Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỚI QUAN ĐIỂM ĐỘC LẬP, ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.31 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, khi cách mạng vô sản thắng lợi,
giai cấp vô sản sẽ thiết lập nền chuyên chính vô sản. Vận dụng sáng tạo quan
điểm đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng,
chúng ta phải căn cứ vào trình độ chính trị, kinh tế xã hội của đất nước mà đề ra
đường lối, chiến lược cách mạng phủ hợp, chứ không phải nước nào cũng phải
làm cách mạng vô sản, lập chuyên chính như nhau. Vì vậy, ngay từ chính cương
vắn tắt (1930), Người đã nêu: Thiết lập chính phủ công nông binh, tổ chức ra
quân đội công nông. Tại hội nghị Trung ương VIII tháng 5/1941, Người đề ra
chủ chương thành lập một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh thần tân dân
chủ. Chính quyền cách mạng của nước dân chủ ấy không phải thuộc quyền riêng
giai cấp nào, mà của chung toàn thể dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của Người, tư tưởng độc lập, tự chủ đã trở thành sợi chỉ
đỏ xuyên suốt và định hình các hoạt động từ khi lập quốc đến nay. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dạy: Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của
chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào. Từ năm 1930 đến nay, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cách mạng Việt Nam đã vượt qua muôn
ngàn khó khăn thử thách và giành thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thành công chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến lập nên
Nhà nước dân chủ cộng hoà, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên độc
lập tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp đó là hai cuộc kháng chiến kéo dài 30
năm chống các thế lực đế quốc xâm lược hùng mạnh đó là Pháp và Mỹ, đưa sự
nghiệp giải phóng dân tộc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến thắng lợi
trọn vẹn. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội được tiến hành trên miền Bắc từ
năm 1954, trên cả nước từ năm 1975 và đặc biệt là sự nghiệp đổi mới từ năm
1986 đến nay đã đạt được những thành tựu quan trọng. Đại hội Đảng XI kiểm
điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã khẳng định “…toàn
Đảng, toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được
những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Đại



hội X đề ra” và “sau hai 20 thực hiện cương lĩnh, chúng ta đã giành được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử” [4, tr.16,20]. Những thành tựu, thắng
lợi đó gắn liền với vai trò lãnh đạo sáng suốt và độc lập, tự chủ và sáng tạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
NỘI DUNG
1. Quan điểm độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta
Nghiên cứu lịch sử Việt Nam, chúng ta càng tự hào về truyền thống dân
tộc, truyền thống của Đảng ta. Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta
xuất phát từ truyền thống hào hùng ấy, nó nằm trong tâm của mỗi con người
Việt Nam, trong đường lối, phẩm chất của Đảng:
1.1. Truyền thống và bản lĩnh độc lập, tự chủ và sáng tạo khởi nguồn từ
phẩm chất chính trị của Đảng
Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Phẩm
chất và bản lĩnh của Người là độc lập, tự chủ và sáng tạo đã trở thành phẩm chất
chính trị và bản lĩnh của Đảng, luôn được Đảng giữ gìn và phát huy. Phẩm chất
chính trị của Đảng là trung thành vô hạn với lợi ích của giai cấp và dân tộc, một
lòng, một dạ vì nước, vì dân. Không có phẩm chất chính trị như thế chắc chắn
Đảng không thể có bản lĩnh độc lập, tự chủ và sáng tạo.
Đầu thế kỷ XX, người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu
nước với nhiệt huyết của tuổi trẻ và tinh thần yêu nước, thương dân nồng nàn đã
tiếp cận và tiếp thu lý luận cách mạng của thời đại là chủ nghĩa Mác - Lênin và
trở thành người cộng sản đầu tiên của Việt Nam vào năm 1920. Bằng những
hoạt động thực tiễn phong phú và hiệu quả trong phong trào Cộng sản và công
nhân quốc tế, Người đã chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930.
Quá trình vận động và chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng đã thể kiện những
nét riêng của Người. Người hiểu rõ rằng chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ là vũ
khí đấu tranh của giai cấp công nhân mà còn của tất cả các dân tộc bị áp bức.
2



Đối với các dân tộc bị áp bức đó là cái “cẩm nang”, là con đường tự giải phóng.
Vì vậy, Người thấy cần thiết phải truyền bá lý luận đó vào phong trào công nhân
và phong trào yêu nước Việt Nam để thoát khỏi sự khủng hoảng, bế tắc về
đường lối. Điểm sáng tạo trong phương pháp của Người là sự kết hợp yếu tố giai
cấp và dân tộc, gắn liền vấn đề giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và xã
hội. Nếu giải phóng xã hội, thực hiện chủ nghĩa xã hội (CNXH) là cái đích cần
đi tới thì mục tiêu giành độc lập dân tộc phải đặt ra trước tiên. Với ý nghĩa đó,
cách mạng Việt Nam phải giải quyết đồng thời hai vấn đề là: dân tộc và giai cấp
mà trước hết phải giải phóng dân tộc. Cương lĩnh đầu tiên do Người khởi thảo
đã gắn liền độc lập dân tộc với CNXH, trở thành mục tiêu lý tưởng của Đảng và
nhân dân ta lựa chọn.
Từ thực tiễn sôi động của cách mạng, của đất nước sau khi Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời, Hội nghị Trung ương 6 - khóa I của Đảng (11/1939) đã khẳng
định quan điểm nêu ở hội nghị thành lập Đảng là: Gương cao ngọn cờ giải
phóng dân tộc. Như vậy, gần mười năm tính đúng đắn, sáng tạo của quan điểm
của Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng đã được chứng minh.
Tháng 2/1941, Người về nước cùng Trung ương Đảng lãnh đạo cao trào
giải phóng dân tộc. Hội nghị Trung ương 8 (5/1941), đã quyết định những vấn
đề cơ bản và cụ thể để dẫn đến thắng lợi của cách mạng tháng 8/1945. Với sứ
mệnh lịch sử là lãnh đạo toàn dân tộc giành cho được độc lập, Đảng và lãnh tụ
Hồ Chí Minh đã ra sức xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng, xây dựng
căn cứ địa cách mạng để phát triển phong trào ở cả miền núi, đồng bằng và đô
thị, tập trung và tổ chức dân chúng “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Một
nước thuộc địa nhỏ yếu phải đương đầu với những kẻ thù hùng mạnh (Pháp,
Nhật), phải có phương pháp và hình thức đấu tranh thích hợp đi từ khởi nghĩa
từng phần đến Tổng khởi nghĩa, phải sáng tạo và năng động, chớp thời cơ để
giành thắng lợi. Đảng cũng xác định rằng, cách mạng Việt Nam có thể và cần
phải chủ động giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc.


