Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh hà nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.93 KB, 69 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện được đề tài này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiều của các
thầy, cô giáo trong khoa Lý luận Chính trị - Giáo dục Công dân trường Đại học Sư
phạm Hà Nội. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy, cô giáo trong khoa,
đặc biệt là các thầy, cô giảng dạy bộ môn Triết học.
Hơn hết, tôi tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo – PGS.TS Nguyễn Văn
Cư, giảng viên hướng dẫn việc thực hiện đề tài của tôi. Trong quá trình thực hiện đề
tài này, thầy là người đã tận tâm chỉ bảo, hướng dẫn, cung cấp, giới thiệu những tài
liệu cần thiết để tôi hoàn thiện đề tài này.
Do những điều kiện khách quan và chủ quan khác nhau cùng những hạn chế
của người viết nên đề tài chắc chắn còn nhiều sai sót, rất mong nhận được sự góp ý
của quý thầy cô và các bạn !

Hà Nội, Ngày tháng năm
Người thực hiện
Trần Thị Nụ


MỤC LỤC



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho đến nay đã và đang trải qua
những chế độ xã hội khác nhau, từ chế độ xã hội thấp lên xã hội có trình độ cao
hơn, tiến bộ hơn. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự thay đổi đó là sự phát triển của
kinh tế, trong đó sự phát triển của lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định nhất.
Lực lượng sản xuất biểu thị mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Trong
các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất thì yếu tố người lao động giữ vai trò quyết


định. Lênin đã khẳng định: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là
công nhân, là người lao động” [9, tr430]
Nguồn lực con người có vai trò to lớn trong sự phát triển nhanh và bền vững
của mỗi quốc gia. Quốc gia nào quan tâm và phát huy tốt nhân tố con người quốc gia
đó sẽ thành công. Việt Nam muốn thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa thì một trong những yêu cầu cấp bách là phát triển nhân tố con người. Trong 30
năm đổi mới ở nước ta, nguồn lực con người đã tăng nhanh về số lượng, chất lượng đã
được cải thiện, cơ cấu có sự biến đổi tích cực. Song nhìn chung chất lượng nguồn nhân
lực còn thấp, cơ cấu chưa hợp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “phát triển nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao” là một trong ba khâu đột phá chiến lược. Đây là nguồn
lực của mọi nguồn lực, là nội lực quan trọng nhất bảo đảm đưa nước ta trở thành một
nước CNH,HĐH. Vì vậy việc phát huy có hiệu quả nguồn lực con người của đất nước
là vấn đề có ý nghĩa lâu dài đối với Việt Nam.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và các nghị quyết của Đại hội Đảng
bộ tỉnh Hà Nam, kinh tế - xã hội của tỉnh đã phát triển khá toàn diện, tốc độ tăng
trưởng kinh tế khá cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực hiện đại.
Nguồn lực con người ở Hà Nam đã có sự phát triển cả về số lượng, chất lượng và
cơ cấu. Tuy nhiên, nguồn lực của con người của Hà Nam nhìn chung vừa thừa lại
vừa thiếu, chất lượng còn thấp, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao còn ít, cơ
cấu và phân bố chưa hợp lý. Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, phấn đấu

4


đến năm 2020 Hà Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp thì một trong những yêu
cầu cấp bách hiện nay là nâng cao chất lượng nguồn lực con người của tỉnh.
Xuất phát từ yêu cầu đó, tác giả đã chọn đề tài: “Nhân tố con người trong
lực lượng sản xuất với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hà Nam
hiện nay” để làm khóa luận tốt nghiệp của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu đề tài

Vấn đề yếu tố con người, về lực lượng sản xuất và phát triển nhân tố con
người từ trước đến nay đã được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu ở nhiều mặt,
nhiều góc độ khác nhau, với nhiều hình thức khác nhau. Có thể khái quát một số
công trình nghiên cứu như sau:
-

Các công trình, sách, báo, tạp chí nghiên cứu về mặt lý luận nguồn lực con người
như: “Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực”. Niên giám nghiên cứu số 3 do
Phạm Minh Hạc chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, năm 2004. “Nguồn lực con người
trong quá trình CNH,HĐH ở Việt Nam” của Đoàn Văn Khải, Nxb Lý luận chính trị,

-

2005.
Các công trình nghiên cứu về nhóm giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
như: “Các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu
CNH, HĐH đất nước” luận án tiến sỹ của Phan Thanh Tâm. Kỷ yếu “Nâng cao
hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong thời kì CNH,HĐH ở Việt Nam” của Nguyễn

-

Viết Vượng, Nguyễn Khắc Thanh, Nxb Lao động, 2006.
Có nhiều tác giả đi chuyên sâu vào vấn đề giáo dục – đào tạo, đào tạo nghề, việc
làm, chuyển dịch cơ cấu lao động của nguồn nhân lực như: “Đào tạo và sử dụng
nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của Phan Văn Kha, Nxb
Giáo dục, 2007; “Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỉ XXI” của Trần
Khánh Đức, Nxb Giáo dục, 2010.
Nhìn chung , đã có nhiều học giả nghiên cứu về vấn đề nhân tố con người,

mỗi tác giả chỉ bàn ở một khía cạnh cụ thể và mỗi công trình đều mang một ý nghĩa
nhất định, nhưng cho đến nay, chưa có công trình nào đề cập đến nhân tố con người
trong lực lượng sản xuất và các giải pháp nhằm phát huy vai trò nhân tố con người
trong lực lượng sản xuất (ở tỉnh Hà Nam). Vì thế, đề tài “ Nhân tố con người trong
lực lượng sản xuất với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hà Nam
hiện nay” sẽ góp phần bổ sung vào việc nghiên cứu vấn đề nguồn lực con người
trong lực lượng sản xuất cả về mặt lý luận và thực tiễn.
5


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Mục đích của khóa luận là trên cơ sở hệ thống hóa các quan niệm về lực
lượng sản xuất và phân tích thực trạng về nguồn lực con người trong lực lượng sản
xuất ở tỉnh Hà Nam, khóa luận đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy
nguồn lực con người trong lực lượng sản xuất ở tỉnh Hà Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích cơ bản đó, đề tài cần thực hiện nhiệm vụ sau đây:
Một là, phân tích một cách có hệ thống các quan niệm về lực lượng sản xuất.
Hai là, làm rõ thực trạng về nhân tố con người trong lực lượng sản xuất ở
tỉnh Hà Nam hiện nay.
Ba là, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy nhân tố con người trong
lực lượng sản xuất với sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Hà Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tập trung nghiên cứu nhân tố con người
trong lực lượng sản xuất ở tỉnh Hà Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài đi sâu nghiên cứu yếu tố con người, vai trò và
các giải pháp phát huy nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với sự nghiệp
CNH, HĐH ở tỉnh Hà Nam nói riêng.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của khóa luận


Kết quả nghiên cứu của đề tài ( thực trạng nhân tố con người trong lực lượng
sản xuất ở tỉnh Hà Nam và một số giải pháp để phát huy nhân tố con người trong
lực lượng sản xuất ở tỉnh Hà Nam hiện nay) có thể giúp những người làm công tác
quản lý kinh tế - xã hội ở tỉnh Hà Nam tham khảo, áp dụng ở địa phương mình.
Đề tài góp phần làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và
học tập triết học và các ngành khoa học xã hội và nhân văn.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

6.1 Cơ sở lý luận
Là công trình nghiên cứu triết học, đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm đường lối của Đảng về
các vấn đề liên quan đến đề tài.

