Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh nam định)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (826.7 KB, 93 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

V NGC DUYấN

PHIÊN TòA HìNH Sự SƠ THẩM
TRONG LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2016


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

V NGC DUYấN

PHIÊN TòA HìNH Sự SƠ THẩM
TRONG LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS. NGUYN NGC CH

H NI - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Vũ Ngọc Duyên


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ
THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ......................................................6
1.1.

Khái niệm phiên tòa hình sự sơ thẩm .......................................................6

1.2.


Ý nghĩa của phiên tòa hình sự sơ thẩm ....................................................11

1.2.1. Về phương diện pháp lý ...............................................................................11
1.2.2. Về phương diện chính trị - xã hội.................................................................12
1.3.

Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng thẩm vấn và mô
hình tố tụng tụng tranh tụng .....................................................................14

1.3.1. Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng tranh tụng .......................14
1.3.2. Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng thẩm vấn .........................17
1.4.

Thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm ...........................................................21

1.4.1. Phần thủ tục bắt đầu phiên tòa ......................................................................21
1.4.2. Phần thủ tục xét hỏi và tranh luận ................................................................21
1.4.3. Phần thủ tục nghị án và tuyên án ....................................................................24
Kết luận chương 1 ...................................................................................................25
Chương 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH ..... 26
2.1.

Qui định của pháp luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm ............................26

2.1.1. Qui định của pháp luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm từ 1945 đến năm 1988 ....26
2.1.2. Qui định của pháp luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm của BLTTHS
năm 2003 ......................................................................................................30
2.1.3. Những điểm mới về phiên tòa hình sự sơ thẩm theo qui định của Bộ

luật tố tụng hình sự năm 2015 so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.....41


2.2.

Thực tiễn thi hành phiên tòa hình sự sơ thẩm trên địa bàn tỉnh
Nam Định ....................................................................................................44

2.2.1. Thực tiễn phiên tòa sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Nam Định ............................46
2.2.2. Nhận xét về nguyên nhân hạn chế của phiên tòa hình sự sơ thẩm qua
thực tiễn xét xử .............................................................................................58
Kết luận chương 2 ...................................................................................................63
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM .....64
3.1.

Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu
quả thi hành phiên tòa hình sự sơ thẩm ...................................................64

3.2.

Hoàn thiện pháp luật phiên tòa hình sự sơ thẩm ....................................65

3.3.

Các giải pháp để nâng cao hiệu quả thi hành phiên tòa hình sự sơ thẩm .......69

3.3.1. Về kiện toàn đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Luật sư và
tổ chức, hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát, Đoàn Luật sư ......................69
3.3.2. Đảm bảo cơ sở vật chất và chế độ đãi ngộ phù hợp với những người

tiến hành tố tụng ...........................................................................................74
3.3.3. Tăng cường ý thức pháp luật trong nhân dân ...............................................77
Kết luận chương 3 ...................................................................................................79
KẾT LUẬN ..............................................................................................................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................83


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX:

Hội đồng xét xử

HSST:

Hình sự sơ thẩm

HTND:

Hội thẩm nhân dân

Nghị quyết 08: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của
Bộ chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới"
Nghị quyết 48: Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ
Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện

hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020”;
Nghị quyết 49: Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020"
TAND:

Tòa án nhân dân

TTHS:

Tố tụng hình sự


DANH MỤC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Bảng 2.1. Tình hình thụ lý giải quyết án hình sự

Trang
45


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tư pháp trong lĩnh vực tố tụng hình sự đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải
quyết trong đó có hoạt động tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Đề cập về vấn đề này Nghị

quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới" và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 "Về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020" của Bộ Chính trị, đã nêu rõ: Nâng cao chất lượng xét xử
của Tòa án là khâu trung tâm, đột phá, thông qua việc nâng cao tính dân chủ, khách
quan trong tranh tụng tại phiên tòa. Hiến pháp 2013 cũng đã xác định "Bản án, quyết
định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân
tôn trọng… nghiêm chỉnh chấp hành" [36, Điều 106].
Những năm gần đây, sau khi Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức TAND năm
2014 có hiệu lực, quy định pháp luật về phiên toà hình sự sơ thẩm trong tố tụng
hình sự về vị trí vai trò của chủ thể tham gia phiên tòa, việc áp dụng thủ tục, nội
hàm một số nguyên tắc cơ bản như nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, các văn bản
ban hành tại phiên tòa… đã đặt ra nhiều vấn đề cần phải đổi mới.
Thực tiễn thi hành phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại địa bàn tỉnh
Nam Định trước yêu cầu cải cách tư pháp còn cho thấy còn nhiều tồn tại, hạn chế,
số bản án, quyết định của Tòa án thiếu căn cứ, vi phạm pháp luật bị hủy, sửa còn
tồn tại. Chất lượng phiên tòa hình sự sơ thẩm chưa thật sự cao do nhiều nguyên
nhân; Trước hết, do trình độ chuyên môn của những người tiến hành tố tụng chưa
đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp, tình trạng HĐXX không áp dụng đúng, đầy
đủ thủ tục tố tụng tại phiên tòa cũng như pháp luật nội dung. Quy định về thủ tục
xét hỏi tại toà đã đặt toàn bộ gánh nặng trách nhiệm chứng minh lên vai HĐXX mà
chủ yếu là chủ toạ phiên toà, dẫn đến tình trạng tại phiên tòa chủ yếu do Chủ tọa
phiên tòa tiến hành, Kiểm sát viên chỉ có nhiệm vụ đọc cáo trạng và luận tội diễn ra
phổ biến. Trong hầu hết các phiên tòa không có “tranh tụng” bởi hầu hết không có
sự tham gia của người bào chữa, nếu có người bào chữa thì chất lượng bào chữa

