Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Bối cảnh mới của nền kinh tế thế giới và tác động đến kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.48 KB, 20 trang )

KINH TẾ QUỐC TẾ
Đề tài: Phân tích bối cảnh mới của nền kinh tế thế giới và
tác động của nó tới nền kinh tế Việt Nam.

Nhóm 1
Trịnh Minh Sơn
Nguyễn Văn Hùng
Vũ Thị Diệu Thương
Đinh Văn Điện
Hoàng Thị Xuân
Nguyễn Ngọc Anh


Mục lục
Bối cảnh mới của nền kinh tế thế giới .................................................................................... 3
1.

Tình hình phát triển kinh tế thế giới ............................................................................... 3
Về tốc độ tăng trưởng .................................................................................................. 3
Về các quan hệ kinh tế quốc tế.................................................................................... 5
Về trật tự nền KTTG ................................................................................................... 8

2.

Bối cảnh kinh tế thế giới năm 2015 và dự báo năm 2016 .............................................. 8
Nhìn lại kinh tế thế giới năm 2015 .............................................................................. 8
Dự báo kinh tế thế giới năm 2016 ............................................................................. 12

Tác động đến kinh tế Việt Nam ............................................................................................ 16
1.


Tác động tới các chính sách kinh tế. ............................................................................. 16

2.

Tác động tới tăng trưởng kinh tế................................................................................... 16
Về cơ cấu nền kinh tế. ............................................................................................... 16
Về tăng trưởng kinh tế............................................................................................... 17

3.

Dự báo kinh tế Việt nam 2016 ...................................................................................... 18


Nhóm 1 - Quản lý công 55

Bối cảnh mới của nền kinh tế thế giới
Chúng ta đã bước sang thế kỉ XXI. Đây là thời kỳ mà các quan hệ quốc tế đã phát triển tới
mức không một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù thuộc hệ thống kinh tế xã hội nào có thể tồn
tại và phát triển mà không chịu sự tác động ấy. Đây cũng là thời kỳ diễn ra qúa trình biến đổi
từ một nền kinh tế thế giới bao gồm nhiều nền kinh tế quốc gia sang nền kinh tế toàn cầu, từ
sự phát triển kinh tế theo chiều rộng sang phát triển kinh tế theo chiều sâu. Những thành tựu
khoa học và công nghệ đã cho thấy loài người đang quá độ từ nền sản xuất vật chất sang nền
sản xuất tinh thần –cơ sở vật chất của xã hội tương lai.
Nền kinh tế thế giới bước vào thiên niên kỉ thứ 3 với những đặc điểm mới trong tốc độ tăng
trưởng, trong sự thay đổi cơ cấu và đặc biết là sống động trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
1. Tình hình phát triển kinh tế thế giới
 Về tốc độ tăng trưởng
Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thế giới diễn ra không đều giữa các quốc gia, giữa các
khu vực, giữa các nhóm nước và giữa các thời kì:



Sau những năm trì trệ đầu thập kỉ 90, kinh tế thế giới tăng trưởng khá cao trong năm

1995-1996 (3,8%/năm) song lại giảm nhẹ vào năm 1997 (3,5%/năm) rồi lại tiếp tục tăng
không đều các năm tiếp theo. Nền kinh tế các nước công nghiệp phát triển trong nhóm G7
được phục hồi. Riêng nền kinh tế của Nhật Bản đang đứng trước những vấn đề nan giải, và
đòi hỏi những cải cách đáng kể nếu như nó muốn trở lại tăng trưởng với tốc độ cao. Riêng
thập kỷ 90, Nhật Bản đã 3 lần suy thoái. Kinh tế tăng trưởng chỉ khoảng 0,5% - 1%/ năm,
thất nghiệp gia tăng cao, giảm phát, tổng cầu nội địa thấp. Tổng số nợ khó đòi của 15 ngân
hàng lớn nhất nước lên tới 395 tỷ USD (bằng 10% GDP), nợ của Chính phủ Nhật lên đến
140% GDP so với 62% của năm 1992. Các lĩnh vực được bảo hộ như tài chính, dịch vụ, nông
nghiệp có sức cạnh tranh thấp; xếp hạng cạnh tranh chung của kinh tế Nhật ngày càng giảm.
Năm 2003, kinh tế Nhật qua thời kỳ khó khăn nhất, tăng trưởng trên 1%. Xuất khẩu và dự trữ
ngoại tệ tăng.


Kinh tế Mỹ chiếm 30,5% GDP của thế giới, 25% buôn bán quốc tế, 46% thị trường cổ

phiếu và đóng góp 40% tăng trưởng kinh tế thế giới. Trong suốt hơn 9 năm (1991-2000), kinh
tế Mỹ tăng trưởng cao, liên tục và ổn định ở mức 2-4% và đạt mức kỷ lục 5,2% vào năm
2000. Lần đầu tiên kể từ năm 1969, Mỹ có thặng dư ngân sách và duy trì trong 3 năm liên tục
(1998-2000), cao nhất đạt 237 tỷ USD vào năm 2000. Tỷ lệ lạm phát thấp, trung bình
2%/năm (10 năm trước là 3,7%). Tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất, trung bình là 5,3% trong 10
năm. Chỉ trong 10 năm, năng suất lao động tăng gấp đôi, từ 1,5%/năm lên 3%/năm. Nhưng từ
Kinh tế quốc tế | 3


Nhóm 1 - Quản lý công 55

khi Bush lên cầm quyền, kinh tế Mỹ bắt đầu trì trệ và khó khăn, đặc biệt từ sau sự kiện

11/9/2001. Tốc độ tăng trưởng năm 2002 đạt 2,2% (2001 là 1,1%), thất nghiệp cao (5,9%);
thâm hụt thương mại ở mức cao kỷ lục (khoảng 420 tỷ USD, tăng 17% so với năm 2001);
ngân sách thâm hụt 159 tỷ USD do chương trình cắt giảm thuế lớn (1350 tỷ USD trong 11
năm từ 2002).


Kinh tế các nước EU dần phục hồi những năm cuối thập kỷ 90. Nhưng trong mấy năm

gần đây lại tiếp tục trì trệ; chỉ đạt 1,1% vào năm 2002, trong đó khu vực đồng euro tăng
0,75%. Kinh tế Đức, Pháp và Italia đều gặp khó khăn: tốc độ tăng trưởng giảm, thâm hụt
ngân sách tăng vượt quá 3% GDP (Đức, Pháp), tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao (hơn 10% ở Đức
và 9,3% ở Pháp), sản lượng công nghiệp giảm và đang có xu hướng giảm phát. Nếu vượt qua
khó khăn ngắn hạn, sức mạnh của cả khối được tăng cường (đồng EURO mạnh lên, kỳ luật
tài chính được duy trì, việc mở rộng Liên minh…) sẽ tạo động lực phát triển mới.


Kinh tế các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước công nghiệp mới (NICS) vẫn

đạt mức tăng trưởng cao. Nhờ sự tăng trưởng cao và liên tục từ thập kỷ 60 đến giữa những
năm 90, kinh tế Đông á đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế thế giới (tăng
trung bình 5-6%/năm). Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á 1997 -1998 khiến khu
vực này gặp nhiều khó khăn về kinh tế, chính trị và an ninh. Song quyết tâm cải cách kinh tế
của khu vực, đặc biệt cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, cải cách hệ thống tài chính ngân hàng, giải quyết các khoản nợ khó đòi; giảm lệ thuộc vào các nền kinh tế lớn... kinh tế
các nước này đã phục hồi và phát triển song vẫn chưa ổn định và còn nhiều bất ổn về kinh tế.
Năm 2002, các nước đang phát triển Châu á tăng trưởng 6,1% (IMF), trong đó, Trung Quốc
tăng gần 8%, Hàn Quốc đạt khoảng 6%, các nền kinh tế Đông Nam á tăng trung bình 3,8%.
Kinh tế Trung Quốc duy trì tốc độ tăng trưởng cao trung bình gần 10%/năm suốt từ đầu thập
kỷ 80 đến nay. Đến nay, Trung Quốc đứng thứ hai thế giới về dự trữ ngoại tệ (trên 270 tỷ
USD); thu hút đầu tư nước ngoài nhiều nhất khu vực; trở thành thị trường tiêu thụ hàng đồng
thời là nơi cung cấp hàng hoá cho thế giới (kim ngạch xuất nhập khẩu đứng thứ 5 thế giới).

