Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, liên hệ thực tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.34 KB, 18 trang )

TẬP ĐOÀN ĐIỆN LỰC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
---------------------

TIỂU LUẬN SINH VIÊN
Đề tài:………………………………………………………………….

Sinh viên thực hiện

:

Lớp

: D8LT – KT 3

Năm học

: 2014 - 2015

PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU

1


Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh và rủi ro là hai phạm trù cặp đôi.
Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm đa dạng hoá các thành phần
kinh tế, tạo sự bình đẳng trong hoạt động của các thành phần này và thúc đẩy sự cạnh
tranh lẫn nhau một cách lành mạnh.
Rủi ro tuy là sự bất trắc gây thiệt hại không mong đợi song lại là hiện tượng dồng hành


với các hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, trong quá trình cạnh tranh. Rủi ro
xuất hiện ở những điểm yếu, kém hiệu quả, mất cân đối trong phát triển kinh tế. Rủi ro
vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của những hoạt động kinh tế không có hiệu quả. Nó
tạo tiền đề cho quá trình đào thải tự nhiên của các doanh nghiệp yếu kém, thúc đẩy sự
chấn chỉnh, thích nghi của các doanh nghiệp, tạo xu hướng phát triển ổn định và có hiệu
quả cho nền kinh tế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng
Thương mại cũng không nằm ngoài sự tác động trên. Thậm chí, với hoạt động ngân hàng,
hầu như không có loại nghiệp vụ nào, không có loại dịch vụ nào của ngân hàng là không
có rủi ro bởi một lẽ là hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh
tế thị trường là một hoạt động rất nhậy cảm, mọi biến động trong nền kinh tế-xã hội đều
nhanh chóng tác động đến hoạt động ngân hàng, có thể gây nên những xaó trộn bất ngờ
và dẫn đến hiệu quả của ngân hàng bị giảm sút một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động
kinh doanh của ngân hàng thương mại luôn chứa đựng những rủi ro “tiềm ẩn”, nó có thể
xẩy ra bất cứ lúc nào.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực đặc biệt do hàng hoá của nó là
tiền tệ-loại hàng hoá có tính nhạy cảm và sức cuốn hút rất lớn, vì vậy mà rủi ro trong kinh
doanh ngân hàng cũng rất lớn và đa dạng.
Với đề tài bài tiểu luận “ Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, liên hệ thực tế
Việt Nam” thì sẽ hiểu rõ hơn về vấn đề này,hiểu rõ từng loại rủi ro, đề ra những biện
pháp ngăn chặn phòng chống hữu hiệu để hạn chế thấp nhất rủi ro luôn là vấn đề cấp
bách thường xuyên liên tục tồn tại song song với hoạt động của ngân hàng.
PHẦN II: RỦI RO TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG

2


LIÊN HỆ THỰC TẾ Ở VIỆT NAM
I: RỦI RO TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG
1. Khái niệm về rủi ro tín dụng ngân hàng

Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phài chịu do khách
hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Khi thực hiện
một hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng không dự kiến là khoản vay đó sẽ bị tổn thất.
Tuy nhiên những khoản vay dđó luôn hàn chứa rủi ro. Một số ý kiến cho rằng trên quan
điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn
được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung. Do vậy, khi tổn thất dưới mức tỷ
lệ tổn thất dự kiến, ngân hàng coi đó là một thành công trong quản lý.
Các nhà kinh tế ngày nay đều thừa nhận rằng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và ngân
hàng là một “nghề đặc biệt” nhất trong các nghề kinh doanh. Bởi vì, sản phẩm mà ngân
hàng kinh doanh là một loại sản phẩm độc quyền - đó là “tiền tệ”. Sự đặc biệt này còn do
tính rất nhạy cảm của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Tính đặc biệt của
nó còn được khẳng định ở chỗ, ngoài tính quy luật về rủi ro đối với mọi nghề kinh doanh,
kinh doanh tiền tệ còn là nghề mạo hiểm nhất do độ rủi ro cao và có tính thường trực vì
rủi ro của nó không những là cấp số cộng mà còn có thể là cấp số nhân rủi ro của nền
kinh tế.
Sự ra đời và phát triển của tín dụng Những rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân
hàng thương mại. Rủi ro và sự tồn tại khách quan của nó trong kinh doanh. Các nhà kinh
tế học đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về rủi ro nhưng đều thống nhất ở một nội
dung là coi rủi ro là sự bất trắc không mong đợi gây ra mất mát thiệt hại và có thể đo
lường được. Nghiên cứu bản chất của rủi ro trong kinh doanh cho chúng ta thấy rằng,
trong hoạt động kinh doanh luôn chứa đựng những rủi ro và những rủi ro này có thể tác
động trực tiếp đến kết quả doanh lợi và là nguy cơ dẫn đến sự phá sản của các doanh
nghiệp bất cứ lúc nào. Chỉ khi nào những nhà kinh doanh có thể có những giải pháp quản
lý, ngăn ngừa, giảm đến mức thấp nhất tỷ lệ rủi ro thì công việc kinh doanh mới có thể