1


cũng không cao, trong khi đó các bị cáo không có khả năng trình bày, tranh luận.
Thực tiễn thi hành về hình thức phiên tòa như việc bố trí chỗ ngồi tại phiên tòa,

quyền của bị cáo, người bào chữa cũng cho thấy sự bất bình đẳng giữa bên buộc tội
và bên bị buộc tội; Ngoài ra, cơ sở vật chất cho việc tổ chức phiên tòa chưa được
đảm bảo dẫn đến không thể bố trí được phiên tòa đảm bảo tính uy nghiêm của chốn
“pháp đình”…. Tất cả những tồn tại phổ biến đã đề cập, cho thấy tính cấp thiết của
việc đưa ra những giải pháp cụ thể để khắc phục.
Để làm rõ cơ sở lý luận, quy định pháp luật tố tụng hình sự về phiên tòa sơ
thẩm, đánh giá đúng thực trạng phiên tòa sơ thẩm, hướng tới việc đổi mới, hoàn
thiện pháp luật, nâng cao chất lượng phiên tòa sơ thẩm theo tinh thần cải cách tư
pháp, bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự, gắn với địa bàn
công tác, tác giả đã lựa chọn đề tài: "Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định" làm Luận văn
Thạc sĩ Luật học, chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo trong nước, các bài viết
trên các tạp chí về đề tài liên quan đến phiên tòa hình sự sơ thẩm; Tại Khoa luật- Đại
học Quốc gia Hà Nội có Luận văn thạc sỹ "Thủ tục tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm" của tác giả Nguyễn Quỳnh Trang năm 2008, "Hoàn thiện thủ tục tố tụng tại
phiên tòa hình sự sơ thẩm trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay" của tác giải
Nguyễn Hữu Tuấn năm 2009, "Giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt
Nam- Những lý luận và thực tiễn" của tác giả Ngô Huyền Nhung năm 2012… Các
nghiên cứu này thường đề cập một nội dung về thủ tục phiên tòa như của tác giả
Nguyễn Quỳnh Trang và của tác giả Nguyễn Hữu Tuấn, hay toàn bộ giai đoạn xét xử
sơ thẩm như của tác giả Nguyễn Hồng Nhung… với thực trạng trong toàn quốc. Tuy
nhiên, từ khi Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 có hiệu
lực, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu lý luận về phiên tòa hình sự sơ
thẩm gắn vị trí vai trò của chủ thể tham gia phiên tòa, các nguyên tắc cơ bản được áp
dụng, thủ tục tại phiên tòa cũng như thủ tục ban hành bản án, quyết định tại phiên tòa…
và trên cơ sở thực tiễn xét xử tại địa bàn tỉnh Nam Định.

2



Ngoài ra các công trình nghiên cứu như đã đề cập đều được thực hiện trước
khi Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức TAND năm 2014 và BLTTHS năm 2015 có
hiệu lực khi các quy định pháp luật tố tụng hình sự cần có nhiều thay đổi.
2. Mục đích và nhiệm vụ và nghiên cứu của luận văn
2.1. Mục đích của luận văn
- Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận về thủ tục phiên
tòa hình sự gắn vị trí vai trò của chủ thể tham gia phiên tòa, các nguyên tắc cơ bản
được áp dụng, trình tự, thủ tục tại phiên tòa, thủ tục ban hành bản án, quyết định tại
phiên tòa… trong tình hình mới.
- Đánh giá một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về thực trạng áp
dụng các quy định pháp luật tố tụng hình sự trong phiên tòa hình sự, sự tham gia
của các chủ thể tố tụng… tìm ra những nguyên nhân của những vướng mắc tồn tại.
- Đưa ra những kiến nghị giải pháp cụ thể, có tính khả thi nhằm hoàn thiện
các quy định pháp luật về phiên toà hình sự sơ thẩm phục vụ nhiệm vụ cải cách tư
pháp ở nước ta trong tình hình mới.
2.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được những mục đích trên, cần phải giải quyết những nhiệm vụ
chính sau đây:
- Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của quy định về phiên tòa hình
sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
- Nghiên cứu khái quát sự hình thành và phát triển của quy định về phiên tòa
hình sự sơ thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phiên tòa hình sự sơ thẩm để tìm ra một số
tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản.
- Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện quy định của Luật tố tụng hình sự Việt Nam
về phiên tòa hình sự sơ thẩm, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng


3


Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật trong việc nghiên cứu. Bên cạnh đó, luận
văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu truyền thống như sau:
Phương pháp phân tích nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Phương pháp so sánh, để đối chiếu, so sánh với quy định của BLTTHS một số
nước trên thế giới nhằm tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm khi đưa ra đề xuất, kiến nghị.
Phương pháp tổng hợp để tổng hợp các vấn đề đã được nghiên cứu nhằm đưa
ra những nhận định và kết luận chung.
Phương pháp thống kê để thống kê số liệu trong thực tiễn xét xử làm cơ sở
cho việc đưa ra nhận xét, kết luận và kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp
luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu khái niệm phiên tòa hình sự sơ thẩm, vị trí, vai trò, ý nghĩa của
phiên tòa hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự; phiên tòa hình sự sơ thẩm ở mô
hình tố tụng thẩm vấn và mô hình tố tụng tranh tụng; quy định pháp luật về phiên
tòa hình sự sơ thẩm; thực tiễn phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về phiên tòa hình sự sơ thẩm
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam từ Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay. Đánh
giá thực tiễn thi hành phiên tòa hình sự sơ thẩm trên phạm vi địa bàn tỉnh Nam Định
trong những năm gần đây để từ đó hoàn thiện BLTTHS nước ta về phiên tòa hình
sự sơ thẩm cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định
của BLTTHS nước ta về phiên tòa hình sự sơ thẩm.
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình khoa học ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên
cứu về đề tài này và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Nam Định trong giai đoạn 05
năm (2011- 2015); Việc nghiên cứu đề tài có thể đạt được những kết quả mới như:

- Luận văn làm rõ cơ sở lý luận về phiên tòa hình sự sơ thẩm, gắn vị trí,
vai trò của chủ thể tham gia phiên tòa với mô hình tố tụng, hoạt động tố tụng tại
phiên tòa.

