luận
văn này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của luận văn này là ý thức đối thoại của truyện ngăn Lê
Minh Khuê sau 1975 với tư cách là phương tiện để nhà văn truyền đạt tư
tưởng, những triết lý, thể hiện những chủ đề đối thoại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Một chiều xa thành phố (NXB Tác phẩm mới, 1986)
- Bi kịch nhỏ (NXB Hội nhà văn, 1993)
- Trong làn gió heo may(NXB Văn học,1999)
- Màu xanh man trá(NXB phụ nữ, 2005)
- Những ngôi sao, trái đất, dòng sông (NXB Phụ Nữ, 2008)
- Nhiệt đới gió mùa (NXB Hội Nhà Văn 2012)
4. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp thống kê, phân loại
Phương pháp thống kê, phân loại giúp bước đầu có được những căn cứ
khoa học để miêu tả diện mạo chung của truyện ngắn Lê Minh Khuê.
4.2. Phương pháp hệ thống
Đề tài được đặt trong hệ thống của Lê Minh Khuê để xem xét đánh giá
và phát hiện trong tính chỉnh thể.
4.3. Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp phân tích tổng hợp là phương pháp cơ bản được vận dụng
trong quá trình lập luận giúp làm sáng tỏ các luận điểm chính của luận văn.
4.4. Phương pháp so sánh đối chiếu
Phương pháp này giúp người viết có điều kiện để thấy được những đổi
mới của truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975 so với giai đoạn trước đó, chỗ

9


tương đồng và khác biệt xung quanh ý thức đối thoại trong truyện ngắn Lê
Minh Khuê và một số tác giả khác
Các phương pháp trên được sử dụng kết hợp chứ không tách biệt trong
quá trình nghiên cứu.
5. Mục đích nghiên cứu
Người viết tìm hiểu ý thức đối thoại trong truyện ngắn Lê Minh Khuê
sau 1975 trước hết để thấy được những chủ đề đối thoại của nhà văn. Qua đó
luận văn cũng góp phần khẳng định thêm vị trí, đóng góp của bà trong nền
văn học Việt Nam hiện đại.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương chính:
Chương 1: Cơ sở hình thành ý thức đối thoại của truyện ngắn Lê Minh
Khuê sau 1975
Chương 2: Ý thức đối thoại qua các chủ đề nổi bật của truyện ngắn Lê

Minh Khuê sau 1975
Chương 3: Ý thức đối thoại và một số đặc điểm nghệ thuật của truyện
ngắn Lê Minh Khuê

10


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH Ý THỨC ĐỐI THOẠI CỦA
TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU 1975
1.1. Cơ sở lịch sử xã hội
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 Đất Nước ta hoàn toàn được giải phóng
Nam Bắc xum họp một nhà, đế quốc Mĩ sừng sỏ buộc phải đầu hàng, tổng
thống ngụy Dương Văn Minh buộc phải đến đài phát thanh công bố nền độc
lập dân tộc của nước ta. Hòa bình lập lại nhưng nhân dân ta gặp rất nhiều khó
khăn. Thứ nhất, do sự tổn thất nặng nề về người và của, ngân sách hạn hẹp, hạ
tầng kiến trúc bị phá vỡ, trình độ dân trí chưa cao,…Thứ hai, sự nóng vội của
Đảng và Nhà nước khi thực hiện chế độ bao cấp trong lúc điều kiện kinh tế,
tri thức và khoa học kĩ thuật còn thấp kém, sự lệch pha giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng, đầu tư công nghiệp nặng mà quên đi thương nghiệp và
nông nghiệp. Trong việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội
chủ nghĩa, có lúc có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý trí.
Cùng với những ngày tháng bị Mĩ thi hành cấm vận với nước ta. Đất Nước
đóng cửa, không có sự giao lưu khoa học, kinh tế, văn hóa. Chế độ bao cấp từ
khẩu phần ăn, mặc, đi lại, gây ra vô vàn khó khăn, đình trệ kinh tế…Cơ chế
ấy nảy sinh những tham quan, ô trọc và một xã hội hiện ra với hàng loạt
những bất công, những phi lý. Con người bị giam cầm trong một khung đóng
kín với những tiêu chuẩn đạo đức khắt khe mà giả tạo. Có sự chênh lệch giàu
nghèo giữa thành thị - nông thôn, người có chức quyền trong hội – người

nông dân …ngày một lớn. Qua đó chúng ta có thể nhận định sau chiến tranh
con người vẫn tiếp tục chiến đấu và cuộc chiến còn gay go, ác liệt, phức tạp,
rối ren nhiều đau thương hơn cả thời chiến .
Đảng và Nhà nước ta đã nhanh chóng nhìn nhận ra khuyết điểm và có