3


tồn tại và phát triển. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Các nhà kinh tế ngày
nay đều thừa nhận rằng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng là một “nghề đặc

biệt” nhất trong các nghề kinh doanh. Bởi vì, sản phẩm mà ngân hàng kinh doanh là một
loại sản phẩm độc quyền - đó là “tiền tệ”.
Sự đặc biệt này còn do tính rất nhạy cảm của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế
quốc gia. Tính đặc biệt của nó còn được khẳng định ở chỗ, ngoài tính quy luật về rủi ro
đối với mọi nghề kinh doanh, kinh doanh tiền tệ còn là nghề mạo hiểm nhất do độ rủi ro
cao và có tính thường trực vì rủi ro của nó không những là cấp số cộng mà còn có thể là
cấp số nhân rủi ro của nền kinh tế. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân
hàng. Kinh doanh tín dụng ngân hàng là bán “giá trị sử dụng tiền tệ” và giá bán là “lãi
suất” quyền sử dụng tiền tệ đó, thường rất nhỏ so với giá trị khoản vay, nên những khoản
thu được là tương đối nhỏ so với cái mất khi xảy ra rủi ro. Nó được biểu hiện khi ngân
hàng không thu hồi được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc việc thanh toán nợ gốc
và lãi vay không đúng kỳ hạn. Những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trong ngân hàng
thương mại. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trong ngân hàng có rất nhiều, rất đa dạng
muôn hình, muôn vẻ. Song qua kết quả thống kê và nghiên cứu tổng hợp của các nhà
kinh tế cho thấy các nguyên nhân chủ yếu gây nên rủi ro tín dụng của ngân hàng bao
gồm:
-

Nguyên nhân bất khả kháng
Thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức.
Sự điều khiển của cơ chế thị trường. Môi trường kinh tế. Môi trường pháp lý.

Nguyên nhân từ phía khách hàng. Nguyên nhân từ phía ngân hàng. Các nguyên nhân
khác. Rủi ro tín dụng là ngôn từ thường được sử dụng trong hoạt động cho vay của ngân
hàng hoặc trên thị trường tài chính. Đó là khả năng không chi trả được nợ của người đi
vay đối với người cho vay khi đến hạn phải thanh toán. Luôn là người cho vay phải chịu
rủi ro khi chấp nhận một hợp đồng cho vay tín dụng. Bất kỳ một hợp đồng cho vay nào
cũng có rủi ro tín dụng. Đánh giá rủi ro tín dụng Đánh giá rủi ro tín dụng là công việc

4



thuộc về các chuyên viên phân tích, chuyên viên kế toán và chuyên viên kiểm toán. Mức
độ rủi ro cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan của mục đích
vay vốn cũng như hoạt động của người vay vốn. Các yếu tố khách quan Các yếu tố khách
quan thường là những nhìn nhận ban đầu và tổng quát về triển vọng của dự án cần vay
vốn. Nếu dự án có triển vọng thành công cao thì rủi ro tín dụng thấp và ngược lại. Các
yếu tố này bao gồm:
Môi trường kinh tế: thị trường, đối thủ cạnh tranh, khả năng tiêu thụ...
Sự phát triển của ngành liên quan: nếu ngành liên quan đến dự án đang ở giai đoạn phát
triển thì dự án có nhiều khả năng thành công. Ngược lại; nếu ngành liên quan đến dự án
đang ở giai đoạn suy thoái và có nhiều công ty trong ngành làm ăn thua lỗ thì khả năng
thành công của dự án là thấp.
Môi trường pháp lý: Luật bảo hiểm, luật lao động, luật cạnh tranh... là những điều khoản
cần được quan tâm khi đánh giá một dự án.
Các yếu tố chủ quan Các yếu tố chủ quan có thể được hiểu là tính tin cậy của doanh
nghiệp đi vay hay khả năng trả nợ của doanh nghiệp khi đến hạn. Nhân tố này được phân
tích chủ yếu dựa vào các dữ liệu kế toán của doanh nghiệp.
Hiệu quả hoạt động hiện tại của doanh nghiệp: kết quả kinh doanh hàng quí và hàng năm
của doanh nghiệp.
Các khoản tín dụng hiện tại và lịch sử của các khoản tín dụng quá khứ của doanh nghiệp:
Nếu hiện tại doanh nghiệp đang có các khoản vay khác và có các khoản vay tín dụng quá
hạn chưa được thanh toán hay doanh nghiệp có các khoản vay tín dụng đã được thanh
toán nhưng thường quá hạn phải chi trả... thì tín tin cậy của doanh nghiệp là thấp, và việc
cho doanh nghiệp vay tín dụng sẽ có rủi ro cao.
Khả năng tài chính của doanh nghiệp: được căn cứ dựa vào vốn tự có, các khoản cho
vay, tài sản thế chấp, người bảo lãnh...Các ngân hàng có thể đánh giá mức rủi ro tín dụng