Trong mấy năm gần đây, kinh tế Trung Quốc phát triển chậm lại, tuy nhiên vẫn rất cao.


Các nước ASEAN gặp khủng hoảng tài chính tiền tệ nên tốc độ tăng trưởng chậm

lại,gần đây đã bước sang giai đoạn phục hồi. Kinh tế các nước Mỹ La tinh cũng đang tiếp tục
phục hồi với tốc độ tăng GDP 3,3% sau cuộc khủng hoảng tiền tệ Mehico 1994. Kinh tế các
nước châu Phi cũng được phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế (khoảng 3%/năm). Kinh tế
Đông Âu (gồm cả SNG) bắt đầu có tăng trưởng dương (1,7%). Điển hình là Cộng hoà Liên

Kinh tế quốc tế | 4


Nhóm 1 - Quản lý công 55

bang Nga đã chấm dứt thời kì suy thoái 10 năm, từ năm 2000 đến 2007 các chỉ tiêu phát triển
kinh tế xã hội của Cộng hòa Liên bang Nga đã thể hiện rõ những dấu hiệu tích cực.


Khủng hoảng kinh tế, tài chính bắt đầu ở Mỹ năm 2007-2008 tác động đến hầu hết

các quốc gia trên thế giới. Nhật Bản, EU bị suy thoái nghiêm trọng, Việt Nam cũng không
phải ngoại lệ. Tuy nhiên hiện nay nền kinh tế thế giới đang có dấu hiệu phục hồi, nhưng tiếp
tục phải đối mặt không ít khó khăn và thách thức. Theo IMF, sự phục hồi của nền kinh tế thế
giới đã có dấu hiệu tiến triển, thế nhưng trong thời gian tới, rủi ro vẫn tăng mạnh khiến cho
nền kinh tế thế giới nói chung và từng nước từng khu vực kinh tế nói riêng có xu thế chững
lại. Cụ thể theo IMF, mức tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2010 phục hồi (4,8%/năm), sau
khi bị suy giảm vào năm 2009(-1,1%/năm) và dự đoán sẽ giảm nhẹ vào 2 năm tiếp theo, năm
2011 ( 3,6%/năm), năm 2012 ( 4,1%/năm). IMF (1/2014) dự báo kinh tế thế giới sẽ tăng
trưởng ở mức 3,7% vào năm 2014, 3,9% vào năm 2015. Sang giai đoạn 2016-2018, nền kinh

tế thế giới đều có mức tăng trưởng trên 4%. Theo đánh giá của các chuyên gia mức tăng
trưởng kinh tế thế giới phục hồi năm 2010 có được chủ yếu là do tác động của gói kích thích
tài chính được các nước áp dụng từ năm trước nhằm thoát ra khỏi khủng hoảng. Tuy nhiên thì
gói kích thích này không bền vững và hiệu quả của nó bắt đầu giảm.
 Như vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế cúa các nước và nhóm nước diễn ra rất không đều,
không mang tính bền vững. Điều đó làm mở rộng hơn hố sâu ngăn cách về sự giàu có và
trình độ phát triển giữa các quốc gia.
 Về các quan hệ kinh tế quốc tế
a. Thương mại quốc tế:
Thương mại quốc tế tiếp tục gia tăng với tốc độ khá cao gấp khoảng 2 lần so với tốc độ tăng
trưởng GDP, thể hiện xu hướng tự do hoá thương mại trong quá trình toàn cầu hoá nền kinh
tế thế giới. Những năm 90, thương mại thế giới phát triển mạnh và đạt mức cao kỷ lục trong
năm 2000 với thương mại hàng hoá đạt 6,2 nghìn tỷ USD (tăng 12,5% so với năm 1999) và
thương mại dịch vụ đạt trên 1,4 nghìn tỷ USD (tăng 5%). Nếu tính chung tổng kim ngạch
thương mại hàng hoá và dịch vụ thì thương mại thế giới năm 2000 tăng khoảng 70% so với
thương mại thế giới năm 1990 (4,3 nghìn tỷ USD). Trong giai đoạn 1990-2000, thương mại
thế giới tăng trung bình 7%/năm trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới chỉ đạt
2,7%/năm.
Tuy nhiên, từ 2001 đến nay, thương mại quốc tế giảm hẳn tốc độ phát triển. Năm 2002,
thương mại thế giới chỉ tăng 1% so với năm 2001 với tổng kim ngạch thương mại hàng hoá
và dịch vụ trên 7,7 nghìn tỷ USD. Đáng chú ý, tốc độ tăng trưởng thương mại của các nước

Kinh tế quốc tế | 5


Nhóm 1 - Quản lý công 55

đang phát triển trong năm qua (nhập khẩu tăng 3,8%, xuất khẩu tăng 3,2%) đạt khá hơn các
nước phát triển (nhập khẩu tăng 1,7% và xuất khẩu tăng 1,2%).
Với việc ra đời WTO (1995), xu hướng tự do hoá thương mại toàn cầu phát triển mạnh. Song

trong thời gian gần đây, người ta thấy xu thế này có sự chững lại do kinh tế thế giới trì trệ,
khủng hoảng kinh tế, tiền tệ ở nhiều nước, khu vực và làn sóng phản đối toàn cầu hoá.
Dù vậy, sự gia tăng thương mại không đều giữa các nước và nhóm nước đã dẫn đến tình
trạng thặng dư thương mại của nước này và thiếu hụt của nước khác. Sự cạnh tranh buôn bán
quốc tế ngày càng gay gắt. Đặc biệt là thặng dư thương mại của các nước Châu Á với Mỹ
cùng với sự căng thẳng chính trị nảy sinh trong quá trình đó đang trở thành nhừng vấn đề
tiềm ẩn của những nguy cơ trong nền thương mại thế giới.
b. Đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế trên thế giới vẫn tiếp tục gia tăng ở mức độ cao hơn cả thương mại quốc tế (
trên 10%/năm) với nhiều thay đổi đáng kể về cơ cấu cũng như tính đa dạng. Luồng vốn
ĐTNN trên thế giới tăng nhanh trong hơn hai thập kỷ qua, đặc biệt trong thập kỷ 90, và đạt
kỷ lục hơn 1 nghìn tỷ USD vào năm 2000, tăng hơn sáu lần so với 151 tỷ USD của năm
1990. Từ năm 2001, suy thoái, bất ổn về kinh tế, tiền tệ, tài chính đã tác động đến các luồng
vốn ĐTNN. Năm 2002, ĐTNN trên thế giới chỉ đạt khoảng 534 tỷ USD vào năm 2002, giảm
27% so với năm 2001 và tới 64% so với năm 2000. Đến năm 2007, dòng vốn FDI toàn cầu đã
tăng từ mức xấp xỉ 600 tỷ USD năm 2003 lên đến 1979 tỷ USD. Sau đó, FDI trên toàn thế
giới bắt đầu suy giảm, cho đến năm 2013, nguồn vốn ĐTNN đạt 1,45 nghìn tỷ USD.
Các dòng vốn ồ ạt đổ vào các thị trường mới nổi, đồng thời quá trình chuyển đổi sang hệ
thống tài chính toàn cầu cũng mạnh mẽ và thông thoáng hơn. Năm 2000, FDI vào các nước
đang phát triển chỉ chiếm khoảng 19%, nhưng năm 2013 lên tới 54%. Việc kinh tế các nước
phát triển đang hồi phục sẽ làm dịch chuyển nguồn vốn FDI vào các nước này, tăng 35%
trong năm 2014 và vào năm 2016 sẽ chiếm tới 52% tổng FDI toàn cầu. Tuy nhiên, các quốc
gia trước hết là các nước đàn phát triển cũng cần phải thận trọng hơn truóc sự tiếp nhận các
quy mô ngày càng lớn các dòng vốn nói trên, vì bản thân sự vận động của dòng vốn rất dễ bị
tổn thương do sự nhạy cảm của thị trường quốc tế vì những ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình
phát triển không bền vững cũng như những hậu quẩ tiêu cực khác có thể xảy ra trong hoạt
động đầu tư quốc tế.
c. Thị trường tài chính toàn cầu
Thị trường tài chính toàn cầu phát triển đặt ra những vấn đề hết sức nghiêm trọng đối với các
quan hệ tài chính – tiền tệ quốc tế. Các quan hệ TCTT diễn ra với tốc độ vận hành tức thời

của mạng lứoi thông tin viễn thông hiện đại vừa thúc đẩy sự phát triển của những quan hệ
Kinh tế quốc tế | 6