11


sự chỉ đạo mau lẹ. Đó là công cuộc đổi mới toàn diện Đất Nước bắt đầu từ
những năm 1980 và đặc biệt từ đại hội lần thứ VI của Đảng diễn ra vào tháng
12 năm 1986 đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện Đất Nước, mở ra bước
ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng
và Nhà nước nhìn nhận thẳng vào vấn đề, đồng thời chỉ ra những sai lầm,
thẳng thắn nhận khuyết điểm. Đảng hướng Đất Nước ta tiến lên theo nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, dưới định hướng xã hội chủ nghĩa.
Con người trong xã hội mới cũng đã có những nhận thức mới mẻ về
đời sống cá nhân. Văn hóa văn học cũng phải có sự thay đổi một cách rõ rệt
so với trước năm 1975 vì nó là tiếng nói để thức tỉnh con người. Vì vậy văn
học buộc phải nhìn nhận lại mọi thứ, nhận thức lại về bản chất, chức năng.
Văn xuôi chuyển từ tính thống nhất, một khuynh hướng cảm hứng sang tính
nhiều khuynh hướng, từ chịu ảnh hưởng của các quy luật thời chiến sang chịu
tác động của các quy luật thời bình, nhất là quy luật của kinh tế thị trường và
xu thế toàn cầu hóa. Tinh thần sử thi vốn bao trùm giai đoạn văn học chiến
tranh giờ chuyển mạnh sang nhãn quan thế sự - đời tư – phong hóa. Hệ thống
tiêu chí thẩm mĩ bị thay đổi, nhiều giá trị cũ tỏ ra lỗi thời, bên cạnh nhiều giá
trị mới được xác lập. Có dòng mạch quen thuộc, nối tiếp và kéo dài truyền
thống, đồng thời xuất hiện những tìm tòi mới lạ tạo nên sự gián đoạn rất rõ.
Có những tư tưởng nghệ thuật chỉ có thể được trình bày trong điều kiện Đất
Nước đổi mới toàn diện.
Đổi mới thì phải đề cao dân chủ, đề cao quyền con người nên văn học

tư duy lại về con người, từ cách nhìn đơn nhất, một chiều thời chiến chuyển
sang cái nhìn đa chiều mở ra những tầng sâu mới mẻ và thú vị về đời sống
đầy bí ẩn, vô cùng vô tận của những cá thể người sinh động và gần gũi, quan
tâm đến con người ở tư cách cá nhân như một “nhân vị” độc lập. Sự phong
phú của các cá nhân, như xưa nay vốn vậy, đòi hỏi phải xem xét từ nhiều

12


phía, nhiều “tọa độ”. Xuất hiện con người “không trùng khít với chính mình”,
con người phức tạp nhiều chiều. Chính cái nhìn đa chiều do đó đã nảy sinh
đối thoại nhận thức lại những cái cũ lạc hậu, ấu trĩ một thời bị cấm kị.
Mở rộng giao lưu văn hóa đa chiều đem lại những kinh nghiệm mới
( cho cả đời sống xã hội lẫn sáng tác và tiếp nhận văn học). Thông qua nhiều
kênh thông tin, văn hóa nước ta có sự đón nhận, sàng lọc, hấp thu những
luồng tư tưởng mới. Giao lưu văn hóa đa chiều, đa phương đã góp phần thúc
đẩy thêm khát vọng tìm tòi khám phá làm mới, làm khác của nghệ sĩ…Tất cả
những điều đó ảnh hưởng đến kinh nghiệm và thị hiếu văn chương thời đại,
khiến cho đời sống văn học trở nên hấp dẫn, sôi nổi. Qúa trình đổi mới văn
xuôi nói riêng và văn học dân tộc nói chung diễn ra được hơn ba chục năm.
Số lượng tác phẩm rất lớn, lực lượng người viết đông đảo. Đã có thể nhận ra
những cá tính sáng tạo, những tác phẩm được đánh giá tốt, những dấu hiệu
biến động rõ rệt về tư duy thể loại…Tuy dư luận còn nhiều chỗ chưa nhất trí,
thậm trí trái ngược, nhưng sự vận động mạnh mẽ của văn xuôi nước ta từ sau
1975, nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay là một sự thật hiển
nhiên. Báo cáo của Ban Chấp hành Hội Nhà văn tại Đại hội lần thứ VI của hội
khẳng định: “Đời sống văn học đang có những chuyển biến mới mang nhiều
hứa hẹn và đồng thời cũng đang nảy lên những vấn đề mới”, “nhìn tổng quát
đã có những bước phát triển đáng mừng”, “sáng tác văn học trở nên năng
động, hấp dẫn, tạo nên một không khí sôi động thu hút được sự quan tâm rộng