5



trên cơ sở xác định tỷ lệ tổng vốn cần vay của doanh nghiệp/vốn tự có của doanh nghiệp.
Nếu tỷ lệ này là cao thì rủi ro tín dụng cao, và ngược lại.
Tính thanh khoản cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Dù doanh nghiệp
có tình trạng kinh tế tốt nhưng nếu tính thanh khoản hay khả năng huy động tiền mặt
không cao thì doanh nghiệp có nhiều khả năng phải thanh toán nợ quá hạn quy định. Điều
này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp có rủi ro tín dụng cao. Rủi ro tín dụng đối với các
ngân hàng thương mại Một trong những hoạt động chính của ngân hàng thương mại là
hoạt động cho vay nên rủi ro tín dụng là một nhân tố hết sức quan trọng, đòi hỏi các ngân
hàng phải có khả năng phân tích, đánh giá và quản lý rủi ro hiệu quả vì nếu ngân hàng
chấp nhận nhiều khoản cho vay có rủi ro tín dụng cao thì ngân hàng có khả năng phải đối
mặt với tình trạng thiếu vốn hay tính thanh khoản thấp. Điều này có thể làm giảm hoạt
động kinh doanh thu lợi nhuận của ngân hàng, thậm chí phá sản. Vì thế bộ phận quản lý
tín dụng và quản trị rủi ro là hai bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu tổ chức của bất kỳ
ngân hàng thương mại nào.
Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, rủi ro tín dụng ảnh hưởng rất
lớn đến mọi hoạt động của Ngân hàng. Nếu món vay của Ngân hàng bị thất thoát, dân
chúng sẽ thiếu lòng tin và tìm cách rút tiền khỏi Ngân hàng, từ đó ảnh hưởng đến khả
năng thanh khoản của Ngân hàng thương mại. Khi rủi ro tín dụng phát sinh, Ngân hàng
thương mại không thực hiện được kế hoạch đầu tư cũng như kế hoạch thanh toán các
khoản tiền gửi đến hạn. Rủi ro tín dụng lớn sẽ dẫn đến khó khăn trong việc huy động vốn
và phát triển các sản phẩm dịch vụ, khó mở rộng quan hệ với các bạn hàng và các Ngân
hàng khác, buộc Ngân hàng phải thu hẹp hoạt động, tất cả thể hiện ở lợi nhuận giảm,
ngân hàng phải sử dụng vốn tự có để bù đắp sự giảm sút đó, uy tín của Ngân hàng giảm
sút, dẫn đến tình trạng khó khăn, phá sản. Sự cần thiết phải phòng ngừa và hạn chế rủi ro
tín dụng. Đối với bản thân ngân hàng. Khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm giảm lợi nhuận
kinh doanh tức là thu nhập giảm.Thu nhập giảm làm cho việc mở rộng tín dụng sẽ gặp

6



khó khăn..Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán,rủi ro tín dụng khiến cho việc
hoàn trả tiền gửi của ngân hàng gặp nhiều khó khăn.Các khoản cho vay có thể mất hoặc
khó đòi trong khi tiền gửi khách hàng vẫn phải trả lãi, làm mất đi những cơ hội kinh
doanh tốt của ngân hàng.Nếu rủi ro xảy ra mức độ quá lớn,nguồn vốn của ngân hàng
không đủ bù đắp, vốn khả dụng bị thiếu, lòng tin của khách hàng giảm tất yếu sẽ dẫn tới
phá sản ngân hàng. Đối với nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh
doanh của ngân hàng liên quan đến rất nhiều thành phần kinh tế từ cá nhân, hộ gia đình,
các tổ chức kinh tế cho tới các tổ chức tín dụng khác.Vì vậy,kết quả kinh doanh của ngân
hàng phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế và đương nhiên nó phụ thuộc
rất lớn vào tình hình tổ chức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và khách
hàng.Hoạt động kinh doanh của ngân hàng không thể có kết quả tốt khi hoạt động kinh
doanh của nền kinh tế chưa tốt hay nói cách khác hoạt động kinh doanh của ngân hàng sẽ
có nhiều rủi ro khi hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro.Rủi ro xảy ra dẫn tới tình trạng mất
ổn định trên thị trường tiền tệ, gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh,làm ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.Do đó, phòng ngừa
và hạn chế rủi ro tín dụng không những là vấn đề sống còn đối với ngân hàng mà còn là
yêu cầu cấp thiết của nền kinh tế góp phần vào sự ổn định và phát triển của toàn xã hội.
Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng. Phân loại nợ.
Nhóm 1:Nợ đủ tiêu chuẩn
+ Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ
cả gốc và lãi đúng thời hạn...
Nhóm 2:Nợ cần chú ý
+ Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại.
Nhóm 3:Nợ dưới tiêu chuẩn