Nhóm 1 - Quản lý công 55

thương mại và đầu tư quốc tế, vừa đặt ra những yêu cầu về việc kiểm soát rủi ro về hối đoái
cũng như khả năng thanh toán.
Từ 2002, thị trường tài chính - tiền tệ thế giới lại đặc trưng bởi: sự sụt giảm giá cổ phiếu trên
các thị trường chủ chốt do hàng loạt tập đoàn kinh tế lớn phá sản; đồng USD mất giá so với
đồng Euro và Yên; nhiều nền kinh tế đứng trước nguy cơ giảm phát (lạm phát của các nước
phát triển: 1,4%, các nước đang phát triển là 5,6%); nhiều nước áp dụng chính sách tiền tệ
nới lỏng để kích thích nền kinh tế và kiềm chế giảm phát. Bất ổn tài chính - tiền tệ ở nhiều
nước Mỹ Latinh....
Sự cạnh tranh về các đồng tiền, trước hết là ngoại tệ mạnh, trong hệ thống tiền tệ quốc tế
ngày càng gay gắt. Đồng Euro liên tục lên giá so với đồng USD, tới gần 30% trong vài năm
gần đây do kinh tế Mỹ ảm đạm và các chính sách hạ lãi xuất kích thích đầu tư và giảm giá
đồng đô la yếu để tăng xuất khẩu. Chính sách này của Mỹ đã có tác động xấu tới kinh tế Tây
Âu. Theo một số tính toán nếu đồng Euro lên giá 10% so với đồng USD sẽ làm giảm 1,5%
tốc độ tăng trưởng kinh tế khu vực đồng Euro trong 5 năm. Đến nay, đồng EURO đã đạt mức
1€ = 1,13$.
Bởi vậy cần phải có các tổ chức và cơ chế phối hợp một cách nhạy bén trên phạm vi thế giới
để dự báo và ngăn ngừa những rủi ro trên thị trường chứng khoán và tiền tệ thế giới.
d. Các vấn đề xã hội và môi trường sinh thái
Bên cạnh các quá trình phát triển kinh tế, Các vấn đề xã hội và môi trường sinh thái đang tiếp
tục đặt ra ngày càng gay gắt. Đó là các vấn đề giải quyết nạn thất nghiệp, đói nghèo, vấn đề
bệnh tật cả xã hội hiện đại, vấn đề về biến đổi khí hậu, vấn đề dân số, lương thực, năng
lượng... Đây chính là các vấn đề có tính chất toàn cầu, liên quan đến sự phát triển và sống còn
của tất cả các quốc gia, đòi hỏi phải có sự phối hợp liên quốc gia, thậm chí trên cả trên
phương diện giải quyết các vấn đề liên quan đến sự phát triển bền vững của dân tộc.

e. Các hoạt động kinh doanh quốc tế
Sự cạnh tranh diễn ra gay gắt hơn, đồng thời quá trình hợp tác ngày càng phong phú hơn, ở
nhiều cấp độ, rộng và sâu hơn. Điều đó đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho các quốc gia,
đặc biệt là các quốc gia đang phát triển.
Muốn đạt được thắng lợi trong cạnh tranh, đòi hỏi phải năng động, có tầm nhìn rộng rãi, thích
ứng thường xuyên, trình độ khoa học công nghệ cao, cũng như am hiểu về văn hóa, tâm lí các
dân tộc, trình độ quản lý giỏi, khả năng hợp tác đầu tư quốc tế có hiệu quả. Đi đôi với cạnh
tranh là sự hợp tác với các cấp độ khác nhau. Sự hợp tác diễn ra trong các hoạt động buôn
bán, đầu tư, chuyển giao công nghệ, cũng như các loại hình dịch vụ khác nhau. Sự hợp tác
phát triển giưã các quốc gia được hình thành theo khu vực cũng như trên toàn thế giới.
Kinh tế quốc tế | 7


Nhóm 1 - Quản lý công 55

f. Các trung tâm kinh tế và cường quốc kinh tế mới được hình thành và phát triển giữ vai trò
quyết định trong các quan hệ kinh doanh quốc tế.
g. Các vấn đề khác
Trong những năm gần đây, chiến tranh và sự bất ổn ở Irắc và các nước ở Trung Đông xảy ra
triền miên, xung đột vũ trang ở các nước Châu Phi liên tục xảy ra. Thêm vào đó, dịch bệnh
như SARS, dịch cúm gia cầm, lở mồm long móng diễn ra ở nhiều nước đã gây khó khăn đối
với nền kinh tế từng quốc gia, mà còn đối với cả nền kinh tế thế giới. Cùng với đó là sự leo
thang lên xuống thất thường của giá dầu đã buộc các quốc gia phải đối mặt với khó khăn,
thách thức trong sự phát triển. Đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
toàn cầu hiện nay đang có dấu hiệu phục hồi.
 Về trật tự nền KTTG
Nền kinh tế thế giới đang chuyển từ trật tự cũ sang trật tự mới:
-

Ba liên minh kinh tế lớn chi phối các quan hệ kinh tế quốc tế:




Liên minh Châu Âu ( EU) mở rộng thành 25 quốc gia từ 1/5/2004 và 27 nước từ 1/1/2007
và có thể sẽ mở rộng hơn nữa.



KHối NAFTA tương lai sẽ rộng ra khuôn khổ Bắc Mỹ. Đồng thời sẽ hình thành khu vực
mậu dịch tự do các nước Mỹ la tinh trong tương lai mặc dù gặp không ít khó khăn và bất
đồng.



APEC hiện tại gồm 21 thành viên, sẽ thành khối mậu dịch tự do từ 2020 với dân số, tiềm
lực kinh tế và kỹ thuật khổng lồ.

-

Các cường quốc mới nổi lên: Trung Quốc, Ấn Độ, CHLB Đức, Brazil... riêng khu vực
châu Á- Thái Bình Dương, các nhân tố quan trọng là Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc và các nước công nghiệp mới NICS.

 Hình thành trật tự kinh tế mới với các liên kết kinh tế khu vực và tiểu khu vực, các trung
tâm kinh tế lớn giữ vai trò quan trọng trong việc chi phối các quan hệ kinh tế quốc tế. Sự
phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt, các vấn đề dân tộc và quốc gia cũng nổi lên và
chi phối các quan hệ kinh tế quốc tế. Nguy cơ khó khăn của các quốc gia đang phát triển
trong việc giao lưu kinh tế quốc tế ngày càng tăng.
2.


Bối cảnh kinh tế thế giới năm 2015 và dự báo năm 2016

 Nhìn lại kinh tế thế giới năm 2015
Bức tranh chung về tình hình kinh tế thế giới trong năm 2015 tuy chưa thực sự khởi sắc
nhưng cũng đã bớt ảm đạm hơn.

