Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

ôn thi triết học cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.63 KB, 18 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Câu 1: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và ý nghĩa phương pháp luận
của vấn đề này?
a) Đặt vấn đề:
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong 2 nguyên lý cơ bản của phép
biện chứng duy vật trong triết học Mác xít.
- Nguyên lý này nói lên mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều
có mối liên hệ với nhau trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định.
b) Các quan điểm khác nhau về mối liên hệ:
- Quan điểm siêu hình:
+ Các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất tồn tại tách rời nhau, giữa
chúng không có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, nếu có cũng chỉ là mối liên
hệ bề ngoài, ngẫu nhiên.
+ Đồng thời, cũng có người thừa nhận sự liên hệ và tính đa dạng của nó thì lại
phủ định khả năng chuyển hoá lẫn nhau giữa các hình thức liên hệ khác nhau.
- Quan điểm biện chứng:
+ Thế giới vật chất là một chỉnh thể thống nhất, dù đa dạng cũng thống nhất.
Ví dụ: con người có nhiều bộ phậ nhưng thống nhất trong cơ thể. Nếu một bộ phận
bị tổn thương thì ảnh hưởng đến những bộ phận khác.
+ Các sự vật, hiện tượng và các quá trình vừa có sự tách biệt, vừa có sự liên hệ
qua lại, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau.
Cuối cùng, quan điểm biện chứng kết luận: Mối liên hệ là khái niệm chỉ sự tác
động, ràng buộc, quy định, chuyển hoá lẫn nhau của các sự vật hiện tượng trong
thế giới khách quan.
c) Tính chất của mối liên hệ
- Tính khách quan: Tính khách quan của mối liên hệ thể hiện ở 2 nội dung
sau:
+ Xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế giới. Thế giới là thống nhất nên
liên hệ là khách quan.
+ Mối liên hệ tồn tại bên ngoài ý thức của con người, dù chúng ta muốn hay
không muốn chúng vẫn tồn tại.


- Tính phổ biến: Mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng mang tính phổ biến
thể hiện: Không có sự vật hiện tượng nào của thế giới vật chất mà không có mối
liên hệ. Mối liên hệ tồn tại trong cả 3 lĩnh vực: tư nhiên, xã hội và tư duy.
+ Nếu xét về mặt không gian: mỗi một sự vật, hiện tượng là một chỉnh thể
riêng biệt, song chúng tồn tại không phải trong một trạng thái biệt lập, tách rời
tuyệt đối với các sự vật khác. Trong hiện thực khách quan không có sự vật, hiện
tượng nào cô lập, không nhận tác động và không tác động đến sự vật khác. Ngược
lại, các sự vật vừa tách biệt nhau vừa phụ thuộc nhau, đó chính là hai mặt của một
quá trình tồn tại, vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Ăngghen đã khẳng định: “Tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được
là một hệ thống, một tập hợp gồm các tập thể khăng khít với nhau, việc các vật thể
ấy đều có mối liên hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thể này tác động lẫn
nhau và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động”.
+ Nếu xét về mặt cấu tạo, cấu trúc bên trong của mỗi sự vật, hiện tượng: các
yếu tố, các bộ phận cấu thành nên một sự vật nào đó đều tồn tại trong một tổ chức
-1-


nhất định, đều được sắp xếp theo một trật tự nhất định. Các bộ phận đó không thể
tồn tại trong một trạng thái hỗn độn hoặc hoàn toàn tách rời nhau không có liên hệ
với nhau. Giữa các bộ phận, các yếu tố đó có mối liên hệ, trong đó mỗi bộ phận,
mỗi yếu tố vừa đảm trách phần việc của mình vừa tạo điều kiện cho những bộ phận
khác. Do vậy, sự biến đổi của một bộ phận nào đó trong cấu trúc của sự vật sẽ gây
ảnh hưởng đến những bộ phận khác cũng như đối với toàn bộ chỉnh thể sự vật.
+ Nếu sét về mặt thời gian: mỗi một sự vật, hiện tượng nói riêng và cả thế giới
nói chung trong quá trình tồn tại, phát triển của mình đều phải trải qua những giai
đoạn, những thời kỳ khác nhau, thể hiện rõ nhất là giai đoạn phát sinh, giai đoạn
phát triển, giai đoạn suy tàn và giai đoạn chuyển hóa thành cái khác. Các giai đoạn,
các thời kỳ đó có mối liên hệ không tách rời nhau mà làm tiền đề cho nhau, sự kết
thúc của giai đoạn này lại là điểm mở đầu cho giai đoạn tiếp sau. Như vậy giữa quá

khứ, hiện tại và tương lai có mối liên hệ với nhau. có sự chuẩn bị cho nhau.
- Tính da dạng, phong phú: Mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng
được thể hiện rất phong phú, rất đa dạng. Xuất phát từ tính đa dạng của thế giới vật
chất nên mối liên hệ cũng đa dạng, phong phú. Khi nghiên cứu về hiện thực khách
quan có thể phân chia chúng ra thành từng loại khác nhau tùy theo tính chất phức
tạp hay đơn giản, phạm vi rộng hay hẹp, trình độ nông hay sâu…. Khái quát lại có
những mối liên hệ chính phổ biến sau đây:
+ Mối liên hệ bên trong và liên hệ bên ngoài.
+ Mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu.
+ Mối liên hệ chung và riêng.
+ Mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp.
+ Mối liên hệ tất nhiên và ngẫu nhiên.
+ Mối liên hệ bản chất và không bản chất.
Mỗi loại mối liên hệ nêu ra trên đây có vai trò khác nhau đối với sự vận động
và phát triển của sự vật. Mối liên hệ bên trong là sự tác động qua lại, sự qui định,
sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt của sự vật. Mối
kiên hệ này giữ vai trò quyết định tới sự tồn tại và phát triển của sự vật.
Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Mối kiên hệ
này nói chung không giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại vận động và phát
triển của sự vật.
Các cặp mối liên hệ khác cũng có mối liên hệ biện chứng của các cặp mối liên
hệ đã nêu trên. Đương nhiên mỗi cặp mối liên hệ có những đặc trưng riêng. Trong
các cặp mối liên hệ đó, nói chung mối liên hệ bản chất, mối liên hệ tất nhiên, mối
liên hệ chủ yếu… giữ vai trò quyết định. Song tuỳ theo những điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể các mối liên hệ tương ứng với chúng có thể giữ vai trò quyết định. Nói cách
khác vai trò quyết định của các mối liên hệ trong từng cặp một phụ thuộc vào quan
hệ hiện thực xác định.
Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, vì mỗi loại mối
liên hệ chỉ mang tính hình thức, 1 bộ phận, 1 mắc xích của mlh phổ biến. Tuy sự
phân chia thành các mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, nhưng sự phân chia đó lại

rất cần thiết, bởi vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí và vai trò xác định trong sự vận
động và phát triển của sự vật. Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để
có cách tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của
mình.
-2-


