Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO HỌC THUYẾT KINH tế CHÍNH TRỊ TIỂU tư SẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.33 KB, 13 trang )

HỌC THUYẾT KINH TẾ CHÍNH TRỊ TIỂU TƯ SẢN
Các học thuyết kinh tế chính trị tiểu tư sản xuất hiện vào đầu thế kỷ XIX
phản ánh tư tưởng và địa vị của tầng lớp tiểu tư sản.
I-HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VÀ ĐẶC ĐIỂM HỌC THUYẾT KINH TẾ
CHÍNH TRỊ TIỂU TƯ SẢN

1. Hoàn cảnh lịch sử xuất hiện các học thuyết kinh tế chính trị tiểu tư sản.
Cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra
mạnh mẽ, dẫn đến sự thay đổi đáng kể về kinh tế - xã hội ở các nước tư bản Tây
Âu. Giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trở thành các giai cấp cơ bản của xã hội tư
bản. Sản xuất bằng máy móc ra đời, làm cho sự phụ thuộc của công nhân vào nhà
tư bản từ hình thức trở thành thực tế. Cạnh tranh vô chính phủ, phân hoá giai cấp,
sự bần cùng hoá và thất nghiệp của giai cấp vô sản ngày càng tăng. Ở các nước đi
lên CNTB từ nền sản xuất nhỏ là phổ biến, khi bước vào cách mạng công nghiệp
thì những mâu thuẫn kinh tế - xã hội càng gay gắt hơn. Đặc biệt, là sự phá sản hàng
loạt của những người sản xuất nhỏ. Từ đó, xuất hiện sự phê phán chủ nghĩa tư bản
theo quan điểm tiểu tư sản. Học thuyết kinh tế tiểu tư sản xuất hiện, các đại biểu
của trường phái này là Simonde Sismondi , Pierr Joseph Proudon.
2. Đặc điểm học thuyết kinh tế chính trị tiểu tư sản.
Học thuyết kinh tế chính trị tiểu tư sản có các đặc điểm chủ yếu sau:
Một là, phê phán nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa nhưng không phê phán
sở hữu tư nhân và tự do cạnh tranh. Điều này chứng tỏ, các nhà tư tưởng tiển tư
sản là những người tư hữu và ủng hộ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất.


Hai là, phê phán sự chèn ép, làm phá sản những người sản xuất nhỏ của chủ
nghĩa tư bản, phê phán các tệ nạn của xã hội TBCN như bần cùng, thất nghiệp, coi
đó là sai lầm của chính phủ và những người lãnh đạo tư sản gây ra.
Ba là, để khắc phục những tệ nạn của chủ nghĩa tư bản, họ chủ trương, hoặc là
đẩy mạnh sản xuất hàng hoá nhỏ, hoặc chuyển thành chủ nghĩa tư bản nhỏ. Đây là


lập trường tiểu tư sản chính hiệu, thể hiện sự hoảng sợ của những người sản xuất
nhỏ, trước sự phát triển mạnh của sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa.
II-CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ CHỦ YẾU CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ TIỂU TƯ SẢN

1. Các quan điểm kinh tế Sismondi ( 1773 - 1842)
a) Tiểu sử và phương pháp luận của Sismondi.
Jean Charles Leonard Sismomde de Sismondi sinh năm 1773 ở Thuỵ sĩ, gần
Giơneve, con trai của một mục sư phái CanVanh, thuộc tầng lớp quí tộc lâu đời và
có trang trại. Ông học ở một trường trung học công giáo phái Canvanh, sau đó vào
học trường Đại học Tổng hợp. Tốt nghiệp, ông làm việc một thời gian ngắn trong
một ngân hàng ở thành phố Lyon nước Pháp.
Sismondi bắt đầu nghiên cứu khoa học từ năm 1800. Những tác phẩm chủ yếu
của ông là: Bức tranh nông nghiệp ở Tôxlan (1801); Bàn về của cải thương nghiệp
hay về những nguyên lý của khoa kinh tế chính trị áp dụng vào pháp chế thương
mại (1803); Những bức thư về hiến pháp mới của nước Pháp (1819); Lịch sử nước
Pháp, gồm 31 tập, ông tham gia viết lịch sử nước cộng hoà Ý gồm 16 tập; nghiên
cứu về khoa kinh tế chính trị (1837). Trong đó, cuốn " Những nguyên lý mới của
khoa kinh tế chính trị "đã làm ông nổi tiếng. Nhìn vào chủng loại các tác phẩm cho
thấy, ông không chỉ là một nhà kinh tế mà còn là một nhà nghiên cứu lịch sử.
Có thể chia quá trình phát triển tư tưởng kinh tế của Sismondi thành hai giai
đoạn. Giai đoạn thứ nhất, ông ủng hộ A.S mith. Chẳng hạn, trong tác phẩm " Bàn