3


Như vậy, thắng lợi của Cách mạng Tháng 8/1945 là thắng lợi của tinh thần
độc lập, tự chủ và sáng tạo cả về xác định mục tiêu, hình thức và phương pháp
đấu tranh, cả về xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng, cả về chiến lược
và chỉ đạo chiến lược, về phát huy nhân tố tự thân kết hợp với tranh thủ thời cơ
do chiến tranh thế giới đem lại.
Ngay sau thắng lợi tháng 8/1945, đất nước rơi vào tình thế “ngàn cân treo
sợi tóc” nhiệm vụ hàng đầu là phải bảo vệ chính quyền nhân dân, bảo vệ thành
quả cách mạng. Thành công lớn của Đảng ta từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946
là đã tăng cường thực lực cách mạng để có thể tự bảo vệ trong điều kiện chưa có
sự giúp đỡ quốc tế. Sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh thể hiện ở sự thành công trong sách lược lợi dụng mâu thuẫn trong
hàng ngũ kẻ thù, một yếu tố quyết định đến khả năng tự bảo vệ của cách mạng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả dân tộc đã đứng lên tự giải phóng, nay lại tự bảo
vệ thành quả cách mạng bằng những phương sách giàu tính sáng tạo đưa cách
mạng tiếp tục phát triển.
Cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng đất nước (1946 - 1975) kết thúc
thắng lợi hoàn toàn vào mùa xuân năm 1975. Đó là thành quả của đường lối
chiến tranh nhân dân của Đảng, sự kết tinh ý chí độc lập tự chủ, tự lực tự cường,
kết tinh của nền khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Chỉ riêng sự kiên trì
tiến hành kháng chiến suốt 30 năm với biết bao thách thức của thời gian và
những tác động phức tạp của tình hình thế giới đã thể hiện bản lĩnh độc lập, tự
chủ, sáng tạo của Đảng và nhân dân ta. Có thể thấy rằng, trong hai cuộc kháng
chiến Đảng và nhân dân ta đã nhận được sự giúp đỡ và ủng hộ to lớn, có hiệu
quả của các nước XHCN và các lực lượng tiến bộ trên thế giới, nhưng Đảng ta
luôn giữ vững độc lập, tự chủ trong hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối
chiến tranh cách mạng. Nhờ sáng tạo trong hình thức và phương pháp đấu tranh
với việc sử dụng linh hoạt hai hình thức đấu tranh và hai lực lượng cách mạng

mà chúng ta đã giành thắng lợi từng bước, tiến tới thắng lợi hoàn toàn.

4


Suốt chặng đường 45 năm liên tục chiến đấu và hy sinh để giành thắng lợi
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có thể thấy độc lập, tự chủ, sáng tạo
đã trở thành truyền thống và bản lĩnh chính trị chi phối toàn bộ hoạt động của
Đảng. Kinh nghiệm của từng thời kỳ cũng như bài học chung trong lãnh đạo
cách mạng Việt Nam là: nếu không độc lập, tự chủ và sáng tạo phạm vào chủ
nghĩa giáo điều, dập khuôn kinh nghiệm của nước ngoài, chịu ảnh hưởng từ bên
ngoài thì cách mạng sẽ phạm phải sai lầm và tổn thất.
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng ta với tinh thần
độc lập, tự chủ, động viên ý thức tự lực, tự cường, phát huy sức mạnh của cả dân
tộc để xây dựng và phát triển đất nước với quy mô và tốc độ lớn. Như vậy, lịch
sử cách mạng minh chứng Đảng ta đã nêu cao trách nhiệm trước đất nước và
nhân dân, có bản lĩnh độc lập, tự chủ và sáng tạo. Nghiên cứu quá trình Đảng
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, chúng ta có thể khẳng định: ở
những bước ngoặc khó khăn nhất của cách mạng, tinh thần sáng tạo và bản lĩnh
độc lập, tự chủ của Đảng có ý nghĩa quyết định đưa cách mạng Việt Nam vượt
lên mọi thách thức để giành thắng lợi.
1.2. Độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng là sự biểu hiện trí tuệ của dân tộc
Đảng ta là đảng của giai cấp, của dân tộc, trí tuệ của Đảng là biểu hiện tập
trung trí tuệ dân tộc. Trí tuệ của Đảng trước hết là lý luận tiền phong, là không
ngừng nâng cao trình độ lý luận, khả năng tư duy và tổng kết thực tiễn. Đó là khả
năng nắm bắt và vận dụng các quy luật khách quan trên cơ sở yêu cầu thực tiễn.
Thực tiễn ngày càng khẳng định rằng, không nâng cao trí tuệ của Đảng thì chẳng
những không thực hiện được vai trò lãnh đạo cách mạng mà còn không giữ được
bản lĩnh độc lập, tự chủ nhất là ở những bước ngoặt khó khăn, phức tạp của cách
mạng, những khúc quanh của lịch sử dân tộc ví như sự nghiệp đổi mới ở nước ta.

Bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng thể hiện rõ nét nhất trong sự
nghiệp đổi mới từ năm 1986 đến nay. Đảng ta đã không dập khuôn theo mô hình
cải tổ, cải cách của các nước mà luôn sáng tạo bước đi riêng, tỉnh táo và kịp thời

5


phát hiện những sai lầm, khuyết điểm chủ động khắc phục để đưa công cuộc đổi
mới của đất nước phát triển đúng hướng và có hiệu quả. Thắng lợi của sự nghiệp
đổi mới hơn 30 năm qua chính là thắng lợi của đường lối độc lập, tự chủ và sáng
tạo cao độ của Đảng. Đảng ta đã kiên định con đường XHCN, nắm vững nguyên
lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đồng thời, nhạy bén nắm bắt những vấn đề
mới nảy sinh trong thực tiễn, nguyện vọng chính đáng của nhân dân để chủ
động giải quyết. Đảng đặc biệt quan tâm thể chế hóa và cụ thể hóa đường lối
thành pháp luật và chính sách, bình tĩnh và chủ động vượt qua thách thức
nặng nề, những biến động chính trị của thế giới, bảo đảm cho đất nước và chế
độ XHCN trụ vững, phát triển.
Những thành tựu của công cuộc đổi mới giúp Đảng ta củng cố thêm nhận
thức: nếu phát huy cao độ bản lĩnh độc lập, tự chủ và sáng tạo; kết hợp đúng
đắn ý Đảng với lòng dân thì hoàn toàn có thể vượt qua mọi thử thách, dù là thử
thách khắc nghiệt nhất.
1.3. Độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng là sản phẩm của chủ nghĩa quốc
tế chân chính và trong sáng
Đảng ta luôn giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp,
giữa dân tộc và thời đại, độc lập dân tộc và CNXH, giữa những vấn đề cụ thể
của cách mạng Việt Nam với xu thế chung của cách mạng thế giới. Chính thực
tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng hơn 80 năm qua đã chứng minh vấn đề đó.
1.4. Độc lập, tự chủ và sáng tạo xuất phát từ kinh nghiệm lãnh đạo cách
mạng của Đảng
Trong lịch sử cách mạng của dân tộc, có những thời điểm khó khăn tưởng

chừng như không thể vượt qua nổi, chỉ một Đảng dày dạn và từng trải trong đấu
tranh cách mạng mới đủ kinh nghiệm đưa cách mạng đến thắng lợi. Lãnh đạo
chính trị là một khoa học và nghệ thuật mà độc lập, tự chủ, sáng tạo là biểu hiện
của khoa học và nghệ thuât bởi nó phản ánh quy luật vận động của cách mạng
thông qua hoạt động của đội tiền phong là Đảng Cộng sản. Đảng ta luôn chú
trọng tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm để vận dụng vào hiện
6


thực và phát triển lý luận cách mạng. Thực hiện tốt di huấn của Hồ Chủ
tịch: “cần phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem
thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ làm cho nó đầy đủ, dồi dào
thêm” [5, tr.417]. Từ thực tiễn lịch sử càng cho chúng ta thấy Đảng ta đã nêu cao
trách nhiệm trước đất nước và nhân dân, với tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo
rất lớn. Cũng cần thấy rằng, các nước XHCN trước đây đã trải qua mấy chục năm
thực hiện cơ chế và mô hình cũ, khi tìm đến cái mới bằng cải tổ, cải cách, thì lại
mắc sai lầm và dẫn đến sụp đổ. Như thế, càng thấy sự khó khăn, phức tạp của quá
trình cách mạng, tinh thần sáng tạo và ý thức độc lập, tự chủ của Đảng ta càng có
ý nghĩa quyết định giúp cách mạng vượt lên mọi thử thách để giành thắng lợi.
Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong cách mạng XHCN càng được
thể hiện nổi bật trong sự nghiệp đổi mới từ năm 1986 đến nay là: chúng ta
không rập khuôn máy móc theo mô hình cải tổ của các nước; sáng tạo bước
đi riêng, tỉnh táo và kịp thời phát hiện những sai lầm của các nước để đưa
công cuộc đổi mới của nước ta phát triển đúng hướng và có hiệu quả. Thắng
lợi của công cuộc đổi mới chính là thắng lợi của đường lối đổi mới mang
tính độc lập, tự chủ, sáng tạo rất cao của Đảng. Đảng ta đã kiên định con
đường XHCN, nắm vững nguyên tắc, đồng thời nhạy bén nắm bắt cái mới.
Không chỉ dừng lại ở xác định đường lối, Đảng ta đã đặc biệt quan tâm thể
chế hoá và cụ thể hoá đường lối thành pháp luật và chính sách; bình tĩnh và
chủ động vượt qua những thách thức nặng nề, những chấn động chính trị của

thế giới, bảo đảm cho đất nước và chế độ XHCN đứng vững và phát triển.
Trong lịch sử Đảng ta, có những thời điểm khó khăn tưởng như không thể
vượt qua nổi, công cuộc đổi mới trong những năm qua là một trong những thời
điểm như thế. Từ những thành tựu của công cuộc đổi mới, Đảng ta củng cố thêm
nhận thức: nếu biết nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo thì hoàn toàn có
thể vượt qua mọi thử thách dù là thử thách nghiêm trọng nhất. Và không chỉ trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân mà cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,
Đảng ta đều chú trọng phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo.

