I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
O TH HI YN
BảO ĐảM QUYềN CON NGƯờI
THÔNG QUA CƠ CHế BồI THƯờNG NHà NƯớC
CHO NGƯờI Bị OAN TRONG HOạT ĐộNG Tố TụNG HìNH Sự
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2016
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
O TH HI YN
BảO ĐảM QUYềN CON NGƯờI
THÔNG QUA CƠ CHế BồI THƯờNG NHà NƯớC
CHO NGƯờI Bị OAN TRONG HOạT ĐộNG Tố TụNG HìNH Sự
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04
LUN VN THC S LUT HC
Cỏn b hng dn khoa hc: GS.TS. NGC QUANG
H NI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi.
Những số liệu, ví dụ và trích dẫn được nêu trong luận văn là trung thực, bảo
đảm tính chính xác, tin cậy. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn
Đào Thị Hải Yến
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƢỜI THÔNG QUA CƠ CHẾ BỒI THƢỜNG NHÀ
NƢỚC CHO NGƢỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ .......................................................................................... 8
1.1.
Những khái niệm có liên quan ......................................................... 8
1.1.1.
Khái niệm về quyền con người ........................................................... 8
1.1.2.
Khái niệm người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự ................... 9
1.1.3.
Khái niệm cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong
hoạt động tố tụng hình sự .................................................................. 13
1.2.
Những thiệt hại của ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng
hình sự .............................................................................................. 17
1.2.1.
Quan điểm chung về thiệt hại của người bị oan trong hoạt động
tố tụng hình sự ................................................................................... 17
1.2.2.
Người bị oan bị thiệt hại về vật chất ................................................. 19
1.2.3.
Người bị oan bị thiệt hại về tinh thần ............................................... 21
1.2.4.
Người bị oan bị những thiệt hại khác................................................ 22
1.3.
Sự phát triển của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền
con ngƣời thông qua cơ chế bồi thƣờng nhà nƣớc cho ngƣời
bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự ......................................... 22
1.3.1.
Giai đoạn từ 1945 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 ...... 22
1.3.2.
Giai đoạn từ 2003 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự 2015 ......... 27
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
THI PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI
THÔNG QUA CƠ CHẾ BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC CHO
NGƢỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH
SỰ TỪ 2010 ĐẾN 2015 .............................................................................33
2.1.
Quy định của pháp luật về cơ chế bồi thƣờng nhà nƣớc cho
ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự .............................. 33
2.1.1.
Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 ...................................... 33
2.1.2.
Quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ............. 34
2.2.
Thực tiễn thực thi pháp luật về cơ chế bồi thƣờng nhà nƣớc
cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự từ năm
2011 đến 2015................................................................................... 53
2.2.1.
Thực trạng tình hình oan, sai làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong tố tụng hình sự ............................................... 53
2.2.2.
Thực tiễn việc giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị oan
trong tố tụng hình sự ở Việt Nam ..................................................... 63
2.2.3.
Những tồn tại, vướng mắc và những nguyên nhân gây nên
trong thực thi pháp luật bồi thường nhà nước cho người bị oan
trong hoạt động tố tụng hình sự ........................................................ 64
Chƣơng 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI
PHÁP LUẬT BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC CHO NGƢỜI
BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............. 68
3.1.
Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về bảo đảm quyền con
ngƣời thông qua cơ chế bồi thƣờng nhà nƣớc cho ngƣời bị
oan trong hoạt động tố tụng hình sự ............................................. 68
3.1.1.
Quan điểm của Đảng ......................................................................... 68
3.1.2.
Quan điểm của Nhà nước .................................................................. 69
3.2.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến bồi thƣờng
nhà nƣớc cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự...... 70
3.2.1.
Hoàn thiện pháp luật hình sự ............................................................ 70
3.2.2.
Hoàn thiện các quy phạm pháp luật về tố tụng hình sự .................... 71
3.2.3.
Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ...... 73
3.3.
Các giải pháp khác .......................................................................... 80
3.3.1.
Nâng cao trình độ, năng lực trách nhiệm của những người tiến
hành tố tụng hình sự trong việc phòng ngừa người bị oan ............... 80
3.3.2.
Bảo đảm thực hiện tốt và nghiêm chỉnh nguyên tắc độc lập của
Tòa án và các cơ quan, người tiến hành tố tụng khác ....................... 80
3.3.3.