- Triết học Mác xít cũng đồng thời chỉ rõ rằng: các loại liên hệ khác nhau có
khả năng chuyển hóa cho nhau, thay đổi vị trí, vai trò cho nhau. Điều này tùy thuộc
vào sự thay đổi phạm vi bao quát của việc nghiên cứu hoặc do kết quả vận động
của chính bản thân hiện thực đó.
d) Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn phải quán triệt quan điểm toàn
diện. Quan điểm toàn diện yêu cầu:
+ Khi xem xét các sự vật, hiện tượng phải xem xét tất cả các mối liên hệ, các
khâu trung gian, phải đặt trong điều kiện thời gian, không gian nhất định.
+ Chống lại cách xem xét cào bằng, dàng trãi, coi mọi mối liên hệ như nhau.
+ Chống lại quan điểm siêu hình, phiến diện, một chiều.
+ Chống lại thuật nguỵ biện, quy các thứ yếu thành chủ yếu, cái không cơ bản
thành cơ bản.
Cụ thể khi cần nghiên cứu sự vật, hiện tượng nào đó phải đặt chúng trong mối
quan hệ với các sự vật, hiện tương khác. Phát hiện ra những mối liên hệ qua lại
giữa các yếu tố, bộ phận, thuộc tính, các giai đoạn phát triển khác nhau của sự vật
đó. Lênin khẳng định: “Muốn thật sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó”. Mặt
khác, để nhận thức đúng về sự vật còn đòi hỏi phải xem xét nó trong mối liên hệ
với nhu cầu thực tiễn của con người, ứng với mỗi thời kỳ, mỗi thế hệ con người
bao giờ cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu hạn mối liên hệ. Vì vậy tri thức
đạt được về sự vật chỉ là tương đối, không đầy đủ và cần được bổ sung thêm. Mặt
khác, cần phải biết phân loại, đánh giá chính xác tính chất, vai trò, ý nghĩa của mỗi

loại liên hệ đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật.
Đồng thời, để cải tạo được sự vật cần phải làm biến đổi những mối liên hệ của
sự vật đó với các sự vật khác, đặc biệt là mối liên hệ bên trong, trực tiếp, bản chất.
Cần phải xây dựng kế hoạch tổng thể và phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp,
phương pháp, phương tiện khác nhau để tác động. Mặt khác, quan điểm toàn diện
cũng đòi hỏi cần phải kết hợp chặt chẽ chính sách dàn đều và chính sách có trọng
điểm, vừa chú ý giải quyết cái tổng thể vừa biết lựa chọn vấn đề trung tâm, trọng
tâm để giải quyết dứt điểm tạo đà cho việc giải quyết các vấn đề khác.
Vận dụng vào công cuộc đổi mới:
Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Đảng ta đã xác định: đổi mới toàn diện,
mọi mặt đời sống xã hội. Trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế. Theo từng bước
đổi mới kinh tế chúng ta thận trọng từng bước đổi mới hệ thống chính trị, cải cách
hành chính nhưng không thay đổi mục tiêu chính trị mà đổi mới nâng cao hiệu quả
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tại Đại hội Đảng lầ thứ VIII, Đảng CSVN đã khẳng
định: “Xét trên tổng thể Đảng ta đã bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy
chính trị trong việc hoạch định đường lối đối nội và đối ngoại, không có sự đối nội
đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết
và việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh
tế-xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính
trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo điều kiện để đổi mới các mặt
khác của đời sống xã hội”.
- Về kinh tế: Đổi mới từ cơ chế bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường. Đến
thời điểm này cho thết đây là đường lối đúng đắn. Nước ta đã không ngừng phát
triển về kinh tế.
-3-


- Về xã hội: Giải quyết tốt mối liên hệ giữa công nhân, nông dân, trí thức tạo
thành mối liên hệ công-nông-trí.
- Về chính trị: Đổi mới hệ thống chính trị, bằng cách xác định rõ nhiệm vụ,

chức năng, tránh chồng chéo, tạo sự phối hợp đồng bộ giữa Đảng và Nhà nước.
- Về tư tưởng: Với 3 bộ phận chủ yếu là văn hoá-giáo dục đào tạo-khoa học
công nghệ phải có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, giáo dục đào
tạo là quốc sách hàng đầu, khoa học công nghệ là then chốt, văn hoá là nền tảng.
Câu 2: Thế nào là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập? Liên
hệ với cuộc đấu tranh chống tiêu cực và vai trò của người thi hành pháp luật?
a) Đặt vấn đề
Với tư cách là một khoa học, phép biện chứng duy vật nghiên cứu những qui
luật phổ biến tác động trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy con
người. Các qui luật cơ bản, phổ biến của phép biện chứng phản ánh quá trình vận
động và phát triển từ những phương diện cơ bản nhất của nó. Quy luật chuyển hoá
từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại cho biết
phương thức của sự vận động và sư phát triển; quy luật thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập làm sáng tỏ nguồn gốc của sự vận động và phát triển và quy luật
phủ định của phủ định cho biết khuynh hướng của quá trình phát triển qua việc làm
sáng tỏ mối liên hệ giữa những nấc thang khác nhau của quá trình đó. Trong đó,
quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập được đánh giá là hạt nhân của
phép biện chứng duy vật, bởi lẽ nó vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự
vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng. Việc nắm vững nội dung của quy
luật này là cơ sở, điều kiện để có thể nhận thức được tất cả những phạm trù,
nguyên lý và những quy luật khác của phép biện chứng duy vật. Như Lênin đã
khẳng định: «Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống
nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng”.
b) Nội dung của quy luật
Mọi sự vật và hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối
lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn
tới sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới.
- Mâu thuẫn là sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập trong
1 sự vật, hiện tượng. Mặt đối lập là một phạm trù của phép biện chứng dùng để chỉ

những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh
hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội
và tư duy. Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ tác động qua lại với nhau, tạo
thành mâu thuẫn biện chứng và mâu thuẫn này tồn tại một cách khách quan và phổ
biến trong tự nhiên xã hội và tư duy.
+ Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan: mâu thuẫn là cái vốn có bên trong
của mọi sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn tồn tại bên ngoài ý thức của con người, dù
chúng ta có muốn hay không muốn nó vẫn tồn tại.
+ Mâu thuẫn là một hiện tượng phổ biến: Mâu thuẫn tồn tại trong mọi giai
đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn này mất đi mâu thuẫn khác lại
sinh ra. Mâu thuẫn tồn tại trong cả 3 lĩnh vực là tự nhiên, tư duy và xã hội. Trong
tự nhiên, nguyên tử với tính cách là yêu tố cấu thành phân tử có hạt mang điện tích
-4-


dương, có hạt manh điện tích âm ; trong cơ thể sinh vật có yếu tố di truyền, có yêu
tố gây biến dị, có quá trình đồng hóa, có quá trình dị hoá,... Trong tư duy, mẫu
thuẫn là sự phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của
nhận thức, của tư duy trong con đường vươn tới chân lý khách quan, chân lý tuyệt
đối về hiện thực. Trong xã hội, mẫu thuẫn giữa giai cấp bóc lột với giai cấp bị bóc
lột.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau
của các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền
đề. Như vậy, cũng có thể xem xét sự thống nhất của hai mặt đối lập là tính không
thể tách rời của hai mặt đó. Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố
giống nhau, đồng nhất với nhau. Với ý nghĩa đó, sự thống nhất của các mặt đối lập
còn bao hàm sự đồng nhất của các mặt đó. Do có sự đồng nhất của các mặt đối lập
mà trong sự triển khai của mâu thuẫn, đến một lúc nào đó, mặt đối lập này có thể
chuyển hoá sang mặt đối lập kia. Sự thống nhất của các mặt đối lập còn được biểu
hiện ở sự tác động ngang nhau giữa chúng. Song đó chỉ là trạng thái vận động của

mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển, khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
- Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ
và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. Đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra dưới
nhiều hình thức đa dạng tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như mối
quan hệ qua lại giữa chúng, phụ thuộc vào lĩnh vực tồn tại của các mặt đối lập, vào
điều kiện mà trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng. Vì vậy, không nên hiểu
đơn giản đấu tranh chỉ còn là sự thủ tiêu lẫn nhau của các mặt đối lập. Thực ra sự
thủ tiêu lẫn nhau chỉ là một trong nhiều hình thức đấu tranh, chẳng hạn như sự ảnh
hưởng làm biến đổi lẫn nhau, cải tạo nhau, chế ước, thúc đẩy và chuyển hóa cho
nhau.
- Mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Sự thống
nhất có quan hệ hữu cơ với trạng thái đứng im, ổn định tạm thời của sự vật; còn sự
đấu tranh có quan hệ gắn bó với trạng thái vận động, phát triển của sự vật. Do đó,
sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, còn đấu tranh giữa chúng mới là
tuyệt đối. Lênin đã từng khẳng định: “Sự thống nhất của các mặt đối lập là có điều
kiện tạm thời, thoáng qua, tương đối, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập bài trừ lẫn
nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối ». Bản thân các
mặt đối lập đã chứa đựng trong nó những đặc điểm, những tính chất có khuynh
hướng vận động trái chiều nhau. Do đó, sự cân bằng hay sự tác động ngang bằng
nhau giữa chúng chỉ là tạm thời trong điều kiện, thời điểm nhất định. Khi hai mặt
đó xung đột với nhau gay gắt mâu thuẫn giữa chúng trở nên căng thẳng thì nhất
định đến lúc nào đó chúng sẽ chuyển hóa cho nhau. Kết quả là sự thống nhất cũ bị
phá hủy, mâu thuẫn cũ được giải quyết, sự thống nhất mới được thiết lập cùng mâu
thuẫn mới và cuộc đấu tranh giữa hai mặt đối lập lại tiếp tục diễn ra.Tính tuyệt đối
của cuộc đấu tranh gắn liền với sự tự thân vận động, tự thân phát triển của thế giới
vật chất.
- Thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện để các mặt đối lập triển khai
cuộc đấu tranh giữa chúng. Sự thống nhất tạo điều kiện để sự vật thể hiện nó đang
còn là nó, phân biệt nó với cái khác. Còn đấu tranh giải quyết mâu thuẫn làm cho
sự vật chuyển hóa thành cái khác, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời.

Tóm lại, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng là sự kết hợp giữa
tính ổn định và tính thay đổi, thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định
-5-


tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Vì vậy, Triết học ML khẳng định : “Mâu
thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động, phát triển, là xung lực của sự sống.
c) Các loại mâu thuẫn
- Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập với một sự vật, người ta chia ra
mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài.
+ Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng
đối lập của cùng một sự vật. Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp
đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật.
+ Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ giữa sự vật đó
với các sự vật khác nhau.
- Dựa trên ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, các mâu
thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
+ Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự
phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại
của sự vật.
+ Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặt trưng cho một phương diện nào
đó của sự vật, nó quy định sự vận động và phát triển của một mặt nào đó của sự
vật.
- Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật,
các loại mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
+ Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển
nhất định của sự vật, giải quyết nó sẽ tạo điều kiện để giải quyết mâu thuẫn khác ở
cùng giai đoạn. Mâu thuẫn chủ yếu có tác dụng quyết định đối với các mâu thuẫn
khác trong cùng giai đoạn phát triển của sự vật.
+ Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định.

- Căn cứ vào tính chất các lợi ích đối lập tạo thành mâu thuẫn xã hội, người ta
chia các loại mâu thuẫn trong xã hội thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn
không đối kháng.
+ Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn
người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau.
+ Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, khuynh
hướng xã hội có đối lập về lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời.
d)Liên hệ
- Cuộc đấu tranh chống tiêu cực hiện nay thực chất là cuộc đấu tranh để giải
quyết những mâu thuẫn giữa các mặt, yếu tố tích cực, cách mạng và khoa học với
những mặt, những yếu tố, những nhân tố tiêu cực, phản cách mạng, không khoa
học nhằm đem lại thắng lợi cho cái tích cực. Qua đó thúc đẩy sự phát triển của xã
hội Việt Nam theo mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Cuộc đấu tranh chống tiêu cực mang tính phức tạp và diễn ra trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Chúng ta phải vừa đấu tranh xóa bỏ những tàn dư của xã
hội cũ để lại vừa đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực mới nảy sinh trong quá
trình cải tạo và xây dựng CNXH, vừa đấu tranh chống lại sự xâm nhập cùng âm
mưu phá hoại của các thế lực thù địch vừa phải đấu tranh chống lại tác động, mặt
trái của cơ chế thị trường…. Mặt tiêu cực bao gồm tất cả những gì là đối lập với
tích cực. Vì vậy đối tượng của cuộc đấu tranh là rất rộng, từ những hiện tượng tội
phạm, tệ nạn xã hội đến những hành vi, hành động cản trở sự nghiệp công nghiệp
-6-


hóa, hiện đại hóa đi ngược lại nền văn hóa dân tộc và đi ngược lại lợi ích quốc gia,
tiến bộ xã hội.
Hiện nay Việt nam chủ trương thực hiện mở rộng kinh tế thị trường, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, điều này vừa có ý nghĩa tích cực cho quá trình hiện đại
hoá, công nghiệp hoá, đồng thời mặt trái của nó cũng tạo ra kẻ hở để hiện tượng

tiêu cực có thể phát triển và lây lan. Điều quan trọng trong cuộc đấu tranh là phải
nghiên cứu tìm hiểu sự phát sinh, tồn tại, sự mở rộng của những mặt tiêu cực, đánh
giá đúng đặc điểm, tính chất của mỗi hiện tượng tiêu cực và trên từng lĩnh vực. Từ
đó tìm ra phương thức, biện pháp, phương tiện bố trí lực lượng giải quyết mâu
thuẫn và cần linh hoạt trong việc sử dụng, kết hợp đồng bộ các biện pháp để giải
quyết mâu thuẫn, từ giáo dục thuyết phục, cảm hóa đến trừng phạt cưỡng bức; từ
hành chính đến pháp luật.
đ) Ý nghĩa của quy luật mâu thuẫn
- Chúng ta phải thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong mọi sự vật,
hiện tượng.
- Khi phân tích mâu thuẫn phải xét toàn diện các mặt đối lập, quá trình phát
sinh, phát triển và yếu tố tác động đến.
- Khi mâu thuẫn đã chín mùi phải biết giải quyết mâu thuẫn đúng lúc, đúng
chỗ. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện và mâu thuẫn chỉ được giải
quyết bằng con đường đấu tranh chứ không phải dung hoà các mặt đối lập.
- Mâu thuẫn khác nhau phải được giải quyết bằng phương pháp khác nhau.
g) Liên hệ vận dụng quy luật ở Việt Nam
Hiện nay Việt Nam đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN nên xuất hiện nhiều
mâu thuẫn. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ ra những mâu thuẫn chủ yếu
sau:
- Mâu thuẫn giữa trạng thái kinh tế xã hội kém phát triển với yêu cầu xây
dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
- Mâu thuẫn giữa con đường đi lên CNXH và TBCN.
- Mâu thuẫn giữa mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH với các thế lực cản trở
con đường phát triển đất nước theo mục tiêu đó.
- Mâu thuẫn giữa nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan trong quá trình đi
lên CNXH.
Trên cơ sở đánh giá đúng tình hình, phân tích cụ thể mâu thuẫn. Đảng ta đã đề
ra phương pháp giải quyết mâu thuẫn như sau :
- Giải quyết mâu thuẫn trong nước không thể tách rời những vấn đề toàn cầu.