4


- Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của BLTTHS, nghiên cứu việc thực thi
pháp luật tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại địa bàn tỉnh Nam Định, luận văn chỉ ra
những điểm bất cập của pháp luật, những vướng mắc trong quá trình áp dụng.
- Luận văn đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về
vấn phiên tòa hình sự sơ thẩm; một số giải đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả
phiên tòa sơ thẩm theo tinh thần cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013.
- Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa nhất định
đối với việc nâng cao chất lượng phiên tòa hình sự sơ thẩm. Thông qua kết quả
nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình
vào việc phát triển lý luận về phiên tòa hình sự sơ thẩm; tránh xét xử oan, sai và
tránh bỏ lọt người phạm tội; giúp cho việc xét xử của Tòa án vụ án khách quan,
hiệu quả, khoa học bảo vệ quyền con người.
Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật tố tụng hình sự
nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại Tòa án.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung về phiên tòa hình sự sơ thẩm trong tố tụng
hình sự.
Chương 2. Quy định pháp luật và thực tiễn thi hành phiên tòa hình sự sơ
thẩm trên địa bàn tỉnh Nam Định
Chương 3. Hoàn thiện quy định pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả

thi hành phiên tòa hình sự sơ thẩm.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm phiên tòa hình sự sơ thẩm
Trong quá trình xét xử vụ án hình sự, những người tiến hành tố tụng phải
tuân thủ nhiều nguyên tắc cơ bản, trong đó nguyên tắc hai cấp xét xử được qui
định trong Luật TTHS các nước. Nguyên tắc hai cấp xét xử được ghi nhận trong
Hiến pháp Việt Nam năm 2013 “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo
đảm”. Nội dung của nguyên tắc này có xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm,
trong đó xét xử sơ thẩm được coi là trọng tâm và có tính chất bắt buộc của quá
trình giải quyết vụ án hình sự.
Để đảm bảo dân chủ, xét xử đúng người, đúng tội, áp dụng đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của con người là một trong
những đặc điểm của nhà nước pháp quyền. Quá trình giải quyết vụ án phải trải qua
các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Khi một hành vi vi phạm pháp luật có
dấu hiệu tội phạm bị phát hiện sẽ diễn ra hoạt động khởi tố vụ án và điều tra để xác
định người thực hiện hành vi này, nếu có thực hiện thì phạm vào tội gì, thuộc điều
khoản nào của luật hình sự. Khi có kết quả điều tra, cơ quan công tố truy tố người bị
buộc tội bằng bản cáo trạng ra trước tòa để xét xử, Tòa án mở phiên tòa để phán
quyết đối với người bị buộc tội. Như vậy xét xử vụ án hình sự là giai đoạn cuối
cùng của hoạt động tố tụng hình sự, về nguyên tắc được kết thúc bởi phiên tòa.
Xét xử là một trong những chức năng của Nhà nước, đó là việc thực hiện
quyền tư pháp, nhân danh Nhà nước để ra phán quyết, nhằm giải quyết xung đột,
trừng trị tội phạm qua đó bảo vệ, khôi phục trật tự pháp luật, bảo vệ quyền lợi của

Nhà nước. Hoạt động xét xử hình sự xuất hiện từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ cùng với
sự xuất hiện của “tội phạm”- hành vi nguy hiểm được luật hình sự bảo vệ. Tuy
nhiên trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, phong kiến thì không có tổ chức hệ thống Tòa

6


án có chức năng xét xử như ngày nay. Các Tòa án riêng biệt với chức năng xét xử
được thành lập ở mọi quốc gia.
Khái niệm xét xử, theo Từ điển luật học, “xét xử” là hành động xem xét,
đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức
độ pháp lý của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng
với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc [52].
Theo GS.TSKH Lê Cảm thì:
Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn thứ tư và cuối cùng, trung tâm
và quan trọng nhất của hoạt động tố tụng hình sự, mà trong đó cấp Tòa
án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
tiến hành: 1) áp dụng các biện pháp chuẩn bị cho việc xét xử, 2) Đưa vụ
án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem xét về thực chất vụ án,
đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của hai bên
(buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay không)
của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo (hoặc xét xử vụ án theo thủ tục
phúc thẩm - nếu bản án hay quyết định sơ thẩm đã được tuyên và chưa
có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị hoặc kiểm tra tính
hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp
luật theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm - nếu bản án hay quyết
định đó bị kháng nghị) và cuối cùng, tuyên bản án (quyết định) của Tòa
án có hiệu lực pháp luật nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một
cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết
phục. Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi Tòa án nhận được

hồ sơ vụ án hình sự (với quyết định truy tố bị can trước Tòa án kèm theo
bản cáo trạng) do Viện kiểm sát chuyển sang và kết thúc bằng một bản
án (quyết định) có hiệu lực pháp luật của Tòa án [10].
Theo Từ điển Tiếng việt, sơ thẩm được hiểu là: “Xét xử một vụ án với tư
cách là Tòa án ở cấp xét xử thấp nhất”(53). Nghiên cứu pháp luật về phiên tòa ở
các quốc gia thấy để việc xét xử đảm bảo thận trọng, chính xác, khách quan, đúng