6


Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở khảo sát thực trạng con người, lực lượng sản
xuất ở Hà Nam, có thể kế thừa kết quả thu được của các công trình khoa học có liên
quan, nhất là thực tế điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội và nguồn lực ở tỉnh Hà Nam.
6.2 Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp luận
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử: logic – lịch sử, phân tích – tổng hợp, thu thập,
thống kê….
7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài gồm 3
chương, 7 tiết.

7



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ CON NGƯỜI
TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
1.1. Nhận thức chung về lực lượng sản xuất
1.1.1. Một số quan niệm về lực lượng sản xuất
Thuật ngữ “Lực lượng sản xuất” được C.Mác đưa ra lần đầu tiên trong tác
phẩm “Hệ tư tưởng Đức”. Trong các tác phẩm đó, qua việc phân tích quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất C.Mác chỉ ra
bản chất của lực lượng sản xuất. Nhưng khái niệm “Lực lượng sản xuất” chưa được
C.Mác phát biểu một cách hoàn chỉnh dưới dạng một định nghĩa.
C.Mác cho rằng: “lao động là một quá trình diễn ra giữa con người và giới tự
nhiên. Một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình con người làm trung
gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên” [13, tr.260]. C.Mác
đã vạch ra bản chất của lực lượng sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên. Với lí do gì mà C.Mác lại khẳng định như vậy? Trong toàn bộ quá
trình nghiên cứu lịch sử nhân loại cũng như nghiên cứu về sự phát triển của con
người, C.Mác đã phát hiện ra một chân lý hết sức giản đơn rằng trước hết con người
muốn sống, muốn tồn tại phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, phương tiện đi lại và
nhiều thứ khác. Để có được những nhu cầu đó, con người phải tiến hành lao động
sản xuất, phải tác động vào tự nhiên, làm biến đổi tự nhiên để tạo ra của cải vật chất
phục vụ cho nhu cầu của chính bản thân con người. Chính sự tác động qua lại giữa
con người với tự nhiên là biểu hiện của lực lượng sản xuất.
Hơn nữa, hoạt động sản xuất vật chất của con người ngày càng tiến bộ, ngày
càng khám phá những bí ẩn của thế giới khách quan, biểu hiện sâu sắc bản chất của
các sự vật, hiện tượng đồng thời cải biến những công cụ, phương tiện tác động vào
tự nhiên. Nhờ đó con người không ngừng cải tạo lực lượng sản xuất ngày càng lớn
mạnh. Cho nên, lực lượng sản xuất không phải là yếu tố bất biến mà nó luôn kế
thừa, đổi mới và phát triển không ngừng. Nói như vậy, lực lượng sản xuất là một
khái niệm hết sức trừu tượng. Để cho dễ hiểu, C.Mác đã chỉ ra cấu trúc của lực

lượng sản xuất bao gồm: “Một bên là con người, là lao động của con người, bên kia

8


là tự nhiên và vật liệu của tự nhiên” [11, tr.271]. Điều đó có nghĩa là, nói đến lực
lượng sản xuất là đề cập đến hai yếu tố, đó là yếu tố con người và yếu tố vật.
Chính vì khái niệm “lực lượng sản xuất” chưa được C.Mác phát biểu thành
một cách hoàn chỉnh dưới dạng một định nghĩa. Vì thế trong lịch sử triết học, nhiều
học giả đã đưa ra những định nghĩa khác nhau, thậm chí đối lập nhau xoay quanh
lực lượng sản xuất.
Học giả Trung Quốc – Tôn Dã Phương cho rằng: “lực lượng sản xuất với
nghĩa là trình độ sản xuất hoặc năng suất lao động là kết quả của quá trình lao
động” [16, tr.2]. Với quan niệm này của tác giả Tôn Dã Phương không chính xác,
bởi vì trình độ sản xuất chỉ là một những yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, còn
năng suất lao động là thước đo trình độ của lực lượng sản xuất ở những giai đoạn
lịch sử nhất định. Vì thế không thể đồng nhất khái niệm lực lượng sản xuất với trình
độ sản xuất.
Từ điển triết học đã định nghĩa: “Lực lượng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ
giữa lao động đã được tích lũy và lao động sống, nghĩa là toàn bộ yếu tố người và
vật của nền sản xuất, cần thiết để từ đối tượng của tự nhiên sản xuất ra những vật có
khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người” [20, tr.339].
Từ điển Kinh tế chính trị học thì quan niệm: “Lực lượng sản xuất, tư liệu sản
xuất và những con người có kiến thức, có kinh nghiệm sản xuất, có kĩ năng lao
động và đưa tư liệu sản xuất vào hoạt động” [19, tr.262]. Cách định nghĩa này đã
làm rõ nội dung quan trọng nhất của lực lượng sản xuất là con người, nhưng chưa
đề cập đến các bộ phận cấu thành tư liệu sản xuất.
Giáo trình Triết học dùng trong các trường Đại học – Cao đẳng năm 1991 –
1992 định nghĩa: “Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của

con người đó là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tác
động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của
loài người” [1, tr.29]. Theo giáo trình này lực lượng sản xuất bao gồm:
Thứ nhất, tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động.
Thứ hai, người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động
sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Định nghĩa này phản ánh đầy đủ
nội dung của lực lượng sản xuất nhưng lại đề cập đến nhân tố con người chỉ dừng
9


lại ở kinh nghiệm, thói quen sẽ không thấy được tính quyết định của yếu tố con
người. Để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển cần có những người có tri thức
khoa học – kĩ thuật, có trí tuệ, năng lực sáng tạo.
Giáo trình triết học năm 2002 – 2003 cũng khẳng định: “Lực lượng sản xuất
bểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Lực
lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra
của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kĩ năng lao động
của họ và tư liệu sản xuất trước hết là công cụ lao động kết hợp với nhau tạo thành
lực lượng sản xuât” [8, tr.351].
Thông qua tìm hiểu một số công trình nghiên cứu có thể thấy rất nhiều những
quan điểm khác nhau về lực lượng sản xuất, tổng kết lại đều thống nhất rằng lực lượng
sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong qáu trình sản xuất.
Lực lượng sản xuất gồm hai yếu tố cơ bản là con người và tư liệu sản xuất. Họ chưa
thấy được tầm quan trọng của khoa học – công nghệ nên chưa đưa yếu tố khoa học vào
khái niệm lực lượng sản xuất.
Trong đề tài này, theo tôi : Lực lượng sản xuất là lực lượng những người lao
động sử dụng các tư liệu sản xuất và những tri thức khoa học – công nghệ trong
quá trình sản xuất.
Để tìm hiểu đầy đủ, chính xác, đúng đắn về lực lượng sản xuất cần phải làm
sáng tỏ nội dung của lực lượng sản xuất, xem lực lượng sản xuất bao gồm những

yếu tố nào ? Nội dung của mỗi yếu tố và sự tác động qua lại giữa chúng ra sao ?
1.1.2.