Đổi mới công tác kiểm sát của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự ..... 82
KẾT LUẬN .................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 85
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTNN:
Bồi thường thiệt hại
BLDS:
Bộ luật Dân sự
BLHS:
Bộ luật Hình sự
BLTTHS:
Bộ luật Tố tụng hình sự
CQTHTT:
Cơ quan tiến hành tố tụng
TNBTCNN:
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
TTHS:
Tố tụng hình sự
XHCN:
Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sau khi trở thành thành viên Liên hợp quốc, Việt Nam đã từng bước
tham gia hầu hết các Công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966, có hiệu
lực từ ngày 23/3/1976 (Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gia nhập
ngày 24/9/1982). Công ước này đã tuyên bố: “Bất cứ người nào trở thành
nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam cầm bất hợp pháp đều có quyền yêu
cầu được bồi thường” (khoản 5 Điều 9) [47; tr. 29]. Hầu hết các quốc gia
trên thế giới đều đã công nhận quyền được bồi thường thiệt hại do người có
thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự (viết tắt là TTHS) gây
ra là một trong những quyền cơ bản về dân sự, chính trị của con người. Theo
đó, rất nhiều quốc gia đã cụ thể hóa trong các đạo luật với việc thừa nhận
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với những hậu quả do nhân viên
nhà nước gây ra trong quá trình thực thi công vụ nói chung và trong hoạt
động tố tụng hình sự nói riêng.
Nhằm tiến tới xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, cũng như thực hiện các cam kết quốc
tế mà Việt Nam đã gia nhập, Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống pháp
luật, trong đó có pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với
các thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra trong khi thi hành công vụ.
Hiến pháp năm 1992 là văn bản đầu tiên ghi nhận tương đối rõ quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại khi có hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức trong
quá trình thực thi công vụ. Cụ thể, Hiến pháp năm 1992 quy định: “Người bị
bắt, bị giam giữ, bị truy tố, bị xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường
thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự” (Điều 72); Hiến pháp năm 1992
quy định “Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
1
pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh.
Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi về danh
dự” (Điều 74). Quy định này tiếp tục được khẳng định và cụ thể hóa hơn
trong khoản 5, Điều 31 Hiến pháp năm 2013. Theo đó, những người bị bắt,
tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật
có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự.
Bộ luật Dân sự (viết tắt là BLDS) năm 1995 đã dành hai Điều 623 và 624 để
quy định trách nhiệm bồi thường của các cơ quan nhà nước và các quy định
này tiếp tục được ghi nhận trong BLDS năm 2005 (Điều 619 và Điều 620),
BLDS năm 2015 (Điều 598). Bộ luật Tố tụng hình sự (viết tắt là BLTTHS)
năm 2003 cũng đã quy định “Người bị oan do người có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục
hồi danh dự, quyền lợi” (Điều 30) [47; tr. 17-18]. Và một bước tiến quan
trọng là ngày 18/6/2009, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (viết tắt
là Luật TNBTCNN) chính thức được thông qua tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội
khóa XII, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2010, đây là đạo luật quy định riêng
về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với những thiệt hại do hành vi
trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra, trong đó cũng quy định cụ
thể việc bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Để cụ
thể hóa các quy định của Luật này, ngày 01/11/2012, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ
Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã liên tịch ban hành Thông
tư liên tịch số 05/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BTCBNN&PTNT hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
trong hoạt động tố tụng hình sự TTHS (viết tắt là Thông tư liên tịch số 05).
Với sự ra đời của Luật TNBTCNN và Thông tư liên tịch số 05, những
nội dung về đối tượng được bồi thường, phạm vi trách nhiệm bồi thường, tiêu
2
chí xác định thiệt hại và mức bồi thường, kinh phí, cơ quan có trách nhiệm
bồi thường và đặc biệt là nguyên tắc và trình tự thủ tục bồi thường được quy
định cụ thể theo hướng bảo đảm quyền con người; tạo cơ chế thuận lợi giúp
cho người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường do hành vi gây
thiệt hại của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng gây ra trong
hoạt động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, qua quá trình triển khai thi hành Luật
TNBTCNN cho thấy, so với lĩnh vực quản lý hành chính, thi hành án dân sự,
số lượng vụ việc giải quyết bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố
tụng hình sự chiếm tỷ lệ lớn và hầu hết các vụ việc trong hoạt động tố tụng
hình sự thường là những vụ việc phức tạp, kéo dài, tạo ra sự quan tâm lớn
trong dư luận xã hội. Trong quá trình giải quyết bồi thường vẫn còn tình trạng
đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, làm cho vụ việc
chậm được thụ lý và việc giải quyết bị kéo dài vượt quá thời hạn theo quy
định của Luật TNBTCNN chưa bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của
người bị thiệt hại và gây bức xúc trong dư luận xã hội.