rãi của xã hội”. Tổng bí thư Đỗ Mười trong bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ
V của Hội Nhà văn cũng “tán thành những nét nhận định lớn trong báo cáo
của Ban Chấp hành hội” và nhấn mạnh: “Nhìn chung nền văn học nước ta đã
có một bước phát triển trong năm qua, trở nên phong phú, đa dạng hơn, có
những tìm tòi mới. Một số tác phẩm có giá trị tư tưởng được bạn đọc hoan
nghênh. Nhiều cây bút trẻ thu hút được sự chú ý của làng văn ngay từ những

13


tác phẩm đầu tay. Qúa trình đổi mới văn xuôi vẫn còn đang tiếp diễn, chính
nhu cầu đối thoại xuất hiện trên sự cọ sát ấy.
1.2. Tiền đề văn hóa thẩm mĩ
Bao nhiêu năm Đất nước chìm trong lửa đạn, những trang văn hào sảng
với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đã tiếp thêm sức mạnh cho
con người niềm tin vào sức mạnh lớn lao của toàn dân tộc. Sáng tác của các
nhà văn thời kỳ này hừng hực ngọn lửa sử thi với những con người mang
trong mình sức mạnh và những phẩm chất của thời đại. Sau chiến tranh chống
Mĩ cứu nước giành thắng lợi, Đất Nước ta hoàn toàn độc lập, thống nhất, đánh
dấu sự sang trang của lịch sử dân tộc , chuyển từ thời chiến sang thời bình ,từ
cuộc sống với những quy luật không bình thường ngày có giặc (chữ dùng của
Hữu Thỉnh) sang cuộc sống bình thường hàng ngày. Không khí đổi mới – dân
chủ tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học nghệ thuật. Đường lối đổi mới
tại Đại hội VI và tiếp đó là nghị quyết 05 của bộ chính trị, cuộc gặp của tổng
bí thư Nguyễn Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ vào tháng 10 năm
1987…Tất cả những điều đó đã thổi một luồng gió lớn vào đời sống văn học
nghệ thuật nước nhà, mở ra chặng đường phát triển mới phát triển sôi nổi của
văn học Việt Nam trong tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật.
Văn nghệ sĩ được “cởi trói” tự do sáng tác. Họ có nhiều trăn trở về trách
nhiệm của người cầm bút trong sự nghiệp đổi mới nền văn học nước nhà. Văn

học sau 1975 đã có sự đổi mới về mặt đề tài, khuynh hướng nhận thức, quan
niệm nghệ thuật về con người, cách thức thể hiện.
Một là sự đổi mới về mặt đề tài.
Đề tài, chủ đề không còn bó hẹp, thiên về khai thác các vấn đề liên
quan đến những nhiệm vụ chính trị trước mắt mà được mở rộng từ đề tài gia
đình, thân phận tình yêu, số phận con người đến chiến tranh cách mạng, sản
xuất xây dựng. Văn học sau 1975 đặc biệt chú ý đến nông thôn Việt Nam.