Nội dung của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kĩ năng lao động của họ và
tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, lao động
của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động kết hợp với nhau
tạo thành lực lượng sản xuất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất thì con người – người lao động giữ vị
trí hàng đầu và quyết định. Người lao động với sức lao động (thể lực và trí lực) thông
qua hoạt động lao động tạo nên sức mạnh vật chất tác động vào tự nhiên. Cải biến tự
nhiên nhằm phục vụ cho nhu cầu của bản thân và của toàn xã hội. Đồng thời, cải biến
chính bản thân con người và các quan hệ giữa con người với con người. Qua đó, con
người đã tự khẳng định và thể hiện vai trò của mình trong sự phát triển xã hội, từ đó
10


tạo nên bước chuyển quan trọng của mình là trở thành con người theo đúng nghĩa của
nó. Chính vì vậy, V.I.LêNin đã khẳng định “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thế
nhân loại là người côn nhân, người lao động” [9, tr.430]
Trong lao động con người không ngừng phát triển năng lực nhận thức và tư
duy của mình, sức mạnh của kĩ năng lao động thần kinh – cơ bắp vì thế được nhân
lên gấp nhiều lần. Lao động của con người do đó ngày càng trở thành lao động có
trí tuệ và lao động trí tuệ. Hàm lượng trí tuệ trong lao động đặc biệt trong điều kiện
khoa học – công nghệ phát triển vượt bậc, nền kinh tế tri thức đang hình thành và
phát triển mạnh mẽ như hiện nay, đã làm cho con người trở thành nguồn lực đặc
biệt của lực lượng sản xuất, là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận, giữ vai trò quyết
định trong sự phát triển của nền sản xuất xã hội.
Vì thế, sự phát triển của mỗi quốc gia, xét đến cùng, đều phụ thuộc vào sức
mạnh của nguồn lực con người. Nếu sức mạnh ấy được nuôi dưỡng, khơi dậy và

phát huy tốt thì đó chính là nền tảng sức mạnh của mỗi quốc gia. Do vậy, muốn
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát
triển kinh tế tri thức thì một trong những đột phá mang tính chiến lược hiện nay là
phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Trong cấu trúc của lực lượng sản xuất, con người không chỉ là một bộ phận
cấu thành cơ bản mà hơn thế, còn đóng vai trò đặc biệt quan trọng – kết nối các yếu
tố cấu thành lực lượng sản xuất với nhau để chúng có thế phát huy tác dụng một
cách hiệu quả nhất.
Yếu tố đầu tiên có sự liên kết chặt chẽ với người lao động là tư liệu sản xuất
– tổng thể những yếu tố vật chất của quá trình lao động. Tư liệu sản xuất bao gồm
tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Tư liệu lao động là một vật hay toàn bộ những vật mà người lao động dung
để tác động vào đối tượng lao động nhằm sản xuất ra của cải vật chất. Tư liệu lao
động là một trong những yếu tố giản đơn, cần thiết của quá trình lao động. Tư liệu
lao động bao gồm: loại truyền dẫn hoạt động lao động của con người tới đối tượng
lao động hay còn gọi là công cụ lao động; loại chứa đựng nguyên, nhiên, vật liệu,
nửa thành phẩm, thành phẩm; những điều kiện vật chất tuy không tham gia trực tiếp

11


vào quá trình sản xuất nhưng cũng chiểm một vị trí quan trọng trong quá trình sản
xuất (kho tang, bến bãi…)
Trong toàn bộ các thành tố cấu thành tư liệu lao động, công cụ lao động đóng
vai trò quan trọng nhất và là một thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Mọi công
cụ sản xuất đều có ba bộ phận: động lực, truyền lực và công tác.
Bộ phận công tác (còn gọi là bộ phận chấp hành hay tác động) trực tiếp tác
động lên đối tượng lao động để làm ra sản phẩm. Bộ phận truyền lực truyền năng
lượng từ nguồn động lực đến bộ phận công tác. Ở công cụ sản xuất thủ công, nguồn
động lực là do sức cơ bắp của người lao động, còn bàn tay trực tiếp làm bộ phận

công tác chuyển động. Nếu bộ phận công tác giao cho máy thực hiện – gọi là máy
công tác, thì ta có công cụ nửa cơ khí. Khi nguồn động lực do máy cung cấp thì đó
là công cụ cơ khí. Trong công cụ thủ công và cơ khí, cũng như các công cụ được
sản xuất ra nhờ ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, việc điều
khiển công cụ sản xuất đều do người lao động đảm nhận.
Công cụ lao động là “khí quan của bộ óc con người”, “là sức mạnh tri thức
đã được vật thể hóa”, có tác dụng “nối dài bàn tay” và nhân len sức mạnh trí tuệ của
con người. Nhờ có công cụ lao động mà người lao động có thể tác động trực tiếp
đến đối tượng lao động, chế biến nó trong quá trình sản xuất. Công cụ lao động có
vai trò quyết định trong sản xuất. Mức độ và trình độ phát triển của công cụ lao
động là thước đo khả năng chi phối tự nhiên của con người. Từ công cụ bằng đá thô
sơ đến những máy tự động phức tạp nhất hiện nay là con đường phát triển của công
cụ lao động mà con người đã thực hiện trong lịch sử sinh tồn của mình. Chính sự
chuyển đổi, cải tiến và hoàn thiện không ngừng của nó đã gây ra sự biến đổi sâu sắc
trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng, nó là nguyên nhân sâu xa của mọi cải
biến xã hội.
Bên cạnh đó công cụ lao động còn là dấu hiệu vạch rõ những quan hệ xã hội
trong đó lao động được tiến hành. Vì thế C.Mác đã khẳng định: Đối với việc nghiên
cứu những hình thái kinh tế của xã hội đã qua, những di vật của những tư liệu lao
động cũng có một tầm quan trọng như sự cấu tạo của những xương hóa thạch đối
với việc tìm hiểu tổ chức của các chủng loại đã tiêu vong.

