Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu Luận Môn Học Nguyên Lý Và Lý Luận Phương Pháp Thể Dục Thể Thao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.65 KB, 28 trang )

TIỂU LUẬN MÔN HỌC

NGUYÊN LÝ VÀ LÝ LUẬN PHƯƠNG PHÁP
THỂ DỤC THỂ THAO
CHUYÊN ĐỀ I:
THỂ DỤC TRONG MỤC TIÊU GIÁO DỤC TỒN DIỆN
A. MỞ ĐẦU:
Nói đến thể dục thể thao(TDTT) là nói đến sức khoẻ và vẻ đẹp của
cơ thể, nói đến sự phát triển con người tồn diện: đức, trí thể, mỹ. Đó chính
là giá trị to lớn của Văn hoá thể chất đối với mỗi con người và toàn thể
cộng đồng, là mục tiêu trước tiên của sự nghiệp TDTT. Sức khoẻ ở đây là
sức khoẻ của cơ bắp, sức khoẻ của thần kinh, sức khoẻ của tinh thần. Đúng
như định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới(OMS) về sức khoẻ : “Sức khoẻ
không chỉ là không có bệnh tật mà là trạng thái hồn thiện về tâm sinh lý
lành mạnh.” Và cũng đúng như tư tưởng Hồ Chí Minh về thể dục thể thao
trong lời kêu gọi toàn dân tập thể dục: “…. ” vào tháng 3/1946.
TDTT là một trong những biện pháp quan trọng để phát triển con
người toàn diện, để củng cố và nâng cao sức khoẻ, kéo dài tuổi thọ và nâng
cao chất lượng cuộc sống của con người.
Ai cũng muốn có sức khoẻ, muốn có vóc dáng khoẻ đẹp, cường
tráng, cân đối, có thể chất phát triển nhanh-mạnh-bền-khéo léo, có tinh thần
khoẻ mạnh, lạc quan, yêu đời, một trí tuệ khoẻ mạnh trong một cơ thể khoẻ
mạnh….Tất cả những cái đó sẽ có được nếu thường xuyên tập luyện thể


dục thể thao. Trong thư Bác Hồ gửi Hội nghị cán bộ thể dục thể thao toàn
miền Bắc vào ngày 31/3/1960 “Muốn lao động sản xuất tốt, công tác và
học tập tốt, thì cần có sức khoẻ. Muốn có sức khoẻ thì nên thường xuyên
luyện tập thể dục thể thao.”
Tuổi trẻ - sức khoẻ - vẻ đẹp - thể thao - niềm vui – năng suất lao
động - hiệu quả kinh tế ; Đó là những tiếng ln vang lên trong cuộc sống


của thanh niên hôm nay. Như một nhà thơ Cu Ba đã viết “Ôi thể thao,
người là bài ca về sắc đẹp, là bản nhạc của những bông hoa, là lứa tuổi
thanh xuân vĩnh cửu”.
B.NỘI DUNG:
Trước tiên ta đi tìm hiểu một số khái niệm cơ bản của Thể dục thể thao:
1.Thể dục: Theo cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì:
-Thể là cơ thể, cịn dục là giáo dục.
Như vậy Thể dục là giáo dục cơ thể, tức là giáo dục thể chất
Nếu theo quan điểm của Lý luận TDTT, thì Giáo dục thể chất là một
quá trình giáo dục nhằm hoàn thiện về mặt thể chất và chức năng của cơ
thể con người, hình thành và củng cố những kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ
bản quan trọng trong đời sống, cùng hiểu biết có liên quan, phát triển các tố
chất thể lực, tăng cường sức khoẻ.
Thể chất là chất lượng cơ thể.
Thể chất bao gồm: - Thể hình (hình thái)
- Năng lực thể chất.
- Năng lực thích ứng.
+ Thể hình: Bao gồm các thơng số bên ngồi như chiều cao, cân
nặng, hình thái, cấu trúc cơ thể…(có hơn 100 số đo).
+Năng lực thể chất: Thơng qua hoạt động thể dục thể thao giúp cho
hệ thống các cơ quan cơ thể như hệ tuần hồn, hơ hấp…phát triển, đồng


thời hình thành và phát triển các tố chất thể lực: sức nhanh, sức mạnh, sức
bền, và khéo léo, khả năng phối hợp vận động và giúp cho các hệ thống cơ
quan vận động : đi, chạy, nhảy, leo, trèo, mang vát… được phát triển.
+Năng lực thích ứng: Thích nghi với môi trường, thiên nhiên … để
chống lại những nhân tố tiêu cực của thiên nhiên, môi trường.
2. Phát triển thể chất: Là một quá trình hình thành và thay đổi hình
thái và chức năng sinh vật của cơ thể con người; q trình đó xảy ra dưới