về tài sản thương nghiệp " ông ủng hộ quan điểm về tự do kinh tế, không có sự can
thiệp của nhà nước, đã được A.S mith đưa ra trước đó. Giai đoạn thứ hai, do sự
phát triển của cách mạng công nghiệp làm cho những tệ nạn của kinh tế thị trường
càng trầm trọng, thì ông phê phán chủ nghĩa tư sản và các quan điểm của phái cổ
điển. Ông cho rằng, " Đối tượng của kinh tế chính trị học là phúc lợi vật chất của
con người do nhà nước quy định.
Trong các tác phẩm của mình, ông đã giải thích các sự kiện theo phương

pháp luận duy tâm chủ quan. Ông coi kinh tế chính trị là khoa học của đạo đức,
phẩm hạnh, liên quan đến phẩm giá con người, chứ không liên quan đến qui luật
kinh tế. Theo ông, cơ sở của các quá trình lịch sử là các tình cảm tốt đẹp, bình
đẳng, chứ không phải là quan hệ sản xuất. Sismondi đứng trên lập trường tiểu tư
sản để phê phán kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, được gọi là " Chủ nghĩa lãng
mạn kinh tế ". Chống lại những tư tưởng kinh doanh lớn, chống lại sản xuất máy
móc, nhưng lý tưởng hoá đối với sản xuất nhỏ. Chính vì vậy, trong hệ thống tư
tưởng kinh tế của ông vừa có những hạt nhân khoa học, vừa có những yếu tố phản
khoa học.
b) Lý luận kinh tế của Sismondi.
*Lý luận giá trị - lao động.
Sismondi đứng trên lập trường giá trị - lao động, lấy lao động làm thước đo
giá trị của hàng hoá, thấy được mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị của hàng
hoá. Ông đã tiến thêm một bước so với Ricarđo khi cho rằng thước đo giá trị hàng
hoá là do thời gian lao động xã hội cần thiết quy định.
Tuy nhiên, Ricardo coi giá trị tương đối của hàng hoá được đo bằng lượng lao
động chi phí để sản xuất ra hàng hoá, còn Sismondi cho giá trị tương đối của hàng
hoá được qui định bởi cạnh tranh, lượng cầu, tỷ lệ giữa thu nhập và lượng cung về


hàng hoá. Ông đồng nhất giữa giá trị với giá cả. Ông còn đưa ra khái niệm giá trị
tuyệt đối hay chân chính, điều mà Ricarđo không đề cập. Nhưng Sismondi giải
thích khái niệm đó theo kiểu tự nhiên chủ nghĩa và đi tìm giá trị đó trong một đơn
vị kinh tế độc lập, theo kiểu Rôbinxơn.
*Lý luận về tiền tệ:
Theo ông, tiền tệ cũng như hàng hoá khác, nó là sản phẩm của lao động. Ông
thấy được hai chức năng của tiền tệ là thước đo giá trị và vật trung gian, làm cho
trao đổi dễ dàng hơn. Ông hiểu và khẳng định sự khác nhau giữa tiền giấy và tiền
tín dụng, thấy được tình trạng lạm phát, nhưng chưa vạch ra được nguồn gốc, bản
chất và đầy đủ các chức năng của tiền tệ.

*Lý luận về lợi nhuận, địa tô và tiền lượng.
Công lao của Sismondi là phân tích lợi nhuận, địa tô và tiền lương. Ông hiểu
các vấn đề này rõ hơn A.Smith và Ricardo.
-Về lợi nhuận:
A.smith coi lợi nhuận là bộ phận của sản phẩm lao động. Sismondi đã phát
triển tư tưởng đó và cho rằng lợi nhuận là khoản khấu trừ từ sản phẩm lao động, đó
là thu nhập không lao động, là kết quả của sự cướp bóc công nhân, là tai hoạ kinh
tế của giai cấp vô sản. Theo ông, việc san bằng lợi nhuận chỉ đạt được bằng cách:
Phá huỷ tư bản cố định; bằng sự tiêu vong của công nhân trong các ngành bị suy
sụp. Hạn chế của ông là, chưa thấy được nguồn gốc của lợi nhuận, còn lặp lại sai
lầm của A.Smith coi lợi nhuận là tiền công của nhà tư bản.
- Về địa tô:
Ông cho rằng, địa tô cũng là kết quả sự bóc lột công nhân làm thuê. Ông phê
phán quan điểm của Ricardo về ruộng đất xấu không đem lại địa tô. Ông hiểu sâu