7



+ Các khoản nợ quá hạn từ 90-180 ngày.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu
lại.
Nhóm 4:Nợ nghi ngờ
+ Các khoản nợ quá hạn từ 180-360 ngày.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90-180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu
lại.
Nhóm 5:Nợ có khả năng mất vốn
+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
+ Các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lý.
+ Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được
cơ cấu lại. Các chỉ tiêu đo lường.
- Chỉ tiêu xác suất rủi ro
- Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn/Tổng dư nợ
- Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn và gia hạn/Tổng dư ợ
- Tỷ lệ nợ quá hạn và gia hạn so với tổng tài sản
- Tỷ lệ nợ xấu/Tổng dư nợ
- Tỷ lệ rủi ro theo thời gian
- Tỷ lệ tổng lãi treo phát sinh so với thu nhập từ cho vay
- Tỷ lệ miễn, giảm lãi so với thu nhập từ cho vay .
Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. Nguyên nhân từ phía ngân hàng. Việc mở rộng
hoạt động tín dụng quá mức thường tạo điều kiện cho rủi ro tín dụng của ngân hàng tăng
lên.Mở rộng tín dụng quá mức đồng nghĩa với việc lựa chọn khách hàng kém kỹ

8


càng,khả năng giám sát của cán bộ tín dụng đối với việc sử dụng khoản vay giảm xuống
đồng thời cũng làm cho việc tuân thủ chặt chẽ theo quy trình tín dụng bị lơi lỏng.
- Trình độ cán bộ hạn chế,nhất là cán bộ tín dụng người trực tiếp nhận hồ sơ khách hàng,

phân tích và thẩm định khách hàng cũng như dự án vay vốn.Vì vậy nếu trình độ cán bộ
tín dụng không cao, thẩm định không tốt, có thể chấp nhận cho vay những khoản vay
không khả thi hoặc bị khách hàng lừa gạt.
- Quy chế cho vay chưa chặt chẽ, quá cụ thể hoặc quá linh hoạt đều khiến cho NHTM
gặp phải rủi ro tín dụng.Việc đánh giá giá trị tài sản thế chấp, cầm cố cũng là vấn đề rất
lớn, hiện nay đang là vấn đề nổi cộm trong quy chế tín dụng tại các NHTM.
- Sự cạnh tranh không lành mạnh nhằm thu hút khách hàng giữa các NHTM khiến cho
việc thẩm định khách hàng trở nên sơ sài,qua loa hơn. Hơn nữa, nhiều NHTM do quá chú
trọng đến lợi nhuận nên đã chấp nhận rủi ro cao, bất chấp những khoản vay không lành
mạnh, thiếu an toàn.
 Bản chất rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không trả, hoặc không trả đúng hạn, hoặc
không đầy đủ gốc và lãi cho ngân hàng.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có qui mô lớn nhất của ngân
hàng thương mại – hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể,
ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất.
Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ
không xảy ra. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự
đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có
thể bị thay đổi ddo nhiều nguyên nhân. Hơn nữa, nhiều cán bộ ngân hàng không có
khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy, trên quan điểm quản lý
toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan
điểm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng ,

9


hạn chế, chứ không thể loại trừ. Do vậy, rủi ro dự kiến luôn được xác định trước trong
chiến lược hoạt động chung của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng

Rủi ro trong kinh doanh tín dụng là những tổn thất xảy ra trong quá trình thực hiện các
nghiệp vụ kinh doanh tín dụng của mình.
Rủi ro tín dụng là rủi ro do khách hàng không trả được nợ vay cho ngân hàng. Các khoản
tiền cho vay thường có tỷ lệ rủi ro hơn so với các tài sản có khác. Do tính lỏng thấp và
tính rủi ro cao hơn nên các ngân hàng thường thu được lợi nhuận cao từ hoạt động tín
dụng. Trên thế giới, hoạt động tín dụng mang lại 2/3 thu nhập cho ngân hàng. Còn tại
Việt nam 90%thu nhập của các ngân hàng từ nghiệp vụ tín dụng.
Muốn hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng của các ngân hàng nhất thiết phải có
những giải pháp đồng bộ cả về môi trường kinh tế, cơ chế nghiệp vụ, công tác tổ chức,
đào tạo cán bộ...
Rủi ro thiếu vốn khả dụng
Với tư cách là một trung gian tài chính, ngân hàng là một doanh nghiệp mà người quản lý
nó luôn luôn nhằm tối đa hoá lợi nhuận.
Rủi ro thiếu vốn xảy ra khi ngân hàng không đáp ứng được vốn cho hoạt động kinh
doanh của mình. Nó xảy ra khi tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa việc huy động
và sử dụng vốn. Nguyên nhân dẫn đến thiếu vốn do ngân hàng không có các chính sách
huy động vốn linh hoạt, chính sách lãi suất chưa phù hợp.
Rủi ro lãi suất
Lãi suất là chi phí để đi vay hoặc giá phải trả để thuê vốn trong một thời gian nào đó. Các
ngân hàng hoạt động trong cơ chế lãi suất luôn biến đổi theo lãi suất của thị trường. Hiện
tượng lãi suất tăng hoặc giảm có thể gây rủi ro cho hoạt động của Ngân hàng thương mại.