ảnh hưởng của điều kiện sống, mà đặc biệt là giáo dục.
. Hoàn thiện thể chất: Là cơ thể được phát triển một cách tồn
diện, nhịp nhàng, hài hồ kể cả hình thái và chức năng. Thể lực cường
tráng, có khả năng thích ứng tốt nhất với các điều kiện sản xuất và chiến
đấu. Các phẩm chất trí tuệ và tinh thần phát triển tốt. Thích nghi dễ dàng
với mơi trường sống ln luôn biến động.
4.Sức khoẻ: Theo Tổ chức Y tế thế giới (OMS) thì sức khoẻ khơng
chỉ là khơng có bệnh tật mà là trạng thái hoàn thiên về tâm sinh lý lành
mạnh.
Bảo vệ và tăng cường sức khoẻ cho nhân dân là một việc rất quan
trọng và cần thiết gắng liền với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã
hội, với hạnh phúc của nhân dân. “Sự cường tráng về thể chất là nhu cầu
của bản thân con người, đồng thời là vốn quí để tạo ra tài sản trí tuệ và vật
chất cho xã hội”đó cũng là quan điểm chỉ đạo nhất quán của Đảng, của
Nhà Nước ta từ trước đến nay. Do đó mục đích của thể dục thể thao nước
nhà là:
+ Tăng cường thể chất cho nhân dân.


+ Nâng cao thành tích thể thao.
+ Góp phần làm phong phú đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân
để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
Để đạt được mục đích trên, chúng ta đặt ra những nhiệm vụ của giáo
dục thể dục thể thao:
+ Phát triển cân đối về hình thái và chức năng của cơ thể con người
nhằm hoàn thiện toàn diện những năng lực thể chất, giữ gìn sức khoẻ và
nâng cao tuổi thọ cho nhân dân lao động.
+ Hình thành những kỹ năng, kỹ xảo vận động chủ yếu của con
ngươì trong cuộc sống cùng hiểu biết chuyên môn.
+ Giáo dục phẩm chất đạo đức, ý chí, thẩm mỹ và trí lực.

+ Phát hiện nhân tài để đào tạo vận động viên cấp cao.
Để thực hiện thành công các nhiệm vụ nêu trên nhằm đạt được mục
đích TDTT đưa ra, phục vụ và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, cũng là
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện trong nhiều Nghị quyết,
Chỉ thị trong mỗi bước ngoặt của cách mạng để hướng dẫn, tổ chức các
hoạt động TDTT cho phù hợp:
Chỉ thị 180/CT-TW ngày 26/8/ 1970 nêu rõ “…việc khắc phục và
tăng cường sức khoẻ cho nhân dân lao động nhằm phục vụ kinh tế và quốc
phòng trở thành một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Đảng và Nhà
nước ta….Việc bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của con người là một bộ
phận quan trọng trong việc xây dựng con người XHCN tồn diện, TDTT là
một biện pháp tích cực để bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của con người,
chúng ta cần phải ra sức phát triển công tác TDTT, đưa phong trào TDTT
tiến lên mạnh mẽ, vững chắc…”


Khi đất nước hồn tồn giải phóng , cách mạng Việt Nam đã chuyển
sang giai đoạn mới, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 227/CT-TW
ngày 18/11/1975. Trong Chỉ thị, yêu cầu ngành TDTT: “Phấn đấu vươn
lên, đưa phong trào quần chúng rèn luyện thân thể vào nền nếp, phát triển
cơng tác TDTT có chất lượng, có tác dụng thiết thực nhằm mục tiêu: khôi
phục và tăng cường sức khoẻ của nhân dân, góp phần xây dựng con người
mới phát triển tồn diện…”
Trước tình hình mới, Đảng ta ra chỉ thị 36/CT-TW ngày 24/3/1994
nhấn mạnh: “Sự nghiệp TDTT cần được phát triển đúng hướng theo những
quan điểm sau:
+ Phát triển TDTT là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát
triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.
+ Thực hiện giáo dục thể chất trong tất cả các trường học
+ Hình thành hệ thống đào tạo tài năng thể thao quốc gia

+ Kiện toàn hệ thống đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, huấn
luyện viên, giáo viên thể dục thể thao.”
Sinh thời Bác Hồ rất quan tâm đến việc phát triển ngành TDTT, Bác
coi TDTT trong mục tiêu giáo dục toàn diện.
Vào cuối tháng 3/1946 mặc dù đất nước còn rất nhiều khó khăn
nhưng Bác vẫn viết lời kêu gọi tồn dân tập thể dục, đến ngày 26/5/1946
diễn ra hoạt động thể thao, văn hố sơi nỗi của tuổi trẻ Thủ đơ Hà Nội, Bác
đích thân tới dự ngày hội ấy và người châm ngọn lửa phát động phong trào
khoẻ vì nước .
Ngày 18/8/1958 trong cuộc họp của Ban Bí thư Trung ương Đảng
bàn về TDTT, Bác có ý kiến chỉ đạo “Công tác tuyên truyền phải làm nổi
bật tầm quan trọng của TDTT đối với sản xuất và quốc phòng” Bác chỉ rõ