Nhằm nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách tổng thể, toàn diện cơ
sở xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng
hình sự, từ đó, góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con
người trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam, tác giả lựa chọn nghiên
cứu đề tài “Bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà
nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình tìm hiểu, đã có các đề tài, luận văn, báo cáo, hội thảo về lĩnh
vực TNBTCNN, tiêu biểu có thể kể đến:
- Lê Mai Anh (2002), Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan
tiến hành tố tụng gây ra, Luận án Tiến sĩ Luật học – Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;
- Hoàng Xuân Hoan (2013), Pháp luật của Việt Nam và một số quốc gia trên
3
thế giới về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa
Luật Đại học Quốc gia;
- Trần Việt Hưng (2014), Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của
nhà nước trong THADS ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh;
- Lê Thái Phương (2006), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của Nhà nước, Luận văn Thạc sĩ - Đại học Luật Hà Nội;
- Trần Quyết Thắng (2007), Cơ chế minh oan trong tố tụng hình sự Việt
Nam. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sỹ luật học;
Một số bài viết, báo cáo liên quan:
- Nguyễn Ngọc Chí và Đào Thị Hà (2003), “Oan và sai trong tố tụng
hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp;
- Nguyễn Ngọc Chí và Đào Thị Hà (2003), “Minh oan trong tố tụng
hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp;
- Dương Thanh Mai và Đỗ Đình Lương (2002), “Trách nhiệm, thủ tục bồi
thường thiệt hại đối với oan, sai trong tố tụng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp;
- Dương Thanh Mai và Nguyễn Hoàng Hạnh (2001), “Bồi thường thiệt
hại đối với oan sai trong tố tụng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp;
- Đỗ Đình Lương và Hà Tú Cầu (2001), “Bàn về khái niệm oan, sai và
căn cứ pháp lý xác định oan, sai trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
- Đưa ra cái nhìn toàn diện, có tính hệ thống và khoa học về các vấn
đề pháp lý, thực tiễn liên quan đến quyền con người trong pháp luật về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố
tụng hình sự.
- Đánh giá thực trạng pháp luật, trên cơ sở đó xác định phương hướng,
4
giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường nhà
nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung của pháp luật về bồi thường
thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại cho
người bị oan nhìn từ góc độ bảo đảm quyền con người.
- Đưa ra được những giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt
hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS gây ra.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Là các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền con người thông qua
cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình
sự; thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại (viết tắt là BTTH)
qua đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp giảm oan, sai và
nâng cao hiệu quả công tác bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các khái niệm, nội dung pháp luật về BTTH (về vật chất và
tinh thần) cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS
gây ra từ năm 2010 đến năm 2015 trong phạm cả nước.
Đề tài không bao gồm toàn bộ phạm vi bồi thường của Nhà nước nói
chung và các hoạt động tố tụng trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động,
hành chính và lĩnh vực thi hành án dân sự. Trong phạm vi luận văn, tác giả
chỉ nghiên cứu về lĩnh vực BTTH cho người bị oan trong TTHS làm cơ sở lý
luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về BTTH trong TTHS.
5
5. Những đóng góp của đề tài
Đề tài là công trình nghiên cứu chuyên khảo với những đóng góp về
mặt khoa học trong việc phân tích một cách tương đối toàn diện các vấn đề về
cơ sở lý luận và thực tiễn việc hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền được
BTTH của người bị oan trong các giai đoạn TTHS, góp phần hoàn thiện pháp
luật về BTTH cho người bị oan. Kết quả nghiên cứu luận văn có những điểm
mới về mặt khoa học như sau:
Thứ nhất, phân tích và làm rõ các khái niệm người bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự, cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự..., các nguyên tắc xác định phạm vi trách nhiệm bồi
thường, cơ quan tố tụng có trách nhiệm bồi thường; các nguyên tắc xác định
tính chất, mức độ thiệt hại; tính khả thi của quá trình BTTH; vai trò, đặc
điểm, nội dung, yêu cầu của quá trình hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Thứ hai, sự phát triển của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con
người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự qua các thời kỳ, đồng thời chỉ ra những tồn tại của pháp
luật hiện hành về vấn đề này.
Thứ ba, phân tích những yêu cầu khách quan và kiến nghị các giải pháp
cụ thể vận dụng trong quá trình hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này, trên
cơ sở tổng quan của hệ thống pháp luật Việt Nam, phù hợp với yêu cầu mới.
6. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và
pháp luật, nhất là các quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp,
xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Ngoài ra, luận văn còn dựa trên cơ sở lý
luận của khoa học luật hình sự, luật TTHS, luật dân sự, những lý luận có tính
phổ biến ở một số quốc gia về lĩnh vực này.
6
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, trực
tiếp sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử như phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp lịch sử cụ
thể, phương pháp phân tích và tổng hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một
số phương pháp nghiên cứu của các bộ môn khoa học khác như phương pháp
luận so sánh, phương pháp thống kê...
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết
thực trong việc hoàn thiện pháp luật về BTTH cho người bị oan trong hoạt
động TTHS, tạo điều kiện cho việc bảo đảm các quyền con người, quyền
công dân, nâng cao tinh thần trách nhiệm của người thi hành công vụ trong
hoạt động TTHS, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng oan, sai và góp phần
hội nhập khu vực cũng như hội nhập quốc tế.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
nhà nước trong xây dựng, sửa đổi và thực thi các văn bản pháp luật liên quan
đến bảo vệ quyền con người trong pháp luật về trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước cho người bị oan trong hoạt động TTHS ở Việt Nam; đồng thời có
thể phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập pháp luật về lĩnh vực này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần: Mở đầu; Kết luận; Lời cam đoan; Danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung của Luận văn được chia thành 3 Chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người thông qua
cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về
bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người
bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự từ 2010 đến 2015.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bồi
thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI
THÔNG QUA CƠ CHẾ BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC CHO
NGƢỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Những khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm về quyền con người
Quyền con người là sự kết tinh những giá trị cao đẹp nhất trong nền
văn hóa của nhân loại mà trong đó, những giá trị này “được đóng góp của
tất cả các quốc gia, dân tộc, giai cấp, tầng lớp và cá nhân con người trên
thế giới” [54, tr.14]. Tuy nhiên, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi khu vực trên thế
giới có sự khác nhau về chính trị, lịch sử, văn hóa, tôn giáo, do đó, hình thành nên
rất nhiều cách hiểu khác nhau về quyền con người. Cho đến nay, có đến “gần 50
định nghĩa về quyền con người” [54, tr.41], theo đó, mỗi định nghĩa tiếp cận vấn
đề về quyền con người khác nhau bởi lẽ mỗi định nghĩa lại phụ thuộc vào sự nhìn
nhận chủ quan của mỗi cá nhân sống tại quốc gia đó, dân tộc đó.
Ở cấp độ quốc tế, Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con
người đã định nghĩa “quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có
tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc
sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ
bản của con người” [54, tr.41].
Ở Việt Nam, quyền con người thể hiện qua những ý niệm và hành động
khoan dung nhân đạo xuất phát từ hàng nghìn năm lịch sử đất nước đoàn kết
chống thù trong giặc ngoài, hun đúc từ nhiều thế hệ tạo nên những giá trị văn
hóa, tinh thần tiêu biểu của dân tộc. Đó là sự cần cù, kiên trì, nhân ái, vị tha,
tinh thần quật cường, đoàn kết của con người Việt Nam qua các thời kỳ phong
kiến, thời kỳ Pháp thuộc, thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến
8
ngày nay. Xuất phát từ bối cảnh lịch sử đó, ở nước ta, quyền con người được
hiểu là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người
được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý
quốc tế” [54, tr.42].
Như vậy, từ khái niệm mang cấp độ quốc tế đến khái niệm mang cấp
độ quốc gia, mà ở đây là nước Việt Nam, cho thấy dù nhìn quyền con người
ở góc độ nào và cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là
những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ; là những
giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi
giai đoạn lịch sử.
1.1.2. Khái niệm người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự
Tố tụng hình sự là quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự. Quá trình đó bao gồm nhiều hoạt động của
cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án; của
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, của người
tiến hành tố tụng và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra trong việc điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự. Nhiệm vụ của tố tụng hình sự là phát hiện chính
xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Bộ luật Tố tụng hình sự Việt
Nam đã thể hiện rõ tư tưởng “lấy dân làm gốc”, đáp ứng yêu cầu bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền
con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý kiên quyết và triệt
để mọi hành vi phạm tội. Tuy nhiên, hoạt động tố tụng hình sự nói riêng, hoạt
động của các cơ quan nhà nước nói chung trong bất cứ lĩnh vực nào cũng sẽ
không tránh khỏi những sai sót nhất định:
9
Xã hội hiện đại của chúng ta ngày càng đòi hỏi sự an toàn.