10


Hiện nay để giảm rủi ro lãi suất các ngân hàng thường thực hiện các hợp đồng với lãi suất
thả nổi, lãi suất được áp dụng theo sự thay đổi lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước
biến động của lãi suất trên thị trường tiền tệ.
Rủi ro tỷ giá hối đoái
Các rủi ro trong việc giao dịch ngoại hối xuất phát từ tỷ giá hối đoái của các loại tiền tệ

khác nhau do tác động của kinh tế và chính trị của một đất nước.Vậy rủi ro tỷ giá hối đoái
là rủi ro xảy ra khi có biến động về tỷ giá ngoại hối. Do tỷ giá chịu tác động của nhiều
yếu tố khác nhau như tình hình kinh tế của các nước, lãi suất của từng đồng tiền, điều
kiện về thiên nhiên... nên thường xuyên có sự biến động.
Rủi ro trong thanh khoản
Rủi ro trong thanh khoản phát sinh khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền
gửi ở ngân hàng ngay lập tức. Trong những trường hợp như vậy ngân hàng phải đi vay bổ
sung nguồn vốn thanh toán hoặc phải bán tài sản của mình để đáp ứng nhu cầu rút tiền
của người gửi tiền.
Đây là loại rủi ro không những ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động của ngân hàng mà còn
ảnh hưởng đến cả một nền kinh tế. Các cuộc khủng hoảng ngân hàng thương mại kéo
theo sự suy thoái kinh tế, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống kinh tế, xã hội
Các loại rủi ro khác: Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng còn chịu những loại
rủi ro khác nhau như: rủi ro do hoạt động ngoại bảng, rủi ro công nghệ, rủi ro quốc gia ....
Tóm lại: Rủi ro trong quá trình kinh doanh của các Ngân hàng thương mại tuỳ theo mức
độ mà ảnh hưởng ít hay nhiều tới bản thân Ngân hàng cũng như khách hàng của họ. Đặc
biệt, rủi ro trong hoạt động tín dụng ảnh hưởng lớn tới ngân hàng cũng như tới toàn bộ
nên kinh tế. Khi một khoản tín dụng lớn gặp rủi ro có thể dẫn tới tình trạng ngân hàng
thiếu vốn khả dụng hoặc mất khả năng thanh toán. Khi đó lòng tín của khách hàng vào

11


Ngân hàng giảm sút đáng kể có thể gây nên tình trạng rút vốn ồ ạt do đó càng đẩy ngân
hàng vào tình trạng khó khăn hơn. Chính vì những điều trên mà các ngân hàng thương
mại luôn phải quan tâm đến việc đánh giá các rủi ro trong các khoản tín dụng của mình.

 Chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng
Tuy rủi ro tín dụng là khách quan, song ngân hàng phải quản lý rủi ro tín dụng nhằm
hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xẩy ra. Từ những nguyên nhân nảy sinh

rủi ro tín dụng, ngân hàng cụ thể hóa thành những dấu hiệu chính phát sinh trong hoạt
động tín dụng, phản ánh rủi ro tín dụng:
(1) Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ;
(2) Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ;
(3) Tính đa dạng hóa của tài sản;
(4) Tình hình tài chính và phương án của người vay;
(5) Đảm bảo tiền vay;
(6) Quan hệ tín dụng giữ các ngân hàng;
(7) Môi trường hoạt động của người vay;
Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nơ. Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách
hàng không trả được trước khi đến hạn thỏa thuận ghi tên hợp đồng tín dụng.
Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ. Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đã
đến kỳ gia hạn nợ.
Các chỉ tiêu khác: bên cạnh nợ khó đòi, nhà quản lí ngân hàng còn sử dụng các hình
thức rủi ro khác, gắn liền với chiến lược đa dạng hóa tài sản, lập hồ sơ khách hàng,
trích lập quỹ dự phòng, đặt giá đối với các khoản cho vay...
 Điểm của khách hàng: thông qua phân tích tình hình, năng lực sản xuất kinh
doanh, hiệu quả dự án, mối quan hệ và tính sòng phẳng...ngân hàng lập hồ sơ
về khách hàng, xếp loại và cho điểm. Điểm của khách hàng cho thấy rủi ro
“tiếm ẩn”.
 Các khoản cho vay có vấn đề: mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là nợ
quá hạn, song trong quá trình theo dõi, nhân viên ngân hàng nhận thấy nhiều
khoản nợ tài trợ đang có dấu hiệu kém lảnh mạnh, có nguy cơ trở thành nợ quá
hạn.