“dân cường thì nước thịnh”, dân cường là sức khoẻ của nhân dân cả thể
chất lẫn tinh thần .
Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, thì Người xem giáo dục thể chất học
đường trong nền giáo dục phát triển con người toàn diện. Người xác định
giáo dục thể chất là một trong những mặt “làm phát triển hoàn toàn năng
lực sẵn có ” của tuổi trẻ học đường. Nền giáo dục mới Việt Nam bao hàm
các mặt giáo dục như đức, trí, thể, mỹ. Đó là nền giáo dục phát triển con
người toàn diện nhằm “đào tạo các em nên những người cơng dân hữu ích
cho nước Việt Nam”(Bác Hồ).Nhiều lần người coi giáo dục thể chất như là
tiền đề của các mặt giáo dục khác: đức dục, trí dục, mỹ dục.“Việc giáo dục
trong nhà trường địi hỏi mơn học nào học sinh, sinh viên cũng phải học
tập tốt, kể cả môn giáo dục thể chất” Bác đã từng lưu ý học sinh phải cố
gắng học tốt môn thể dục như những môn học khác.
Coi trọng giáo dục thể chất học đường trong nền giáo dục phát triển
con người toàn diện là tư tưởng định hưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối
với sự nghiệp giáo dục và đào tạo các thế hệ trẻ Việt Nam.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trị của giáo dục thể chất ngày càng
có tầm quan trọng đối với thế hệ trẻ, đối với đất nước và nhân dân ta.
Trong nhà trường phổ thông và Cao đẳng, Đại học ở nước ta hiện nay việc
giáo dục thể chất và thể thao được chú trọng hơn trước nhằm tăng cường
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong cơng cuộc phát triển đất nước
và tiến trình cải tạo nòi giống Việt Nam. Trong bài phát biểu của ông J.A
Samaranch, Chủ tịch Uỷ ban Olympic Quốc tế, tại khoá họp lần thứ 50 Đại
hội đồng Liên hiệp quốc( Newyork, 6/11/1995) đã nêu lên một quan điểm
đúng “Muốn thay đổi thế giới, người ta phải trước hết đem lại sự thay đổi
cho ngay dân tộc mình, và chắc chắn là trong lĩnh vực này, vai trò của thể
thao như là một triết học sẽ phát huy tác dụng, bằng cách thúc đẩy việc
thực hiện lý tưởng phát triển con người toàn diện”


Xuất phát từ các quan điểm của Đảng, của Tư tưởng Hồ Chí Minh và
cũng là mục đích hành động của ngành TDTT, có thể kết luận rằng: ngay
từ lúc chưa có chính quyền đến khí lãnh đạo tồn dân đánh giặc ngoại xâm
giành được độc lập và thống nhất đất nước và ngày nay đang chuyển sang
thời kỳ phát triển mới- đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, Bác Hồ và
Đảng, Nhà nước ta trước sau như một quan tâm đến việc chăm lo sức khoẻ
cho nhân dân, với thể dục trong mục tiêu giáo dục toàn diện :“Sự cường
tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quí
để tạo ra tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội (báo cáo của Ban chấp hành
TW Đảng khoá VII). Chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của
tồn xã hội nói chung, của ngành thể dục thể thao nói riêng. Đó cũng
chính là mục đích cơ bản, quan trọng thứ nhất của giáo dục thể dục thể
thao ở nước ta.”
VAI TRÒ CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN THỂ DỤC
Trong thư gửi Hội nghị cán bộ TDTT nước ta vào cuối tháng 3/1960,
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy “Cán bộ thể dục thể thao phải học tập chính trị,

nghiên cứu nghiệp vụ và hăng hái cơng tác. Vì đó cũng là một công tác
trong những công tác cách mạng khác”. Trong báo cáo của Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa 7 đã nêu “Giáo dục TDTT
phải là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế xã hội
của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người,
làm cho con người phát triển toàn diện.”
Người giáo viên TDTT phải nhận thức đầy đủ tư tưởng chỉ đạo của
Bác và của Đảng để đưa nó được thực thi trong cuộc sống. Muốn vậy phải
phát huy năng lực, vai trò sư phạm của mình trong giảng dạy, huấn luyện.


Người giáo viên TDTT phải biết giáo dục cho học sinh có lý tưởng,
biết tham gia tích cực trong lao động sản xuất, giúp họ lựa chọn con đường
trong cuộc sống và thực hiện nghĩa vụ của người công dân đối với Tổ quốc.
Phải là người nắm vững công việc của mình đang làm, phải biết yêu lao
động, phải biết khắc phục khó khăn, gian khổ để đạt được mục đích đề ra,
phải thật sự gương mẫu, thật sự là tấm gương sáng để học sinh noi theo,
phải có trình độ văn hố chung, phải có hiểu biết về nghệ thuật, phải biết
cách giáo dục về tình cảm, thị hiếu, quan điểm, thẩm mỹ trong phạm vi
TDTT, bản thân phải là người khoẻ mạnh, biết tập luyện để giữ gìn cơ thể
mình được hài hồ và cân đối, có trình độ điêu luyện về kỹ thuật TDTT.
Trình độ càng cao, tri thức chuyên môn trong lĩnh vực TDTT càng rộng, thì
nhà giáo dục càng có nhiều khả năng giải quyết tốt các nhiệm vụ giáo dục.
Như C.Mác có nói “Nhà giáo dục phải là người được giáo dục”
Với vai trò to lớn như vậy, người giáo viên thể dục thể thao phải
không ngừng học hỏi, rèn luyện nâng cao năng lực sư phạm của mình.
Năng lực sư phạm có 3 nhóm:
- Năng lực dạy học.
- Năng lực giáo dục.
- Năng lực tổ chức hoạt động giáo dục.