Đây là việc giữ gìn hòa bình, chống chiến tranh và bảo vệ môi trường.
- Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường XHCN điều
quan trọng nhất là cải cách căn bản kinh tế xã hội kém phát triển, Nhà nước là đại
diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân, Nhà nước của dân, do dân, vì dân, phát
huy sức mạnh toàn của dân tộc. Đó là động lực trực tiếp có ý nghĩa quyết định đối
với công cuộc đổi mới. Cùng với động lực kinh tế và chính trị, văn hoá, khoa học,
giáo dục cũng là động lực quan trọng.
- Ngoài các nguồn lực bên trong, nguồn lực bên ngoài cũng rất quan trọng. Đó
là sức mạnh thời đại, sức mạnh đại đoàn kết quốc tế là căn bản, cần tranh thủ thành
tựu khao học công nghệ, văn minh của nhân loại cùng với sự hợp tác có hiệu quả
của các quốc gia.
-7-


Câu 3: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn
a) Khái niệm, tính chất và hình thức của hoạt động thực tiễn
* Khái niệm
Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tích lịch sử xã hội
của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
- Hoạt động thực tiễn khác với hoạt động tư duy ý thức, trong hoạt động thực
tiễn con người đã sử dụng những công cụ, những phương tiện vật chất tác động
vào những đối tượng vật chất để làm biến đổi chúng. Do vậy hoạt động thực tiễn
trước hết là hoạt động vật chất của con người.
- Hoạt động thực tiễn là hoạt động có mục đích của con người, nếu con vật chỉ
hoạt động theo bản năng để thích nghi với môi trường và thừa hưởng những gì có
sẳn trong tự nhiên, thì ở con người, hoạt động phải theo mục đích nhằm cải tạo thế
giới và tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu vật chất thỏa mãn nhu cầu ngày
càng cao của mình. Con người không chỉ thỏa mãn với những gì mà tự nhiên có
sẳn bằng hoạt động thực tiễn mà trước hết là lao động sản xuất con người đã sáng
tạo ra những vật phẩm vốn đã không tồn tại sẵn trong thiên nhiên.

- Thực tiễn là phương thức tồn tại của bản thân con người và xã hội, là
phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người với giới tự
nhiên, là tiêu chí cơ bản để phân biệt con người với con vật.
* Tính chất
Hoạt động thực tiễn cũng là hoạt động bản chất của con người và của cả xã
hội người. Hoạt động đó chỉ có thể tiến hành trong môi trường xã hội, trong các
quan hệ xã hội. Vì vậy thực tiễn cũng có quá trình vận động và phát triển của mình
cùng với sự vận động phát triển của xã hội loài người. Trình độ phát triển của thực
tiễn nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên và làm chủ xã hội của con người. Mỗi
một thời kỳ, một giai đoạn trình độ đó đuợc biểu hiện khác nhau. Do đó, về mặt
nội dung cũng như về phương thức thực hiện, thực tiễn có tính lịch sử - xã hội.
* Hình thức hoạt động thực tiễn
Triết học Mác xít cũng chỉ rõ thực tiễn bao gồm 3 dạng hoạt động cơ bản sau:
- Hoạt động sản xuất của cải vật chất: Đây là dạng hoạt động thực tiễn nguyên
thuỷ nhất và cơ bản nhất, vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của con người và
quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn, nó tạo thành cơ sở của tất cả các
hình thức khác của hoạt động sống của con người, giúp con người thoát khỏi giới
hạn tồn tại của động vật.
- Hoạt động chính trị xã hội: là hoạt động nhằm biến đổi các quan hệ xã hội,
chế độ xã hội; có tác dụng trực tiếp trong việc thúc đẩy sự chuyển biến sự thay đổi
của các chế độ xã hội, đặc biệt là sự đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
- Hoạt động thực nghiệm khoa học: đây là một dạng hoạt động đặc biệt của
thực tiễn được tiến hành trong môi trường trong điều kiện nhân tạo nhằm nhận
thức và cải tạo tự nhiên xã hội. Dạng hoạt động này ngày càng trở nên quan trọng
trong sự phát triển của xã hội đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại.
b) Vai trò của thực tiễn
Thực tiễn có vai trò hết sức quan trọng đối với nhận thức, vai trò đó được thể
hiện trên các điểm chính sau:
-8-



- Thực tiễn là cơ sở của nhận thức. Con người trong quan hệ với thế giới
không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ quá trình hoạt động
thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận ở con người được hình thành và phát triển. Bằng
hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ
những thuộc tính, những tính quy luật để con người nhận thức chúng. Ban đầu con
người thu nhận những tài liệu cảm tính, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng
hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá,… để phản ánh bản chất, quy luật vận động của
sự vật, hiện tượng trong thế giới, từ đó xây dựng thành các khoa học, lý luận. Như
vậy, thực tiễn cung cấp những tài liệu, cho nhận thức, cho lý luận.
- Thực tiễn là động lực của nhận thức. Trong quá trình hoạt động thực tiễn
biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, phát triển năng
lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người càng đi sâu vào nhận
thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc tri
thức của mình về thế giới. Thực tiễn luôn đề ra nhu cần, nhiệm vụ và phương
hướng phát triển của nhận thức. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới,
phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, nó thúc đẩy sự ra đời và phát triển
của các ngành khoa học.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức. Nhận thức phải quay về phục vụ
thực tiễn. Kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học
chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức. Quá trình nhận thức sẽ đưa đến kết
quả và hình thành nên những tri thức mới và những tri thức đó đứng trước khả
năng đúng, sai và gần đúng. Tiêu chí dùng để đánh giá các khả năng này là thực
tiễn . Chỉ có những tri thức được thực tiễn kiểm nghiệm và khẳng định là phù hợp
với hiện thực khách quan, nâng cao hiệu qủa cho hoạt động con người thì nó mới
trở thành chân lý.
c) Ý nghĩa
- Cần quán triệt quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Quan điểm này đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động phải lấy thực tiễn làm cơ sở
cho nhận thức; cần phải sâu sát thực tế để nắm bắt thế giới được đầy đủ, chính xác
hơn; coi trọng công tác tổng kết thực tiễn để khái quát thành lý luận.
- Thực hiện phương châm học đi đôi với hành, lý luận đi đôi với thực tiễn.
Nếu xa rời thực tiễn sẽ rơi vào bệnh duy ý chí, chủ quan, giáo điều. Nếu tuyệt đối
hoá thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng.
- Cần kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn xây dựng hệ thống lý luận từ
thực tiễn và dùng thực tiễn để kiểm nghiệm, kiểm chứng lý luận, kịp thời bổ sung
điều chỉnh, bổ sung lý luận khi nó không phù hợp với thực tiễn.

Câu 4: Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của
LLSX. Sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam.
a) Vị trí và ý nghĩa của quy luật
- Đây là một quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình của lịch sử
nhân loại; là quy luật căn bản nhất trong hệ thống các quy luật xã hội, nó có vai trò
chi phối toàn bộ sự tồn tại, vận động, phát triển của mọi hình thái kinh tế-xã hội.
-9-


- Việc vận dụng quy luật này lại ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế,
do đó có ảnh hưởng to lớn đến sự vận động, phát triển của xã hội.
- Quy luật này vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của QHSX đối với sự
phát triển của LLSX. Đến lượt mình, QHSX lại tác động trở lại tới LLSX. Thực
tiễn cách mạng VN chúng ta đã từng vi phạm quy luật này và đó cũng là 1 trong
những nguyên nhân chủ yếu đến khủng hoảng KT – XH trong thập kỷ 80. Và hiện
nay trong sự nghiệp đổi mới, chúng ta đã đổi mới tư duy, nhận thức về quy luật
này và áp dụng có hiệu quả trong thời gian qua.
b) Nội dung quy luật
- Để hiểu rõ hơn nội dung của quy luật này, trước hết, chúng ta nghiên cứu veà
trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất.