12


 Tính kém đa dạng: đa dạng là biện pháp hạn chế rủi ro. Những thay đổi trong
chu kỳ của người đi vay là khó tránh khỏi. Nếu ngân hàng tập trung tài trợ cho

một khách hàng, của một ngành, hoặc một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn so
với đa dạng hóa.
 Mất ổn định vĩ mô: chính sách thường xuyên thay đổi, lạm phát cao, tình hình
chính trị mất ổn định, vùng hay bị thiên tai...đều tạo nên mất ổn định vĩ mô,
tác động xấu đến người vay. Do vậy, mất ổn định vĩ mô được ngân hàng xem
là một nội dung phản ánh rủi ro.
1. Nguyên nhân chủ yếu gây ra rủi ro tìn dụng ngân hàng
Rủi ro tín dụng cũng như các rủi ro khác có rất nhiều nguyên nhân khác nhau,
trong đó có hai nhóm nguyên nhân chính: Nguyên nhân do khách quan và nguyên
nhân do chủ quan.
 Nguyên nhân khách quan: Đó là những rủi ro do thiên tai, dịch họa gây ra như bão
lụt, hạn hán, động đất... Sự biến động trên thị trường kinh tế, biến động chính tri,
chiến tranh.
 Nguyên nhân chủ quan: Do con người trong quá trình sản xuất kinh doanh hoặc do
có quyết định sai lầm, do trình độ hiểu biết chuyên môn hoặc do con người cố tình
vi phạm nguyên tắc chế độ gây nên rủi ro.
 Đánh giá rủi ro tín dụng: Để dự đoán được chính xác rủi ro, việc nghiên cứu
thường xuất phát từ các nguyên nhân khác nhau có thể đưa đến rủi ro. ở đây chỉ
xét theo các yếu tố của một khoản cho vay.
Thứ nhất: Dự đoán môi trường hoạt động của các khoản vay.
Rủi ro môi trường luôn tồn tại cả bên trong và bên ngoài một tổ chức, vì vậy
một khoản vay khi đưa vào sử dụng sẽ như một cuộc thám hiển với bao điều bất
ngờ phái trước. Việc dự đoán các yếu tố môi trường sẽ cho phép ngân hàng nhẫn
định khả năng rủi ro của một khoản vay. Mặt khác, đánh giá mức độ rủi ro cho
từng khoản nợ từ đó có biện pháp thu hồi, quản lý nợ đạt hiệu quả cao.
Thứ hai: Dự đoán rủi ro từ hướng khách hàng
Khả năng rủi ro tín dụng có thể xảy ra do ý muốn trả nợ của khách hàng giảm đi.
Rủi ro trong quản lý, điều hành kinh doanh của người vay.
Khà năng thay đổi nhân thân cảu người vay hay người điều hành.
Để có thể dự đoán chính xác về khách hàng, ngân hàng phải có đầy đủ

thông tin kịp thời để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng cũng như ý muốn

13


trả nợ của họ. Trong điều kiện kinh doanh do rất nhiêu lý do mà ý muốn trả nợ
thật sự dấu kín và chuyên môn gọi đầy đủ là “rủi ro đạo đức”. Rủi ro đạo đức xảy
ra khi bên tham gia vào cuộc giao dịch có ý muốn thực hiện các hoạt động bất ngờ
cho bên kia. Rủi ro đạo đức từ phái khách hàng trong rủi ro tín dụng thường do
môi trường pháp lý còn lỏng lẻo, không ràng buộc khách hàng vào trả nợ, cũng
như các quy định về cho vay của ngân hàng chưa được hoàn thiên.
Thứ ba: Rủi ro tín dụng có thể xảy ra từ phái ngân hàng
Ngân hàng sẽ đưa ra các quy trình quản lý rủi ro chặt chẽ khi cấp một tài khoản
tín dụng. Trong quy trình này được coi là rủi ro do kỹ thuật như: các kỹ thuật tính
toán đến các khoản tiền, thời hạn phương pháp thu nợ,....Tuy tnhiên rủi ro kỹ thuật
cũng có các yếu tố từ các nhân viên ngân hàng ( chủ quan) như giới hạn về trình
độ, về phẩm chất con người.
Từ phía ngân hàng cũng có thể xảy ra rủi ro đạo đức. Do sự lỏng lẻo trong quản
lý, những lợi thế của ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ đã làm không ít
nhân viên tham ô, cựa quyền, tư lợi sa ngã. Các ngân hàng luôn cố gắng loại trừ
độ rủi ro từ hướng này nhưng trên thực tế mà nói vẫn tiềm ẩn một độ nhất định.
Thực tế cũng như kết quả nghiên cứu của các nhà chuyên môn đều cho thấy
các khoản cho vay có rủi ro đều có những biểu hiện từ trước ở những mức độ khác
nhau như:
- Sử dụng vốn sai mục đích
- Các tài liệu báo cáo tình hình sử dụng vốn vay không được gửi đúng kỳ hạn.
- Tài khoàn vãng lai luôn có số dư nợ, hay các khoản vay ứng có 1 – 2 lần trả
-