1.Năng lực dạy học:
a.Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục:
Là năng lực xâm nhập vào thế giới bên trong của học sinh, năng lực
này có chỉ số cơ bản nhất của năng lực dạy học. Hiẻu được học sinh, nắm
được tâm sinh lý, nắm được trình độ, đặc điểm cá nhân của học sinh mới
xác định được khối lượng, kiến thức phù hợp với khả năng tiếp thu của họ.
b. Tri thức và tầm hiểu biết của thầy giáo:


Là một trong những năng lực cơ bản, trụ cột của nghề dạy học.
Người giáo viên có tri thức và tầm hiểu biết được thể hiện qua những vấn
đề sau:
- Nắm vững và hiểu biết rộng chun mơn mình phụ trách.
- Thường xuyên theo dõi những xu hướng, những phát minh khoa
học mới trong chun mơn mình phụ trách, biết nghiên cứu khoa học và có
hứng thú với nó.
- Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng để bổ túc và hồn thiện tri thức
của mình.
- Có năng lực biên soạn tài liệu.
- Có óc sáng tạo, truyền đạt kiến thức cho người khác, giúp cho
người khác hiểu được vấn đề mình truyền đạt một cách nhanh chóng.
c. Nắm vững kỹ năng dạy học:
Dạy và học là hai mặt của một quá trình, hoạt động của thầy nhằm
tạo ra hoạt động nhận thức tích cực của trị. Vì giáo viên là người tổ chức,
điều khiển học sinh tích cực hoạt động, người trị tiếp thu một cách tích
cực, chủ động, tự giác lĩnh hội những tri thức mà thầy truyền đạt. Do vậy
nếu người thầy dạy học mang tính nghệ thuật cao thì trị tiếp thu kiến thức
một cách dễ dàng hơn.
Việc nắm vững kỹ thuật dạy học được thể hiện:
- Nắm vững kỹ thuật dạy học mới, tạo cho học sinh ở vị trí người

phát minh trong q trình dạy học chứ không phải là người thụ động trong
nhận thức kiến thức.
- Thầy giáo truyền đạt tài liệu rõ rang, dễ hiểu làm cho tài liệu trở
nên vừa sức với học sinh.
- Gây hứng thú và kích thích học sinh suy nghĩ tích cực và độc lập
trong việc lĩnh hội kiến thức.


d. Năng lực ngôn ngữ:
Cần hết sức chú ý đến ngơn ngữ có văn hố, tác động ngơn ngữ của
người thầy phụ thuộc trực tiếp vào kết cấu hợp lôgic, vào sự thơng hiểu văn
học, vào tính chính xác, rõ ràng, mạch lạc, ý nghĩa, tính diễn cảm của ngơn
ngữ và tình cảm của mình bằng lời nói, nếu được có thể diễn đạt bằng cả
nét mặt, điệu bộ…
Năng lực ngơn ngữ là cơng cụ sống cịn đảm bảo cho người giáo
viên thực hiện chức năng dạy học và giáo dục của mình. Ngơn ngữ có sức
truyền cảm mạnh và ấm cúng đầy sức thuyết phục sẽ có sức mạnh truyền
thụ kiến thức và giáo dục rất lớn.
Về nội dung, ngôn ngữ phải chứa đựng mật độ thông tin lớn, chính
xác, cơ đọng, có giá trị; nội dung và hình thức ngôn ngữ phải phù hợp với
nhận thức của học trò.
Nhân cách, phẩm chất của giáo viên là hậu thuẫn vững chắc nhất cho
lời nói của mình, sức mạnh, sự lơi cuốn, lực hấp dẫn, tính điều khiển, tính
thân tình, cởi mở…tuỳ thuộc vào nhân cách và uy tín của giáo viên có ảnh
hưởng rất lớn đối với học sinh.
Hình thức ngơn ngữ phải giản dị, sinh động, giàu hình ảnh, biểu
cảm,phát âm mạch lạc, không sai phạm về từ ngữ hoặc về ngữ pháp, ngữ
âm.
2.Năng lực giáo dục:
a.Năng lực vạch dự án, phát triển nhân cách học sinh:

Trên cơ sở kế hoạch của nhà trường mà mỗi giáo viên phải biết tự
xây dựng cho riêng mình một kế hoạch tổng thể cũng như chi tiết một cách
khoa học, độc lập, sáng tạo, logic… để phục vụ tốt nhất cho công việc của


mình muốn hướng tới và hồn thành một cách xuất sắc nhiệm vụ được
giao.
b.Năng lực giao tiếp:
Mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh, giữa giáo viên và giáo viên.
- Thơng qua hành vi của mình mà giao tiếp với học sinh mang tính
hài hồ, chân tình, tình cảm…để giúp cho học sinh tiếp thu kiến tức tốt
hơn.
- Năng lực tiếp xúc với đồng nghiệp, với phụ huynh, với các tổ chức
xã hội khác bằng tình cảm, bằng chuyên môn… với sự lôi cuốn thuyết phục
cao giúp họ tin tưởng ở mình.
c.Năng lực cảm hố học sinh:
Gây ảnh hưởng trực tiếp của mình đến học sinh về mặt tình cảm và ý
chí hay nói cách khác là khả năng làm cho học sinh nghe, tin làm theo mình
bằng tình cảm và bằng niềm tin chứ không phải bằng mệnh lệnh của mình.
Để có năng lực này người giáo viên phải:
- Có tinh thần trách nhiệm với cơng việc.
- Có niềm tin vào sự nghiệp cũng như khả năng truyền đạt niềm tin
đó cho học sinh.
- Phải ln ln tu dưỡng để có nếp sống văn hố cao, cung cách
mẫu mực nhằm tạo ra uy tín chân chính, biểu hiện từ cử chỉ, lời nói đến
tinh thần lao động hăng say, sáng tạo, ý tưởng nghề nghiệp cao đẹp. Xây
dựng mối quan hệ thầy-trò tốt đẹp vừa nghiêm túc vừa thân mật, có thái độ
yêu thương và tin tưởng lẫn nhau, biết đối xử dân chủ, công bằng chân
thành và giản dị.
d.Năng lực khéo léo ứng xử sư phạm:



- Tình thương yêu của giáo viên đối với học sinh.
- Sự thống nhất giữa tôn trọng nhân cách và có yêu cầu cao đối với
họ.
-Sự thống nhất giữa niềm tin và sự kiểm tra sư phạm.
Sự nhạy bén của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến học sinh.
3.Năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục:
Tổ chức các hoạt động giáo dục là một biện pháp có tầm quan trọng
và có ý nghĩa giáo dục rất lớn đối với học sinh, giữ vững được trật tự, kỹ
luật và động viên được tính tích cực tham gia hoạt động, học tập, tập luyện
của học sinh.
Để có năng lực này người giáo viên phải biết giải thích mục đích,
nhiệm vụ hoạt động, xác định yêu cầu cụ thể và tổ chức cho học sinh hoạt
động thực hiện chúng, theo dõi các hoạt động của học sinh, phân tích đánh
giá kết quả việc thực hiện, điều chỉnh các hoạt động, đồng thời phê phán,
uốn nắn một cách tế nhị các hành vi của học sinh, xây dựng mối quan hệ
giữa học sinh với nhau. Hoạt động này của thầy giữ vai trị tổ chức, điều
khiển, định hướng, kiểm tra và kích thích sự hoạt động tích cực của học
sinh.
Như vậy vai trò của người giáo viên thể dục trong giáo dục tồn diện
rất quan trọng và có ảnh hưởng trực tiếp rất lớn đối với học sinh, nên người
giáo thể dục thể thao phải ln ln rèn luyện mình về đạo đức, phong
cách, về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư phạm để hồn thành
xuất sắc nhiệm vụ mình đang đảm trách và thật sự là một tấm gương sáng
để học sinh noi theo.


CHUYÊN ĐỀ II
ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC THỂ CHẤT

Ở TRƯỜNG PHỔ THƠNG THÌ THẦY GIÁO
CẦN PHẢI LÀM GÌ?
Để nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong trường phổ thông,
người giáo viên thể dục, trước hết phải quán triệt các nguyên tắc chung của
thể dục thể thao và thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc và phương pháp
giảng dạy thể dục thể thao.
I. nguyên tắc chung của giáo dục thể dục thể thao:
Ngun tắc chung có tính chất xã hội, tính chiến lược, có tính vĩ mơ
chung cho nền TDTT Quốc gia cho một lĩnh vực, làm cơ sở định hướng mà
bắt buộc các ngành nghề khác phải cùng tham gia tuân theo.
Trong giáo dục thể chất, có những nguyên tắc chung nhất chi phối
toàn bộ hoạt động của giáo dục thể chất, có liên quan trực tiếp đến sự thực
hiện mục đích của giáo dục.
Nhóm ngun tắc chung này gồm 3 nguyên tắc liên quan mật thiết
với nhau, chỉ đạo toàn bộ hoạt động giáo dục cũng như tổ chức của hệ
thống Giáo dục thể chất:
1.Nguyên tắc kết hợp giáo dục thể dục thể thao với thực tiễn lao
động và chiến đấu:
Nguyên tắc này phản ánh tính qui luật xã hội, chức năng thực dụng
cơ bản của TDTT là phục vụ xã hội, là chuẩn bị cho con người đi vào cuộc
sống với trạng thái sung sức và sẵn sàng lao động, sẵn sang chiến đấu với
năng suất và hiệu quả cao nhất. “Khoẻ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.Nội
dung của nguyên tắc này thể hiện qua các yêu cầu sau:


- Đảm bảo hiệu quả thực dụng của TDTT trong quá trình giáo dục
thể chất.
- Xây dựng các tiền đề rộng rãi cho việc tiếp thu các hình thức hoạt
động kác nhau.
Như vậy, nguyên tắc này nhất thiết phải quán triệt trong khi giải

quyết các nhiệm vụ riêng của giáo dục thể chất, đồng thời đưa những động
tác có ý nghĩa thực dụng trực tiếp vào chương trình huấn luyện, giảng dạy
cho học sinh và nhân dân.
2.Nguyên tắc phát triển con người toàn diện:
Trong lĩnh vực về phương pháp đào tạo con người, C.Mác viết
“Giáo dục trong tương lai sẽ thống nhất lao động sản xuất với giảng dạy
và thể dục, sự thống nhất đó khơng chỉ là phương pháp nâng cao sản xuất
xã hội, mà còn là phương pháp độc nhất để đào tạo con người phát triển
toàn diện”. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói “… Muốn đào tạo con
người mới, con người toàn diện, ngoài các mục tiêu phấn đấu trên, khơng
cịn các mục tiêu nào khác . Đức dục là tư tưởng. Trí dục là hiểu biết về
văn hoá, khoa học, kỹ thuật. Mỹ dục là hiểu biết về cái hay, cái đẹp. Cuối
cùng là thể dục, một mục tiêu không thể thiếu được theo quan điểm giáo
dục của chúng ta, là cơ sở để thiếp thu tốt đức dục, trí dục, mỹ dục”
Trong giáo dục TDTT, do có sự thống nhất về thể chất và tinh thần
trong sự phát triển của con người nên có nhiều khả năng to lớn để thực hiện
các nhiệm vu giáo dục về đức dục, trí dục, và mỹ dục. Việc giải quyết các
nhiệm vụ đó khơng chỉ mở rộng vai trò của giáo dục TDTT như một nhân
tố để giáo dục con người tồn diện mà cịn trực tiếp quyết định kết quả của
chính q trình giáo dục TDTT.
Ý nghĩa thực tiễn của nguyên tắc này được biểu hiện:


- Khi giải quyết các nhiệm vụ đặc trưng của TDTT, cần thường
xuyên đảm bảo mối liên hệ chặt chẽ giữa các mặt giáo dục khác: Đức dục,
trí dục, mỹ dục.
- Bảo đảm tính tồn diện của bản thân hoạt động thể dục thể thao,
đảm bảo sự thống nhất giữa chuẩn bị thể lực chung và chuẩn bị thể lực
chuyên môn.
a.Mối liên hệ giữa giáo dục thể dục thể thao và giáo dục đạo

đức:
Giáo dục TDTT và giáo dục đạo đức có mối liên hệ hai chiều do
những quy luật phát triển toàn diện và cân đối của từng cá nhân quyết
định.Cơ sở khoa học của mối liên hệ này là học thuyết về sự thống nhất của
cơ thể, về sự phụ thuộc lẫn nhau giữa phát triển thể chất và tinh thần của cá
nhân.
Trong giáo dụcTDTT thì những hành vi vận động giữ vai trò đặc biệt
quan trọng để hình thành và hồn thiện đạo đức cho người tập.Tập luyện
TDTT không những chỉ gây nên những biến đổi sinh lý trong cơ thể mà
còn biến đổi cả quan điểm, niềm tin, tình cảm, tập qn, sở thích và các
mặt khác của người tập.Thường xuyên được hoàn thiện và củng cố, những
phẩm chất đạo đức, lý trí có thể trở thành thói quen của người tập và biểu
hiện khơng những trong hoạt động thể dục thể thao mà cả trong lao động,
trong cuộc sống hàng ngày.
b.Mối quan hệ giữa giáo dục thể dục thể thao và giáo dục trí dục:
P.F.Letxgap đã viết: “Giữa phát triển trí tuệ và phát triển thể chất
có mối liên quan rõ rệt chặt chẽ….Sự lớn lên và sự phát triển của trí tuệ
địi hỏi phải có sự phát triển thể chất tương ứng”


Một cơ thể khoẻ mạnh là tiền đề vật chất giúp cho con người phát
triển năng lực hoạt động trí óc của mình. Khoa tâm lý học thể dục thể thao
xác minh rằng: “Việc tập luyện thể dục thể thao, đặc biệt là thể thao được
thực hiện trên cơ sở tư duy trí tuệ rộng rãi”
Q trình giáo dục, TDTT đảm bảo củng cố sức khoẻ, khả năng vận
động và hoàn thiện thể chất là nguồn sống đối với năng lực hoạt động trí
tuệ, là đảm bảo tuổi thọ sáng tạo của con người.Về phần mình giáo dục trí
tuệ làm phát triển tư duy người tập, đảm bảo cho việc tiếp thu các kinh
nghiệm vận động một cách sáng tạo và có đầu óc, đồng thời tạo điều kiện
hồn thiện năng lực thể chất của mình một cách hợp lý trong lao động và