14


Một loạt tác phẩm đã lấy bối cảnh nông thôn như : Bến không chồng –
Dương Hướng, Thời xa vắng của Lê Lựu, Phiên chợ Giát, Khách ở quê ra
của Nguyễn Minh Châu, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc
Trường…Nông thôn vốn là một không gian yên bình là nơi bảo tồn những giá
trị truyền thống của dân tộc, là nơi tình người thắm đượm son sắt. Tuy nhiên
đây cũng là nơi trói buộc con người trong những tư tưởng lạc hậu , những tập
tục cổ hủ lối sống thâm căn cố đế. Còn khi viết về đề tài chiến tranh bên cạnh
những chiến công hiển hách, bên những tượng đài chiến thắng đầy vinh quang
là biết bao nhiêu hệ lụy đau đớn, biết bao là nước mắt của những số phận bất
hạnh. Giờ đây các nhà văn không đi vào miêu tả, tái hiện lại không khí chiến
trận đầy mưa bom, bão đạn nữa mà tập trung vào những số phận con người,
những bi kịch con người trong những mảnh đời riêng đã bị chiến tranh hủy
hoại. Nhân vật Lực trong “Cỏ lau” của Nguyễn Minh Châu nói mà như khía
vào lòng người đọc. “Chiến tranh kháng chiến không phải như một sớm, một
chiều, đến giờ tôi không hề mảy may hối tiếc dốc tất cả tuổi trẻ vào đấy cống
hiến cho nó, nhưng nó như một nhát dao phạt ngang mà hai nửa cuộc đời tôi
bị chặt lìa thật khó gắn lại được như cũ”. Những vết thương mà cuộc chiến để
lại trong tâm hồn người lính không dễ chữa lành một sớm một chiều. Cuộc
sống thực tại với nhiều vấp váp, bất như ý có khi khiến cho người lính thấy

mình chới với chơi vơi. Các nhà văn đã có một sự đồng cảm, thông cảm và
xót thương thực sự với những số phận bất hạnh đó. Chính nhờ những
trang viết đầy tình người đó mà độc giả thấu hiểu hơn những lớp người trở về
từ cuộc chiến và thấy mình cần chia sẻ với họ nhiều hơn .
Hai là sự đổi mới về khuynh hướng nhận thức
Bước sang thời kỳ mới, văn học cũng như nhiều lĩnh vực khác trong
đời sống tinh thần, văn học có nhu cầu nhìn lại chặng đường đã qua , nhận rõ
những hạn chế, ảo tưởng sai lầm để vượt qua nó. Cùng với những trăn trở

15


trong vấn đề viết về chiến tranh, nhu cầu nhận thức lại hiện thực ở thời kỳ
trước và đổi mới cái nhìn đời sống hiện tại sau. Chiến tranh đã được thể hiện
trong sáng tác của một số nhà văn mẫn cảm với đời sống. Truyện “Bức
tranh” của Nguyễn Minh Châu mở đầu cho một loại truyện ngắn của ông
theo hướng nhận thức lại hiện thực ở thời kỳ trước và đổi mới cái nhìn đời
sống hiện tại sau chiến tranh. Bức tranh đặt ra nhiều vấn đề rất cơ bản và
quan trọng về tư tưởng và nghệ thuật: số phận cá nhân và lợi ích cộng đồng
,thói đạo đức giả và sự tự thú, tự vấn lương tâm ở mỗi người, trước hết là
người nghệ sĩ, từ bỏ cách nhìn con người giản đơn, nhất phiến để đi tới cái
nhìn đa chiều, lưỡng diện về con người …Nhận thức lại cũng là mạch ngầm
trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu về đời sống thế sự, sinh hoạt
hàng ngày hay về chiến tranh ở nửa đầu những năm tám mươi. Đáp ứng yêu
cầu nhìn thẳng vào sự thật, nhiều cây bút đã nhìn lại hiện thực của thời kỳ vừa
qua, phơi bày những mặt trái còn bị che khuất, lên án những lực lượng, những
tư tưởng và thói quen đã lỗi thời, trở thành vật cản trên bước đường phát triển
của xã hội. Tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu có thể coi là tác phẩm chính
thức khơi dòng cho khuynh hướng này. Tiếp đó hàng loạt tiểu thuyết, truyện
ngắn xuất hiện trong những năm cuối thập kỷ tám mươi và đầu chín mươi như

Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng, Bước qua lời nguyền
của Tạ Duy Anh … Chiến tranh đã tác động ghê gớm đến tính cách và số
phận con người với bao nỗi éo le, bi kịch xót xa ( Mùa trái cóc ở Miền Nam
và Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu, Thân phận tình yêu (Nỗi buồn chiến
tranh của Bảo Ninh ), Chim én bay của Nguyễn Trí Huân, Mùa hoa cải bên
sông của Nguyên Quang Thiều… vv
Văn học sau 1975 không chỉ dừng lại ở yêu cầu phản ánh hiện tại mà
coi trọng hơn sự nghiền ngẫm, lí giải về hiện thực, đề xuất những ý tưởng
mới, cách nhìn mới. Hệ quả tất yếu là chất triết lí, suy tưởng được gia tăng và

16


dẫn đến việc hình thành rõ nét khuynh hướng triết luận ...Trong văn xuôi
trước năm 1975, Nguyễn Khải là cây bút quan tâm đến những vấn đề của đời
sống tư tưởng với cảm hứng khám phá, phân tích. Nhưng những vấn đề mà
nhà văn này quan tâm trước đây vẫn chỉ giới hạn trong đời sống cách mạng,
tư tưởng chính trị (như vấn đề đội ngũ cán bộ ở nông thôn, hợp tác hóa, chống
chủ nghĩa cá nhân trong đạo đức, lối sống, xây dựng mối quan hệ mới tốt đẹp
giữa người với người trong môi trường xã hội chủ nghĩa). Từ sau 1975, nhất
là thời kỳ đổi mới, nội dung triết luận trong văn xuôi được mở rộng tới những
vấn đề nhân sinh, thế sự, lịch sử, cả những vấn đề về niềm tin tôn giáo. Trong
các truyện ngắn thời kỳ đổi mới, nổi lên rất nhiều chủ đề triết lý như: Quyền
lực, niềm tin, sự lựa chọn, thời thế và bản lĩnh, nhân cách của cá nhân. Lê
Minh Khuê đã gửi gắm triết lý về nhân cách con người đừng vì tiền bạc mà
suy thoái về đạo đức và lương tâm, hãy giữ gìn phẩm chất tốt đẹp của anh bộ
đội cụ Hồ năm xưa mà con người đã từng có trong truyện (Sống chậm, Ráp
việt, Bi kịch nhỏ , Ký sự những mảnh đời trong ngõ) vvv.
Ba là sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người
Văn học sau 1975 từ bỏ cách nhìn giản đơn, phiến diện một chiều về

con người để đi đến cái nhìn con người trong tính phức tạp, đa chiều luôn
biến động và khó nắm bắt. Trước năm 1975, trong nền văn học cách mạng,
tồn tại phổ biến cách phân định nhân vật theo hai tuyến rõ rệt: tích cực-tiêu
cực, tốt- xấu, địch-ta, tiên tiến-lạc hậu. Nhân vật trong truyện của Lê Minh
Khuê trước 1975 đều là những anh hung. Đó là những người lái xe trong
truyện Bạn bè tôi, y sĩ Hiền trong truyện Mẹ đều là những người hùng làm
nên lịch sử. Trong Bạn bè tôi, những người lính lái xe luôn vượt qua hiểm
nguy giữa mùa chiến dịch. Đoàn xe bất chấp bom đạn, chuyển những “khẩu
pháo nòng dài có lá ngụy trang kết quanh” vào mặt trận. Những chiếc xe
được cử đi lấy hàng hậu cần cho đơn vị ở kho sâu trong rừng. Có lần xe bị tắc