+ Trình độ của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử
loài người thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch
sử đó. Khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất nói lên khả năng của con người
thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến giới tự nhiên
nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của mình. Trình độ của lực lượng sản
xuất thể hiện ở: Trình độ của công cụ lao động; trình độ của tổ chức lao động xã
hội; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất; kinh nghiệm và kỹ năng lao động
của con người và trình độ phân công lao động.
+ Bên cạnh khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất, còn có khái niệm trình
độ của lực lượng sản xuất. Chính Ăngghen đã sử dụng khái niệm này để phân tích
lực lượng sản xuất trong các phương thức sản xuất khác nhau. Khi nền sản xuất
được thực hiện với những công cụ ở trình độ thủ công, lực lượng sản xuất chủ yếu
mang tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt đến trình độ cơ khí, lực lượng sản xuất
đòi hỏi phải được vận động trong sự hợp tác xã hội rộng rãi trên cơ sở chuyên môn
hoá. Tính tự cấp, tự túc, cô lập của nền sản xuất nhỏ lúc đó phải được thay thế bởi
tính chất xã hội hoá.
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là 2 mặt của phương thức sản xuất
tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng.
- Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” tất
yếu của lực lượng sản xuất. Nghĩa là trạng thái mà ở đó các yếu tố cấu thành quan
hệ sản xuất “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Trong trạng thái
phù hợp, cả 3 mặt của quan hệ sản xuất đạt tới thích ứng với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao động
và tư liệu sản xuất. Với trạng thái phù hợp như vậy, lực lượng sản xuất sẽ có cơ sở
để phát triển hết khả năng của nó.
- Khi tới một giai đoạn nào đó, lực lượng sản xuất phát triển chuyển sang một
trình độ mới với tính chất xã hội hoá ở mức cao hơn. Lúc đó trình trạng phù hợp sẽ
bị phá vỡ, trình trạng mâu thuẫn xuất hiện. Mâu thuẫn sẽ ngày càng gay gắt và đến
một lúc nào đó quan hệ sản xuất “trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất”. Sự

phát triển khách quan của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến việc xã hội phải xoá
bỏ bằng cách này hay cách khác quan hệ sản xuất cũ và thay thế nó bằng quan hệ
sản xuất mới, phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã thay đổi,
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay
- 10 -


thế nó bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là sự diệt vong của cả một phương
thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của một phương thức sản xuất mới.
- Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất
bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ
sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản
xuất, tác động đến khuynh hướng phát triển của công nghệ từ đó hình thành một hệ
thống những yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất.
- Thực tiễn cho chúng ta thấy rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi
nó có một quan hệ sản xuất hợp lý, đồng bộ, phù hợp với nó. Quan hệ sản xuất lạc
hậu hơn hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo cũng sẽ kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn giưa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã
bộc lộ gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết nhưng con người không phát hiện được;
cũng như khi mâu thuẫn đã được phát hiện mà không được giải quyết hoặc giải
quyết một cách sai lầm, chủ quan, … thì tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ
trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản xuất.
c) Vận dụng quy luật này ở VN
Chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, trước hết là đổi mới tư duy về
kinh tế, tập trung sức để nhận thức cho đúng và vận dụng có hiệu qủa QHSX phải
phù hợp với LLSX.
- Thời kỳ trước đổi mới: việc nhận thức và vận dụng quy luật này còn giản
đơn và phạm phải những sai lầm gây nên những hệ quả nặng nề cho nền kinh tế và
xã hội. Biểu hiện cụ thể:

+ Tách rời 1 cách siêu hình QHSX ra khỏi LLSX, chủ động đẩy nhanh quá
trình, cải tạo và xây dựng quá trình sản xuất vượt quá xa so với trình độ của LLSX.
Do đó nó kìm hãm sự phát triển của LLSX.
+ Đồng nhất, đơn giản hóa QHSX chỉ còn là QH sở hữu và trong sở hữu chỉ
nhấn mạnh đến hình thức sở hữu công cộng, tập thể. Ví dụ: Sai lầm khi hợp tác
hóa, đánh tư sản.
+ Hành chính hóa bộ máy quản lý hành chính. Thực hiện cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, cồng kềnh kém hiệu quả.
+ Về phân phối sản phẩm: Phương thức bình quân chủ nghĩa, cào bằng do đó
triệt tiêu động lực của sự phát triển là lợi ích của người lao động.
+ Về LLSX tập trung ưu tiên cho việc phát triển công nghiệp nặng và nhận
thức CNH chỉ đơn giải xây dựng 1 số nhà máy CN nặng mà thôi, không chú ý, ít
chú ý đến hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng....
+ Chậm trễ trong việc áp dụng thành tựu khoa học công nghệ vào trong sản
xuất, đặc biệt là đối với lĩnh vực nông nghiệp.
+ Chưa chú trọng đến việc nâng cao trình độ, đào tạo tay nghề cho người lao
động, chưa nhận thức rõ người lao động là yếu tố quyết định của LLSX.
- Trong thời kỳ đổi mới: đã có sự nhận thức đúng hơn, rõ hơn về quy luật,
thực hiện việc đổi mới trong việc cải tạo, xây dựng QHSX theo định hướng XHCN
trên cả 3 mặt. Chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Thực hiện mở
rộng kinh tế đối ngoại, chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tiến hành CNH, HĐH
đất nước.
- Hiện nay chúng ta đang thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước nhằm phát
triển mạnh mẽ LLSX hiện đại. Trong giai đoạn hiện nay ta tiếp tục củng cố, hoàn
- 11 -


thiện cơ chế, thể chế thị trường theo định hướng XHC; Đẩy mạnh việc thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội
IX đã xác định: “Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng

QHSX mới phù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và phân phối ...... tiêu chuẩn
căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng QHSX theo định hướng XHCN là: thúc đẩy
phát triển LLSX, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội”.

Câu 5: Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Sự vận dụng của Đảng trong quá trình đổi mới hiện nay.
Quan hệ sản xuất được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản
xuất tạo thành quan hệ vật chất của xã hội. Trên cơ sở QHSX hình thành nên các
quan hệ về chính trị và tinh thần của XH. Hai mặt đó của đời sống XH được khái
quát thành cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của XH.
a) Cơ sở hạ tầng (CSHT)
- CSHT là một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ những QHSX của một
xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội
đó. Khái niệm CSHT phản ánh chức năng XH của các QHSX với tư cách là cơ sở
kinh tế của các hiện tượng XH.
- Xét về mặt cấu tạo: CSHT của một xã hội cụ thể có thể bao gồm các loại
hình QHSX khác nhau hiện đang tồn tại trong XH đó.
+ Đó là QHSX hiện đang chiếm giữ vai trò thống trị đời sống KT - XH.
+ Đó là QHSX với tư cách là tàn dư của xã hội.
+ QHSXvới tư cách là mầm móng, là dấu hiệu cho một phương thức sản xuất
mới trong tương lai hoặc có thể là những QHSX khác của từng vùng, từng thời
kỳ....
Ví dụ: Trong từng thời kỳ phong kiến, cơ sở hạ tầng có: QHSX (địa chủ nông dân); QHSX TB (Chủ - thợ); QHSX CHNL (người nuôi trong nhà).
- Mỗi loại QHSX đều có vai trò nhất định đối với nền kinh tế của xã hội cụ thể
nào đó. Tuy nhiên, điều cần chú ý là trong hệ thống cơ cấu KT – XH. Cái giữ địa
vị chi phối có vai trò chủ đạo và tác dụng quyết định đối với toàn bộ CSHT là kiểu
QHSX thống trị và CSHT của một xã hội cụ thể được đặc trưng trước hết bởi kiểu
QHSX thống trị đó.
- Trong xã hội có giai cấp đối kháng, tính chất giai cấp của CSHT là do kiểu
QHSX thống trị quy định ngay từ trong CSHT, từ sự bất bình đẳng về lợi ích kinh