7


pháp luật nên đều thực hiện chế độ hai cấp xét xử là sơ thẩm và phúc thẩm và sơ
thẩm là cấp xét xử thấp nhất cũng là cấp xét xử đầu tiên. Xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự là bước đầu tiên, chỉ khi xét xử sơ thẩm kết thúc có bản án quyết định được ban
hành và mới có căn cứ kháng cáo, kháng nghị để xét xử phúc thẩm. Xét xử phúc
thẩm chỉ là quá trình xem xét bản án, quyết định sơ thẩm đã được Tòa án cấp sơ
thẩm ban hành nhưng chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.
Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
đưa ra khái niệm:
Xét xử sơ thẩm là giai đoạn tiếp theo của quá trình tố tụng hình sự
trong đó, Tòa án có thẩm quyền, sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, lần đầu
tiên đưa vụ án hình sự ra xem xét công khai trước phiên tòa nhằm xác
định có hay không có tội phạm xảy ra, một người có phải là người phạm
tội để từ đó đưa ra bản án, quyết định phù hợp với tính chất của vụ án mà
Viện kiểm sát đã truy tố [14].
Theo Thạc sỹ Đinh Văn Quế - Nguyên Chánh Tòa hình sự-TAND Tối cao thì:
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn thể hiện tập trung và
quan trọng nhất của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tại phiên toà, sau
khi nghiên cứu khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án
một cách công khai, Toà án sẽ ra phán quyết bị cáo có tội hoặc không có
tội, phạm tội gì và áp dụng điều khoản nào của Bộ luật hình sự để tuyên

phạt bị cáo [28, tr.7].
Những nội dung đã nêu cho thấy xét xử sơ thẩm hình sự là một phần chủ yếu
của giai đoạn xét xử- giai đoạn cuối trong tố tụng hình sự, song có vị trí trung tâm
mà thể hiện rõ nét nhất là ở phiên tòa có tính chất công khai để Tòa án nhân danh
Nhà nước ra phán quyết giải quyết vụ án hình sự.
Khái niệm xét xử đi liền với khái niệm “phiên tòa”, bởi hoạt động xét xử chủ
yếu là hoạt động tại phiên tòa, phiên tòa là “lần họp để xét xử của Tòa án” [53].
Dưới góc độ pháp lý, Từ điển luật học [52] phiên tòa được hiểu “là hình thức hoạt
động xét xử của Tòa án”.
Theo từ điển Pháp- Việt, phiên tòa là “phiên họp của Tòa án xét xử các tội

8


phạm. Thành phần có chủ tọa phiên tòa là các Thẩm phán chuyên nghiệp, các
HTND. Phiên tòa xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự. Trong trường
hợp đặc biệt cần giữ bí mật Nhà nước hoặc giữ gìn đạo đức xã hội thì Tòa án xét xử
kín, nhưng khi tuyên án phải công khai”
Từ điển Tiếng Anh thì từ “Trial” có nghĩa là phiên tòa, được giải nghĩa là sự
xét xử một vụ... hình sự trước Tòa án có thẩm quyền, là phiên xử tại Tòa án có sự
tham gia của Thẩm phán hoặc Bồi thẩm đoàn để quyết định về vụ việc.
Từ khái niệm trên chúng ta có thể hiểu: phiên tòa là phiên họp theo trình tự
nhất định do cơ quan thực hiện quyền tư pháp là Tòa án tổ chức, trong đó người chủ
trì là Thẩm phán, có sự tham gia của HĐXX hoặc Bồi thẩm đoàn để xét xử vụ án. Tại
phiên toà diễn ra việc xem xét, thẩm tra chứng cứ một cách công khai mà đối tượng
chính là cáo trạng truy tố đối với người bị buộc tội do cơ quan Công tố đưa ra.
Phiên toà sơ thẩm là khâu cuối cùng của hoạt động xét xử sơ thẩm, sự kết
thúc bằng việc Tòa án ra bản án kết tội hoặc tuyên bố bị cáo vô tội. Dưới góc độ tố
tụng hình sự, xét xử sơ thẩm là hoạt động trung tâm trong đó phiên tòa là hoạt động
chủ yếu của hoạt động này.

Phiên tòa là nơi Tòa án bằng thủ tục công khai, toàn diện thực hiện cuộc điều
tra chính thức thông qua tranh tụng để xác định sự thật khách quan của vụ án. Tòa
án ra bản án, quyết định trên cơ sở các chứng cứ được thu thập và kiểm tra công
khai tại phiên tòa. Việc chứng minh bao gồm cả quá trình thu thập, kiểm tra, đánh
giá chứng cứ được các chủ thể có quyền và lợi ích khác nhau thực hiện một cách
bình đẳng, dân chủ tại phiên tòa khi xét hỏi cũng như tranh tụng.
Tại phiên tòa phiên tòa hình sự sơ thẩm có sự xuất hiện cả 3 chức năng của
tố tụng hình sự là: buộc tội, bào chữa và xét xử. Phiên tòa sơ thẩm xuất hiện đầy đủ
các bên tham gia tố tụng nhất, bên buộc tội là Kiểm sát viên đưa ra quan điểm truy
tố bằng bản cáo trạng, bị cáo cũng như người bào chữa cho bị cáo là bên gỡ tội.
Bản chất của phiên tòa hình sự cũng như của tố tụng hình sự là việc xử lý tội
phạm. Do đó, các bên tham gia phiên tòa bên buộc tội (cơ qua Công tố của Nhà
nước) và bên gỡ tội (bị cáo, người bào chữa) không thể thỏa thuận với nhau về tội

9


danh và hình phạt để chấm dứt quá trình tố tụng. Quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố
tụng và người bị buộc tội thường là quan hệ bất bình đẳng. Trong dân sự, nguyên
đơn có quyền thay đổi bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện;
HĐXX chỉ giải quyết trên yêu cầu được đưa ra tại phiên tòa và phụ thuộc vào quyền
tự định đoạt của các đương sự. Các đương sự tại phiên tòa dân sự tuyệt đối bình
đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, có quyền thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết vụ án để chấm dứt quá trình tố tụng.
Phiên tòa sơ thẩm hình sự là nơi công khai thực hiện chức năng của Tòa án,
phán quyết về việc giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, sau khi Tòa án nghe (hoặc thẩm
tra) các tài liệu được đưa ra để buộc tội cũng như để gỡ tội cho bị cáo, đồng thời
làm rõ thêm những tình tiết bằng cách nghe ý kiến trình bày của các đương sự,
những người tham gia tố tụng khác, xem xét các tài liệu, vật chứng. Chỉ sau khi
nghe ý kiến của người tham gia tố tụng và kiểm tra, đánh giá đầy đủ các chứng cứ