sắc về vai trò của độc quyền sở hữu ruộng đất và cho rằng ruộng đất xấu cũng phải
nộp tô. Điều đó thể hiện Sismondi có tư tưởng về địa tô tuyệt đối. Sau này V.I
Lênin kế thừa phát triển cho rằng, sản xuất nông nghiệp không tham gia thành lợi
nhuận bình quân.
Tuy nhiên, Sismondi còn có những hạn chế như lặp lại luận điểm sai lầm của
A.Smith, địa tô là tặng thưởng của tự nhiên, tự nhiên ( đất đai ) cũng tạo ra giá trị
phụ thêm. Từ đó, ông đưa ra luận điểm, hình như địa tô từ dưới đất mọc lên, tức là
ông không hiểu địa tô tuyệt đối và bộ máy chiếm hữu địa tô.
-Về tiền lương:
Sismondi bảo vệ quan điểm của A.Smith cho rằng; tiền lương phụ thuộc vào
tích luỹ tư bản, vào số lượng công nhân, vào cung - cầu về lao động. Ông công khai
nói lên tình trạng điêu đứng của công nhân do sự phát triển sản xuất cơ khí theo lối
tư bản chủ nghĩa.
Hạn chế của Sismondi là lặp lại quan điểm tầm thường về sự tác động qua lại

trực tiếp giữa sự tăng tiền công và tăng dân số. Ông rơi vào chủ nghĩa Malthus hơn
cả Malthus. Sismondi truyền bá tư tưởng hoà hợp chủ thợ, tăng bảo hiểm xã hội,
coi công nhân là người thân trong gia đình. Đây là tư tưởng cải lương, thủ tiêu đấu
tranh. Ông chống lại quan điểm cho rằng, việc dùng máy móc làm giảm lao động ở
ngành này, lại tăng nhu cầu lao động ở ngành khác.
*Lý luận về khủng hoảng kinh tế:
Đây là lý luận trung tâm trong học thuyết của ông: Chống chủ nghĩa tư bản,
bảo vệ sản xuất nhỏ, thể hiện lập trường tiểu tư sản rõ nét nhất.
Nội dung của học thuyết bao gồm:


Thứ nhất, quan niệm về khủng hoảng kinh tế của Sismondi. Theo ông, mục
đích sản xuất tư bản chủ nghĩa là tiêu dùng, mà tiêu dùng do thu nhập quyết định,
nên để thực hiện giá trị hàng hoá thì sản xuất phải ăn khớp với thu nhập xã hội, nếu
sản xuất vượt quá thu nhập xã hội thì sản phẩm làm ra sẽ không thực hiện được giá
trị, đó chính là khủng hoảng kinh tế. Thực chất khủng hoảng kinh tế dưới chủ nghĩa
tư bản là khung hoảng thừa. C.Mác kế thừa luận điểm này và sau này phát triển
tành lý luận khủng hoảng kinh tế trong điều kiện sản xuấttư bản chủ nghĩa đó là
khủng hoảng sản xuất hàng hóa thừa tương đối.
Thứ hai, Khác với quan niệm của Ricardo, ông cho rằng, khủng hoảng kinh tế
dưới chủ nghĩa tư bản là tất yếu chứ không phải cục bộ ngẫu nhiên.
Thứ ba, Tìm nguyên nhân của khủng hoảng.
Ông đưa ra tiền đề lý luận, tiên dùng đóng vai trò quyết định sản xuất, nhu cầu
quyết định sản xuất, sản xuất tư bản chủ nghĩa tách rời nhu cầu vì sản xuất phụ
thuộc động cơ thu lợi nhuận tối đa, vì sự phát triển của công nghiệp cơ khí.
Từ đó ông khẳng định, nguyên nhân là do chủ nghĩa tư bản càng phát triển,
sản xuất càng mở rộng, mặt khác tiêu dùng ngày càng giảm sút (tiêu dùng không
đủ). Nguyên nhân tiêu dùng không đủ (lạc hậu so với sản xuất). Là do sự phát triển
sản xuất tư sản chủ nghĩa dẫn đến sự phá sản những người sản xuất nhỏ. Vì vậy,
làm cho thu nhập giảm và tiêu dùng giảm; tình cảnh điêu đứng của những người vô

sản thất nghiệp, tiền lương thấp làm giảm nhu cầu tiêu dùng; trong giai cấp tư sản
cũng có khuynh hướng hạn chế tiêu dùng, tăng tích luỹ. Từ đó, Sismondi kết luận
rằng, chủ nghĩa tư bản càng phát triển sản xuất càng mở rộng, mặt khác tiêu dùng
ngày càng giảm bớt, đó là nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế.
Thứ tư, ông chỉ ra con đường và biện pháp để tránh khủng hoảng.