12


Để tiến hành quá trình sản xuất vật chất, đối tượng lao động là một yếu tố
không thể thiếu. Đối tượng lao động là toàn bộ những vật mà trong quá trình lao
động con người tác động vào bằng công cụ lao động để sản xuất ra của cải vật chất.
Đối tượng lao động có hai loại: Loại thứ nhất có sẵn trong tự nhiên như các khoáng
sản, đất, đá, thủy sản; loại thứ hai đã qua chế biến nghĩa là đã có sự tác động của lao

động trước đó, ví dụ như thép phôi, sợi dệt, bông…
Chính sự phong phú và đa dạng của đối tượng lao động là điều kiện vật chất
quan trọng của quá trình sản xuất vật chất. Tuy nhiên, còn nhiều lí do khác nhau,
những nguồn tài nguyên thiên nhiên mà tạo hóa ban cho loài người đang ngày càng
cạn kiệt. Dù ai cũng biết, quốc gia nào cũng biết, vận mệnh của cả loài người, của
từng quốc gia gắn liền với vận mệnh của những nguồn tài nguyên ấy.
Một bộ phận nữa có vị trí quan trọng trong lực lượng sản xuất đó là khoa học
công nghệ. C.Mác khẳng định: khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp với
điều kiện khoa học được con người vận dụng và thông qua hành động của con
người đến mức độ nào đó hay khoa học phải tồn tại dưới dạng lao động vật hóa
thành máy móc thì lúc đó nó mới trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Điều này
được C.Mác viết trong “Tư bản”: “Có một lực lượng sản xuất khác mà tư bản
không mất một khoản phí nào, đó là sức mạnh khoa học…nhưng tư bản chỉ có thể
chiếm được sức mạnh ấy của khoa học bằng cách sử dụng máy móc (phần nào cả
trong quá trình hóa học). Sự gia tăng dân số là một lực lượng sản xuất mà tư bản có
được không phải chi phí gì cả…Nhưng vì để có thể sử dụng được trong quá trình
sản xuất trực tiếp, bản thân những lực lượng ấy cần đến một bản thể do lao động tạo
ra, nghĩa là tồn tại dưới dạng lao động vật hóa”. Nói cách khác, khoa học phải được
vật hóa trong đối tượng lao động, trong công cụ lao động mới có thể trở thành “lực
lượng sản xuất trực tiếp”.
Tuy nhiên, công cụ lao động dù hiện đại đến thế nào vẫn chỉ là những “vật
chết” nếu không có con người sử dụng nó. C.Mác viết: “Máy móc không dùng
trong quá trình lao động thì trở thành vô ích. Hơn nữa nó còn chịu tác dụng phá
hoại sự trao đổi chất tự nhiên…Lao động sống cần nắm lấy những vật ấy, làm cho
chúng từ chỗ chết thành sống, biến chúng từ chỗ chỉ là những giá trị sử dụng có tính
chất khả năng thành những giá trị sử dụng thực tế”.
13


Ngày nay, luận điểm này của C.Mác đã trở thành hiện thực. Sự ra đời phát

triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và nền kinh tế tri thức là những minh chứng
sống động nhất, toàn diện và đúng đắn nhất. Nền kinh tế mới này đòi hỏi khoa học
phải tham gia vào quá trình sản xuất vật chất một cách tích cực, chủ động, nhanh
chóng vật hóa tri thức khoa học trở thành những công cụ sản xuất mới, và trực tiếp
tham gia vào các quá trình sản xuất, giải quyết những vấn đề bức xúc do thực tiễn
sản xuất và thực tiễn xã hội đặt ra. Và như thế khoa học – công nghệ đã góp phần
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và qua đó khoa học cũng phát triển theo.
Thực tiễn cho thấy, nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển trên thế
giới chủ yếu dựa vào tri thức khoa học và các tiến bộ khoa học – công nghệ. Trong
điều kiện hiện nay, bất kì quốc gia nào muốn trở thành nước phát triển, nước hiện
đại thì không thể không chú trọng hàng đầu vấn đề này. Như vậy, muốn tiến hành
thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức, thì phát
triển mạnh khoa học và công nghệ là một tất yếu khách quan để phát triển nhanh
bền vững nền kinh tế, nâng cao năng suất lao động.
Các yếu tố của lực lượng sản xuất quan hệ hữu cơ với nhau trong đó con người
và công cụ lao động là yếu tố cơ bản nhất. Trên cơ sở thống nhất biện chứng giữa các
yếu tố cấu thành nên nó, được hình thành trong lao động và biến đổi cùng lao động.
Đồng thời lực lượng sản xuất biểu hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá
trình chi phối tự nhiên vì nhu cầu của con người là thước đo của sự tiến bộ xã hội.
Điều đó cho thấy rằng, việc tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam là yêu cầu phát triển khách quan
của lực lượng sản xuất, để nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất, nâng cao năng
suất lao động, nâng cao được trình độ kinh tế - kĩ thuật, hiệu quả và sức mạnh cạnh
tranh của nền sản xuất xã hội. Muốn thực hiện thành công quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa phải chú trọng việc xây dựng, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực
con người – nhân tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất.
1.2.
1.2.1

Sự tác động của nhân tố con người trong lực lượng sản xuất

Một số quan niệm về con người
Xuyên suốt quá trình phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại, con người
luôn là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Mỗi ngành đi sâu nghiên cứu,
14


khám phá từng mặt, từng khía cạnh nào đó của con người. Cụ thể như các nhà khoa
học tự nhiên thường tập trung nghiên cứu bản thể sinh học, cấu trúc sinh học của
con người. Trong khi đó các nhà khoa học xã hội và nhân văn lại tập trung nghiên
cứu lĩnh vực tinh thần của con người, họ đã đạt được những thành tựu đáng kể trong
việc khám phá những điều bí ẩn, kì diệu ở con người.
Để nhận thức và cải tạo thế giới, nhân loại đã xây dựng nên nhiều bộ môn
khoa học khác nhau. Đứng trước những câu hỏi như: Con người từ đâu sinh ra? Bản
chất của con người là gì? Con người có vai trò như thế nào đối với tự nhiên, xã hội
cũng như đối với bản thân con người? Thì các nhà khoa học tự nhiên và khoa học
xã hội không đưa ra được những câu trả lời chính xác, có sức thuyết phục mà phải
nhờ đến môn khoa học khác là Triết học. Ngay từ khi ra đời, đã hình thành rất nhiều
quan điểm, trường phái khác nhau khi lý giải những vấn đề về con người.
Thứ nhất, quan niệm về con người trong triết học phương Đông trước Mác.
Triết học trước Mác, vấn đề bản chất con người vẫn chưa được lý giải một
cách khoa học. Không những chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo mà cả chủ nghĩa duy vật
siêu hình cũng không nhận đúng bản chất của con người.
Từ thời cổ đại, con người bắt đầu tìm hiểu nguồn gốc của mình và có những
ý thức ban đầu về sức mạnh chính bản thân mình. Các nước chịu ảnh hưởng của
Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo triết học cũng giải thích con người từ một đấng thần
linh tối cao hoặc từ một lực lượng siêu nhiên.
Trong triết học Phật giáo, con người là sự kết hợp giữa “danh” và “sắc”. Đời
sống con người trên trần thế chỉ là hư ảo, ảo giác. Do vậy, cuộc sống con người khi
sống, chỉ là sống nhờ, sống gửi. Cuộc sống vĩnh cửu khi đạt tới cõi Niết bàn, nơi linh
hồn con người được siêu thoát để trở nên bất diệt.