tại phiên tòa, mới có việc nghị án để ra bản án, quyết định về việc giải quyết vụ án,
xác định một người bị buộc tội có tội hay không có tội? Tội đó là tội gì? Thuộc Khoản,
Điều luật nào của Luật hình sự cũng như giải quyết các vấn đề liên quan trong vụ án một
cách toàn diện.
Phiên tòa hình sự sơ thẩm là phiên tòa đầu tiên của giai đoạn xét xử vụ án hình
sự, nó khác với phiên tòa phúc thẩm hoặc thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự việc xét xử sơ thẩm là cơ sở cho việc xét xử ở cấp phúc
thẩm hay việc xem xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật (thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm). Nhằm đảm bảo tính thận trọng, chính xác, khách quan của việc xét xử sơ
thẩm, bản án sơ thẩm hình sự có thể xét xử theo thủ tục phúc thẩm khi có kháng cáo
của các đương sự hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát. Xét xử phúc thẩm diễn ra khi
có kháng cáo, kháng nghị về bản án đã tuyên ở phiên tòa sơ thẩm, song thường không
xét xử toàn bộ mà chỉ xét xử nội dung bị kháng cáo, kháng nghị. Khi việc giải quyết
ở phiên tòa sơ thẩm hoàn toàn đúng đắn thì HĐXX phúc thẩm phải giữ nguyên bản
bản án sơ thẩm; nếu xét xử sơ thẩm có sai sót, vi phạm thì tùy từng trường hợp cấp
phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm; đặc biệt có thể hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm

10


lại từ đầu. Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là việc xét lại bản án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật
trong việc giải quyết tại cấp sơ thẩm, cũng như phúc thẩm, có thể giữ nguyên bản án
đã tuyên hoặc hủy bản án xét xử sơ thẩm lại.
Như vậy, phiên tòa hình sự sơ thẩm là một khâu trong tố tụng hình sự, là
hoạt động do Toà án tiến hành công khai ở cấp xét xử thứ nhất nhằm xem xét, đánh
giá toàn diện các chứng cứ, các tài liệu của vụ án hình sự, trên cơ sở đó ra bản án,
quyết định giải quyết toàn diện vụ án hình sự.
1.2. Ý nghĩa của phiên tòa hình sự sơ thẩm
1.2.1. Về phương diện pháp lý

Như đã đề cập, phiên tòa hình sự trong đó có phiên tòa sơ thẩm là hoạt động
trung tâm của tố tụng hình sự.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự như đã nêu là việc các cơ quan có thẩm
quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, trong đó
xét xử nói chung, phiên tòa hình sự sơ thẩm nói riêng là hoạt động mang tính chất
quyết định.
Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, các chứng cứ, tài liệu được thu thập trong
toàn bộ quá trình tố tụng trước đó được bộc lộ và được xem xét, đánh giá toàn diện,
trực tiếp công khai. Vì vậy, hoạt động tại phiên tòa chính là sự kiểm tra, đánh giá
chất lượng của các hoạt động trước đó ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố cũng
như việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm để có phán quyết chính xác, công minh đúng đắn.
Phiên tòa hình sự sơ thẩm là nơi thực hiện quyền xét xử của Tòa án rõ nét
nhất trong các giai đoạn xét xử. Trong các giai đoạn tố tụng trước khi có phiên tòa,
không có cơ quan, cơ quan có thẩm quyền được quyền đưa ra phán quyết, giải quyết
vụ án. Khi đó quyền tư pháp, một quyền lực quan trọng trong bộ máy Nhà nước của
Tòa án mới được thể hiện. Điều 102 Hiến pháp năm 2013 xác định:
“Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp.... Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.

11


Phiên tòa là nơi có điều kiện tốt nhất để thực hiện việc áp dụng đúng đắn
pháp luật. Qua các đề xuất của đại diện cơ quan tiến hành tố tụng, các bên tham gia
tố tụng về áp dụng pháp luật, HĐXX có trách nhiệm theo dõi, điều khiển việc tranh
tụng giữa các bên. Từ kết quả tranh tụng có thể đưa ra quyết định áp dụng pháp luật
chính xác nhất để giải quyết đúng đắn vụ án [41].
1.2.2. Về phương diện chính trị - xã hội

Phiên tòa sơ thẩm đưa ra phán quyết về việc giải quyết toàn bộ vụ án hình sự
đã góp phần đáp ứng những đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền. Phiên tòa luôn đảm
bảo quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng được quy định và được
đảm bảo thực hiện đầy đủ nhất bằng thủ tục tố tụng trực tiếp, công khai. Tại phiên
tòa công khai không thể có trường hợp vi phạm pháp luật như bức cung, ép cung,
dùng nhục hình v.v… Vì vậy, phiên tòa được tổ chức tốt là điều kiện để đưa ra phán
quyết bảo đảm quyền con người.
Xét xử trong đó có xét xử tại phiên tòa sơ thẩm hình sự là hoạt động tố
tụng trung tâm và quan trọng để cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của
công dân. Điều này, có ý nghĩa trong các giai đoạn xét xử của Tòa án nói riêng
và toàn bộ hoạt động tư pháp hình sự của Nhà nước nói chung, góp phần có hiệu
quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội, cùng với các
hoạt động tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng
và chống tội phạm trong toàn xã hội; Đặc biệt đây là cơ sở để nâng cao niềm tin
công lý cho người dân.
Phiên tòa là sự thể hiện đầy đủ chính sách hình sự của mỗi quốc gia, cũng
như chính sách hình sự của quốc gia đó, thể hiện bản chất của chế độ và quyết định
giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
công dân. Trong nhiều trường hợp, khi tham gia quan hệ xã hội, công dân do hiểu
biết pháp luật do đó hạn chế hoặc tư tưởng coi thường pháp luật dẫn đến phạm tội.
Phiên tòa sơ thẩm hình sự có nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, ra bản án, quyết định
để xác định một hành vi là nguy hiểm cho xã hội được xác định là tội phạm, buộc
người phạm tội phải chịu trách nhiệm pháp lý với hành vi đó. Vì vậy, trên cơ sở