17


ở trọng điểm, “cái ca bin sặc mùi săng đã trở nên thân yêu như phòng ngủ ở
nhà” dù đó là giấc ngủ vội vàng. Các nhân vật trong truyện bà sau 1975 thì
khác đi nhiều so với các nhân vật trước 1975. Như trong truyện Sống chậm,
người lính năm xưa đã trở về cuộc sống đời thường nhưng bị hoa mắt, biến
chất trước đồng tiền mà rút ruột tiền của nhà nước, họ ăn hối lộ để làm giàu
cho bản thân mình hay thói chủ quan duy ý chí mà đã giết chết bao nhiêu
người trong Bi kịch nhỏ. Vượt ra khỏi cách nhìn con người quy chiếu giản
đơn về địa vị xã hội, giai cấp, văn xuôi sau 1975 mở ra cái nhìn ở bình diện
khác. Con người như một thực thể tự nhiên, con người trong tính cá thể, đơn
nhất và trong tính nhân loại phổ quát. Phần bản năng tự nhiên của con người
mà trước đây văn học thường bỏ qua vì xem là tầm thường, thấp kém thì nay
đã được nhiều nhà văn quan tâm đặc biệt, thậm chí trở thành tư tưởng cốt lõi
trong quan niệm về con người của họ. Mặt khác khi vượt ra khỏi hệ quy chiếu
đánh giá con người từ các giá trị cộng đồng, bản chất giai cấp thì thước đo
nhân cách được mở rộng tới các giá trị cá nhân, các giá trị mang tính nhân
loại. Điều đó phù hợp với sự thức tỉnh ý thức cá nhân và tinh thần nhân bản

như là động lực và nền tảng tư tưởng của sự đổi mới văn học.
Bên cạnh đó cái nhìn về mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh
cũng biến đổi rõ rệt. Trước đây nền văn học cách mạng thường xây dựng mẫu
người làm chủ hoàn cảnh, có khả năng khắc phục mọi trở ngại trên con đường
đi tới mục đích, lí tưởng, thực chất là những con người có ý chí. Giờ đây
trong các tác phẩm văn xuôi, hình thành một nhận thức khá phổ biến ở nhiều
tác giả về những giới hạn của khả năng con người, về sự chi phối nghiệt ngã
của hoàn cảnh đến tính cách và số phận con người. Con người có sức mạnh
tinh thần và bản năng nhưng rất nhiều khi cũng yếu đuối, bất lực, đáng
thương, chịu sự quy định của hoàn cảnh, sự tác động của đầy rẫy những ngẫu
nhiên, nghịch lý gặp phải trên đường đời. Ông giáo Trí (Thân phận cu ly) là

18


sản phẩm điển hình của một thời đầy ấu trĩ . Ông ta bị hoàn cảnh biến thành
loại người sống như một cỗ máy công cụ, “cả đời ôm hàng đống chữ nghĩa
mờ mịt” nên không biết làm thêm cái gì để kiếm ra tiền. Còn Thầy Giáo trong
Thầy giáo dạy triết thì như một cái máy biết nói cũ rich, tua đi tua lại
“những điều mà bọn trẻ chẳng mấy quan tâm nữa. Môn triết của thầy trái
khoáy với cái điều bọn trẻ ngẫm ngợi”. Đó không phải là sự hạ thấp hay hoài
nghi con người mà chính là một cái nhìn trung thực về con người, khám phá,
hiểu đúng với mọi khả năng và giới hạn của nó để cảm thông và nâng đỡ con
người khi nó lâm vào tình thế khó khăn, hiểm nghèo. Văn học hậu chiến
không từ bỏ vai trò vũ khí tinh thần – tư tưởng nhưng nó “ được nhấn mạnh
trước hết ở sức mạnh khám phá thực tại và thức tỉnh ý thức về sự thật, ở vai
trò dự báo, dự cảm”[ 12 ]. Cuộc sống trở thành bài toán khó có nhiều đáp án.
Con người thực ngoài đời, không phải như người anh hùng được đúc bằng “
cẩm thạch và đồng hun” trong văn học thời chiến tranh mà có khi yếu ớt, bé
nhỏ, bị giới hạn bởi cả tự nhiên và xã hội. Đó là những con người lạc loài, cô

đơn trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài; con người đánh
mất hiện tại phải tìm về sự cứu rỗi của dĩ vãng trong sáng tác của Chu Lai,
Bảo Ninh …Và rất nhiều tác phẩm của các nhà văn khác đã tạo nên sự thay
đổi diện mạo của văn xuôi hiện đại như Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của
người …(Nguyễn Khải) ; Đứng trước biển , Cù lao Tràm…(Nguyễn Mạnh
Tuấn); Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú … (Ma
Văn Kháng); Bước qua lời nguyền …(Tạ Duy Anh). Điểm chung giữa các
tác phẩm này là mối quan tâm đến con người từ góc độ nhân bản, đời thường.
Nhân vật trong văn học giai đoạn trước 1975 chủ yếu được khám phá ở bình
diện xã hội – lịch sử, đây thực chất là kiểu nhân vật loại hình, có thể “đứng ra
làm đại diện cho một loại người nhất định trong đời sống, do chỗ nó thể hiện
được những nét đặc trưng, ổn định và bất biến ở phẩm chất xã hội, đạo đức,