Do sự chi phối bởi thế giới quan duy tâm hoặc duy vật chất phác mà quan
niệm về bản chất con người trong Nho giáo cũng hết sức phong phú. Tiêu biểu là
Khổng Tử, ông cho rằng “Thiên mệnh” là đấng tối cao chi phối quyết định bản chất
con người. Ở con người đức nhân là giá trị cao nhất. Khổng Tử bàn về con người có
nhiều tiến bộ, đó là con người thực tế và mối quan hệ nào cũng yêu cầu “Chính
danh”. Tuy nhiên, ông không thấy được con người trong mối quan hệ kinh tế.

15


Phái Đạo gia với đại diện tiêu biểu là Lão Tử, quan niệm rằng con người sinh
ra từ “Đạo”. Do vậy con người phải “Vô vi” trong cuộc sống. Đó không phải là cái
thụ động, bất động mà là hành động theo bản tính tự nhiên của Đạo. Quan điểm này
thể hiện tư tưởng duy tâm chủ quan của triết học Đạo gia.
Như vậy, với nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học Phương Đông thể
hiện sự đa dạng, phong phú khi bàn về bản chất con người. Các quan niệm đó thiên
về vấn đề con người trong mối quan hệ chính trị, đạo đức. Đó là quan niệm về con
người với biểu hiện của sự pha trộn giữa yếu tố duy tâm với tính duy vật chất phác
ngây thơ trong quan hệ với tự nhiên và xã hội.
Thứ hai, quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước Mác
Trước Mác, ở phương Tây cũng có rất nhiều quan điểm về con người. Nói
chung các tôn giáo đều cho rằng con người là do thượng đế, thần thánh sinh ra, cuộc
sống của con người do đấng tối cao sắp đặt, an bài.
Trong triết học Hy lạp cổ đại, con người được xem như khởi đầu của tư duy
triết học. Con người và thế giới xung quanh phản chiếu lẫn nhau. Con người là một
tiểu vũ trụ trong vũ trụ bao la. Arixtốt cho rằng, chỉ có linh hồn, tư duy, trí nhớ, ý
chí, năng khiếu nghệ thuật làm cho con người nổi bật lên, con người là bậc thang
cao nhất của vũ trụ.
Bước vào thời trung cổ, với sự thống trị của thần học đối với triết học mà
xuất hiện quan niệm con người là sản phẩm của thượng đế sáng tạo nên. Mọi mặt

cuộc sống con người, niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi của con người đều do thượng
đế sắp đặt. Con người trở nên nhỏ bé trước cuộc sống, nhưng đành bằng lòng, cam
phận với cuộc sống tạm bợ trên trần thế, vì hạnh phúc vĩnh cữu là ở thiên đường.
Đây là quan niệm duy tâm về bản chất con người.
Thời phục hưng – cận đại, triết học đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý tính của
con người, xem con người như một thực thể có trí tuệ. Đó là yếu tố quan trọng
nhằm giải thoát con người khỏi thế lực thần học thời Trung cổ áp đặt cho con người,
tiến tới giải phóng con người khỏi sự thống trị của thần quyền và cường quyền. Tuy
nhiên chưa có một trường phái nào nhận thức đầy đủ cả về mặt sinh học và mặt xã
hội, thống nhất trong con người. Họ chỉ nhấn mạnh cá thể mà xem nhẹ mặt xã hội
của con người.
16


Trong triết học cổ điển Đức, Hêghen là đại biểu vĩ đại của chủ nghĩa duy tâm
khách quan. Ông cho rằng, chính sự vận động theo những quy luật khách quan của
“Ý niệm tuyệt đối” đến mức độ nhất định nó sẽ tha hóa thành giới tự nhiên và con
người. Vì vậy, con người chính là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Ông cũng là
người trình bày một cách có hệ thống về các quy luật của quá trình tư duy của con
người, chỉ rõ cơ thể của đời sống tinh thần cá nhân trong mọi hoạt động của con
người. Dù nhìn nhận con người từ góc độ duy tâm khách quan, nhưng ông đã khẳng
định vai trò chủ thể của con người đối với lịch sử, đồng thời là kết quả của sự phát
triển lịch sử.
Phoiơbắc là nhà triết học duy vật nhất trong triết học cổ điển Đức. Ông đã
phê phán mạnh mẽ quan điểm duy tâm và tìm cách giải thích nguồn gốc, bản chất
con người theo quan điểm duy vật. Ông đã đạt đến chủ nghĩa duy vật khi khẳng
định rằng con người do sự vận động của thế giới vật chất tạo nên. Con người là kết
quả của sự phát triển lâu dài của thế giới tự nhiên. Đặc biệt ông khẳng định bản thân
ý thức, tư duy của con người chỉ là sản phẩm của khí quan vật chất nhục thể - tức là
bộ óc; vật chất không phải là sản phẩm của tinh thần mà chính tinh thần là sản phẩm

tối cao của vật chất. Tuy nhiên, ông không còn giữ quan điểm duy vật của mình khi
đi vào phân tích bản chất con người. Song con người trong quan niệm của ông là
con người trừu tượng. Ông không xem xét con người trong các mối quan hệ nhất
định, trong điều kiện sinh hoạt nhất định của họ, những điều kiện làm cho họ trở
thành những con người đúng như đang tồn tại. Ông không thấy quan hệ giữa người
với người nào khác ngoài tình yêu, tình bạn đã được lý tưởng hóa.
Như vậy, triết học trước Mác, khi quan niệm về con người dù đứng trên nền
tảng thế giới quan nào cũng không phản ánh đúng bản chất của con người. Họ đều
xem xét con người một cách trừu tượng, tuyệt đối hóa tinh thần hoặc thể xác con
người, tuyệt đối hóa mặt tự nhiên sinh học mà không thấy được mặt xã hội trong
đời sống con người.
Thứ ba, quan niệm của triết học Mác – Lênin về con người.
Có thể khẳng định, triết học trước Mác vẫn chưa có được giải thích thật sự
khoa học về bản chất của con người, họ có thể rơi vào duy tâm hoặc trực quan hay
siêu hình khi nghiên cứu về con người. Chỉ đến những năm 40 của thế kỉ XIX khi
17