Kinh tế quốc tế | 8


Nhóm 1 - Quản lý công 55

Theo số liệu mới nhất của Ngân hàng Thế giới (WB), tốc độ tăng trưởng toàn cầu năm 2015
là 2,4%, nhưng về cơ bản có thể thấy, những tác động của khủng hoảng tài chính và nợ công
đã không còn trầm trọng, kinh tế toàn cầu bắt đầu thích nghi dần với những biến động về
chính trị, an ninh.
Nền kinh tế thế giới năm 2015 có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế ở nhiều quốc gia, khu vực vẫn còn không đồng đều, chưa ổn
định và thiếu bền vững. Bảy năm sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, kinh tế thế giới
vẫn chưa thể đạt được nhịp độ tăng trưởng mạnh và đồng bộ. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho
rằng, cú sốc trên thị trường chứng khoán Trung Quốc, nền kinh tế thứ hai trên thế giới, trong
tháng 8-2015 và sự giảm giá của đồng Nhân dân tệ đã dẫn đến bất ổn và tâm lý xa lánh các
tài sản rủi ro. Ngoài ra, bất ổn tại nhiều khu vực trên thế giới cũng đang kìm hãm đà tăng
trưởng. Các tổ chức quốc tế như IMF, WB, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)
đều nhận định, kinh tế thế giới năm 2015 tăng trưởng chậm, mức tăng thấp nhất trong vòng 5
năm qua. Sự phục hồi của nền kinh tế phát triển không đủ bù đắp sự suy giảm mạnh của các
nền kinh tế đang phát triển; nợ và tình trạng thất nghiệp vẫn ở mức cao, làm giảm dư địa tài
chính, thiếu hụt đầu tư khiến sản xuất và tiêu dùng trì trệ ở nhiều nước.
Năng suất của cả nền kinh tế phát triển và đang phát triển đều giảm thấp hơn so với trước
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trong khi đó, mức tăng trưởng giữa các nước và nhóm
nước không đồng đều. Kinh tế các nước phát triển tiếp tục phục hồi nhưng chậm hơn kỳ

vọng. Mỹ là nước có nền kinh tế phục hồi tích cực nhất trong nhóm nước phát triển. Tỷ lệ
thất nghiệp ở Mỹ đã giảm còn 5%, tiêu dùng và thị trường bất động sản bắt đầu phục hồi.
Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) phục hồi yếu, tăng trưởng chậm với tốc độ là
1,5%, do phải xử lý cuộc khủng hoảng “kép” gồm vấn đề nợ công và di cư, cùng tình trạng
giảm phát và thất nghiệp cao. Một cột trụ kinh tế khác của thế giới là Nhật Bản, cho dù tỷ giá
đồng Yên đã giảm giá đến 60% so với USD kể từ đạt mức đỉnh 73,35 Yên/USD (tháng 102011), tạo lợi thế cho hoạt động xuất khẩu nhưng đà phục hồi của kinh tế Nhật Bản còn rất
bấp bênh. Tổng nợ công vẫn cao gấp đôi so với GDP.
Các nền kinh tế đang phát triển vẫn tiếp tục giảm tốc năm thứ 5 liên tiếp với mức tăng trưởng
4,3% trong năm 2015. Năm 2015, tăng trưởng của khối 5 nước thuộc nhóm các nền kinh tế
mới nổi (BRICS) không như kỳ vọng. Nền kinh tế Trung Quốc gặp khó khăn nhất kể từ khi
bắt đầu cải cách, mở cửa. Mặc dù đã áp dụng nhiều biện pháp chặn đà tăng trưởng nhưng sản
xuất công nghiệp Trung Quốc vẫn suy giảm, xuất nhập khẩu vẫn trì trệ, thị trường nhà đất
đóng băng, thị trường chứng khoán biến động mạnh, đồng Nhân dân tệ phá giá, dự trữ ngoại
hối giảm mạnh… Mức tăng trưởng của Trung Quốc năm 2015 chỉ đạt 6,9% và lần đầu tiên
Kinh tế quốc tế | 9


Nhóm 1 - Quản lý công 55

trong 25 năm qua tăng trưởng dưới mức 7%. Nga và Bra-xin cũng suy thoái sâu. Tăng trưởng
của Nga giảm 3,8% năm 2015 do chịu nhiều tác động tiêu cực của giá dầu giảm sâu kéo dài
và do lệnh cấm vận của phương Tây. Cuộc khủng hoảng kinh tế cũng khiến đồng nội tệ của
Nga mất giá tới 72,2% so với đồng USD trong khoảng thời gian từ tháng 3-2014 đến tháng
12-2015. Bra-xin lún sâu vào khủng hoảng chính trị và kinh tế, với tình trạng thất nghiệp, lạm
phát và thâm hụt ngân sách tăng cao. Ấn Độ là điểm sáng duy nhất trong nhóm BRICS với
mức tăng trưởng cao 7,3% và cũng là lần đầu tiên Ấn Độ vượt Trung Quốc về thành tích tăng
trưởng. Không kể Trung Quốc, tốc độ tăng trưởng khu vực Đông Á - Thái Bình Dương năm
2015 là 4,6%, tương đương mức năm 2014, do tăng trưởng các nước xuất khẩu nguyên vật
liệu, trong đó có In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a, bị chậm lại nhưng được bù lại bởi tăng trưởng
nhanh tại Việt Nam và mức độ khôi phục phần nào tại Thái Lan.

Nền kinh tế ở khu vực Mỹ La-tinh đối mặt với những “cơn cuồng phong” ngược chiều trong
năm 2015. Sự sụt giảm giá hàng hóa, giảm tốc của kinh tế Trung Quốc và biến động tài chính
toàn cầu đã ảnh hưởng nặng nề tới hiệu quả kinh tế của khu vực này. Nhiều khó khăn nảy
sinh với Bra-xin, Vê-nê-xu-ê-la... Lạm phát ở khu vực có xu hướng tiếp tục gia tăng. Đà tăng
trưởng của khu vực châu Phi cũng bị chững lại. Ngoài ra, một loạt các vụ tấn công khủng bố
trên thế giới trong năm 2015 cũng đã gióng lên hồi chuông báo động về bất ổn chính trị, an
ninh và kinh tế trên toàn cầu.
Thứ hai, thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế biến động phức tạp và khó lường, tác động tiêu
cực đến sự ổn định kinh tế thế giới. Năm 2015 là năm thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế
biến động mạnh và phức tạp nhất kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009.
Những diễn biến xấu của nền kinh tế Trung Quốc đã tác động mạnh đến tâm lý thị trường tài
chính - tiền tệ quốc tế, khiến nhiều thị trường chao đảo trong quý III/2015. Ngân hàng Trung
ương Trung Quốc (PBOC) đã gây sốc trên thị trường tài chính thế giới khi liên tiếp phá giá
đồng Nhân dân tệ vào tháng 8-2015. Mặc dù cuối năm 2015, IMF tuyên bố đồng Nhân dân tệ
của Trung Quốc đủ điều kiện vào giỏ tiền tệ quốc tế nhưng Trung Quốc vẫn tiếp tục phá giá
mạnh đồng Nhân dân tệ. Nhân dân tệ mất giá đã ảnh hưởng đến tỷ giá của các đồng tiền trong
khu vực và của các nền kinh tế mới nổi trên toàn thế giới. Trong khi đó, cuộc khủng hoảng
nợ công ở châu Âu năm 2015 đã tạm thời lắng xuống nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ tái phát. Sự
khác biệt lớn trong chính sách tiền tệ ở hai bờ Đại Tây Dương khi Ngân hàng Trung ương
châu Âu (ECB) thực hiện chính sách nới lỏng còn Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) bắt đầu thắt
chặt thông qua việc nâng lãi suất cơ bản đã làm đồng ơ-rô giảm giá so với đồng USD và đẩy
tỷ giá đồng ơ-rô có thời điểm rơi xuống 1,05 USD/ơ-rô trong năm 2015. Đây là một trong
những yếu tố tác động lớn đến sự ổn định kinh tế thế giới.
Kinh tế quốc tế | 10