Đòi hỏi đó làm phát sinh tư tưởng cho rằng mọi rủi ro đều phải
được bảo hiểm, rằng mọi thiệt hại phải được bồi thường nhanh
chóng và toàn bộ, rằng xã hội không chỉ phải bồi thường những
thiệt hại do chính xã hội gây ra mà còn phải bồi thường những thiệt
hại mà xã hội đã không ngăn ngừa được [27, tr.772].
Theo đó, xã hội càng hiện đại, văn minh càng đỏi hỏi tính trách nhiệm
cao hơn, đầy đủ và toàn diện hơn đối với các chủ thể, trong đó có Nhà nước.
Nhà nước phải là hiện thân, là mẫu hình của tính trách nhiệm toàn vẹn nhất
trong xã hội.
Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt
động TTHS thì vấn đề quan trọng phải xác định đúng đối tượng được bồi
thường. Oan theo nghĩa thông thường là “bị quy cho tội mà bản thân không
phạm, phải chịu sự trừng phạt mà bản thân không đáng phải chịu” [64, tr.744]
hay theo Từ điển Tiếng Việt “oan” là một người “bị quy tội không đúng, phải
chịu sự trừng phạt một cách sai trái, vô lý” [65, tr.1269]. Còn dưới góc độ
khoa học tố tụng hình sự, có nhận thức như sau:
- Người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố
tụng hình sự gây ra được bồi thường thiệt hại bao gồm:
- Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định tạm giữ vì
người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;
- Người bị tạm giam mà có quyết định của cơ quan có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định tạm giam
vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội;
- Người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù
có thời hạn, tù chung thân, đã bị kết án tử hình mà có bản án, quyết
định của Tòa án có thẩm quyền xác định người đó không thực hiện
hành vi phạm tội;
10
- Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án ngoài các trường
hợp quy định trên đây mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm
quyền trong tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành
vi phạm tội (người bị khởi tố nhưng được tại ngoại) [60, tr. 54].
Một khái niệm cũng tương đối gần với khái niệm “oan” mà hay được
nhắc tới đó là khái niệm “sai”. Theo từ điển tiếng Việt thì “sai” được hiểu là
“không phù hợp với cái hoặc điều có thật, mà có khác đi”. Trong TTHS,
việc giải quyết vụ án sai là trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng (viết tắt
CQTHTT), người tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một cách không khách
quan, trái với những quy định của pháp luật. Nói cách khác “sai” trong
TTHS được hiểu là tính chất của hoạt động hoặc chất lượng giải quyết vụ án
hình sự của CQTHTT, người tiến hành tố tụng không đúng với qui định của
pháp luật, không đáp ứng được yêu cầu khách quan trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự.
Hiện nay trong hệ thống pháp luật nước ta chưa có một văn bản nào xác
định các tiêu chí đánh giá oan, sai trong các giai đoạn TTHS. Theo giải thích
trên thì khái niệm “sai” có phạm vi rộng hơn so với khái niệm “oan”, việc làm
“oan” người vô tội luôn là hệ quả của “sai”. Không phải trường hợp hành vi
„sai‟ của CQTHTT đều dẫn đến việc làm “oan” người vô tội. Tuy nhiên, việc
phân biệt thế nào là “oan”, “sai” trong hoạt động TTHS là một vấn đề phức tạp
cả về mặt lý luận cũng như pháp luật thực định [9]. Thực tiễn lập pháp cho
thấy, pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các nước trên thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng không phân biệt hai khái niệm “oan”, “sai”
mà chỉ quy định các trường hợp được bồi thường thiệt hại. Luật TNBTCNN
chỉ quy định các đối tượng bị “oan” mới được yêu cầu BTTH; còn các trường
hợp bị “sai” không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật. Có tác giả cho rằng,
trường hợp công dân bị truy tố, xét xử, kết án theo một tội danh nặng hơn so
11
với tội danh trên thực tế đã phạm hoặc bị tòa án áp dụng hình phạt nặng hơn so
với hình phạt mà hành vi phạm tội của họ phải thực hiện và bản án đã được tòa
án cấp trên sửa theo hướng nhẹ hơn về tội danh hoặc hình phạt mà tòa án cấp
dưới đã xét xử thuộc nội hàm của khái niệm “oan” trong TTHS là chưa có tính
thuyết phục vì không phù hợp với thực tiễn lập pháp của các quốc gia trên thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng; trường hợp này cũng không nằm trong
phạm vi được bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật TNBTCNN.
Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm và phạm vi của
“oan” như sau:
- Thứ nhất, “oan” là trường hợp người không thực hiện hành vi phạm
tội nhưng bị tạm giữ, tạm giam, bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nội diên của
khái niệm này chỉ ra rằng chỉ những người bị tạm giữ, tạm giam, bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định của BLTTHS nhưng sau đó được xác định
rằng họ không thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi của họ không cấu
thành tội phạm mới được xác định là “oan”.
- Thứ hai, người bị tạm giữ oan là người hoàn toàn không có hành vi vi
phạm pháp luật (bao gồm luật hình sự và các ngành luật khác: luật hành
chính, lao động, dân sự, kinh tế…). Trường hợp bị tạm giam oan, thi hành án
oan là người đã có hành vi có dấu hiệu tội phạm nhưng chưa đủ yếu tố cấu
thành tội phạm.
- Thứ ba, người bị tạm giữ oan là người thực tế không thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật hình sự; còn các hành vi vi phạm khác như vi phạm pháp
luật dân sự, kinh tế… không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật TNBTCNN.
Đối với người bị tạm giam, bị thi hành án oan là những người có hoặc không
có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, đã được các cơ quan THTT ra quyết
định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không phạm tội do không cấu thành
tội phạm hoặc được Tòa án tuyên bố không phạm tội.
12
Từ những nhận định trên, có thể hiểu: Oan trong TTHS là việc một
người trên thực tế không thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, không cấu
thành tội phạm nhưng đã bị các CQTHTT áp dụng biện pháp ngăn chặn, bị
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
1.1.3. Khái niệm cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong
hoạt động tố tụng hình sự
Bồi thường nhà nước là khái niệm xuất hiện từ thời kỳ cận đại, sau khi
giai cấp tư sản làm cách mạng dành được chính quyền vào thế kỷ XVIII ở
phương Tây. Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước với tính cách là một loại
hình trách nhiệm pháp lý đặc biệt, chỉ xuất hiện trong những điều kiện và có cơ
sở pháp luật cụ thể. Nhà nước, với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật, có
những quyền và nghĩa vụ nhất định, đồng thời phải chịu những hậu quả pháp lý
phát sinh từ những quan hệ pháp luật đó. Nếu Nhà nước và các cán bộ, công
chức trong quá trình thực thi công vụ có hành vi vi phạm pháp luật, gây tổn hại
đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức thì Nhà nước phải chịu
trách nhiệm bồi thường. Theo đó, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được
phát sinh từ các hoạt động mang tính công quyền, do cơ quan nhà nước hoặc
các cá nhân, tổ chức nhân danh Nhà nước thực hiện [47, tr. 15-17].
Cơ chế bồi thường nhà nước bản chất là bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trong pháp luật dân sự. Việc xác định mức độ thiệt hại cũng như mức
bồi thường đều mang bản chất của quan hệ dân sự, dựa trên nguyên tắc bình
đẳng, tự nguyện thỏa thuận, định đoạt giữa người gây thiệt hại và người bị
thiệt hại. Như vậy, mặc dù bản chất của quan hệ giữa Nhà nước và công dân
là quan hệ pháp luật công nhưng quan hệ bồi thường thiệt hại của Nhà nước
phát sinh từ quan hệ công lại mang bản chất của quan hệ dân sự. Như vậy, cơ
sở của chế định bồi thường nhà nước dựa trên các quyền con người, quyền
của công dân, được pháp luật ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm thực hiện bởi Nhà
13
nước. Hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức khi thi hành công vụ mà
gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân thì Nhà nước với tư cách người sử dụng lao
động, trước hết phải chịu trách nhiệm bồi thường [47, tr. 32].
Tuy nhiên, khác với bồi thường thiệt hại thông thường là trách nhiệm
của cá nhân, tổ chức gây thiệt hại thì cơ chế bồi thường nhà nước cho người
bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự là trách nhiệm Nhà nước phải khắc
phục hậu quả mà người có thẩm quyền THTT gây ra do xâm phạm quyền tư
pháp bằng cách bù đắp, đền bù những tổn thất về vật chất, tinh thần và khôi
phục danh dự, uy tín, nhân phẩm của con người, của công dân.