triết học Mác ra đời mới đưa ra quan niệm đúng đắn, khoa học về con người và lần
đầu tiên họ có được vị trí mà họ cần phải có.
Trước hết con người là một bộ phận của tự nhiên. Để đảm bảo cho sự tồn tại
và phát triển thì con người cũng cần có đầy đủ những nhu cầu thiết yếu. Đồng thời
con người cũng phải tuân thủ những quy luật sinh học như quy luật đồng hóa - dị
hóa, quy luật di truyền…C.Mác đã khẳng định rằng: “Bản thân cái sự kiện là con
người từ động vật mà ra, cũng đã quyết định con người không bao giờ hoàn toàn
thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của vật” [14, tr.146]. Nhưng mối quan hệ với tự
nhiên của con người hoàn toàn khác với con vật, về điều này trong “Bản thảo kinh
tế năm 1844” C.Mác viết: “Con người là một sinh vật có tính loài hay giới tự nhiên
là thân thể vô cơ của con người” [12, tr.177]. Tính loài người của con người không
phải tính trừu tượng, nó cũng có nghĩa là tính xã hội, và loài người cũng chính là

“xã hội người”.
Con người không những là một sinh vật mà còn là thực thể mang tính xã hội.
Tính xã hội của con người trước hết thể hiện ở bản thân hoạt động sản xuất là hoạt
động mang tính xã hội. Trong hoạt động sản xuất con người không thể tách khỏi xã
hội. Tính xã hội là đặc điểm cơ bản làm cho con người khác với con vật. Hoạt động
của con vật chỉ phục vụ nhu cầu trực tiếp của nó, còn hoạt động của con người gắn
liền với xã hội và phục vụ cho cả xã hội. Xã hội cùng với tự nhiên là điều kiện tồn
tại của con người. Tính xã hội của con người còn thể hiện ở hoạt động giao tiếp xã
hội. Hoạt động của con người không phải bằng bản năng như động vật mà là hoạt
động có ý thức. Tư duy con người phát triển và hoàn thiện trong mọi hoạt động đặc
biệt trong hoạt động sản xuất và giao tiếp.
Với ý nghĩa trên, có thể phân biệt con người với động vật ở tư duy mà ngôn
ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy. Bởi cơ sở của tư duy là hoạt động thực tiễn xã hội.
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người không chỉ làm biến đổi đời sống xã hội
mà còn làm biến đổi chính bản thân mình. Đây là một phát hiện có giá trị to lớn của
C.Mác về bản chất con người. Trong ‘Luận cương về Phoiơbắc”, C.Mác viết: “Bản
chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”.

18


Với phương pháp duy vật biện chứng, C.Mác chỉ ra rằng quan hệ giữa mặt
sinh học với mặt xã hội cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con
người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt
xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học
phải được nhân hóa để mang giá trị văn minh của con người, và đến lượt nó, nhu
cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống
nhất với nhau, hòa quyện vào nhau để tạo thành con người.
Những tư tưởng của C.Mác về con người có ý nghĩa phương pháp luận to

lớn, nhất là trong thời đại ngày nay, con người đang trở thành vấn đề xã hội cấp
bách, mang tính thời sự, tính nhân văn sâu sắc.
Với phạm vi của đề tài này, đề tài không đi sâu nghiên cứu con người dưới
góc độ cá nhân, giai cấp mà xem xét con người với tư cách là một bộ phận cấu
thành lực lượng sản xuất – đó là người lao động, tìm hiểu xem người lao động có
vai trò như thế nào trong lực lượng sản xuất.
1.2.2.

Vai trò và sự cần thiết khách quan của việc phát huy nhân tố con người trong

quá trình CNH,HĐH
a. Thực chất của CNH, HĐH
Thực chất của CNH, HĐH là quá trình ở Việt Nam đã được hội nghị lần thứ
VII Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) khẳng định:
CNH,HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa
trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học và công nghệ tạo ra năng suất lao
động xã hội cao. Đối với nước ta đó là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công
nghiệp gắn liền với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng
thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới…
Như vậy quá trình CNH,HĐH bao gồm các nội dung sau:
Một là: là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ cơ cấu đơn ngành sang đa
ngành, từ cơ cấu kinh tế nông nghiệp chiếm ưu thế sang công nghiệp và dịch vụ
chiếm ưu thế. Cùng với nó là quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng
tăng nhanh lao động làm công nghiệp và dịch vụ, giảm lao động làm nông nghiệp.

19



Hai là: là quá trình trang bị công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế
quốc dân, trước hết là các ngành có vị trí quan trọng.
Ba là: quá trình CNH,HĐH trong bất cứ giai đoạn nào cũng là quá trình kinh
tế - kĩ thuật, kinh tế - xã hội và phải đặt trong bối cảnh chung.
Bốn là, quá trình CNH,HĐH đi liền với quá trình đô thị hóa khu vực kinh tế
nông thôn.
Năm là: quá trình CNH,HĐH cũng đồng thời là quá trình mở rộng quan hệ
kinh tế quốc tế. Ngày nay thị trường lao động mang tính quốc tế và quốc tế hóa đời
sống lao động mang tính quốc tế và quốc tế hóa đời sống kinh tế đã trở thành xu thế
của thời đại.
Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm mục đích phát triển toàn diện
ba hệ thống: kinh tế - xã hội – môi trường để phát triển toàn diện con người. Phát
triển toàn diện con người là đặc trưng bản chất của CNH,HĐH, con người là chủ
thể, là nhân tố năng động nhất, sáng tạo nhất trong mối quan hệ của ba hệ thống đó.
Mục tiêu cơ bản của CNH, HĐH là “cải biến nước ta thành một nước công nghiệp
có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh”. Chúng ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện tồn
tại những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau, tác động lẫn
nhau. Xét đến cùng để thực hiện thành công CNH,HĐH tùy thuộc vào tính quyết
định của nhân tố con người. Song về nguyên tắc, CNH – HĐH phải dựa vào nội lực
là chủ yếu nhưng ngoại lực có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhất là giai đoạn đầu khi
nội lực còn chưa đủ mạnh. Những trợ giúp về tài chính, kĩ thuật, công nghệ, kinh
nghiệm quản lí, thị trường tiêu thụ..từ bên ngoài là những điều kiện hết sức quan
trọng trong quá trình CNH, HĐH.
b. Vai trò của nhân tố con người với quá trình CNH,HĐH.
Về mặt lý luận vai trò quyêt định của nhân tố con người đã được chủ nghĩa
Mác đặc biệt chú ý và luận giải một cách khoa học. Theo các nhà kinh điển: con
người không chỉ là sản phẩm của tự nhiên và xã hội mà là chủ thể tích cực cải biến