Nhóm 1 - Quản lý công 55

Thứ ba, giá dầu và giá nguyên liệu giảm sâu tác động tiêu cực tới các nước xuất khẩu dầu và
nguyên liệu lớn. Năm 2015, thế giới đã chứng kiến việc giá nguyên liệu và dầu thô tiếp tục

giảm xuống mức thấp nhất trong nhiều năm qua. Chỉ số giá của 22 mặt hàng nguyên liệu (chỉ
số Bloomberg) đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ năm 1999. Trong khi giá dầu thế giới
tháng 12 -2015 đã giảm xuống mức thấp nhất trong 11 năm qua, chạm mức 35 USD/thùng.
Việc dầu thô giảm giá kéo dài đã tác động hết sức tiêu cực tới những hãng sản xuất dầu và
các lĩnh vực liên quan đến dầu. Hàng trăm ngàn lao động trong ngành khai thác dầu toàn cầu
đã phải nghỉ việc, nhiều hoạt động sản xuất và khai thác cũng bị ngừng trệ. Đối với những
quốc gia phụ thuộc vào xuất khẩu dầu, như Vê-nê-xu-ê-la, Bra-xin, Ê-cu-a-đo, Ni-giê-ri-a,
Nga,... sự sụt giảm giá dầu đang tác động tiêu cực toàn diện tới nguồn thu và tăng trưởng
kinh tế của những nước này. Các nước vùng Vịnh cũng phải cắt giảm đầu tư trên toàn cầu
cũng như giảm bớt các dự án phát triển xã hội lớn của mình… Không chỉ có vậy, giá dầu thô
xuống thấp còn tác động mạnh tới các sản phẩm phát sinh từ dầu và giá của những sản phẩm
này cũng đang bị giảm mạnh. Tuy nhiên, nếu nhìn ở khía cạnh khác, giá dầu sụt giảm cũng
làm tăng sức mua từ các hộ gia đình và làm chậm lại lạm phát ở một số quốc gia, đặc biệt là ở
châu Âu và Mỹ.
Thứ tư, sự đối đầu ngày càng trầm trọng giữa chủ nghĩa khu vực và hợp tác đa phương, gây
bất lợi đến tiến trình toàn cầu hóa và phát triển kinh tế thế giới. Vòng đàm phán Đô-ha của
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) được khởi động cách đây 15 năm nhưng vẫn chưa kết
thúc. Những tiến triển ít ỏi và chậm chạp của WTO tạo cơ hội và động lực thúc đẩy trào lưu
đàm phán hình thành những khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương trong những
quy mô khác nhau và với cấp độ khác nhau. Toàn cầu hóa gặp thêm trở ngại và liên kết khu
vực gia tăng. Chỉ tính riêng trong năm 2015, WTO đã nhận được 13 thông báo về việc thành
lập các hiệp định khu vực mới (RTAs). Kết quả là, tổng số các RTAs hiện hành lên đến con
số là 265 RTA. Bên cạnh đó, RTAs đang trở thành công cụ của chính sách đối ngoại của các
nước lớn, như Mỹ, Nga, Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc với nhiều toan tính chính trị,
an ninh, các mục tiêu thúc đẩy cải cách, dân chủ và nhân quyền. Những mặc cả về cải cách
hệ thống thể chế, hệ thống chính trị, các tiêu chí về dân chủ và nhân quyền được đưa ra thay
vì chỉ là các dòng thuế quan hay điều kiện tiếp cận của thị trường. Các cam kết về chính trị và
an ninh cũng trở thành điều kiện quan trọng cho việc ký kết các hiệp định thương mại (FTA)
song phương.
Ngay tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, năm 2015 đánh dấu bằng một loạt các động thái

của các quá trình liên kết, hội nhập kinh tế. Cụ thể, đã xuất hiện cơ cấu mới và tầm cỡ về tài
chính liên quốc gia - Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB), thành lập theo đề nghị
Kinh tế quốc tế | 11


Nhóm 1 - Quản lý công 55

của Trung Quốc. Đầu tháng 12-2015, Mỹ tiếp tục đạt thành quả trong ý tưởng đối trọng với
Trung Quốc về kinh tế thương mại tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP) giữa Mỹ với 11 nước thành viên khu vực đã được ký kết. Đây
được xem là hiệp định của thế kỷ, TPP quy tụ các quốc gia đang nắm giữ tới 40% GDP toàn
cầu và có thể giúp kinh tế toàn cầu gia tăng thêm 300 tỷ USD mỗi năm. TPP cũng là hiệp
định thương mại mới nhất kể từ khi thành lập WTO, vượt xa khuôn khổ thương mại hàng hóa
và dịch vụ, hình thành các dây chuyền sản xuất toàn cầu, tăng năng suất và khả năng cạnh
tranh của các quốc gia thành viên... Tuy nhiên, cũng chính vì thế mà nó sẽ xung đột với các
quy tắc thương mại đa phương, làm suy yếu nền tảng WTO và có khả năng sẽ điều chỉnh các
vấn đề trọng yếu của hợp tác kinh tế đương đại. Các quốc gia không nằm trong hiệp hội khu
vực mới sẽ phải tuân theo luật chơi mới của các nước lớn, mặc dù điều này có thể không phù
hợp với lợi ích của họ và các nguyên tắc không phân biệt đối xử. Nhìn chung, phúc lợi kinh
tế từ một hiệp định thương mại song phương của một nền kinh tế phát triển và đang phát triển
thường không lớn nếu tính theo con số tuyệt đối.
 Dự báo kinh tế thế giới năm 2016
Kinh tế thế giới năm 2016 được dự đoán là có phục hồi nhưng không vững chắc, chủ yếu là
do thương mại toàn cầu suy giảm; khả năng biến động thị trường tài chính do các nước tiếp
tục phá giá đồng tiền và lãi suất ở các nền kinh tế chủ đạo tăng ở các mốc thời gian không dự
đoán được; giá dầu thấp gây áp lực đến cân đối tài chính ở các nước sản xuất dầu; nguy cơ
suy thoái hoặc giảm phát kéo dài ở các nền kinh tế châu Âu, Nhật Bản; các thị trường mới nổi
đang gặp nhiều thách thức do các nguyên nhân chính trị, kinh tế, tài chính tiền tệ chi phối.
Khả năng phát triển kinh tế tiếp tục bị kìm hãm bởi những yếu tố, như năng suất thấp, dân số
ngày càng già hóa và những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Hiện có nhiều dự báo khác nhau về tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2016. Các cơ quan quốc
tế lớn như WB, IMF, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) gần đây đều rất thận trọng và điều
chỉnh lại các số liệu dự báo thấp hơn so với các con số mà các cơ quan này đã đưa ra trước
đó. Báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu của WB công bố tháng 01-2016 dự báo tốc độ tăng
trưởng kinh tế thế giới năm 2016 ở mức 2,9%; IMF và OECD dự báo mức tăng trưởng cao
hơn, tuy nhiên Liên hợp quốc cũng chỉ đưa ra con số tăng trưởng GDP toàn cầu là 2,9%. Lý
giải cho điều này, Liên hợp quốc cho rằng, mặc dù triển vọng kinh tế Mỹ khá hơn nhưng
đồng USD tăng giá sẽ gây thiệt hại cho các nhà xuất khẩu và giá dầu tụt dốc làm giảm đầu tư
toàn cầu trong lĩnh vực năng lượng.