7


2. Những chặng đường, bước đi trong độc lập, tự chủ, sáng tạo phù
hợp cách mạng Việt Nam.
Nghiên cứu từ gốc lý luận, Lênin viết: “Mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm nước
mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ vào loại này hay
loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải
tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội” [6, tr.160].
Như vậy, việc xác định đúng mục tiêu, phương hướng chiến lược hay mục tiêu,
phương hướng cụ thể của mỗi thời kỳ cách mạng là vấn đề có ý nghĩa quyết
định trước tiên bảo đảm cho cách mạng thắng lợi. Song bằng con đường nào, với
những hình thức nào, bước đi nào, cách làm như thế nào cho phù hợp để thực
hiện mục tiêu, phương hướng đã định, vấn đề này cũng rất quan trọng. Kinh
nghiệm cho thấy: “Phong trào cách mạng có khí dậm chân tại chỗ, thậm trí thất
bại nữa, không phải vì thiếu phương hướng và mục tiêu rõ ràng, mà chủ yếu vì
thiếu phương pháp cách mạng thích hợp” [7, tr.34]. Thực tiễn lịch sử sẽ không
có và không bao giờ có được một phương pháp cách mạng duy nhất đúng để có
thể áp dụng cho mọi nước, mọi hoàn cảnh. Một phương thức nào đó thích hợp
cho nước này, lại có thể không dùng được ở nước khác; đúng trong thời kỳ này,
hoàn cảnh này, song sẽ lại là sai nếu đem áp dụng máy móc vào thời kỳ khác,

hoàn cảnh khác. Tất cả đều tuỳ thuộc ở những điều kiện lịch sử cụ thể.
Xuất phát từ yêu cầu bức thiết của dân tộc và đất nước, trên cơ sở tổng kết
thực tiễn, đồng thời tham khảo kinh nghiệm của các nước khác, Đảng ta đã lựa
chọn hình thức, bước đi, cách làm của nước ta là:
2.1. Tập trung phát triển kinh tế
Nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội, xét đến cùng là sự
sản xuất vật chất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Nước ta từ cuối những
năm 70 của thế kỷ XX, nền kinh tế đã lâm vào khủng hoảng, trì trệ. Nhất là sau
cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền lần thứ hai (9/1985) không thành công,
lạm phát tăng đến 774,7%, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Nếu

8


không khắc phục tình trạng đó thì chẳng những dân ta bị kìm hãm trong nghèo
nàn lạc hậu, mà vận mệnh của Đảng, của chế độ XHCN cũng đứng trước thử
thách khó lường. Cho nên, Đảng ta tập trung cho đổi mới kinh tế, đưa đất nước
ra khỏi khủng hoảng, coi đó là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng. Trong khi
Đảng ta xác định cần tập trung cho đổi mới kinh tế thì cũng bắt đầu sự khủng
hoảng và sụp đổ ở các nước Đông Âu, Liên Xô thành trì của cách mạng thế giới,
có quan hệ chặt chẽ về kinh tế đối ngoại với nước ta chiếm tới 90% phải tan rã
và làm toàn bộ kinh tế đối ngoại của nước ta bị xáo trộn. Mỹ và các nước
phương Tây vẫn đang bao vây cấm vận đối với nước ta. Quan hệ Việt Nam với
các nước trong khu vực chưa được sâu sắc. Cho nên, sự nghiệp phát triển kinh tế
của nước ta đứng trước những thách thức hết sức hiểm nghèo, đòi hỏi phải phát
huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, từ thực tiễn và bám sát thực tiễn trong
nước và những biến đổi của thế giới, vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm tìm ra những hình thức, bước đi, cách làm thích
hợp để ổn định nền kinh tế vốn đang gặp rất nhiều khó khăn.
Từ những hiện tượng “khoán chui” trong hợp tác xã nông nghiệp, hiện

tượng “xé rào” trong các xí nghiệp quốc doanh; từ chủ trương “làm cho sản
xuất bung ra”, ý tưởng sử dụng các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập
thể ở Hội nghị Trung ương 6, khoá IV (8/1979), tư duy kinh tế của Đảng đã từng
bước hình thành và phát triển. Cho đến nay chúng ta đã xây dựng được mô hình
kinh tế trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa” [2, tr.96]. “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa” [4, tr.73]. Đi sâu vào nghiên cứu chúng ta thấy rõ tư duy mới của
Đảng ta là không dập khuôn, sao chép máy móc, nếu dập khuôn sao chép trong
thời điểm này sẽ dẫn đến hậu quả khó lường. Đảng ta tiến hành lãnh đạo chuyển
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, các thành phần kinh tế đều có vai trò, vị trí khác nhau, trong đó kinh tế
quốc doanh giữ vai trò chủ đạo đồng thời kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Đảng ta chủ trương xoá

9


bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường, nhưng
không tuyệt đối hoá và coi thị trường là “liều thuốc vạn năng”. Trong cơ chế thị
trường phải giữ vững được vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước để vừa
khuyến khích mặt tích cực và hạn chế những điểm tiêu cực của cơ chế, kết hợp
chặt chẽ hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội.
Những chủ trương, chính sách của Đảng nêu trên đã được cụ thể hoá bằng
hệ thống pháp luật, quy định của Nhà nước, từng bước đi vào cuộc sống, ổn định
tình hình kinh tế, đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng, hoàn thành những
nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế trong chặng đường đầu và bước sang thời kỳ mới, thời
kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thắng lợi trên
lĩnh vực kinh tế đã tạo ra những tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ
vững ổn định chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng,