12


hành vi bị kết tội trong bản án, người bị kết tội nhận thức được tội, lỗi của họ cũng
như các công dân tham dự phiên tòa nhận thức được điều này; Qua đó, phiên tòa sơ
thẩm hình sự góp phần không nhỏ tạo nên ý thức pháp luật trong quản lý xã hội,

quản lý Nhà nước. Hiệu quả của phiên tòa chính là nơi thể hiện hiệu quả chủ yếu
của hoạt động tố tụng hình sự góp phần giáo dục phòng ngừa chung, giáo dục công
dân tôn trọng, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật cũng như các quy tắc ứng xử trong
xã hội, đấu tranh phòng ngừa tội phạm, vi phạm pháp luật.
Kết quả của phiên tòa hình sự nhất là phiên tòa hình sự sơ thẩm có vai trò
quan trọng bởi sản phẩm của phiên tòa là bản án, ảnh hưởng đến quyền con người
đặc biệt có thể tước đi tính mạng một người; cũng như lợi ích hợp pháp của bị cáo,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan. Trong trường hợp đặc biệt, nó còn quyết định đến quyền được sống của con
người. Nếu xét xử sơ thẩm đúng đắn thì phiên tòa phúc thẩm hay thủ tục giám đốc
thẩm xem xét lại bản án sơ thẩm phải giữ nguyên bản án sơ thẩm. Như vậy, nó góp
phần bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, đảm bảo trật tự và công
bằng xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân và hoạt động xét xử của Tòa án, bảo
đảm của cơ quan Tư pháp nói chung.
Như đã nêu, xét xử xét xử phúc thẩm dựa trên cơ sở xét xử sơ thẩm, nếu bản
án sơ thẩm công minh, đúng pháp luật, có tính thuyết phục cao “tâm phục, khẩu
phục” sẽ hạn chế đến mức thấp nhất việc kháng cáo, kháng nghị, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc chấp hành án đồng thời giảm chi phí cho người tham gia tố tụng
cũng như ngân sách Nhà nước.
Phiên tòa hình sự diễn ra việc áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án của
những người tiến hành tố tụng là chủ thể được Nhà nước giao quyền để giải quyết
vụ án. Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm của quốc gia nào thì thành phần tiến hành tố
tụng cũng có Thẩm phán và Công tố viên, những chức danh tố tụng quan trọng và
chủ yếu trong hoạt động xét xử hình sự. Vì vậy, thông qua thực tiễn thi hành phiên
tòa hình sự sơ thẩm sẽ đánh giá được trình độ chuyên môn của những người tiến
hành tố tụng này một cách rõ nét nhất. Ngoài ra nó cũng đánh giá trình độ của luật
sư bào chữa cũng như trình độ, ý thức pháp luật của người tham gia tố tụng. Cũng

13



qua thực tiễn phiên tòa hình sự sơ thẩm, người tiến hành tố tụng, luật sư có thể tích
lũy thêm kinh nghiệm nghề nghiệp, kỹ năng xét xử bởi: Tại phiên tòa đòi hỏi người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải tập trung trí tuệ cao độ, xử lý các tình
huống linh hoạt nhanh chóng.
1.3. Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng thẩm vấn và mô
hình tố tụng tụng tranh tụng
Trong việc giải quyết vụ án, ở mỗi quốc gia thường có cách thức tổ chức
hoạt động tố tụng hình sự, cách thức tìm đến sự thật khách quan của vụ án theo các
thức đặc trưng của mình, cách thức này được gọi là “mô hình tố tụng”. Mỗi mô hình
tố tụng có đặc trưng riêng. Từ việc lựa chọn mô hình tố tụng mà trình tự, thủ tục
điều tra, truy tố, xét xử, địa vị tố tụng của Kiểm sát viên, Luật sư bào chữa và Thẩm
phán tại phiên tòa hình sự cũng khác nhau.
Trên thể giới có hai hệ thống pháp luật chủ yếu: hệ thống pháp luật án lệ và hệ
thống pháp luật dân sự (luật thực định). Tương ứng với hai hệ thống pháp luật này là
hai mô hình tố tụng là mô hình tố tụng tranh tụng và mô hình tố tụng thẩm vấn.
1.3.1. Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng tranh tụng
Tố tụng tranh tụng là mô hình được sử dụng trong các nước theo hệ thống
luật án lệ như Anh, Mỹ... Do theo hệ thống án lệ nên Tòa án có quyền xác định một
hành vi có phải là tội phạm hay không căn cứ vào bản án trước đó, không nhất thiết
phải căn cứ vào quy phạm pháp luật. Phiên tòa trong tố tụng tranh tụng có những
đặc điểm sau:
Thứ nhất, trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án nói chung và tại phiên tòa
nói riêng bên buộc tội (công tố viên, người bị hại) và bên bị buộc tội (bị cáo, luật sư
bào chữa)có quyền và trách nhiệm như nhau trong việc thu thập, đánh giá, kiểm tra
chứng cứ. Tại phiên tòa, bên buộc tội và bên bị buộc tội đều có quyền bình đẳng
trong trong việc kiểm tra chứng cứ và tranh luận.
Thứ hai, điều tra tại phiên tòa là điều tra chính thức và chủ yếu. Các hoạt động
khác như điều tra của cảnh sát, truy tố của công tố viên chỉ là những hoạt động mang
tính hành chính - tư pháp không được điều chỉnh bởi Luật TTHS [18, tr.256]. Quá