Gây oan là một việc làm nhạy cảm trong hoạt động tư pháp nói chung,
hoạt động TTHS nói riêng. Hoạt động của CQTHTT chiếm một vị trí vai trò
hết sức quan trọng trong bộ máy nhà nước phản ánh sâu sắc và đầy đủ bản
chất của công lý, của quyền tư pháp và thể hiện rõ đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Bản thân CQTHTT trước hết là một loại cơ quan nhà nước thực hiện chức
năng nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục tố tụng do luật định nhằm
bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức, Nhà nước. Trong đó, người tiến hành tố tụng là người
đại diện quyền lực Nhà nước để giải quyết khách quan, đúng pháp luật những
vụ việc theo trình tự, thủ tục nhất định. Hoạt động của họ trong khuôn khổ
nhiệm vụ được giao chính là hoạt động công vụ nhân danh Nhà nước bảo vệ
quyền lợi của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Bên cạnh những hoạt động tích
cực thì đôi lúc họ cũng gặp phải những sai lầm vì nguyên nhân này hay
nguyên nhân khác. Do vậy bản thân họ phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước,
trước nhân dân về những sai lầm đó. Nhưng nếu để các cá nhân người thi
hành công vụ phải chịu trách nhiệm bồi thường trực tiếp cho những người bị
thiệt hại thì đôi khi sẽ ảnh hưởng đến tính tích cực và chủ động của nhân viên
Nhà nước khi thi hành công vụ, bởi đây thực chất là trách nhiệm của Nhà
14
nước. Do đó hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phân định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do oan theo nguyên tắc là sẽ có cơ quan đại diện
Nhà nước để giải quyết bồi thường phát sinh từ hoạt động tố tụng: đó có thể là
một cơ quan độc lập hoặc là chính CQTHTT đã gây ra oan cho người bị thiệt
hại, còn người tiến hành tố tụng đã gây oan có thể phải chịu trách nhiệm hoàn
trả cho Nhà nước một phần tiền bồi thường mà Nhà nước đã chi trả. Như vậy,
đặc điểm của cơ chế bồi thường nhà nước cho người oan trong hoạt động tố
tụng hình sự, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường. Trong mối quan hệ
bồi thường thiệt hại cho người bị oan thì Nhà nước chính là chủ thể chịu trách
nhiệm bồi thường do hành vi làm oan người vô tội của người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng gây ra, trong đó, Nhà nước có thể giao một cơ quan thay
mình đứng ra giải quyết bồi thường. Đó có thể là một cơ quan độc lập hay
chính là cơ quan tiến hành tố tụng đã ra thiệt hại, tuy nhiên, trách nhiệm bồi
thường vẫn thuộc trách nhiệm của Nhà nước.
Thứ hai, chủ thể được hưởng bồi thường là người bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự bị thiệt hại hoặc cả thân nhân của họ hoặc người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Ví dụ, trường hợp một cá nhân bị đi tù oan, thì
ngoài việc bồi thường những thiệt hại vật chất và tinh thần đối với chủ thể đó,
Nhà nước còn phải xem xét trách nhiệm bồi thường của mình đối với những
thiệt hại mà thân nhân hay người có liên quan tới chủ thể bị tù oan phải gánh
chịu phát sinh từ sự kiện đó.
Thứ ba, bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng
hình sự là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tuy nhiên
BTTH cho người bị oan trong TTHS có đặc thù thể hiện rõ ở sự mâu thuẫn về
quyền lợi giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại, trong đó bên gây thiệt hại
là người THTT, CQTHTT bên bị thiệt hại là người bị oan. Bản thân quá trình
15
này có đặc điểm là để khắc phục hậu quả xấu do người THTT gây ra đối với
tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị oan.
Thứ tư, bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng
hình sự là sự bù đắp tổn thất, mất mát về vật chất hoặc tinh thần và khôi phục
danh dự, uy tín, nhân phẩm cho người bị oan. Tuy nhiên không phải trường
hợp thiệt hại nào cũng có thể xác định chính xác mức độ thiệt hại, nhất là thiệt
hại về tinh thần. Trong nhiều trường hợp, sự bù đắp có thể không tương xứng
với thiệt hại nhưng vẫn có ý nghĩa, vì nếu không xác định được chính xác thiệt
hại mà bỏ qua việc bồi thường thì có nghĩa là trật tự pháp luật bị xâm phạm,
quyền lợi hợp pháp của cá nhân không được pháp luật bảo vệ. Với những tổn
thất về tinh thần, sự bù đắp của việc BTTH có ý nghĩa an ủi, chia sẻ những mất
mát mà người bị thiệt hại hoặc thân nhân của họ phải gánh chịu, góp phần giúp
cho người bị thiệt hại ổn định lại cuộc sống sau những gì họ phải chịu đựng.