vào con đường XHCN mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, tạo điều kiện cho đổi
mới các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Bàn về bước đi của thời kỳ quá độ,
Đảng ta cho rằng thời kỳ quá độ của nước ta chia làm nhiều chặng, nhưng cho
đến nay có hai chặng mà chúng ta đã và đang vượt qua. Đó là chặng đường đầu
kéo dài khoảng 20 năm (1975 - 1995) là chặng đường chuẩn bị cho công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Chặng đường thứ hai đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, dự kiến kéo dài 25 năm (1995 - 2020), nhằm đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp. Trong chặng đường thứ hai, Đảng ta phân ra các
bước quá độ nhỏ nhằm thực hiện từng bước, từng giai đoạn cho hiệu quả.
2.2. Đổi mới kinh tế, tiến hành từng bước đổi mới chính trị
Quan điểm của Đảng ta là kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời đổi mới chính trị.
Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị là khâu then
chốt của quá trình đổi mới. Hai lĩnh vực này có quan hệ biện chứng, tác động
ảnh hưởng lẫn nhau. Chỉ có tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế và đổi mới
kinh tế thành công mới tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để giữ
10


vững ổn định chính trị. Ngược lại, đổi mới chính trị thành công sẽ tạo điều kiện,
môi trường và động lực để đổi mới kinh tế thắng lợi.
Chính trị xưa nay vốn là vấn đề phức tạp, cực kỳ nhạy cảm, đụng chạm đến
nhiều mối quan hệ xã hội. Nó đòi hỏi quá trình đổi mới nhất thiết phải tiến hành
từng bước, phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị nghiêm túc, không xới tung
nhiều vấn đề cùng một lúc khi chưa có điều kiện chín muồi, không cho phép để xảy
ra mất ổn định xã hội dẫn tới rối loạn xã hội. Nếu chính trị không ổn định, hơn nữa
lại bị rối loạn thì toàn bộ công cuộc đổi mới sẽ gặp nhiều khó khăn, chúng ta sẽ
không thực hiện được bất cứ sự đổi mới nào khác, mà chỉ tạo điều kiện cho các thế
lực lợi dụng phản kích, và tiến đến lật đổ CNXH, xoá bỏ mọi thành quả cách mạng
mà Đảng và nhân dân ta tốn bao xương máu mới giành được. Sự xụp đổ ở các

nước Đông Âu và Liên Xô đã để lại cho chúng ta những bài học đau xót về vấn đề
này. Tuy nhiên, đổi mới chính trị rất cần thiết để thúc đẩy đổi mới kinh tế, chính trị
phải được ưu tiên hàng đầu so với kinh tế. Không vì tính chất nhậy cảm và phức
tạp của nó mà do dự, chậm đổi mới làm cản trở đổi mới kinh tế và các lĩnh vực
khác. Chỉ có điều phải làm từng bước thận trọng và vững chắc, hướng tới đổi mới
kinh tế và phục vụ cho nhiệm vụ trung tâm là đổi mới kinh tế.
Quá trình đổi mới chỉ được Đảng ta bắt đầu từ việc đổi mới tư duy chính
trị, đổi mới nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta từ sự đổi
mới đó mới dẫn tới những đổi mới khác. Khi bắt đầu đổi mới, mặc dù chịu sự
tác động và ảnh hưởng của nhiều luồng tư tưởng khác nhau nhưng Đảng vẫn
khảng định: “Đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý
luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã được xác định, trái lại, chính
là bổ xung và phát triển những thành tựu ấy” [1, tr.125].
Trước những yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới trong nước và
những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, Đảng ta chủ trương đổi mới,
kiện toàn tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Song khác
với các nước XHCN khác trong cải tổ, cải cách lúc đó, đổi mới hệ thống chính
11


trị ở nước ta không có nghĩa là thay đổi chế độ chính trị này bằng chế độ chính
trị khác, mà nội dung cốt lõi của đổi mới là nhằm tăng cường hiệu lực, sức
mạnh, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, các tổ chức chính trị, của chế
độ ta. Mấu chốt trong đổi mới hệ thống chính trị của nước ta là phân định rõ
chức năng, giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, bảo đảm cho quá
trình hoạt động của các tổ chức này không bị trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ.
Vì vậy, một mặt phải nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bảo đảm cho Đảng
vừa là một bộ phận của hệ thống chính trị, không đứng trên không đứng ngoài
mà đứng trong hệ thống đó, vừa thực hiện được vai trò hạt nhân lãnh đạo hệ

thống ấy. Văn kiện nghị quyết Đại hội XI khẳng định: “Đảng Cộng Sản Việt
Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội…hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật” [4, tr.88,89]. Mặt khác, phải tăng cường hiệu lực
quản lý Nhà nước, cũng như phát huy vai trò tích cực hoạt động của các đoàn
thể nhân dân tham gia vào quá trình thực hiện các nhiệm vụ chính trị, xã hội.
Đồng thời với việc đổi mới hệ thống chính trị, Đảng ta quan tâm mở rộng
dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra” nhằm khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng của mỗi người, mỗi tổ chức tham
gia vào quá trình đổi mới, phấn đấu cho mục tiêu: “dân giàu nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Mặt khác, mở rộng dân chủ phải kết hợp với tăng
cường kỷ luật, kỷ cương. Dân chủ phải có lãnh đạo, kiên quyết xử lý mọi biểu
hiện hành động vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, cũng như mưu toan lợi
dụng “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá hoặc can thiệp vào công việc nội
bộ của nước ta. Văn kiện nghị quyết Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Dân
chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển đất nước” [4, tr.84,85].
Thời kỳ đổi mới có nảy sinh những tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng
đối lập ở các nước Đông Âu và Liên Xô đã rồn dập tác động và ảnh hưởng xấu
đến tình hình chính trị, tư tưởng ở nước ta. Các thế lực thù địch được dịp phản
12


kích quyết liệt hòng xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Song nhờ có sự nhạy bén
về chính trị và bản lĩnh chính trị vững vàng, Đảng ta kiên quyết đấu tranh chống
lại những luồng tư tưởng sai trái, phản động, khẳng định đổi mới có nguyên tắc,
kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định con đường
mà Đảng và Bác Hồ đã chọn. Cùng với thắng lợi từng bước của sự nghiệp đổi
mới, bản lĩnh chính trị của Đảng đã giúp cho đất nước giữ được sự ổn định về
chính trị trong bối cảnh thế giới chứa nhiều biến động và tiềm ẩn những yếu tố