tế.
- Như vậy QHSX xét trong nội bộ một phương thức sản xuất là hình thức phát
triển của LLSX nếu xét trong tổng thể của các quan hệ xã hội thì chúng lại hợp
thành cơ sở kinh tế của xã hội, quy định tính chất, đặc điểm của các quan hệ xã
hội, cũng như chi phối đời sống sinh hoạt của mọi lĩnh vực xã hội. Mác đã khẳng
định: “Toàn bộ những QHSX ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ
sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và
những hình thái ý thức XH nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó.”
b) Kiến trúc thượng tầng (KTTT)
- KTTT là một phạm trù dùng để chỉ toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp
quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, … cùng với những thiết chế xã hội
- 12 -


tương ứng của chúng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, ... là
cái được hình thành, được xây dựng trên nền tảng của những cơ sở hạ tầng nhất
định.
- Mỗi yếu tố của KTTT của đặc điểm riêng, quy luật riêng và có mối liên hệ
khác nhau đối với CSHT, song chúng không tồn tại tách rời với nhau mà liên hệ
tác động qua lại lẫn nhau, đều được nảy sinh từ trên CSHT và cùng phản ánh
CSHT.
- Trong xã hội có đối kháng giai cấp thì KTTT của xã hội đó bao gồm cả hệ tư
tuởng và những thể chế của giai cấp thống trị và cả tàn dư của các quan điểm xã
hội cũ còn rơi rớt. Cũng có cả quan điểm và tổ chức của những giai cấp mới, quan
điểm và tổ chức của các giai cấp trung gian.
- Trong xã hội có đối kháng thì KTTT cũng mang tính chất đối kháng và nó
phản ánh tính đối kháng của CSHT đối kháng của KTTT biểu hiên ở sự xung đột
về quan điểm, tư tưởng và cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng chính trị giữa các
giai cấp với nhau.
- Bộ phận có quyền lực mạnh nhất trong KTTT là Nhà nước. Nhà nước là đại

diện tiêu biểu chế độ chính trị của XH nào đó, nhờ có bộ máy nhà nước mà giai
cấp thống trị áp đặt được quan điểm, tư tưởng của mình đối với toàn bộ đời sống
xã hội.
c) Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
- Cơ sở hạ tầng sản sinh KTTT tương ứng, quy định tính chất kiến trúc
thượng tầng.
+ CSHT sinh ra KTTT và quyết định tính chất của KTTT. CSHT như thế nào
sẽ sinh ra KTTT như thế đó. Giai cấp nào chiếm địa vị vế kinh tế XH thì cũng
chiếm địa vị đối với đời sống tinh thần của XH. Mâu thuẫn trong đời sống kinh tế
xét đến cùng quyết định mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng. Cuộc đấu tranh trên
lĩnh vực chính trị, tư tưởng là biểu hiện của những đối kháng trong đời sống kinh
tế.
+ CSHT biền đổi thì sớm hay muộn dẫn tới sự biến đổi của KTTT, sự biền đổi
đó diễn ra trong mỗi hình thái kinhtế XH cũng như trong một giai đoạn chuyển tiếp
có tính cách mạng từ hình thái kinh tế XH này sang hình thái kinh tế XH khác.
+ Khi CSHT cũ mất đi thì KTTT do nó sinh ra cũng mất đi theo và khi CSHT
mới ra đời thì một kiến trúc thượng tầng tương ứng phù hợp với nó sẽ xuất hiện.
Mác đã khẳng định cơ sỡ kinh tế thay đổi thì toàn bộ các KTTT đồ sộ cũng
đảo lộn ít nhiều nhanh chóng (Ở VN cải cách kinh tế thị trường thì phải cải cách
hành chính, luật pháp… thay đổi theo cho phù hợp…. như luật doanh nghiệp, luật
đầu tư nước ngoài,…)
+ Tính quyết định của CSHT đối với KTTT diễn ra hết sức phức tạp, nguyên
nhân sâu xa của quá trình đó là bắt nguồn từ sự phát triển của LLSX đã làm biến
đổi QHSX-CSHT. Song phải đợi sự biến đổi của CSHT đến mức nào đó thì mới
trực tiếp làm cho KTTT biến đổi một cách căn bản. Trong Xh có giai cấp sự thay
đổi về KTTT, về Đảng, Nhà nước, tư tưởng chính trị pháp quyền….phải thông qua
đấu tranh giai cấp và cách nạng XH.
- Tuy CSHT quyết định KTTT, KTTT phù hợp với CSHT, nhưng đó không
phải là sự phù hợp một cách giản đơn, máy móc. Toàn bộ kiến thúc thượng tầng
cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính độc lập tương đối trong quá trình vận

động phát triển và tác động một cách mạnh mẽ đối với CSHT.
- 13 -


+ KTTT có tính độc lập tương đối và sự phụ thuộc của nó vào CSHT thường
không trực tiếp, đơn giản, KTTT không phải là sản phẩm thụ động của CSHT mà
nó có khả năng tác động trở lại mạnh mẽ đối với CSHT. Mọi bộ phận khác nhau
của KTTT đều có khả năng gây ra những biến động đối với cơ cấu kinh tế của XH,
với những hình thức khác nhau theo cơ chế khác nhau. Tác động đó sẽ làm tích cực
khi nó cùng chiều, phù hợp với sự vận động của các quy luật kinh tế khách quan,
ngược lại nếu tác động đó là trái chiều, vi phạm các quy luật kinh tế khách quan thì
gây nên trở lực ngăn cản gây tác hại sự phát triển kinh tế XH (Đông âu và liên xô
sai lầm về KTTT dẫn đến sụp đỗ cả chế độ).
+ Các yếu tố của KTTT như triết học, tư tưởng, tôn giáo, nghệ thuật,… cũng
tác động đến CSHT nhưng bị Nhà nước và pháp luật chi phối.
+ Chức năng XH của KTTT là bảo vệ, duy trì cũng cố và phát triển CSHT đã
sinh ra nó, đấu tranh xoá bỏ CSHT và KTTT cũ, đảm bảo sự thống trị về về chính
trị và tư tưởng của giai cấp đang thống trị về kinh tế. Trong các bộ phận của KTTT
thì Nhà nước có vai trò tác dụng lớn nhất đối với CSHT. Hoạt động của Nhà nước
tác động đến mọi mặt của đời sống XH, quản lý và kiểm soát XH trong một trật tự
kỷ cương nhất định và qua đó tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị,
cũng cố vững chắc vai trò, quan hệ sản xuất thống trị, các bộ phận khác của KTTT
khi tác động đến CSHT đều thông qua Nhà nước, pháp luật, các thể chế tương ứng
khác.
- Nếu KTTT kìm hãm sự phát triển của xã hội thì sớm muộn cách mạng xã hội
sẽ nổ ra để thay thế KTTT.
* Vận dụng vấn đề này ở Việt Nam
Ở Việt Nam thực hiện chủ trương đổi mới triệ để sâu sắc và toàn diện về mọi
mặt của đời sống XH từ kinh tế, văn hoá, chính trị. Đảng CSVN xác định phải kết
hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm

trọng tâm đồng thời từng bước đổi mới chính trị.
- Trong lĩnh vực đổi mới kinh tế thực hiện xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng của CNXH. CSHT trong
thời kỳ quá độ ở nước ta chính là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước
cùng kinh tế tập thể giữ vai trò nền tảng.
- Trong đổi mới hệ thống chính trị phải tiến hành từng bước phù hợp với đổi
mới kinh tế. Mục tiêu chủ yếu của đổi mới chính trị là nhằm thực hiện tốt dân chủ
XHCN, phát huy quyền làm chủ của Nghị định…
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân do dân và vì dân:
+ Nâng cao năng lực lãnh đạo củ Đảng, chỉnh đốn, xây dựng Đảng thật sự
trong sạch vững mạnh.
+ Tiến hành cải cách bộ máy hành chính theo hướng tinh giảm, hiệu quả
không gây phiền nhiễu cho dân cũng như hoạt động kinh tế.
+ Cần phải phát triển lĩnh vực khoa học giáo dục công nghệ nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phát triển văn hoá tiến bộ mang đậm
bản sắc dân tộc, giải quyết tốt công bằng XH.