không đúng kế hoạch.

Nhiều lần séc bị từ chối thanh toán.
Các đảm bảo tín dụng bị xuống, giảm gái nghiêm trọng

14


II. LIÊN HỆ THỰC TẾ Ở VIÊT NAM
1.Tình hình rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng được phản ánh chủ yếu ở các chỉ tiêu về nợ quá hạn và nợ khó đòi. Nợ
quá hạn là yếu tố tất nhiên trong tín dụng ngân hàng. Nếu có thể nói: Ngân hàng nào
trong tín dụng mà không có nợ quá hạn thì chắc chắn ngân hàng đó báo cáo sai, hoặc vô
lý trong hoat đông kinh doanh.
Nhất là trong tình hình hiện nay về khách quan: cả nước đang đi theo cơ chế thị
trường, sản xuất hàng hóa. Các yếu tố về mua bán hàng hóa, sản xuất – tiêu thụ luôn là
bạn đồng hành của: ăn nên làm ra, phát triển lên hay lụi bại, sụp đổ của các đơn vị kinh
tế, các nhà làm kinh tế, các yếu tố liên quan chặt chẽ đến việc cho vay vốn của ngân hàng
mà sụp đổ thì điều tất yếu là ngân hàng đó cũng suy sụp nếu không nói là khốn đốn trong
kinh doanh.
Trong tình hình kinh tế như vậy, tránh sao khỏi các đơn vị làm ăn được, đơn vị không
làm ăn được do nhiều nguyên nhân dẫn đến sụp đổ và thế là ngân hàng cho vay vốn cũng
bị kéo theo vào chiến trận phải xử lý. Về chủ quan của ngân hàng, tránh sao được rủi ro:
cơ chế qui định đề ra về cơ chế lãi suất từng thời kỳ, thời điểm, qui định về thời hạn nợ
cho vay, nguyên tắc cho vay...mà các đơn vị tín dụng, tổ chức ngân hàng phải thực thi thì
không tránh được quy định, có điều khoản nào chưa phù hợp. Thực tế việc quy định thời
hạn nợ cho vay với đối tượng, món vay nào đó chưa cụ thể mà người vay, đơn vị tín dụng
phải tự mình áp dụng, tự mình định kỳ hạn nợ cho vay đó thì làm sao tránh được trong
hàng ngàn món nợ cho vay không có món nào định kỳ hạn không đúng. Tất yếu có món
sai, có món quá thời hạn. Đây là chưa kể định kỳ nợ có phù hợp vời chu kỳ sản xuất,
vòng quay của hàng hóa – tiền hàng... hay không?
2.Một số nguyên nhân gây rủi ro

Tiền tệ là nguyên liệu đầu vào cũng là sản phẩm cảu đầu ra. Tiền tệ luôn biến động và
chịu sự chi phối của nhiều yếu tố. Yếu tố khách quan là sự quản lý nhà nước, tâm lý,
chính trị, xã hội.....yếu tố chủ quan là con người. Vì vậy hoạt động kinh doanh cảu ngân
hàng có mỗi liên hệ chặt chẽ với thị trường. Với đặc điểm này mà trong kinh doanh của