bất chắc khó lường.
2.3. Thường xuyên chú trọng quốc phòng an ninh
Hiện nay các thế lực thù địch vẫn thường xuyên chống phá cách mạng
nước ta trên nhiều lĩnh vực, bằng nhiều âm mưu xảo quyệt. Chúng không từ bỏ
thủ đoạn nào cả âm mưu chiến tranh truyền thống và phi truyền thống.
Trước những diễn biến mới của tình hình, Đảng ta đã kịp thời thay đổi tư
duy về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Phạm trù bảo vệ Tổ quốc có nội hàm rộng hơn
với sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là: “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an
ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tưởng
văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn
định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm
mưu,hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ” [3, tr.108-109].
Trên thực tế Đảng ta đã tích cực chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an
ninh, coi đây là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân ta. Văn kiện nghị quyết Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Mục tiêu,
nhiệm vụ của quốc phòng an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa…” [4, tr.223]. Xác định là lực lượng nòng cốt, Đảng luôn quan
tâm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và công an nhân dân về chính trị tư
tưởng và tổ chức. Đồng thời thực hiện có hiệu quả về điều chỉnh chiến lược bố
13


trí thế trận, tổ chức biên chế lực lượng vũ trang trong thời bình. Quân số giảm từ
1,2 triệu xuống còn 49 vạn quân, 93 sư đoàn xuống còn 35 sư đoàn, xây dựng 17
khu kinh tế quốc phòng, đưa 169 doanh nghiệp giảm xuống còn 120 doanh
nghiệp. Từng bước gắn bó chặt chẽ nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh,
đối phó có hiệu quả âm mưu thủ đoạn “diễn biến hoà bình” bạo loạn lật đổ của

địch, vô hiệu hoá các hoạt động chống đối từ trong nước và ở ngoài nước, kịp
thời ngăn chặn và dập tắt các vụ gây rối, bạo loạn chính trị. Việc kết hợp quốc
phòng an ninh đã được kết hợp chặt chẽ trong một chiến lược chung thống nhất
gắn bó mật thiết với các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, đối ngoại.
2.4. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Đảng và Nhà nước ta khẳng định:
“Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội trên thế giới” [4, tr.83,84]. Nguyên tắc đối ngoại của chúng ta là tôn trọng
độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, không dùng vũ lực đe dọa hoặc đe dọa dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có
lợi; giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng hoà bình; làm thất
bại mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền.
Đại hội Đảng XI đã xác định nội dung rất quan trọng là phải xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực
bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả
và bền vững, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
vào năm 2020.
Về nội dung xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ đã được đề cập ở
phần trước. Đảng ta nhấn mạnh phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, nhưng

14


không có nghĩa là coi nhẹ vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế. Trái lại, Đảng luôn
kết hợp nội lực với ngoại lực để tạo ra sức mạng tổng hợp của sự nghiệp phát
triển đất nước. Hội nhập kinh tế quốc tế để phát huy vai trò và tiềm năng của

nước ta trong quá trình hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới, tranh thủ
các nguồn vốn, thiết bị vật tư, thành tựu khoa học công nghệ, kiến thức và kinh
nghiệm quản lý, mở rộng thị trường, tăng cường hợp tác cùng có lợi. Trong hội
nhập kinh tế quốc tế phải nắm vững phương châm chủ động hội nhập, vừa hợp
tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết, vừa mềm dẻo, nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng
của ta, đồng thời tranh thủ được các thời cơ thuận lợi trong hội nhập. Trong bất
kỳ tình huống nào cũng phải luôn luôn chủ động, giành thế chủ động. Chủ động
ngay từ nội dung, chủ trương, quyết sách, phạm vi mức độ, lộ trình, không để ai
lôi kéo hoặc xô đẩy, chống lại các âm mưu lợi dụng nhằm phá hoại chế độ ta.
Trên thực tế, những năm đổi mới, Đảng ta đã chủ động đề xuất và thực
hiện nhiều giải pháp cho những vấn đề phức tạp nhất để phá vỡ sự bao vây cấm
vận của các thế lực thù địch: bình thường hoá quan hệ Việt - Trung, chuyển từ
đối đầu sang đối thoại và hợp tác với các nước ASEAN, bình thường hoá quan
hệ với Mỹ, quan hệ hợp tác với các nước lớn, các tập đoàn kinh tế, các tổ chức
chính trị lớn, nhờ đó chúng ta đã tạo ra được môi trường thuận lợi cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong những bước đường ấy phải
trải qua nhiều khó khăn gian khổ trong ngoại giao ví như quan hệ với Mỹ mà
nguyên thứ trưởng bộ ngoại giao, đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Mỹ đã nêu trên
báo quân đội nhân dân ngày 28/01/2015: Việt - Mỹ đã trải qua một “rừng khó
khăn” để bình thường hóa quan hệ.
2.5. Tập trung đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng
Đảng là tổ chức lãnh đạo, đổi mới và chỉnh đốn Đảng là công việc thường
xuyên, cần thiết làm cho Đảng thực sự đủ năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu.
Đảng ta đặt thêm vấn đề chỉnh đốn Đảng chính là nhấn mạnh yêu cầu về mức độ
đổi mới sâu sắc hơn, với quyết tâm cao hơn, để khắc phục một số yếu kém đã
15