Đó cũng là đạo lý cần được giữ gìn thông qua sự điều chỉnh của pháp luật, và
mang ý nghĩa tinh thần của một sự bù đắp có tính vật chất, tài sản.
Qua những phân tích trên có thể thấy trách nhiệm bồi thường thiệt hại
cho người bị oan trong hoạt động TTHS là một loại trách nhiệm nhà nước
trong đó Nhà nước phải bồi thường cho người thiệt hại và người tiến hành tố
tụng gây thiệt hại có thể phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả cho Nhà nước tùy
từng trường hợp. Bản chất của loại trách nhiệm này xuất phát từ tính chất của
hoạt động công vụ của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là hoạt động
nhân danh quyền lực Nhà nước bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội.
CQTHTT và người tiến hành tố tụng là những thiết chế đại diện cho quyền
lực nhà nước khi hoạt động tố tụng gây thiệt hại cho công dân thì Nhà nước
phải chịu trách nhiệm về hoạt động của các cơ quan đại diện cho mình tức là
phải có trách nhiệm khắc phục những tổn thất gây ra. Từ những phân tích trên
có thể đưa ra khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người có thẩm
16
quyền tiến hành tố tụng gây ra là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra là trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
cho người bị oan, nhằm bù đắp, đền bù thiệt hại vật chất, tinh thần và khôi
phục danh dự, uy tín cho người đó.
Bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự
do người có thẩm quyền trong CQTHTT gây ra vừa mang tính đặc thù của bồi
thường dân sự là mang tính chất đền bù, vừa mang đặc thù của quyền tư pháp
là nhằm khẳng định sự nghiêm minh, tính công bằng, dân chủ của pháp luật.
Như vậy, Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự bao gồm tổng thể các quy định của pháp luật và biện
pháp thi hành để thực hiện trách nhiệm của Nhà nước nhằm khắc phục những
hậu quả bất lợi về vật chất, tinh thần mà người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng đã gây ra do xâm phạm quyền tư pháp bằng cách bù đắp, đền bù những
tổn thất về vật chất, tinh thần và khôi phục danh dự, uy tín, nhân phẩm cho
người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.
Tóm lại, từ những khái niệm nêu trên về quyền con người, về người bị
oan, về cơ chế bồi thường cho người bị oan, tôi cho rằng bảo đảm quyền con
người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động
tố tụng hình sự thể hiện trong việc xây dựng một hệ thống quy tắc xử sự chung
thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, thể hiện ý chí và nguyện vọng của
nhân dân để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động TTHS với
người bị oan nhằm bảo vệ những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan
của con người, của người bị oan được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
1.2. Những thiệt hại của ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự
1.2.1. Quan điểm chung về thiệt hại của người bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự
Thiệt hại, dưới góc độ ngôn ngữ học, được hiểu là “mất mát, hư hỏng
17
nặng nề về người và của” [64]. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của
Trường Đại học Luật Hà Nội thì thiệt hại là “tổn thất về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ” [50].
Dưới góc độ luật thực định, không có một khái niệm cụ thể về thiệt hại, tuy
nhiên, từ cách tiếp cận khái niệm “trách nhiệm bồi thường thiệt hại” trong
quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, BLDS quy định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về
vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần, trong đó, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất được xác định là trách nhiệm bù đắp
tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra,
bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập
thực tế bị mất, bị giảm sút và trách nhiệm của người đã gây thiệt hại về tinh
thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người khác, thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi,
cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền cho người bị thiệt
hại. Trong lĩnh vực pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luật
TNBTCNN (Điều 2) quy định đối tượng được bồi thường bao gồm “Cá nhân,
tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh thần...”.
Như vậy, theo quan điểm phổ biến hiện nay, dưới góc độ thuật ngữ
và dưới góc độ khoa học pháp lý thì “thiệt hại có thể hiểu là sự không
nguyên vẹn như trạng thái ban đầu của sự vật sau khi chịu sự tác động bên
ngoài” [47, tr.31]. Cụ thể, thiệt hại bao gồm: thiệt hại về chật chất và thiệt
hại về tinh thần. Thiệt hại về tinh thần bao gồm: tổn thất về danh dự, uy tín,
nhân phẩm hoặc suy sụp về tâm lý, tình cảm của cá nhân và thiệt hại về vật
chất bao gồm: tài sản bị mất, hủy hoại, bị hư hỏng; chi phí phải bỏ ra để
khắc phục, ngăn chặn thiệt hại cùng những hoa lợi, lợi tức không thu được
mà đáng ra thu được.
18