thể thao.Trong quá trình giáo dục TDTT, nội dung cơ bản của hoạt động trí
tuệ là việc tiếp thu và mở rộng hàng ngày tri thức chuyên môn, giáo dục kỹ
năng sử dụng hợp lý những tri thức đó vào tập luyện TDTT.
c.Mối quan hệ giữa thể dục thể thao với giáo dục thẩm mỹ:
Giáo dục TDTT vừa củng cố sức khoẻ, phát triển cơ thể con người,
vừa tạo nên tiền đề thuận lợi cho giáo dục thẩm mỹ và mở rộng phạm vi tác
động thẩm mỹ đối với con người. Luyện tập TDTT thường sẽ làm chủ
được cơ thể mình một cách tự nhiên, thoả mái, tác phong nhanh nhẹn, hoạt
bát, tinh thần thoả mái, lạc quan. Nhìn vào người như vậy ta sẽ cảm nhận
được sự trẻ tung, tràn đầy sức sống, yêu đời. Mặt khác, bản thân TDTT
cũng chứa đựng nhiều yếu tố nghệ thuật, như các động tác của các môn thể
thao, thể dục nghệ thuật, nhịp điệu…đặc biệt là thể dục đồng diễn mang
tính nghệ thuật tổng hợp rất cao.
Giáo dục thẩm mỹ vừa nâng cao phong cách tinh thần của vận động
viên và phát triển khát vọng hướng tới cái đẹp thể chất, tới sự thể hiện sáng
tạo trong hoạt động vận động, tới hành vi có thẩm mỹ, vừa nâng cao hiệu
quả giáo TDTT.


3.Nguyên tắc giữ gìn và nâng cao sức khoẻ:
Trong bất kỳ hoạt động TDTT cũng phải đảm bảo hiệu quả sức khoẻ,
sức khoẻ không chỉ nằm trong quyền sở hữu cá nhân, mà ngày nay được
coi như là tài sản quốc gia, vì nó thúc đẩy q trình tái sản xuất sức lao
động.Giữ gìn và nâng cao sức khoẻ cho nhân dân khơng chỉ là của Đảng,
Nhà nước mà cịn được Bác Hồ xác định: “Đó là bổn phận của mỗi người
dân yêu nước”
Xuất phát từ nguyên tắc này sẽ nảy sinh hai vấn đề cần lưu ý khi
thực hiện:
+ Trách nhiệm của các tổ chức và các cá nhân trước Đảng, Nhà nước
và nhân dân về việc nâng cao sức khoẻ cho người tập.

+ Sự bắt buộc về kiểm tra Y học và kiểm tra sư phạm.
Do vậy khi lựa chọn các phương tiện của giáo dục thể chất phải xuất
phát từ giá trị nâng cao sức khoẻ như những tiêu chuẩn bắt buộc. Vì các bài
tập TDTT như con dao hai lưỡi, nếu thực hiện đúng, khoa học thì nó sẽ
đem lại sức khoẻ cho người tập, cịn ngược lại thì nó có thể làm hại cho sức
khoẻ.
Mặt khác phải đảm bảo tính thường xuyên và thống nhất giữa kiểm
tra Y học và kiểm tra sư phạm. Cần phải tiến hành thường xuyên ảnh
hưởng của luyện tập TDTT với người tập, trách nhiệm đó trước tiên thuộc
về giáo viên, huấn luyện viên… và các thầy thuốc có liên quan. Họ cùng
phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước và xã hội, đảm bảo hiệu quả của
TDTT là nâng cao sức khoẻ cho nhân dân.Do đó thực hiện nguyên tắc giữ
gìn và nâng cao sức khoẻ địi hỏi phải có sự hợp tác sáng tạo, chặt chẽ hàng
ngày giữa những người làm công tác giáo dục TDTT với các bác sĩ chuyên
khoa và ngay cả với bản thân người tập.


Để thực hiện các nguyên tắc trên, Đảng ta có những quan điểm chỉ
đạo cơ bản có tính định hướng ,để xác định vị trí và các mối quan hệ của
toàn bộ sự nghiệp TDTT nước ta trong thời kỳ dài mang tính chiến
lược(đối với đời sống, kinh tế xã hội, các quan hệ nội tại của hoạt động
TDTT, cũng như để xác định nghĩa vụ và giải pháp lớn của công tác
TDTT)
+Quan điểm 1: Trong mối quan hệ với đời sống kinh tế, xã hội thì
phát triển TDTT là một yêu cầu khách quan, một mặt quan trọng của chính
sách xã hội nhằm chăm lo cho con người, phục vụ đắc lực cho những
nhiệm vụ phát triển đất nước về mọi mặt: kinh tế, xã hội, văn hoá, an ninh,
quốc phịng.
Vì TDTT là một phương tiện đặc biệt có ý nghĩa để ngăn chặn sự sa
sút về sức khoẻ, đồng thời cũng là phương tiện duy nhất để phát triển sức