14


trình “tranh tụng” thực sự được tiến hành thông qua hoạt động xét xử tại phiên tòa,
qua đó bên buộc buộc tội và luật sư bào chữa đưa ra các chứng cứ trước chủ thể có
chức năng xét xử là Tòa án. Tòa án gồm Bồi thẩm đoàn (đại diện nhân dân) được
tập hợp từ những người không bắt buộc phải có chuyên môn pháp luật và Thẩm
phán chuyên nghiệp (của Tòa án). Bồi thẩm đoàn chỉ có nhiệm vụ xác định bị cáo
có tội hay không có tội, còn việc áp dụng pháp luật và hình phạt đối với bị cáo
thuộc thẩm quyền của Thẩm phán.
Thứ ba, phiên tòa trong mô hình tố tụng này vẫn diễn biến theo sự điều khiển
của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa song hoạt động của Thẩm phán là mờ nhạt. Thẩm
phán cũng như Bồi thẩm đoàn, không tham gia vào quá trình thu thập chứng cứ và
không nghiên cứu hồ sơ vụ án trước; các tài liệu chứng cứ đều được bí mật trước
khi phiên tòa được mở.
Thứ tư, chứng cứ do các bên thu thập được đều được đưa ra để thẩm tra trước
tòa, đều do các bên trình bày bằng miệng, trong đó lời khai trực tiếp của người làm
chứng là một nhân tố quan trọng để chứng minh cho luận điểm của mỗi bên. Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa có thể căn cứ lời khai của người làm chứng tại cơ quan điều
tra để quyết định, vì vậy tại phiên tòa sự tham gia của người làm chứng thường là
đông, có phiên tòa triệu tập tới 600 người [42]. Thông qua xét hỏi và tranh luận bình
đẳng giữa công tố viên và luật sư mà Tòa án xác định về sự thật khách quan và định
hình phạt. Việc kết tội căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và hình thành thông
qua thực tiễn xét xử qua các án lệ.
Thứ năm, ở nhiều vụ án cơ quan cảnh sát và công tố viên không thể tìm ra đủ
chứng cứ để có thể “thắng” tại phiên tòa khi họ muốn truy tố một bị cáo, nên luật
pháp có những quy định khuyến khích bị cáo nhận tội hoặc cho phép cảnh sát và cơ
quan công tố thỏa thuận để bị cáo nhận tội, khai báo hay cung cấp thông tin về bị
cáo khác. Đổi lại, bị cáo có thể được miễn truy tố về một hoặc một số tội hay được

giảm hình phạt khi tòa án lượng hình (ví dụ, nếu bị cáo nhận tội trong giai đoạn đầu,
mức giảm là một phần ba mức hình phạt thông thường). Việc thỏa thuận thú tội
được diễn ra giữa cơ quan cảnh sát, viện công tố và bị cáo cùng Luật sư của họ. Tòa

15


án không tham gia vào thủ tục này vì Tòa án chỉ có thẩm quyền xét xử những vụ án
và bị cáo do cơ quan công tố hay cảnh sát đưa ra truy tố.
Như vậy, mô hình tố tụng tranh tụng thể hiện sự công bằng của quy trình tố
tụng, đó thể hiện ở mức độ cao hơn sự tôn trọng quyền cơ bản của công dân tại
phiên tòa cũng như trong các giai đoạn tố tụng khác. Quá trình giải quyết vụ án
không chỉ dừng lại ở việc chứng minh, xử lý tội phạm mà còn thực hiện chức năng
sáng kiến pháp luật thể hiện vai trò chủ động của Thẩm phán và giám sát hoạt động
lập pháp của cơ quan tư pháp. Những đặc điểm này của mô hình tố tụng hình sự
tranh tụng đáp ứng và phù hợp với yêu cầu của hệ thống pháp luật Civil law.
Tuy nhiên, phiên tòa tại mô hình tranh tụng có nhược điểm đó là thành viên
đoàn bồi thẩm chỉ là những người không chuyên nghiệp, nhưng lại được quyền kết
luận về hành vi của bị cáo theo quan điểm chủ quan của mình. Chứng cứ các bên
đưa ra tại phiên tòa có thể không phản ánh được sự thật khách quan của vụ án bởi
trách nhiệm của bên công tố là buộc tội, bên bào chữa là gỡ tội, các bên thu thập
chứng cứ thì lẽ dĩ nhiên chỉ dùng những chứng cứ có lợi cho mình để đưa ra phiên
tòa và hoàn thành trách nhiệm của mình thôi. Bên cạnh đó, việc quá đề cao sự đối
tụng giữa các lợi ích cá nhân làm cho mô hình tranh tụng không phản ánh được hết
tầm quan trọng của việc bảo vệ lợi ích công cộng trong các vụ án hình sự. Chính
điều này dẫn đến việc áp dụng tràn lan hình thức đàm phán nhận tội dẫn đến khả
năng bỏ lọt những tội phạm nghiêm trọng có tác động lớn tới trật tự xã hội.
Để tranh tụng đạt hiệu quả thì luật sư bào chữa phải có chuyên môn cao,
đồng nghĩa với việc chi phí thuê luật sư cao. Do vậy, nếu không có tiền thuê luật sư
thì cơ hội chiến thắng của người bị buộc tội ít đi, điều này là thiệt thòi cho người

nghèo. Hơn nữa, phiên tòa trong mô hình tố tụng tranh tụng, các bên có thể bổ sung
chứng cứ. Vì người quyết định thời gian xét xử bao lâu lại chính là các bên đối
tụng, những người thường tận dụng thời gian tối đa tại phiên tòa để thuyết phục Bồi
thẩm nghe theo lập luận của mình. Đồng thời, việc quy định một trình tự thủ tục
chặt chẽ có thể khiến cho nhiều chứng cứ tuy có giá trị sử dụng cao cho việc xác
định sự thật khách quan nhưng lại có thể bị loại bỏ vì vi phạm thủ tục, dẫn đến khó