đến mức nghiêm trọng, với mục tiêu làm sao để Đảng ta trong sạch và vững

mạnh hơn, thực hiện tốt hơn vai trò sứ mệnh lãnh đạo đất nước theo mục tiêu đã
định; đứng vững trên nền tảng tư tưởng và các nguyên lý, nguyên tắc xây dựng
Đảng Mác xít - Lênin nít về đảng kiểu mới và truyền thống vẻ vang của Đảng.
Trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, Đảng ta xác định trước hết phải
làm tốt việc đổi mới và chính đốn Đảng, phát huy tốt hơn vai trò Đảng lãnh đạo
hệ thống chính trị. Đảng ta cho rằng trong giai đoạn hiện nay, xây dựng kinh tế
là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, nhằm tăng cường
và giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên. Đảng phải được xây dựng toàn diện cả
về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ; kiên quyết khắc phục các khuyết điểm,
các hiện tượng tiêu cực, yếu kém, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng lên ngang tầm nhiệm vụ chính trị giai đoạn mới.
Trong những năm qua, Đảng ta dành nhiều thời gian, công sức cho công
tác xây dựng Đảng, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) Khoá VIII đã
quyết định mở cuộc xây dựng chỉnh đốn Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XI về những vấn đề cấp bách công
tác xây dựng Đảng hiện nay. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Các cuộc vận động đã được cán bộ, đảng
viên và nhân dân quan tâm sâu sắc cũng như tích cực hưởng ứng và đánh giá đã
thu được những kết quả bước đầu. Chúng ta đã tạo ra được sự chuyển biến lớn
trong toàn Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên so
với yêu cầu đề ra cũng còn nhiều mặt hạn chế, chưa đạt được. Tiếp tục quán triệt
sâu sắc phương hướng và mục tiêu tổng quát của Nghị quyết đại hội Đảng X là
“Tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân
và tính tiền phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây
dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có
phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân” [3, tr.279]. Những
16



bước đi, hình thức, cách làm mà Đảng ta đã lực chọn và sử dụng trong quá trình
đổi mới được trình bày trên đây vừa mang những đặc điểm chung, vừa thể hiện
những nét riêng biệt khác với cải cách, cải tổ ở các nước XHCN. Lựa chọn hình
thức, bước đi, cách làm thực chất là lựa chọn phương pháp cách thức tiến hành
đổi mới sao cho có hiệu quả. Quá trình đó luôn luôn phải đối mặt với những rào
cản, trở ngại, thậm chí là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch phản
cách mạng. Vì vậy, một mặt phải kiên định lập trường, dựa chắc trên nền tảng
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tham khảo kinh nghiệm của nước
ngoài nhưng không giáo điều dập khuôn. Mặt khác, phải bám sát thực tiễn, kịp
thời sử lý đúng đắn những vấn đề mới nẩy sinh. Kiên quyết đấu tranh chống lại
mọi khuynh hướng giáo điều, bảo thủ, cơ hội, xét lại, chủ quan duy ý chí. Đó là
những khuynh hướng gây tổn hại, thậm chí làm đổ vỡ sự nghiệp đổi mới, sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Nhìn lại chặng đường lịch sử 30 năm thực hiện đường lối đổi mới với
những thành tựu của công cuộc đổi mới đem lại, đã chứng minh đường lối đổi
mới của Đảng là đúng đắn, hình thức, bước đi và cách làm thích hợp. Đường lối
đó đã thể hiện tư tưởng, quan điểm độc lập, tự chủ, năng động sáng tạo trong tư
duy cũng như trong tổ chức thực tiễn. Thực tiễn của đường lối đổi mới càng
chứng tỏ Đảng ta là một Đảng cách mạng và khoa học, luôn giữ vững bản lĩnh
chính trị, năng lực trí tuệ và tổ chức thực tiễn, xứng đáng là người lãnh đạo,
người đầy tớ trung thành của nhân dân, và là niềm tin của cả dân tộc. Để phát
huy lịch sử và truyền thống vẻ vang của Đảng, tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp đổi
mới trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đòi hỏi Đảng ta phải không ngừng đổi mới và chỉnh đốn đảng, làm cho Đảng
luôn ngang tầm với nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng XHCN, xứng đáng là bộ tham
mưu tiền phong của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu
tranh giai cấp và dân tộc gay go quyết liệt, phức tạp hiện nay, vì sự nghiệp dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam XHCN.


17


3. Quân đội với việc quán triệt quan điển trên
Một là, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, đây là yêu cầu quan
trọng nhất, là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng quân đội nhằm phát huy ưu thế
tuyệt đối về chính trị, tinh thần của quân đội cách mạng làm cơ sở nâng cao chất
lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội. Muốn vậy phải luôn tăng
cường giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với
quân đội; bảo đảm cho quân đội luôn giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp
công nhân, tính dân tộc, tinh nhân dân sâu sắc; luôn kiên định vững vàng nhạy
bén về chính trị, có năng lực tiến công địch trên mặt trận chính trị, tư tưởng; coi
trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ, củng cố tổ chức đảng, nâng cao năng lực
lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm
chất năng lực ngang tầm nhiệm vụ; luôn dựa chắc vào dân, xây dựng và phát
triển mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa quân đội với nhân dân; xây dựng củng cố
quan hệ đoàn kết nội bộ.
Hai là, đẩy nhanh việc xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại như tổ chức biên chế; trang bị đồng bộ, đáp ứng yêu cầu thời bình và sẵn
sàng chiến đấu phát triển theo yêu cầu; bảo đảm cho các hệ thống lãnh đạo, chỉ
huy, lực lượng sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, giáo dục, đào tạo, hệ thống bảo đảm
hậu cần kỹ thuật và hệ thống dự bị động viên phát triển cân đối, hài hoà; không
ngừng nâng trình độ chỉ huy, tham mưu, năng lực quản lý bộ đội không ngừng phát
triển, luôn bảo đảm tính chủ động vững chắc, linh hoạt có hiệu quả. Không ngừng
nâng cao chất lượng vũ khí, trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại, quán lý khai thác
tốt vũ khí trang bị hiện có. Để đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài phải xây dựng
nền quốc phòng độc lập tự chủ có tiềm lực tương đối mạnh, phù hợp với sự phát
triển của nền kinh tế đất nước, đủ khả năng duy trì và hiện đại hoá quân đội. Phát
huy tinh thần tự lực, tự cường, huy động tối đa nội lực, kết hợp với mở rộng hợp

tác quốc tế để phát triển công nghiệp quốc phòng, củng cố trang bị vũ khí cho quân
đội theo hướng từng bước hiện đại. Trước mắt cần quản lý, sử dụng, khai thác có