15


ngân hàng có nhiều rui ro. Do vậy cần phải phân tích nguyên nhân có nợ quá hạn và rui
ro của ngân hàng như sau:
Nguyên ngân khách quan
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi, do vậy cơ chế, chế tài, chính
sách chế độ của nhà nước luôn thay đổi và đi tới hoàn thiện. Quá trình thay đổi đó làm
cho một số doanh nghiệp, chuyển hướng không kịp, không giải phóng được vốn và khó
khăn trong việc trả nợ ngân hàng. ví dụ như: một số công ty xuất nhập khẩu tổng hợp khi
vay vốn để mua nguyên vật liệu tại chỗ xuất khẩu, song cơ chế xuất khẩu trực tiếp cảu
nhà nước thay đổi quá nhanh, thay đổi quá nhanh, thay đổi theo thời điểm khi đơn v ị đi
vay thì chưa có. Trong khi đang chế biến nguyên liệu thì phát sinh, nên đơn vị không
chuyển biến kịp, sản phẩm không xuất khẩu được, do đó đơn vị vay không có vốn trả nợ
khi đến hạn phát sinh quá hạn.
Việc nhà nước không cho xuất khẩu trực tiếp nên đơn vị phải thông qua một đơn vị
trung gian khác, phải chịu lệ phí, chí phí, giá cả xuất...cũng làm cho đơn vị sản xuất vay
vốn ảnh hưởng và đó cũng là nhân tố ảnh hưởng đến nợ quá hạn hiện đang tồn tại của
đơn vị vay vời chi nhánh ngân hàng.
Phần lớn các doanh nghiệp có tỉ lệ vốn tự có thấp so với tổng số vốn lưu động tham gia
vào kinh doanh nên bất kỳ sự biến động nhỏ của thị trường và giá cả, điều kiện kinh
doanh thì đều ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp với khách hàng.
Ngoài ra còn phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của khách hàng, trong thực tế đã pah1t
sinh tại chi nhánh ngân háng là: có một vài trường hợp cá nhân vay ngân hàng, khi chưa
đến hạn trả nhưng người vay bán được hàng hoặc chỉnh một chu kỳ vay vốn, người vay

không trả, chưa trả mà tiếp tục đưa vào chu kỳ khác do: sợ thủ tục vay của ngân hàng
rườm rà, đợi chờ duyệt lâu,...nên tiếp tục kinh doanh bắng vốn đó. Đến khi đến hạn thì họ
chưa giải quyết xong quy trình sau nên không có vốn và phát sinh nợ quá hạn. Như vậy ý
muốn chủ quan của người vay đã làm cho nợ quá hạn cảu ngân hàng phát sinh tăng lên.
Nguyên nhân chủ quan
Mặc dù chi nhánh rất quan tâm tới đào tạo đội ngũ cán bộ ngân hàng. Ngay trong việc
tuyển lựa cán bộ ngân hàng cũng đặt ra yêu cầu trình độ đại học, đã qua công tác thực tập

16


ở các ngân hàng khác nhau, hiểu biết về các ngành kinh tế khác... Song điều bất cập vẫn
xảy ra là trình độ cấp bằng thì song việc áp dụng vào thực tế công việc lại đòi hỏi phải
năng động, nhanh nhạy, đòi hỏi đã là cán bộ ngân hàng thì phải có năng lực quản lý, trình
độ, kiến thức khoa học và thực tế, thực tiễn cuộc sống... để quyết đáp, tư vấn về một món
cho vay phù hợp, đúng cơ chế tính toán được hiệu quả kinh tế đôi bên là lường được bất
trắc xảy ra...Thực tế là còn nhiều cán bộ ngân hàng còn trẻ chưa có bề dày trong kinh
nghiệm trong vấn đề kiểm tra theo dõi chặt chẽ món vay, dẫn đến đơn vị vay sử dụng vốn
sai mục đích, sử dụng vốn ngắn hạn sang xây cơ bản, mua sắm thiết bị... do vậy khi đấn
hạn không trả được nợ phải chuyển nợ quá hạn. Mặt khác việc đánh giá, nhận định về
khách hàng, các thông tin, tư liệu về thực tế khách hàng không nắm rõ, nên việc thực hiện
khâu điều tra cho vay chỉ làm trên hồ sơ còn thực tế không điều tra kỹ, dẫn đến cho vay
không có thế chấp tài sản, thiếu và sai nguyên tắc và việc chuyển nợ quá hạn khi đến hạn
là dĩ nhiên.

17


PHẦN III: KẾT LUẬN
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng ở bất kỳ cơ chế nào cũng đều phát sinh rủi

ro như nợ quá hạn, không thu hồi được, thiên tai....Đó cũng là lẽ tất nhiên như sự rủi ro
của mỗi nghề kinh doanh khác nhau. Kinh doangh ngân hàng là nghề kinh doanh đặc thù
luôn tiền ẩn nhiều yếu tố rủi ro nhất. Do hoạt động tín dụng ngân hàng gắn kiền vả có
quan hệ chặt chẽ với một loại hình khách hàng. Nếu ngân hàng xem xét thận trọng quá
trình cho vay và khách hàng làm ăn có hiệu quả, sử dụng vốn vay đúng mục đích, trả nợ
tiền vay đúng thời hạn thì thường không có nợ quá hạn. Đó là những khách hàng lý
tưởng. Ngân hàng phải xem xét kỹ lưỡng cũng như tìm hiểu về thị trường đầu tư của
khàng khi vay vốn....Còn nếu ngược lại thì rủi ro tất yếu sẽ xảy ra.
Trong thời gian làm bài không tránh khỏi nhiều sai sót mong cô thông cảm. Tôi
mong được sự giúp đỡ của cô để bài tiểu luận được tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn cô!

18



×