Kinh tế quốc tế | 12


Nhóm 1 - Quản lý công 55

Conference Board (tổ chức nghiên cứu kinh tế hàng đầu thế giới có trụ sở tại New York, Mỹ)
dự đoán kinh tế thế giới chỉ tăng 2,8% trong năm 2016. Các nền kinh tế lớn có mức tăng
trưởng rất khác nhau. Cụ thể, khu vực đồng ơ-rô được dự báo mức tăng trưởng ước đạt là
1,6%, trong khi kinh tế Mỹ là 2,4%. Đáng lo ngại nhất lại là kinh tế Trung Quốc khi ngay đầu
năm 2016 đã có những biến động mạnh trên thị trường chứng khoán. Trái ngược với kinh tế
Trung Quốc, các nền kinh tế Đông Nam Á được Conference Board cho là sẽ tăng trưởng tốt ở
mức 4,7%.
Tại khu vực châu Âu và Trung Á, WB nhận định tăng trưởng dự kiến sẽ đạt 3% năm 2016
nhờ giá dầu giảm chậm hơn hoặc sẽ ổn định. Tăng trưởng có thể phục hồi ở vùng miền Đông
của khu vực, gồm Đông Âu, Nam Cáp-ca-dơ và Trung Á, nếu giá nguyên vật liệu ổn định.
Vùng phía Tây của khu vực, bao gồm Bun-ga-ri-a, Ru-ma-ni-a, Thổ Nhĩ Kì, các nước Tây
Ban-căng sẽ đạt tốc độ tăng trưởng vừa phải nhờ phục hồi tăng trưởng tại khu vực đồng ơ-rô.
Dự báo của OECD lạc quan hơn khi cho rằng, tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ là 3,3% trong
năm 2016. Dự báo của OECD nhấn mạnh, năm 2016 sẽ có sự phân hóa về tăng trưởng kinh
tế trên thế giới với hai xu hướng: Các nước phát triển đã cơ bản thoát khỏi khủng hoảng,

đang trong giai đoạn phục hồi và sẽ có sự phục hồi chắc chắn hơn trong năm 2016. Kinh tế
châu Âu có thể hồi sinh trong năm 2016, do giá trị của đồng ơ-rô đã giảm đáng kể so với
đồng USD, làm cho châu Âu hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư và khách du lịch. ECB đã
tăng cường các chương trình kích thích kinh tế và mối đe dọa Hy Lạp rời khỏi khu vực đồng
tiền chung ơ-rô đã tạm thời lắng dịu. Châu Âu có thể là khu vực tăng trưởng ấn tượng nhất
vào năm 2016. Theo đánh giá của Ủy ban châu Âu, mức tăng trưởng toàn khối Eurozone sẽ
đạt 1,8% vào năm 2016 và 1,9% trong năm 2017. Tuy nhiên, các nhà phân tích cũng cảnh
báo, châu Âu tuy có triển vọng kinh tế sáng sủa hơn nhưng đồng thời cũng phải đối mặt với
các vấn đề tồn tại sâu sắc như già hóa dân số, tiếp nhận người tị nạn, cải cách cơ cấu chậm.
Chủ nghĩa dân túy phát triển mạnh tại châu lục này có thể dẫn tới khó khăn khi thực hiện
chính sách kinh tế và không gian hoạch định chính sách bị thu hẹp.
Các chỉ số kinh tế gần đây của Mỹ cũng khả quan, từ tăng trưởng GDP đến sản xuất công
nghiệp, lạm phát, thất nghiệp và tạo việc làm. Tại Mỹ, thị trường việc làm được cải thiện rõ
rệt, nhu cầu trong nước được thúc đẩy bởi tiêu dùng hộ gia đình thông qua việc tăng sức mua,
tăng lương và tăng đầu tư từ khu vực dân cư. OECD dự báo tăng trưởng GDP năm 2016 của
Mỹ có thể trên 3%.
Các nước mới nổi chịu nhiều sức ép như năng lực nội tại yếu và chịu bất lợi do giá nguyên
liệu đầu vào thấp. Trong số các nước mới nổi, khu vực Nam Mỹ đáng lo ngại nhất vì chịu tác
động trực tiếp từ cuộc khủng hoảng giá các loại nguyên liệu đầu vào dẫn tới sự suy giảm sản
Kinh tế quốc tế | 13


Nhóm 1 - Quản lý công 55

lượng xuất khẩu. Bra-xin có nguy cơ giảm phát, trong khi Nga có thể đối diện với tình trạng
giảm phát nghiêm trọng. Riêng ba cơ quan xếp hạng tín dụng lớn trên thế giới (Standard &
Poor, Moody và Fitch Group) dự báo tăng trưởng kinh tế Nga có dấu hiệu tích cực. Theo các
cơ quan này, kinh tế Nga sẽ dần ổn định khi các doanh nghiệp Nga đã thích nghi với thực tế
giá dầu thấp và một số cải cách kinh tế đã bắt đầu phát huy tác dụng tích cực. Hiện có 2 yếu
tố có thể hậu thuẫn kinh tế Nga trong năm 2016, đó là: các doanh nghiệp sẽ phải trả nợ nước

ngoài ít hơn so với năm 2015, nên dòng vốn chảy ra ngoài sẽ thấp hơn. Bên cạnh đó, kỳ vọng
vào việc Mỹ và phương Tây sẽ nới lỏng các lệnh trừng phạt Nga vào nửa cuối năm 2016
khiến thị trường trở nên lạc quan hơn. Theo dự báo của tổ chức Standard & Poor và Fitch
Group, kinh tế Nga có thể tăng trưởng từ 0,3% - 0,5% vào năm 2016.
ADB nhận định, kinh tế tăng trưởng thấp tại các nước mới nổi sẽ kéo theo nguy cơ về một
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ mới. Các nền kinh tế mới nổi đã trở nên dễ bị tổn thương
bởi sự mất giá thường xuyên của đồng nội tệ so với USD do dự trữ ngoại hối giảm, nợ ngoại
tệ của doanh nghiệp cao và sự sụt giảm của giá nguyên liệu thô. Tuy nhiên, một số nước mới
nổi tại châu Á có thể tận dụng giai đoạn giá nguyên liệu đầu vào thấp để kích thích tăng
trưởng (trường hợp của Ấn Độ), còn các nước phát triển được lợi từ việc giá nguyên liệu đầu
vào giảm, lãi suất ở mức rất thấp và chính sách tiền tệ nới lỏng tại châu Âu. Bên cạnh đó, do
được hỗ trợ bởi sức tiêu dùng tại thị trường Trung Quốc và xu hướng mở rộng sản xuất của
Ấn Độ và các quốc gia khác, triển vọng kinh tế của các nước đang phát triển ở châu Á nhìn
chung vẫn sẽ ổn định.
Theo IMF, điểm đáng quan tâm nhất trong năm 2016 là kinh tế Trung Quốc. IMF dự kiến
tăng trưởng kinh tế Trung Quốc sẽ chậm lại còn 6,3% vào năm 2016, trong khi WB cho rằng,
tốc độ tăng trưởng này là 6,7%. Tốc độ tăng trưởng chậm lại tại Trung Quốc sẽ ảnh hưởng
đến các nước đang phát triển, phụ thuộc vào thị trường tiêu thụ Trung Quốc, như Bra-xin,
Chi-lê, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Nam Phi, Thái Lan và Việt Nam.
Năm 2016, các nền kinh tế của khu vực Mỹ La-tinh vẫn phải đối mặt với các tác động phức
tạp với nhiều rủi ro đến từ bên ngoài. Ủy ban Kinh tế Mỹ La-tinh (CEPAL) nhận xét, ảnh
hưởng của các yếu tố bên ngoài sẽ có sự khác biệt trong khu vực, nên tốc độ phục hồi sẽ khác
nhau giữa các tiểu khu vực. Trong khi các nước Trung Mỹ, GDP sẽ tăng 4,3% trong năm
2016, thì ngược lại tiểu khu vực Nam Mỹ, kinh tế sẽ giảm 0,8%. Trong tiểu khu vực này, Vênê-xu-ê-la tiếp tục là nước suy thoái sâu nhất với -7,0%; Bra-xin là -2,0%, còn tiểu khu vực
Ca-ri-be sẽ tăng 1,6%.
WB dự kiến tăng trưởng tại khu vực Trung Đông và Bắc Phi đạt mức 5,1%; khu vực Nam Á
sẽ là điểm sáng về tăng trưởng đối với các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển, theo đó tốc
Kinh tế quốc tế | 14



Nhóm 1 - Quản lý công 55

độ tăng trưởng sẽ đạt 7,3% năm 2016. Do giá nguyên liệu đầu vào ổn định hơn nên khu vực
châu Phi hạ Xa-ha-ra sẽ tăng trưởng ở mức 4,2% vào năm 2016, trong đó hai nền kinh tế lớn
nhất khu vực là Ni-giê-ri-a và Nam Phi lần lượt là 4,6% và 1,4% vào năm 2016 (18).
Như vậy, nền kinh tế thế giới trải qua năm 2015 với sự tăng trưởng chậm, chưa lấy lại được
đà tăng trưởng. Năm 2016, dự báo đưa ra cho thấy các nền kinh tế khu vực và thế giới tiếp
tục chứng kiến những biến động khó nắm bắt, sự trồi sụt tại một số thị trường tài chính và
nguyên liệu, sự tăng trưởng là không đồng đều, thiếu bền vững./.