khoẻ, nâng cao thể chất cho nhân dân, đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước.
+ Quan điểm 2: Bảo đảm tính dân tộc, tính khoa học và tính nhân
dân, kết hợp chặt chẽ phát triển TDTT quần chúng với việc xây dựng lực
lượng vận động viên, nâng cao thành tích các mơn thể thao.
-Tính dân tộc: Nội dung và hình thức hoạt động TDTT phải có bản
sắc dân tộc, phù hợp với đạo lý, tập quán, truyền thống….Phát huy các
môn thể thao dân tộc, đồng thời hạn chế và xố bỏ những cái lạc hậu, có
hại trong tập quán cũ.
-Tính khoa học: Chọn lọc, kế thừa những tinh hoa tri thức của nhân
loại kết hợp với truyền thống dân tộc.
- Tính nhân dân: Phát động rộng rãi nhân dân tham gia tập luyện, rèn
luyện thân thể, mặt khác phải phát huy vai trò chủ động sáng tạo của quần
chúng, TDTT là sự nghiệp của quần chúng.


-Thể dục thể thao quần chúng kết hợp với TT thành tích cao: Coi đây
là cốt lõi của ngành thể thao nước nhà, phát trển thể thao trường học là cốt
lõi, là đối tượng, là chiến lược của nền thể thao nước nhà.
+Quan điểm 3: Thực hiện xã hội hoáTDTT.
Là q trình nâng cao tính tự giác tích cực của nhân dân tham gia
vào các hoạt động TDTT, cùng tổ chức quản lý, đóng góp xây dựng vào
các phong trào TDTT, cùng chăm lo có trách nhiệm, đa dạng hố hoạt
động, chủ động và bình đẳng.
+Quan điểm 4: Kết hợp phát trtiển TDTT trong nước với việc mở
rộng các quan hệ quốc tế về TDTT.
Việc mở rộng quốc tế về TDTT phù hợp với đường lối đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta, mối quan hệ không chỉ hiểu là giữa các nhà nước,
quốc gia mà còn với các tổ chức xã hội như Olympic, các liên đoàn thể
thao.
II. Nguyên tắc giảng dạy thể dục thể thao:

Nguyên tắc giảng dạy TDTT là những phương hướng chung được
đúc kết thành những ngun lý cơ bản có giá trị chỉ đạo tồn bộ q trình
giảng dạy và giáo dục, làm cho cơng tác này một mặt đi đúng mục đích của
giáo dục thể chất, mặt khác lại diễn ra theo đúng quy luật chung của quá
trình nhận thức và các quy luật riêng của quá trình giảng dạy động tác.
1.Nguyên tắc tự giác tích cực:
Là một trong những nguyên tắc về phương pháp, trong đó người tập
tự nhận thức được và có hành động mạnh mẽ, kiên trì để giải quyết thành
cơng nhiệm vụ đặc ra.Tính tích cực của người học thường được thể hiện
qua hành động hoạt động tự giác, tính tự giác được hiểu là tự ý thức của
bản thân của người học trước nhiệm vụ đặc ra, từ đó người học tập trung


cao độ sinh lực và ý chí để khắc phục khó khăn hồn thành nhiệm vụ đặc ra
với sự thơng minh và sáng tạo.
Để thực hiện nguyên tắc này thì phải xây dựng tính tự giác, tích cực
cho học sinh, bằng cách giải quyết ba vấn đề sau:
a.Giáo dục tính tự giác và hứng thú bền vững đối với mục đích buổi
tập chung cũng như đối với nhiệm vụ cụ thể của từng buổi tập:
Tiền đề của thái độ tự giác là động cơ tham gia tập luyện, động cơ rất
đa dạng, ở trẻ em thì động cơ ngẫu nhiên, khơng sâu sắc, khơng có ý định
trước…nên giáo viên phải nắm bắt được những động cơ đó để hướng dẫn
các em tập luyện. Khi có động cơ đúng thì sẽ kích thích tập luyện, hiểu
được bản chất sâu xa của tập luyện TDTT, từ đó sẽ hình thành hứng thú
bền vững và lâu dài, người tập thấy được mục đích của việc tập luyện và
trách nhiệm của mình để giải quyết các nhiệm vụ, từ đó mở ra triển vọng
cho con đường sau này.
Đối với nhiệm vụ vận động, người tập phải hiểu được tập cái gì? tập
để làm gì? tập như thế nào? Và tại sao tập như thế này mà không tập như
thế kia?...Mức độ nhận thức của người tập được nâng cao dần dần, bắt đầu

từ những khái niệm đơn giản, sơ đẳng, thông qua tập luyện nhận thức của
họ trở nên sâu sắc hơn về nhiệm vụ vận động cần giải quyết, từ đó sự hứng
thú ngày càng cao hơn và có thái độ tự giác, tích cực ngày càng cao.
b.Giáo dục khả năng phân tích có ý thức, kiểm tra sử dụng sức lực
hợp lý khi thực hiện bài tập:
Ý thức về sự thực hiện của người tập phải được quan tâm thường
xuyên trong quá trình giảng dạy, tạo cho người tập có sự động não trong
quá trình tập luyện, suy nghĩ về nguyên nhân của những lần làm tốt và
những lần thất bại. Khi động tác đã trở thành kỹ xảo vận động thì vẫn



×