Theo Sismond, khủng hoảng không nổ ra thường xuyên là nhờ có ngoại
thương, nhưng đó là lối thoát tạm thời, lối thoát thứ yếu là các nhà tư bản tiêu
dùng nhiều hơn, lối thoát cơ bản là phát triển sản xuất nhỏ. Vì sản xuất nhỏ là
sản xuất vừa phải, dẫn đến thu nhập sản xuất nhỏ tăng, do đó sản xuất ăn khớp
nhu cầu tiêu dùng.
Nghiên cứu lý luận khủng hoảng kinh tế của Sismondi có thể rút ra các nhận
xét sau đây:
-Điều hợp lý ở Sismondi là ở chỗ ông khẳng định khủng hoảng kinh tế là tất
yếu, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ có sản xuất thừa đó là kết quả của mâu thuẫn
giữa sản xuất và tiêu dùng.
-Do đồng nhất sản xuất với thu nhập nên ông không phân biệt được sự khác
nhau giữa tư bản và thu nhập quốc dân, không phân biệt được tiêu dùng sản xuất và
tiêu dùng cá nhân và do đó không thấy được vai trò của tích luỹ sản xuất.
-Ông xem xét khủng hoảng theo quan điểm sản xuất nhỏ, quan điểm tiểu tư
sản, giải thích sự giảm sút của thị trường do suy đồi của nền sản xuất nhỏ. Sở dĩ
như vậy là vì ông không hiểu nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng kinh tế - đó là
mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
c) Đánh giá chung về Sismondi:
-C.Mác, Ph.Ăng ghen đánh giá cao công lao của Sismondi và xếp ông vào
đại biểu cuối cùng của kinh tế chính trị cổ điển, là nhờ công lao của ông có nhiều
nhận xét thực tế theo quan điểm khoa học và có nhiều đóng góp mới cho sự phát
triển lý luận kinh tế chính trị. Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăng ghen phê phán,
Sismondi là nhà kinh tế chính trị tiểu tư sản thể hiện tính chất phản động khi kêu

gọi quay trở lại về sản xuất nhỏ, xây dựng xã hội công bằng trên nền sản xuất
nhỏ.


- Về công lao của Sismondi, V.I.Lênin đáng giá: Một là, Sismondi chỉ rõ tính
chất hạn chế hẹp hòi của nhận thức thuần tuý tư sản về nhiệm vụ của khoa kinh tế
chính trị của Smith và Ricardo. Ông chỉ ra một cách rộng rãi những nhiệm vụ của
khoa kinh tế chính trị, khắc phục được nhận thức về đối tượng của khoa kinh tế
chính trị do phái trọng thương và khắc phục một phần chủ nghĩa cá nhân trong
phương pháp luận của kinh tế chính trị trước đó. Hai là, ông chỉ ra những mâu thuẫn
của chủ nghĩa tư bản. V.I.Lênin nhận xét:; "Chúng ta đã thấy rằng cống hiến của
Sismondi là ở chỗ, ông là một trong những người đầu tiên đã vạch ra những mâu thuẫn
của chủ nghĩa tư bản " 1 và khẳng định " về mọi điểm, ông khác với những tác giả cổ
điển ở chỗ là ông đã vạch ra được những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản" 2.
- V. I. Lênin cũng phê phán Sismondi một số điểm sau: Một là, vạch ra sai lầm của
Sismondi khi cho rằng nguyên nhân khủng hoảng kinh tế dưới chủ nghĩa tư bản là mâu
thuẫn sản xuất phát triển và tiêu dùng lạc hậu. Theo V.I.Lênin tiêu dùng không đủ là một
hiện tượng vốn có trong mọi thời đại, còn khủng hoảng kinh tế chỉ có trong chủ nghĩa tư
bản. Sismondi không hiểu mục đích sản xuất tư bản chủ nghĩa là giá trị thặng dư chứ không
phải tiêu dùng, không hiểu được vai trò của tích luỹ đối với phát triển sản xuất, không phải
do tiêu dùng quyết định. Hai là, V. I. Lênin gọi những người kinh tế chính trị tiểu sản
xuất là những người lãng mạn kinh tế, ở chỗ cần có xã hội lý tưởng công bằng, lý
tưởng hoá sản xuất hàng hoá nhỏ như đoá hồng, thực ra sản xuất hàng hoá nhỏ có
quan hệ chặt chẽ chủ nghĩa tư bản, làm nảy sinh chủ nghĩa tư bản. Ba là, Lênin
vạch rõ tính phản động của kinh tế chính trị tiểu tư sản kéo lùi chủ nghĩa tư bản về
sản xuất nhỏ, tuyên bố hợp tác chủ thợ và coi đây là một tư tưởng cải lương. Bốn
là, Sismondi chỉ nêu được mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản nhưng không phân tích,