Kinh tế quốc tế | 15


Nhóm 1 - Quản lý công 55

Tác động đến kinh tế Việt Nam
1. Tác động tới các chính sách kinh tế.
-

Trong những năm gần đây, bối cảnh kinh tế thế giới có ảnh hưởng rất lớn với nền kinh tế
Việt Nam. Cùng với xu hướng toàn cầu hóa, việc mở rộng quan hệ hợp tác với các nước,
các tổ chức kinh tế đang được xúc tiến nhanh chóng.



28/7/1995 Việt Nam chính thức ra nhập của hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á:
ASEAN.




3/1996 Việt Nam tham gia với tư cách là thành viên sáng lập diễn đàn hợp tác Á- Âu:
ASEM.



11/1998 chính thức trở thành thành viên của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình
Dương: APEC.



7/11/2006 được kết nạp trở thành viên thứ 150 của WTO.



5/10/2015 hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương TPP chính thức được
thông qua.

-

Việt Nam đã thực sự tham gia vào vòng quay của xu hướng quốc tế hóa. Điều này đã tác
động tới các chính sách thương mại và đầu tư của nước ta, đặt ra nhiều cơ hội cũng như
thách thức với nền kinh tế trong nước:



Để đạt được mục tiêu mở rộng thị trường nước ngoài theo xu thế từng bước hội nhập vào
thị trường khu vực và thế giới đòi hỏi cần cải thiện hơn nữa hệ thống thuế quan, các chính
sách bảo hộ và rào cản thị trường.




Quan hệ buôn bán và thị trường xuất khẩu không ngừng mở rộng sang thị trường Tây Âu,
Bắc Mĩ, Úc.



Việc ra nhập cac tổ chức kinh tế giúp nước ta thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài
ra tăng đầu tư. Tuy nhiên, dòng vốn nước ngoài rất nhạy cảm với các chính sách cũng
như môi trường đầu tư, vì vậy, nước ta cần cải thiện môi trường đầu tư cũng như có nhiều
chính sách để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.



Các sức ép từ thị trường thế giới và sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam ngày càng trở
nên gay gắt hơn.

2. Tác động tới tăng trưởng kinh tế.
 Về cơ cấu nền kinh tế.
Có sự chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. đẩy nhanh CNH-HĐH nông
nghiệp và nông thôn, tiếp tục phát triển và đưa nông lâm ngư nghiệp lên một trình độ mới
bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học.
Kinh tế quốc tế | 16


Nhóm 1 - Quản lý công 55

Trong công nghiệp: vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào 1 số
ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại. Phát triển công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản,
may mặc… Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng. Sản xuất tư
liệu cần thiết để trang bị cho các ngành kinh tế và quốc phòng, khai thác hiệu quả các nguồn

tài nguyên thiên nhiên.
Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, thương mại, kể cả thương mại
điện tử, các loại hình vận tải, bưu chính viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm…
Theo số liệu của tổng cục thống kê, cơ cấu kinh tế năm 2013: khu vực nông lâm ngư nghiệp
chiếm 18,38%, khu vực công nghiệp xây dựng chiếm 38,31%, khu vực dịch vụ chiếm
43,31%. Cơ cấu tương ứng năm 2014 là 18,12%; 38,50%; 43,38%.
Cơ cấu nền kinh tế 2015 tiếp tục có sự chuyển dịch nhưng tốc độ chậm, trong đó, khu vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 17%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm
33%; khu vực dịch vụ chiếm hơn 39,7%.
Cơ cấu vùng lãnh thổ: phát huy vai trò vùng kinh tế trọng điểm có mức tăng trưởng cao đồng
thời tạo điều kiện phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng vùng, liên
kết với vùng trọng điểm tạo mức tăng trưởng khá. Quan tâm phát triển kinh tế xã hội gắn với
tăng cường quốc phòng an ninh. Có chính sách hỗ trợ các vùng khó khăn để phát triển cơ sở
hạ tầng, nguồn nhân lực, nâng cao dân trí,…
Cơ cấu thành phần kinh tế: chú trọng phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen,
hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế khác nhau, giữa trong và ngoài
nước. phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi
vốn đầu tư xã hội.
 Về tăng trưởng kinh tế
Theo Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) của VN năm
2015 đạt con số khá đẹp: tăng 6,68% so với năm trước, cao hơn mục tiêu 6,2% mà Quốc hội
đề ra và cao nhất trong vòng 5 năm qua, mức tăng trưởng quý sau luôn cao hơn quý trước. Cụ
thể, quý 1 tăng 6,12%; quý 2 tăng 6,47%; quý 3 tăng 6,87%; quý 4 tăng 7,01%. Điều này cho
thấy kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi rõ rệt.Tăng trưởng kinh tế năm nay được đóng góp chủ
yếu bởi khu vực công nghiệp và xây dựng với mức tăng 9,64%, cao hơn nhiều mức tăng
6,42% của năm trước. Khu vực dịch vụ tăng 6,33%, trong khi khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản chỉ tăng 2,41%, thấp hơn mức 3,44% của năm ngoái. Kết quả này đạt được nhờ hoạt
động tái cơ cấu nền kinh tế, thu ngân sách nhà nước, thu hút cốn FDI và cơ hội từ việc gia

Kinh tế quốc tế | 17



Nhóm 1 - Quản lý công 55

nhập TPP và việc cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh
tranh.
Năm 2016, GDP Việt Nam cũng được dự báo sẽ ở mức 6,7%. Đây là một đánh giá lạc quan
về triển vọng tăng trưởng GDP của Việt Nam, song phải thừa nhận nước ta phải đôis mặt với
không it thách thức.
Nền kinh tế trong nước phục hồi chậm, tính bền vững chưa cao, phụ thuộc khá nhiều vào yếu
tố bên ngoài. Năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Sản
xuất kinh doanh và xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước, nhất là nông sản còn nhiều khó
khăn, liên kết giữa DN FDI và DN trong nước còn hạn chế. Cơ cấu kinh tế trong nước vẫn
chậm được cải cách, chưa tạo được động lực mới cho tăng trưởng.
Trong khi đó, dư địa chính sách (tài khóa và tiền tệ) ngày càng bị thu hẹp, khó có thể thực thi
chính sách kích thích kinh tế. Tốc độ tăng thu ngân sách đang thấp hơn tốc độ chi, đặc biệt
chi thường xuyên, nợ công dù an toàn nhưng đang gần sát trần giới hạn, chu kỳ trả nợ ngày
càng lớn, nợ xấu ngân hàng không thể xử lý nhanh… đang trở thành những thách thức lớn
cần nhanh chóng có giải pháp căn cơ.
Ngoài ra, sự kỳ vọng vào TPP trong thời gian tới là rất lớn, song việc nắm cơ hội cũng đặt ra
nhiều băn khoăn. Thực tế, sự nắm bắt, hiểu biết về hội nhập cũng như những tác động tới nền
kinh tế, hoạt động đầu tư, kinh doanh của từng DN đối với TPP chưa được quan tâm đúng
mức. Trình độ công nghệ, chất lượng sản phẩm kém, năng lực cạnh tranh thấp sẽ là những
khó khăn cho sự phát triển của nền kinh tế trong năm 2016, cần sớm có giải pháp khắc phục
trong năm 2016 và trong trung và dài hạn. Vào các nước TPP, Việt Nam phải nhập khẩu
nguyên liệu, máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất, có nghĩa là nhập siêu sẽ gia tăng. Khả năng
này là khá cao khi Việt Nam chưa phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, sản xuất hàng hóa,
thiết bị, máy móc thay thế nhập khẩu.
Bên cạnh đó, thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam hiện chưa thực sự đa dạng, trở thành
yếu tố rủi ro rất lớn, đặc biệt trong bối cảnh khu vực và quốc tế biến động hiện nay. Do vậy,