18


hiệu quả những trang bị hiện có; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham ô; tích
cực tham gia lao động sản xuất và làm kinh tế.
Ba là, phát huy độc lập, tự chủ, sáng tạo trong nghiên cứu phát triển khoa
học, nghệ thuật quân sự Việt Nam: trên cơ sở tiếp tục tổng kết các cuộc chiến
tranh, đúc rút kinh nghiệm, không ngừng phát triển, hoàn thiện khoa học nghệ
thuật quân sự, cách đánh của Việt Nam và tiến lên xây dựng một nền nghệ thuật
quân sự hiện đại của chiến tranh nhân dân phát triển ở trình độ cao. Đồng thời
đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn quân sự phục vụ cho
trước mắt và dài.
Tập trung huấn luyện theo phương hướng cơ bản, thiết thực vững chắc, sát
với đối tượng tác chiến, với khả năng vũ khí trang bị hiện có, xây dựng ý trí
quyết tâm đánh thắng địch trong điều kiện thông thường và chiến tranh có sử
dụng vũ khí công nghệ cao. Xây dựng cho bộ đội có niềm tin vững chắc vào sự
nghiệp đổi mới, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, phòng và chống có hiệu
quả, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn phá hoại của kẻ thù, giữ vững trận địa tư
tưởng của Đảng trong quân đội. Tham gia tích cực vào vận động, tuyên truyền
quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, nhiệm vụ mục tiêu
của cách mạng, vận động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, giữ vững ổn
định trên từng địa bàn và trên cả nước, thực hiện tốt nhiệm vụ của đội quân công
tác. Đất nước còn nghèo, khả năng trang bị cho quân đội còn hạn chế, đời sống
bộ đội còn có nhiều khó khăn, cần giáo dục động viên cán bộ, chiến sĩ nêu cao ý
thức cần kiệm xây dựng quân đội. Tích cực chủ động tham gia lao động sản xuất
và làm kinh tế với năng xuất chất lượng hiệu quả. Xây dựng quân đội thực sự là
nguồn lực trong sự nghiệp CNH, HĐH là lực lượng nòng cốt giải quyết các vấn

đề kinh tế - xã hội trên các địa bàn chiến lược còn nhiều khó khăn mà các lực
lượng khác khó thực hiện.
KẾT LUẬN
Độc lập, tự chủ và sáng tạo không chỉ là yêu cầu khách quan mà còn là vấn đề
có tính nguyên tắc đối với các Đảng Cộng sản, đảm bảo cho các Đảng Cộng sản
19


hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình đối với đất nước, đối với dân tộc. Bên cạnh
đó độc lập, tự chủ và sáng tạo là bản chất truyền thống, là bản lĩnh của Đảng Cộng
sản Việt Nam trước những biến đổi của tình hình thế giới, khu vực và yêu cầu đòi
hỏi của sự nghiệp đổi mới. Độc lập, tự chủ và sáng tạo đó còn là một bài học xuyên
suốt lịch sử lãnh đạo và đấu tranh của Đảng, một nhân tố bảo đảm cho Đảng hoàn
thành sứ mệnh lịch sử là đội tiên phong lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Được học tập, nghiên cứu môn lịch sử đảng, là học viên cao học chuyên
ngành xây dựng Đảng, tôi nhận thức rằng: với sự năng động, sáng tạo vận dụng
lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những thành tựu đã đạt
được tin chắc rằng công cuộc đổi mới của đất nước đẩy mạnh CNH, HĐH do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo nhất định giành thắng lợi. Càng tự hào với
truyền thống của dân tộc Việt Nam, truyền thống của Đảng Cộng sản Việt Nam,
truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh
đạo của Đảng, Mỗi cán bộ, đảng viên được đào tạo nghiên cứu trở thành cán bộ
cốt cán của đảng phải thấm nhuần đường lối quan điểm của đảng, vận dụng linh
hoạt vào tổ chức, cơ quan mình phụ trách; tích cực học tập nâng cao trình độ
kiến thức về mọi mặt, đặc biệt là tích lũy những kinh nghiệm hay, những bài học
quý mà cha ông ta đã để lại, sau này giảng dạy, truyền thụ, trang bị kiến thức,
kinh nghiệm cho học viên, tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển, vận dụng
vào trong học tập và công tác, đồng thời tham gia tích cực, có hiệu quả vào công
cuộc đổi mới CNH, HĐH đất nước, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh. Cùng với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nâng cao cảnh giác, kiên quyết

đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá của kẻ thù, xây dựng thành công
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chúng ta nhận thức
sâu sắc hơn về tầm quan trọng của đường lối, nguyên tắc độc lập, tự chủ. Ôn lại
các bài học lịch sử, chúng ta càng thêm tin tưởng chắc chắn rằng, các thế hệ
hôm nay sẽ kế tục xứng đáng truyền thống 85 năm qua của Đảng, tiếp tục giữ
vững độc lập, tự chủ, phục vụ cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc, bởi vì chúng ta
luôn thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ: Làm gì cũng vì lợi ích dân tộc mà làm.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1997.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011.
5. Hồ Chí Minh,Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995.
6. V.I.Lªnin, Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, M.1981.
7. Lê Duẩn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976.

21



×