19


tính cách của loại người đó”[12]. Sau 1975, văn học dần hình thành quan
niệm con người trong tính đa chiều, mỗi cá nhân như một “nhân vị độc lập”.
Tính cách của nó đa diện, có khi đầy mâu thuẫn và chính những mâu thuẫn ấy
làm cho tính cách nó không tĩnh tại mà vận động theo nhiều khả năng, lắm
khi không đoán định được. Cũng rất khó phân định nhân vật theo tiêu chí tốt xấu, cao cả - thấp hèn một cách rành mạch. Như nhân vật chính trong Bức
tranh của Nguyễn Minh Châu là tốt hay xấu, chỉ có tòa án lương tâm của nó
mới có thể phán xét. Giang Minh Sài trong Thời xa vắng của Lê Lựu là tốt
hay xấu khi cả đời “sống hộ ý định của người khác”, “nửa đời phải yêu cái
người khác yêu”? Những nhân vật như Qùy ( Người đàn bà trên chuyến tàu
tốc hành), Lão Khúng (Phiên chợ Giát) thì giống như tính cách dị biệt . Anh
em xa gần với họ là một số nhân vật trong sáng tác của Xuân Thiều, Khuất
Quang Thụy, Bảo Ninh, Chu Lai …Có thể nói, nhân vật trong văn xuôi sau
năm 1975 đã vượt ra ngoài những mô hình thường thấy ở giai đoạn 19451975, chúng đa dạng phức tạp đến khó hiểu như cuộc đời thực vốn thế.
Đổi mới về con người đã mang đến cho văn xuôi sau 1975 nhiều kiểu

loại nhân vật mới mẻ, hấp dẫn. Những người lính trở về đời thường cũng là
lúc họ nhận ra bi kịch lạc lõng với xung quanh ( Giang Minh Sài trong Thời
xa vắng); những người nông dân vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm của tình
trạng trì trệ, lạc hậu, tối tăm ( Vạn trong Bến không chồng , lão Khổ trong
Lão khổ; những người tri thức trong bi kịch cơm áo gạo tiền trong truyện Lê
Minh Khuê ( Con thằn lằn , Thầy giáo dạy triết, Thân phận cu ly)... Quan
tâm đến số phận con người dù ở khía cạnh hạnh phúc hay bất hạnh, các nhà
văn thời kỳ đổi mới đều có cái nhìn nhân ái đối với họ. Một dân tộc phải trải
qua nhiều đau thương mất mát do chiến tranh, hòa bình trở lại cuộc sống của
con người đã có sự thay đổi một cách rõ rệt. Nhưng đô thị hóa đã dần lấn át
với những mặt trái của nó kéo theo sự thay đổi cách sống của con người như

20


truyện Làng xi măng, Ngỗng non, Máu hồ của Lê Minh Khuê. Và bên cạnh
đó những căn nguyên hủ tục lạc hậu của con người vẫn còn tồn tại.
Lê Minh Khuê là một nhà văn nữ chuyên viết truyện ngắn, chị đã đi
qua cuộc chiên tranh, chứng kiến cuộc sống của con người thời đó với những
phẩm chất đáng ca gợi của chủ nghĩa anh hùng. Cuộc sống bộn bề thời bình
khiến con người dễ bị tha hóa, biến chất bởi những nhu cầu vị kỉ, ngộ nhận,
lầm lẫn. Truyện ngắn của Lê Minh Khuê bám vào thực tiễn đó. Vì vậy mà đọc
truyện của bà sau 1975 chúng ta không chỉ nhận ra con người một chiều mà
con người ở đây là đa chiều, rồng phượng rắn rết lẫn lộn, giữa con người thực
tại và con người quá khứ đã có sự thay đổi một cách rõ rệt
Bốn là văn học sau 1975 đã có sự đổi mới mối quan hệ nhà văn và
bạn đọc. Nếu văn học trước 1975 chủ yếu là văn học kiểu sử thi phát ngôn
nhân danh kinh nghiệm cộng đồng nên nó là tiếng nói độc thoại của nhà
văn, nó khẳng định chân lý tất yếu. Người đọc tìm đến tác phẩm không
phải để tranh biện mà để được chia sẻ, an ủi, được động viên khích lệ. “ Khi