bên cạnh việc đa dạng hóa được thị trường mới bên cạnh những thị trường truyền thống hiện
nay, Việt Nam cần chú trọng thêm thị trường nội địa với mục tiêu biến thành thị trường.
3. Dự báo kinh tế Việt nam 2016
Kinh tế Thế giới 2016 sẽ chứng kiến diễn biến phức tạp hơn, nhất là tác động đan xen chính
sách của các nước lớn và cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố. Nhiều chuyên gia quốc tế cho
rằng thời kỳ tăng trưởng nhanh của kinh tế Thế giới sắp chấm dứt và kinh tế Thế giới lại

Kinh tế quốc tế | 18


Nhóm 1 - Quản lý công 55

bước vào chu kỳ 7-8 năm mới với suy thoái và tăng trưởng đan xen như đã diễn ra trong suốt
50 năm qua với đợt suy thoái gần đây nhất là vào các năm 2007-2008.
Trong bản báo cáo cập nhật triển vọng kinh tế toàn cầu 2015 - 2016 của Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF), cơ quan này đưa ra dự báo nền kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng 3,6% trong năm 2016,
thấp hơn so với những con số trong dự báo trước đó. Đó cũng là nhận định chung của WB,
OECD, hay nhiều cơ quan dự báo kinh tế khác. Nhưng các dự báo không mấy lạc quan này
còn bị điều chỉnh sâu hơn sau sự kiện khủng bố thứ sáu ngày 13/11 ở Paris. Việc IMF công
nhận đồng nhân dân tệ tham gia rổ tiền tệ dự trữ quốc tế sẽ có thể đưa tới những hệ lụy khó
đoán định cho Việt Nam và nhiều nước Đông Nam Á khi bị thâm hụt thương mại và đầu tư
quy mô lớn với Trung Quốc.
Kỳ vọng về nền kinh tế Việt Nam
Theo báo cáo của Ernst & Young và nhóm nghiên cứu EIU (Economist Intelligence Unit),
GDP Việt Nam được dự báo tăng xấp xỉ 7%, tương đương mục tiêu tăng trưởng được Quốc
hội đề ra. Với tốc độ này, Việt Nam đứng thứ 9 trong nhóm nước có tốc độ tăng GDP nhanh
nhất thế giới.
Còn theo dự báo mới nhất của Ngân hàng Thế giới, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam
năm 2016 sẽ đạt 6,6% (gần sát với mục tiêu kế hoạch của Chính phủ là 6,7%).Tuy nhiên,
những rủi ro mà WB cảnh báo nước ta có thể sẽ gặp phải đó là quá trình tái cơ cấu chậm

chạp, nợ xấu chưa được xử lý triệt để (cho dù tỷ lệ nợ xấu có nằm dưới 3% theo báo cáo của
Chính phủ).
Tỷ lệ lạm phát được dự báo tiếp tục nằm ở mức thấp vì theo các dự báo của nhiều tổ chức
quốc tế, giá dầu Thế giới không có xu hướng tăng trong nhiều năm tới vì nguồn cung dầu
đang dư thừa và các nước cũng không biết Iran sẽ còn tung ra thị trường bao nhiều thùng dầu
nữa sau khi các nước phương Tây gỡ bỏ lệnh cấm vận đối với quốc gia này.
Theo số liệu thống kê của Vietnam Report qua đợt khảo sát các Doanh nghiệp lớn trong BXH
VNR500 2015 tháng 11 vừa qua, có tới 47% số Doanh nghiệp cho rằng tình hình SXKD
trong Quý I năm 2016 sẽ tiếp tục được duy trì ở mức ổn định, theo sát tỷ lệ đó là 43% số
Doanh nghiệp tin rằng tình hình SXKD sẽ được cải thiện giúp Doanh nghiệp đạt được những
kết quả kinh doanh tốt nhất.
Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng
Hội nhập Cộng đồng ASEAN từ năm 2016 sẽ góp thêm cơ hội cho Việt Nam hội nhập TPP ở
đẳng cấp cao hơn. Sẽ có cả cơ hội và thách thức đan xen. Thách thức cũng có thể trở thành cơ
hội mới để nâng sức cạnh tranh kinh tế nếu Nhà nước và Doanh nghiệp đều nỗ lực. Các
Doanh nghiệp nội địa thuần Việt nếu không cố gắng vươn lên trong bối cảnh đẩy mạnh cải
Kinh tế quốc tế | 19


Nhóm 1 - Quản lý công 55

cách kinh tế và chính trị thì các lợi ích của TPP sẽ “rơi” vào khu vực FDI và các đối tác bên
ngoài. Tận dụng được cơ hội mới của TPP nhiều hay ít phụ thuộc vào chính chúng ta.
TPP với 12 nước thành viên, trong đó có những nước ở trình độ phát triển cao như Mỹ, Nhật,
Singapore và một số nước có trình độ phát triển thấp hơn như Chile, Peru, Mexico, Malaysia.
Tuy nhiên, Việt Nam là nước có trình độ phát triển thấp hơn cả. Điều đáng nói, các nước
thành viên của TPP có những mặt hàng xuất khẩu có tính cạnh tranh cao rất đa dạng từ các
mặt hàng công nghiệp, chế tác, chế tạo cho đến các mặt hàng nông nghiệp, thủy sản. Vì vậy,
các sản phẩm của nước ta sẽ phải cạnh tranh gay gắt với hàng hóa các nước thành viên.
Có thể nhận định, triển vọng 2016 tiếp tục có tiến bộ, giữ được ổn định kinh tế vĩ mô ngắn

hạn, nhưng triển vọng trung hạn 3-5 năm tới có nhiều khả năng là các bất ổn vĩ mô mới sẽ
phải ứng phó không thể xem thường nếu các nỗ lực cải cách triển khai không đủ mạnh mẽ và
thiếu tính hệ thống.
Định hướng chiến lược phát triển đột phá và nhảy vọt
Mục tiêu là xác định chiến lược và chính sách đột phá phát triển. Nhưng các chính sách và
giải pháp đột phá chỉ là một bộ phận của một khung hệ chính sách chung phát triển. Chúng
không cấu thành một hệ chính sách riêng biệt và độc lập với khung hệ chính sách chung mà
chỉ là một bộ phận phụ thuộc của nó. Đột phá phải đặt trong logic phát triển chung, phù hợp
với logic đó và tạo xung lực cho tiến trình chung. Đột phá chỉ đúng khi nó phù hợp với logic
chung và nhờ đó, thúc đẩy được tiến trình. Do vậy, điều kiện tiên quyết để xác định đúng
điểm “nút” và hoạch định các chính sách tháo gỡ “nút” (chính sách đột phá) là phải xác định
hệ thống các chính sách phát triển chung.
Trong hệ thống, chính sách đột phá phải nhất quán (không được xung đột) với các chính sách
khác trong hệ thống chính sách, trong chiến lược - là cái được dựng lên trên cơ sở phân tích
toàn diện và sâu sắc thực trạng, nhận diện xu hướng và dự báo bối cảnh, triển vọng, định hình
hệ mục tiêu tổng quát của quá trình. Tất cả những lập luận và gợi ý rút ra từ các chương và
phân phân tích trước cho phép đi đến nhận diện khung khổ chiến lược chung và hệ thống
chính sách để triển khai thực hiện CNH, HĐH ở nước ta trong giai đoạn tới.\.

Kinh tế quốc tế | 20



×