tự nhiên và xã hội. V.I.Lênin cho rằng: “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân
loại là công nhân, là người lao động”. Theo quan điểm Mác – xít, trong các yếu tố
để tạo nên bất kì một nền sản xuất nào thì yếu tố con người luôn chiếm giữ một vị
20


trí quan trọng, và có ý nghĩa quyết định. Từ vai trò quyết định của con người trong
lĩnh vực sản xuất, các nhà kinh điển luận chứng về vai trò sáng tạo ra lịch sử, quyết
định các quá trình lịch sử thông qua cách mạng xã hội.
Như vậy, khi nói đến chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, là nói đến “chiến
lược con người”. Thực ra đây không phải là hai vấn đề, hai nội dung tách rời nhau
mà là sự nhấn mạnh và bước đầu thể hiện sự coi trọng yếu tố con người. Bởi lẽ, nếu
không thành công trong “chiến lược con người” thì sẽ thất bại trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, nói cách khác sự thành công trong “chiến lược con người”
đồng thời là sự thất bại trong chiến lược kinh tế - xã hội. Điều này càng đúng hơn
khi nước ta đang bước vào cuộc trường chinh mới đòi hỏi rất cao về trí tuệ và bản
lĩnh của con người Việt Nam, đó là thời kì đẩy mạnh CNH,HĐH trong điều kiện
cách mạng khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão và xu thế hội nhập quốc tế. Vì
vậy từ việc nhận thức được vị trí vai trò của nguồn lực con người từ đó đưa ra các
chính sách, chiến lược phát triển con người phù hợp với yêu cầu phát triển xã hội.
c. Mối quan hệ biện chứng giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa với con người.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải tạo ra những điều kiện cần thiết về vật
chất, kinh tế, về con người và khoa học công nghệ, nhằm huy động và sử dụng có
hiệu quả mọi nguồn lực, không ngừng phát triển năng suất lao động xã hội làm cho
kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững. Ngược lại phát huy nguồn nhân lực to lớn
của con người là nhân tố xét đến cùng quyết định thắng lợi của công cuộc CNH,
HĐH. Bởi vì, nhân tố con người sẽ quyết định đúng đắn phương hướng, nội dung,
bước đi CNH, HĐH, sẽ quyết định việc tổ chức và thực hiện CNH, HĐH.
Với ý nghĩa đó việc phát triển nhân tố con người đủ về số lượng và có chất

lượng cao, đồng bộ là vấn đề cấp bách và căn bản cho sự nghiệp CNH, HĐH. Phát
triển con người là đặc trưng bản chất của CNH,HĐH xã hội chủ nghĩa là mục tiêu
cơ bản quyết định quá trình CNH, HĐH. Hiểu động lực ở đây không có nghĩa là sử
dụng con người như một phương tiện, mà là quá trình hình thành nhân tố con người
mới cũng chính là quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng xã hội mới. Chính
việc đẩy mạnh CNH, HĐH là nhằm xây dựng phát triển con người hiện đại lấy con
người là mục đích của mình. Mối quan hệ biện chứng thể hiện ở các khía cạnh sau:

21


Một là, trong quan hệ với các nguồn lực khác, con người là chủ thể trực tiếp,
quyết định toàn bộ quá trình CNH, HĐH. Điều này được thể hiện từ khâu xác định
mục tiêu, nội dung cách thức CNH, HĐH đến việc tổ chức khai thác các nguồn lực
khác để thực hiện CNH, HĐH. Khái niệm của một số nước và thực tiễn nước ta cho
thấy sự thành công của CNH,HĐH phụ thuộc chủ yếu và việc hoạch định đường lối,
chính sách cũng như tổ chức thực hiện nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức
và thực tiễn của con người.
Hai là, bản thân con người cũng là đối tượng được khai thác triệt để trong
quá trình CNH, HĐH. Đó là toàn bộ những năng lực phẩm chất sinh lý – tâm lý –
xã hội của con người được phản ánh qua hai yếu tố căn bản là thể lực và trí lực.
Hơn nữa trong điều kiện hiện nay khi cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát
triển mạnh mẽ thì cái cần tập trung khác ở con người và đặc trưng cơ bản nhất của
trí tuệ là sự sáng tạo. Vì vậy việc nuôi dưỡng, phát triển và khai thác có hiệu quả
sức lao động, nhất là trí lực, chúng ta yêu cầu cấp bách hàng đầu trong toàn bộ quá
trình CNH, HĐH.
Ba là, con người là đối tượng duy nhất mà quá trình công nghiệp hóa hướng
vào phục vụ. Do đó quá trình công nghệp hóa, hiện đại hóa cùng với con người
nhằm phục vụ con người. Ngay trong qáu trình CNH,HĐH con người phải được
hưởng thụ những thành quả mà CNH, HĐH mang lại để nâng cao chất lượng con

người, phát triển nhân tố con người chứ không phải đợi khi hoàn thiện xong CNH,
HĐH mới đáp ứng trở lại cho con người.
Như vậy, để thực hiện thành công CNH,HĐH phải có hệ thống các nguồn
lực, trong đó, con người có vai trò quyết định. Trong thời đại ngày nay, vai trò quyết
định của con người không phải ở sức mạnh cơ bắp mà là ở sức mạnh trí tuệ. Nguồn
nhân lực không phải là nguồn nội lực, cơ bản giữ vị trí trung tâm trong hệ thống các
nguồn lực của sự phát triển xã hội, là chủ thể trực tiếp, hiện thực, quyết định toàn
bộ sự nghiệp CNH, HĐH là khích lệ cần được khai thác triệt để, đồng thời là chủ
thể được hưởng thụ những thành quả của quá trình CNH,HĐH.
Tuy nhiên cũng không tuyệt đối hóa, không tách con người ra khỏi các mối
quan hệ hữu cơ với các nguồn nhân lực khác. Khi khẳng định nguồn nhân lực giữ

22


vai trò quyết định thì điều đó có nghĩa là đã khẳng định nguồn nhân lực với tư cách
là tiền đề, là điều kiện, thâm nhập vào các nguồn lực khác trong thực tiễn.
Do đó, phải xem xét một cách toàn diện thực trạng nguồn lực con người ở
tỉnh Hà Nam, từ đó định hướng khai thác phát triển hợp lý, có hiệu quả nguồn nhân
lực, bảo đảm sự thành công của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2.3.

Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về phát huy
nhân tố con người trong CNH,HĐH
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
Kế thừa tinh hoa tư tưởng văn hóa dân tộc và nhân loại, tiếp thu, vận dụng,
phát triển một cách sáng tạo học thuyết Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng
về con người lên một tầm cao mới, hình thành nên chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí
Minh. Tuy không có một tác phẩm riêng nào bàn về con người, nhưng tư tưởng về
con người lại được hiểu thật đa dạng, phong phú, trở thành một tư tưởng xuyên suốt

trong toàn bộ hệ tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng của Người, không có con
người chung chung, trừu tượng, mà là những con người cụ thể, hiện thực, những
con người nghèo khổ bị áp bức, bóc lột đã và đang tham gia vào sự nghiệp cách
mạng để tự giải phóng mình. Vấn đề con người luôn luôn được nhắc đến như một
mục tiêu thiêng liêng, cao cả nhất của sự nghiệp cách mạng mà Người theo đuổi.
Nó trở thành mục tiêu lý tưởng được tỏa sáng trong từng suy nghĩ, cử chỉ, hành
động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ hệ thống tư tưởng của Người, chúng ta thấy
toát lên nội dung quan niệm về con người như sau:
Một là, con người là tổng hòa các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng. Người
khẳng định: “Chữ Người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa
rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”[15, tr644]. Hồ Chí Minh
không bao giờ xem xét con người một cách trừu tượng mà luôn xuất phát từ hoàn
cảnh con người hiện thực cụ thể trong các quan hệ xã hội với nhiều bình diện, nhiều
chiều khác nhau. Đặc biệt ở Hồ Chí Minh, bên cạnh những khái niệm phổ quát như
giai cấp công nhân, giai cấp vô sản, nhân dân lao động, chúng ta thấy xuất hiện
thêm các khái niệm mới: “Người nô lệ mất nước”, “Người cùng khổ”. Theo nhận
xét của nhiều nhà nghiên cứu, đấy là những khái niệm xuất hiện đầy ấn tượng và là

23


một cách tiếp cận riêng của Hồ Chí Minh trong quan niệm về con người – đặt con
người trong mối quan hệ với cộng đồng dân tộc.
Hai là, con người là một chỉnh thể thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố
xã hội. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn quan niệm con người, trong cấu trúc nhân cách, là
một hệ thống bao gồm tổng hòa nhiều yếu tố hợp thành như: thể xác và tâm hồn,
thê lực và trí tuệ, cái sinh vật và cái xã hội…Con người ai cũng có chỗ hay chỗ dở,
ai cũng có tính tốt tính xấu, có thiện có ác. Vấn đề là làm sao cho phần xấu mất dần
đi, phần tốt nảy nở như hoa mùa xuân, con người ta sinh ra, ai cũng lớn lên, già đi
rồi chết; người ta ai cũng muốn sung sướng hạnh phúc…Đây là tư tưởng chủ đạo,

bao trùm và xuyên suốt, vừa có ý nghĩa như tiền đề xuất phát đồng thời lại là mục
đích trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Con người là vốn quý nhất, là động lực
vĩ đại, nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; dân là vốn quý nhất,
có dân là có tất cả, nên phải bắt đầu từ con người, vì con người, cho con người và
trở về với con người.
Ba là, bản chất con người mang tính xã hội – lịch sử, coi con người vừa là
sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử, con người vừa là động lực vừa là mục tiêu của
sự phát triển xã hội.
Vai trò con người chính là vai trò của quần chúng nhân dân, người sáng tạo
chân chính ra lịch sử chứ không phải “vài ba cá nhân anh hùng nào”, thể hiện qua
các hoạt động thực tiễn cơ bản nhất: Lao động sản xuất, đấu tranh chính trị - xã hội
và sáng tạo các giá trị văn hóa – tinh thần.
Hồ Chí Minh nói: “Vì chúng ta quên một lẽ rất đơn giản dễ hiểu: tức là vô luận
việc gì, đều do người làm ra, từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”. “Tất cả của cải
vật chất trong xã hội đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công
nhân và nông dân, xã hội mới sống còn phát triển”. Hồ Chí Minh giải thích cơ sở khoa
học cho vai trò đó xuất phát từ chỗ: “Lực lượng dân chúng nhiều vô cùng…dân chúng
biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người
tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”[15, tr295].
Thứ hai, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhân tố con người.
Nghiên cứu tư duy lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam về chiến lược con
người có thể khẳng định: từ rất sớm, Đảng ta nhận thức rõ vai trò quan trọng của
24


con người đối với cách mạng Việt Nam và tiến trình phát triển của lịch sử. Đảng ta
đã nhiều lần khẳng định: con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con
người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Trên thực tế, Đảng ta đã luôn cố
gắng thực hiện mục tiêu đó. Sự nghiệp chăm lo hạnh phúc con người tuy chưa có
nhiều thành công như mong muốn, song phần nào đã đáp ứng nguyện vọng của

nhân dân. Luôn theo sát sự biến động của thời cuộc, đánh giá đúng đắn vị trí, vai trò
của con người, qua các thời kì đại hội Đảng, vấn đề con người luôn được đặt ở vị trí
trọng tâm của quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Đại hội VI (1986) là đại hội đánh dấu bước chuyển quan trọng về mặt nhận
thức trên các lĩnh vực cơ bản của đất nước, trong đó có chiến lược phát triển con
người. Đại hội lần này khẳng định: vai trò quan trọng của “nhân tố con người” và
nhân cách xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển kinh tế - xã hội, đại hội VI chỉ rõ:
“phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất”.
Tinh thần này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội VII (1991) đặt con người
vào vị trí trung tâm của chiến lược kinh tế - xã hội. Nét mới của đại hội VII là chỉ
rõ phải coi trọng phát triển “nguồn nhân lực trí tuệ và người tài cho đất nước”. Đặc
biệt coi trọng đội ngũ công nhân lành nghề, những nhà kinh doanh có tài, những
nhà quản lý giỏi, và những nhà khoa học, kĩ thuật có trình độ cao” [3, tr15 – 16],
Cương lĩnh này con ghi rõ trong điều kiện nước ta hiện nay “nguồn lực lớn nhất,
quý báu nhất của chúng ta là tiềm lực con người trong đó tiềm lực về trí tuệ của con
người Việt Nam”. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII của
Đảng đã khẳng định “con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật
chất văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia”.
Đại hội VIII (1996) thuật ngữ “nguồn lực con người” được sử dụng trong
văn kiện Đảng, đồng thời Đảng ta phát triển một trong những định hướng lớn của
Việt Nam “lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững” [4, tr85]. Đặc biệt Đại hội VIII chủ trương đẩy mạnh
CNH,HĐH đất nước, con người được xem là một nguồn động lực chủ yếu , có ý
nghĩa quyết định phát triển kinh tế - xã hội.
Đại hội IX còn nhấn mạnh “ Nâng cao năng lực và tạo cơ hội cho mọi người
đều có thể phát huy hết tài năng, tham gia vào quá trình phát triển, và hưởng thụ
25



×