- 14 -


Câu 6: Quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội và ý nghĩa vấn đề này
trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ở Việt Nam.
a) Khái niệm tồn tại xã hội, ý thức xã hội
- Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội. Trong những quan hệ xã hội vật chất, quan hệ giữa người với tự
nhiên và quan hệ vật chất giữa người và người là hai loại quan hệ cơ bản. Tồn tại
xã hội bao gồm các yếu tố chính là phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự
nhiên-hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số. Trong đó, phương thức sản xuất
vật chất là yếu tố cơ bản nhất, bởi lẽ chính nhờ vào sản xuất ra của cải vật chất duy

trì sự tồn tại phát triển con người, đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất
và tinh thần của xã hội.
- Ý thức xã hội là mặt tinh thần đời sống xã hội bao gồm những quan điểm,
tư tưởng, cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống … nảy sinh từ tồn tại xã
hội và phản ảnh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Ý thức
xã hội bao gồm những hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những hình thái khác
nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng những phương thức khác nhau tùy theo góc độ
xem xét. Ý thức xã hội được phân chia thành những dạng khác nhau bao gồm: Ý
thức xã hội thông thường và ý thức lý luận, tâm lý xã hội, hệ tư tưởng.
+ Ý thức xã hội thông thường là những tri thức những quan niện con người
được hình thành một cách trực tiếp, trong họat động thực tiễn hàng ngày chưa
được hệ thống hóa khái quát hóa.
+ Ý thức lý luận là những tư tưởng quan điểm đã được hệ thống hóa, khái quát
hóa thành các học thuyết xã hội được trình bày dưới dạng khái niệm, phạm trù quy
luật.
+ Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm ước muốn thói quen tập quán, của
con người của một bộ phận xã hội, hoặc của toàn xã hội hình thành dưới ảnh
hưởng trực tiếp hàng ngày của họ và nhằm phản ảnh đời sống đó.
+ Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội bao gồm: Hệ thống những
quan điểm tư tưởng chính trị, triết học, nghệ thuật, đạo đức tôn giáo được hình
thành một cách tự giác từ sự khái quát hóa những kinh nghiệm xã hội bởi các nhà
tư tưởng của những giai cấp nhất định và sự truyền hóa trong xã hội. Ví dụ: hệ tư
tưởng Mác Lênin, Hồ Chí Minh.
b) Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
- Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định.
+ Nhất quán với lập trường duy vật khi xem xét nghiên cứu đời sống xã hội và
sự vận động xã hội. Triết học Mác Lênin khẳng định: “Tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ảnh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã
hội, tồn tại xã hội như thế nào thì ý thức xã hội sẽ tương ứng như thế và đời sống
tinh thần xã hội được hình thành phát triển trên cơ sở đời sống vật chất đời sống

kinh tế của xã hội”. Luận điểm trên đã bác bỏ quan niệm sai lầm của chủ nghĩa duy
tâm muốn đi tìm nguồn gốc của ý thức tư tưởng trong bản thân ý thức tư tưởng,
xem tinh thần, tư tưởng là nguồn gốc của mọi hiện tượng xã hội, quyết định sự
phát triển của xã hội và trình bày lịch sử các hình thái ý thức xã hội tách rời cơ sở
kinh tế xã hội.
+ Mỗi khi tồn tại xã hội thay đổi mà đặc biệt là sự biến đổi ở PTSX thì tư
tưởng và lý luận xã hội những quan điểm về chính trị, pháp quyền triết học, đạo
đức, văn hóa nghệ thuật, … sớm hay muộn cũng biến đổi theo. Vì vậy ở những
- 15 -


thời kỳ lịch sử khác nhau nếu xuất hiện những lý luận quan điểm tư duy xã hội
khác nhau thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định.
Chính vì vậy mà Mác đã khẳng định: “Không phải ý thức con người quyết định tồn
tại của họ mà trở lại tồn tại xã hội quyết định ý thức của họ”.
+ Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội không thể hiện
một cách giản đơn trực tiếp mà thường thông qua những bước, những khâu trung
gian. Không phải bất kỳ tư tưởng quan niệm và tác phẩm văn học nghệ thuật nào
cũng phản ảnh rõ ràng trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đó và chỉ đến khi
xét tới cùng thì người ta mới thấy được các quan hệ kinh tế đã được phản ảnh bằng
cách này hay cách khác vào trong các hình thái ý thức xã hội.
- Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
+ Khi khẳng định vai trò quyết định của TTXH đối với YTXH triết học Mác
đã thể hiện tính triệt để duy vật của mình, điều mà các nhà triết học trước đó không
làm được. Song triết học Mác không dừng lại ở đó mà tiến xa hơn một bước, triết
học Mác còn chỉ rõ mối quan hệ giữa TTXH và YTXH là mang tính biện chứng
rằng không chỉ TTXH quyết định YTXH mà YTXH quyết định trở lại TTXH và có
tính độc lập tương đối của nó.
+ Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Khi tồn tại xã hội cũ
đã mất đi thậm chí từ rất lâu trước đó, nhưng ý thức xã hội đó nó sinh ra vẫn còn

tồn tại dai dẳn và ảnh hưởng lâu dài đến tồn tại xã hội điều này thể hiện đặc biệt rõ
trên lĩnh vực tâm lý xã hội như: thói quen, tập quán, phong tục, truyền thống, ….
Mặc khác, TTXH mới đã xuất hiện song ý thức xã hội mới tương ứng với nó vẫn
chưa được hình thành một cách đầy đủ, điều này làm xuất hiện tình trạng đan xen
giữa YTXH cũ và YTXH mới, cuộc đấu tranh giữa mới và cũ trên lĩnh vực đời
sống tinh thần là một tất yếu. Đặc biệt, trong thời kỳ quá độ chuyển tiếp từ tồn tại
xã hội cũ song tồn tại xã hội mới thì sự đan xen giữa ý thức xã hội cũ trở nên phức
tạp và cuộc đấu tranh trên lĩnh vực đời sống tinh thần trở lên gay gắt. Nguyên nhân
tình trạng lạc hậu của ý thức xã hội là do sự biến đổi của tồn tại xã hội, của đời
sống kinh tế - xã hội thường diễn ra với tốc độ nhanh hơn, do đó ý thức xã hội
phản ảnh không được. Cũng do sức mạnh của thói quên truyền thống tập quán
cũng như do tính lạc hậu bảo thủ vốn có của hình thái ý thức xã hội. Và do ý thức
xã hội luôn gắn bó lợi ích những nhóm người, tập đoàn người, giai cấp nhất định.
Vì vậy những tư tưởng cũng lạc hậu thường được những phần tử phản tiến bộ lưu
giữ truyền bá nhằm chống lại những lực lượng tiến bộ xã hội.
+ Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội. Khi khẳng định tính thường
lạc hậu hơn của YTXH so với TTXH, triết học Mác xít đồng thời thừa nhận rằng:
Trong điều kiện nhất định tư tưởng con người, đặc biệt tư tưởng khoa học tiên tiến
có thể vượt trước sự phát triển tồn tại xã hội, dự báo tương lai và có tác dụng
hướng dẫn chỉ đạo họat động thực tiễn của con người. Nguyên nhân tình trạng này
là do những hình thái ý thức xã hội, trong quá trình hàn gắn tồn tại xã hội, đã phát
hiện ra những quy luật của sự vận động đời sống kinh tế - xã hội, phát hiện những
vấn đề những yêu cầu được nảy sinh từ trong thực tế đòi hỏi phải giải quyết.
Chẳng hạn như chủ nghĩa Mác Lênin trên cơ sở phân tích sự tồn tại vận động của
hình thái kinh tế TBCN đã phát hiện ra những mâu thuẫn vốn có trong hình thái
này. Đồng thời trên cơ sở khái quát tổng quát cả lịch sử loài người đã phát hiện ra
quy luật khách quan chi phối sự vận động phát triển của các hình thái KTXH. Từ
- 16 -