nhà văn nhân danh cộng đồng, đem đến cho người đọc những mô hình xác
định của hiện thực, những hình tượng anh hùng với sự mẫu mực, đơn nhất
về tính cách thì người đọc tiếp nhận tác phẩm với trạng thái đồng cảm
phần nào mang tính chất thụ động bởi tính xác định hữu hạn của chủ đề
tác phẩm, những mô hình xuôi chiều của tác phẩm không dành cho họ
phần dư địa để phán đoán hay đối thoại” [32]. Ý thức cá nhân bị hòa tan,
bị triệt tiêu bởi ý thức cộng đồng. Giờ đây, con người hiện diện trước hết
như một cá nhân tự chủ, tự quyết cuộc đời mình. Những năm đầu xóa bỏ
bao cấp con người Việt Nam vừa phấn khởi vừa lo âu vì vừa không bị trói
buộc vào cơ chế xin – cho vừa phải tập để làm quen với việc tự mình phải
tìm hướng đi cho mình. Được nói thật nói hết những gì chân thực của lòng
mình trở thành nhu cầu khẩn thiết hơn bao giờ hết.

21


Cùng với xu hướng dân chủ hóa xã hội, văn học sau 1975 cũng thay đổi
mối quan hệ nhà văn và công chúng. Đất nước trải qua một cuộc “trở dạ” lớn
lao và không ít đau đớn, để tự xây dựng lại hình ảnh của chính mình cùng lúc,
với việc hình thành từng bước các tiêu chí giá trị mới. Nhiều cái cũ đã lỗi thời
vẫn còn rơi rớt lại, cái mới chưa thực sự tìm được chỗ đứng vì chưa được
nhận diện hoặc chưa đủ để tin cậy. Có người phê phán cái cũ đến mức phủ
định sạch trơn. Có người lại hoang mang, không tìm thấy đâu là chuẩn cho
giá trị sống. Giữa nhiều luồng ý kiến, quan điểm, đối thoại dân chủ là nguyên
tắc ứng xử hợp lý nhất. Đó là cơ sở giải thích vì sao đổi mới quan trọng trong
văn học sau 1975 là nhu cầu đối thoại giữa kinh nghiệm cá nhân và kinh
nghiệm cộng đồng. Có thể nói chính công cuộc đổi mới của đảng ta đã tạo
điều kiện thuận lợi cho văn học đổi mới . Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Long
nhận xét : “Từ đầu thế kỷ XX đến 1945, văn học vận động theo hướng hiện
đại hóa, và đó là đặc điểm bao trùm toàn bộ nền văn học thời kỳ này, làm nên

sự thay đổi cơ bản về phạm trù văn học từ trung đại sang hiện đại. Trong ba
mươi năm tiếp theo từ 1945 đến 1975, có thể nói đại chúng hóa và cách mạng
hóa là xu hướng vận động cơ bản của nền văn học cách mạng trong hoàn
cảnh chiến tranh. Còn từ sau 1975, nhất là từ giữa những năm 80 trở đi, dân
chủ hóa là xu thế lớn của xã hội và trong đời sống tinh thần của con người,
cũng đã trở thành xu hướng vận động bao trùm của nền văn học” [22]. Trên
tinh thần dân chủ hóa, văn học trở thành phương tiện để nhà văn bày tỏ, bộc
lộ quan điểm của mình về cuộc đời con người. Công chúng bây giờ đòi hỏi
những tác phẩm có khả năng nêu vấn đề, khơi gợi đối thoại để họ tham gia
với nhà văn. Họ không thích được, bị nhà văn dạy dỗ, mách nước, áp đặt. Mối
quan hệ giữa nhà văn và bạn đọc trở nên bình đẳng tức là người đọc được tôn
trọng, được trao quyền phán xét. Bổn phận của nhà văn trong cuộc đối thoại
này là phải đề xuất được một tư tưởng riêng, một cái nhìn riêng. Trước một

22


×