16


khăn cho việc đấu tranh chống một số loại tội phạm, đặc biệt là tội phạm có tổ chức
với cách thức hoạt động tinh vi, phức tạp. Ngoài ra, đối với những vụ án nghiêm
trọng, phức tạp thì thời gian phiên tòa diễn ra rất dài do việc tranh luận về chứng cứ
và quan điểm áp dụng pháp luật giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Có những phiên
tòa kéo dài vài ba năm chưa kết thúc, thậm chí hàng chục năm.... Do đó, không đáp
ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm kịp thời... [44, tr.123].
1.3.2. Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng thẩm vấn
Mô hình tố tụng thẩm vấn hay còn gọi là tố tụng xét hỏi được sử dụng ở các
nước châu Âu lục địa, các nước Mỹ La tinh và một số nước ở Châu Á, châu Phi.
Đặc điểm của phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng thẩm vấn như sau:
Thứ nhất, thẩm vấn là phương pháp được áp dụng trong tất cả các giai đoạn
điều tra tuy tố xét xử cũng như tại phiên tòa.
Thứ hai, việc xác định sự thật khách quan của vụ án dựa trên kết quả của cơ
quan điều tra thể hiện trong hồ sơ vụ án và việc xét hỏi bị cáo tại phiên toà. Việc
xác định sự thật khách quan của vụ án dựa trên kết quả thẩm vấn là phù hợp với sự
tuân thủ pháp luật, đảm bảo pháp chế của hệ thống pháp luật Common Law.
Thứ ba, phiên tòa trong tố tụng thẩm vấn không phải là sự cạnh tranh
quyết liệt giữa công tố viên và người bào chữa mà là sự tiếp lối của quá trình
điều tra. Thẩm phán xét hỏi, thẩm tra, xác minh các chứng cứ đã được cơ quan
điều tra thu thập.

Thứ tư, trong phiên tòa theo mô hình này, việc xét hỏi thuộc trách nhiệm
chính của Thẩm phán. Tòa án có trách nhiệm chứng minh và xử lý tội phạm chứ
không có quyền và trách nhiệm xác định một hành vi nào đó có phải là tội phạm
hay không. Do tội phạm và hình phạt quy định trong luật, hành vi của người nào đó
chỉ được coi là tội phạm khi có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm theo điều khoản
nào trong luật hình sự và xử lý trong phạm vi, giới hạn mà pháp luật đã qui định.
Vai trò của Thẩm phán là rất quan trọng trong việc tìm kiếm sự thật của vụ
án. Mặc dù hiện nay ở nhiều quốc gia Châu Âu chức danh Thẩm phán điều tra (hạt
nhân của tố tụng thẩm vấn) đã bị bãi bỏ (Đức năm 1975, Italia năm 1987 hay Bồ
Đào Nha trở thành thủ tục lựa chọn năm 1988) và nhiệm vụ điều tra trước khi mở

17


phiên tòa giao hoàn toàn cho cơ quan điều tra và cơ quan công tố nhưng vai trò của
Thẩm phán vẫn không thay đổi nhiều, Thẩm phán là người chủ động, tích cực tìm
kiếm sự thật thông qua hoạt động thẩm vấn người tham gia tố tụng, thẩm tra các
chứng cứ trong hồ sơ vụ án [51]. Như vậy, kết quả của quá trình điều tra trước khi
mở phiên tòa có ý nghĩa to lớn đối với phán quyết của Thẩm phán.
Thứ năm, việc xem xét và đánh giá tính có căn cứ và tính hợp pháp của
chứng cứ đã được thu thập trước đó tại phiên tòa được coi là đặc trưng của tố tụng
thẩm vấn. Việc đặt nặng hoạt động điều tra ở giai đoạn tiền tố tụng trước khi mở
phiên tòa đòi hỏi các bên gồm cảnh sát điều tra, đại diện Viện công tố và đặc biệt là
Thẩm phán phải tập trung vào việc chứng minh tội phạm, do đó các chức năng tố
tụng không được phân định một cách rõ ràng, cụ thể mà chủ yếu tập trung vào Tòa
án. Tòa án vừa chi phối, giám sát hoạt động điều tra trước phiên tòa, vừa thực hiện
chức năng xét xử. Phiên tòa với bản chất của cuộc điều tra lại, điều tra tiếp được
tiến hành bởi Thẩm phán nên sự tham gia của Công tố viên và bên bào chữa trở nên
hình thức, dẫn đến quyền bào chữa của người bị cáo bị hạn chế. So với công tố
viên, vai trò của người bào chữa trong tố tụng thẩm vấn không được coi trọng. Công

tố viên thường xuất hiện trong vụ kiện sớm hơn so với luật sư bào chữa.
Trong mô hình này, Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc tìm kiếm sự
thật, nên trong chừng mực nhất định, quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội luôn
được bảo vệ tốt hơn khi quyền đó xâm phạm bởi cá nhân người phạm tội. Với cách
thức thẩm tra truyền thống, sự thật nhanh chóng được tìm kiếm.
Thứ sáu, do không đặt nặng về hình thức nên thủ tục phiên tòa ở mô hình
thẩm vấn đơn giản, nhanh chóng. Việc xét xử không nhất thiết phải có mặt đầy đủ
những người tham gia tố tụng, chứng cứ thu thập chỉ cần thẩm tra lại tại phiên tòa
và gánh nặng xét hỏi do Tòa án đảm nhận.
Thứ bảy, với ưu thế nổi trội hơn trong suốt quá trình giải quyết vụ án của
Thẩm phán nên giai đoạn xét xử tại phiên tòa là quá trình xác minh lại những gì đã
được chứng minh tại giai đoạn trước đó. Điều này không thể hiện sự vô tư, khách
quan, vì chứng cứ do Thẩm phán tập hợp và bảo vệ nên mang tính áp đặt, triệt tiêu

18


×