đó đã dự báo rằng trong tương lai loài người nhất định sẽ tiến tới CNCS và hình
thái KTXH cộng sản chủ nghĩa thay thế hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa.
+ Ý thức xã hội có sự kế thừa trong sự phát triển của mình. Trong lịch sử phát
triển đời sống tinh thần xã hội những quan điểm quan niệm của mỗi một thời đại
không phải xuất hiện trên một mảnh đất trống, mà nó được xây dựng trên cơ sở kế
thừa thành tựu lý luận tư tưởng của các thời đại trước. Nội dung củ ý thức xã hội
không đơn thuần phản ảnh những mặt những lĩnh vực xã hội đương đại, mà còn
gồm những giá trị tư tưởng tinh thần … từ trước đó và điều này làm cho nền văn
minh của dân tộc cũng như của cả nhân lọai phát triển như dòng chảy liên tục
không đức quãng. Do có sự kế thừa cho nên xuất hiện tình trạng ở một số nước tuy
trình độ phát triển KTXH ở mức trung bình nhưng về mặt đời sống xã hội tinh
thần, tư tưởng lại cao trình độ cao hơn.VD: nước Pháp thế kỷ XVIII có nền kinh tế
phát triển kém nước Anh, nhưng tư tưởng thì lại tiên tiến hơn nước Anh; so với
Anh, pháp thì Đức ở nữa đầu thế kỷ XIX lạc hậu về kinh tế, nhưng đã đứng ở trình
độ cao hơn về triết học. Trong xã hội có giai cấp sự kế thừa ý thức xã hội gắn với
giai cấp tùy theo lợi ích địa vị của mình. Mỗi giai cấp có sự sàng lọc lựa chọn tiếp
nhận khác nhau, đối với di sản tinh thần với xã hội trước. Sự kế thừa được thực
hiện từ hai nguồn: đó là những giá trị trong truyền thống dân tộc và những tinh hoa
của nền văn minh nhân loại.
- Giữa các hình thái ý thức xã hội có sự tác động qua lại với nhau.
+ Ý thức xã hội phản ảnh tồn tại xã hội qua những hình thái cụ thể khác nhau
như: tư tưởng, chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo ….
Giữa các hình thái đó có mối liên hệ tác động lẫn nhau, đây cũng là một quy luật
phát triển của ý thức xã hội, sự tác động qua lại các ý thức hình thái xã hội làm cho
mỗi hình thái xã hội đó có những mặt những tính chất không thể giải thích một
cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hoặc ý thức xã hội. Sự tác động ảnh hưởng lẫn
nhau giữa ý thức hình thái xã hội là đa dạng trong đó có những quan hệ cùng chiều
bổ sung cho nhau cùng phát trển. Chẳng hạn như tư tưởng chính trị, pháp quyền
đạo đức. Ngược lại cũng có những quan hệ trái chiều khế ước triệt tiêu kìm hãm
nhau, chẳng hạn tư tưởng khoa học với tư tưởng tôn giáo trái chiều nhau.

+ Trong mỗi một thời đại tùy theo hòan cảnh lịch sử cụ thể mà có hình thái ý
thức xã hội nào đó nổi bật lên hàng đầu và có tác động lên ý thức xã hội khác.
Chẳng hạn vào thời cổ đại hy lạp thì triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt
trong đời sống xã hội và tinh thần. Vào thời trung cổ tây âu tư tưởng tôn giáo có
ảnh hưởng mạnh mẽ chi phối mọi mặt đời sống tinh thần. Trong thời đại ngày nay
tư tưởng chính trị giữ vai trò quyết định chi phối những hình thái ý thức xã hội.
- Ý thức xã hội tác động trở lại đối với tồn tại xã hội.
+ Đây là biểu hiện tập trung và rõ nét nhất tính độc lập tương đối của YTXH
đồng thời cũng là thể hiện tính đúng đắn, khoa học của triết học Mác xít trong cách
đánh giá vai trò tác dụng của đời sống tinh thần đối với đời sống vật chất của xã
hội. Anghen đã viết “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo,
văn học nghệ thuật… điều dựa vào sự phát triển kinh tế nhưng tất cả chúng có ảnh
hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”. Sự tác động của ý thức xã hội
diễn ra theo hai chiều hướng. Một là, những tư tưởng ý thức tiến bộ cách mạng
phản ảnh đúng quy luật khách quan của xã hội chỉ có tác dụng thúc đẩy sự phát
triển của xã hội. Hai là, những ý thức tư tưởng lạc hậu phản khoa học phản ảnh
không đúng đắn hiện thực khách quan sẽ cản trở sự phát triển tồn tại xã hội.
- 17 -


c) Ý nghĩa của vấn đề này
- Bảo vệ và kiên trì CN MLN và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho hệ tư tưởng
đó thật sự làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng,
toàn dân.
- Tổ chức giáo dục tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân để đưa đường
lối của Đảng, Pháp luật của Nhà nước vào trong đời sống hiện thực.
- Bảo vệ và phát huy truyền thống bản sắc văn hoá dân tộc, đấu tranh chống
diễn biến hoà bình trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng.
- Hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng của YTXH lạc hậu, những tàn
dư của xã hội cũ và sự tác động của mặt trái của kinh tế thi trường vào trong đời

sống kinh tế xã hội.
- Nâng cao dân trí tăng cường công tác khoa học.
- Trách nhiệm của CAND vào sự nghiệp xây dựng đời sống tinh thần, xã hội
lành mạnh trong sạch văn minh.
- Lực lượng CAND có nhiệm vụ vừa bảo vệ nền kinh tế, đồng thời tham gia
tích cực trong nhiệm vụ bảo vệ đời sống tinh thần xã hội.
- Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ở VN chúng ta cần phải xây dựng cả tồn
tại xã hội mới và ý thức xã hội mới. Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng
PTSX -XHCN hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đồng thời với những nhiệm vụ giải quyết những vấn đề môi trường dân số, giảm tỷ
lệ gia tăng dân số bố trí lại dân cư.
- Vấn đề xây dựng và phát triển ý thức xã hội, xã hội mới. Tại ĐH9 của
ĐCSVN đã đề cập đến 3 lĩnh vực cực kỳ quan trọng đó là: xây dựng và phát triển
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, giáo dục và đào tạo; khoa học và
công nghệ sự tổng hợp của 3 vấn đề đó tạo nên mặt cơ bản của chất lượng đời sống
con người và trình độ phát triển Xh .
ĐH9 đề ra phương hướng lớn sau đây:
- Xác định văn hóa giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ và nền tảng
tinh thần của xã hội, là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước. Trang 88 đại hội 9 chỉ rõ: “tăng trưởng kinh tế đi đôi phát
triển văn hóa giáo dục xây dựng nền văn hóa VN tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc,
làm cho chủ nghĩa Mác Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời
sống tinh thần của nhân dân nâng cao dân chí giáo dục và đào tạo con người xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực đất nước”.
- Xác định nền văn hóa mới là mục tiêu của xây dựng và phát triển kinh tế vì
xã hội công bằng dân chủ văn minh con người phát triển toàn diện.
- Xác định giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu.

- 18 -




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×