1
2


V.I Lênin,Toàn tập. Tập2 NxbTBM,1974, tr. 276
Sdd tr. 233


giải thích nguồn gốc khủng hoảng, phát triển của những mâu thuẫn đó, do đó không
đề ra được chủ trương hành động cách mạng nào cho công nhân và người sản xuất.
2. Học thuyết kinh tế của Proudhon.
a) Tiểu sử và phương pháp luận Proudhon (1809 - 1865).
- Tiểu sử và các tác phẩm của Proudhon
Proudhon sinh 1809 ở Besanxon, xuất thân từ một gia đình nông dân và một
thời là công nhân. Sinh trưởng trong một gia đình nghèo đông con, ông phải tự vừa
làm việc, vừa nâng cao trình độ học vấn của mình. Từ năm 1827, ông đã thích thú
với các tác phẩm của Fouvier. Từ 1836 đến 1843 ông làm việc trong một xí nghiệp
vận tải ở Lyon, sau đó từ 1835 đến 1855 làm trong một công ty đường sắt.
Nếu Sismondi phản ánh tư tưởng tiểu tư sản ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa
tư bản, thì Proudhon lại phản ánh tư tưởng tiểu tư sản ở giai đoạn cao hơn của
chủ nghĩa tư bản. Theo C.Mác, Proudhon là một nhà tư tưởng chính cống nhất
của tầng lớp tiểu tư sản. Ông vừa là nhà kinh tế tiểu tư sản Pháp, vừa là nhà xã
hội học.
Các tác phẩm kinh tế của ông: Tác phẩm đầu tiên làm ông nổi tiếng một
thời là tác phẩm "Sở hữu là gì" (1840) trong tác phẩm này, kết luận sở hữu là ăn
cắp, phê phán chủ nghĩa tư bản. Tác phẩm, "Hệ thống mâu thuẫn hay triết học
của sự khốn cùng, trong tác phẩm này, Proudhon đã trình bày hệ thống quan
điểm kinh tế của mình, đồng thời thể hiện rõ tư tưởng tiểu tư sản, đặc trưng
phương pháp luận và tính chất phản động của học thuyết do ông đề xướng,
C.Mác đã phê phán tỉ mỷ tác phẩm này. Ngoài ra còn có tác phẩm cuộc đảo
chính, bàn về năng lực của giai cấp công nhân.
- Phương pháp luận của Proudhon



Proudhon đứng trên lập trường chủ nghĩa duy tâm chủ quan không thấy tính
chất khách quan, tính lịch sử của các phạm trù kinh tế, coi phạm trù kinh tế là
những tư tưởng kinh tế phát sinh không liên quan đến quan hệ sản xuất. Phương
pháp luận siêu hình, chỉ quan sát bề ngoài, không đi vào bản chất các hiện tượng
kinh tế. Chẳng hạn, trong tác phẩm, sở hữu là gì, không thấy được thế yếu trong
cạnh tranh của những người sản xuất nhỏ, dẫn đến lấy cải tạo lưu thông làm điểm
xuất phát để phát triển sản xuất nhỏ. Phép biện chứng theo Proudhon hiểu chỉ là
sự phân biệt kinh viện giữa mặt tốt và mặt xấu, còn phạm trù kinh tế là sự kết hợp
các yếu tố tốt và xấu. Nhiệm vụ quan trọng là phải bảo vệ mặt tốt, xoá bỏ mặt
xấu.
b) Những quan điểm kinh tế chủ yếu của Proudhon.
*Lý luận về tính chất hai mặt của phân công lao động và sở hữu.
Theo ông phân công lao động có tính chất hai mặt: Mặt tốt là tăng của cải cho
xã hội, mặt xấu là tăng đói nghèo, thất nghiệp cho dân cư.
Proudhon cho rằng, sơ hữu có tính chất hai mặt: Mặt tiêu cực là phá hoại sự
bình đẳng, còn mặt tích cực là bảo đảm cho người ta khỏi sự phụ thuộc, được
độc lập tự do. Ông phê phán mưu toan biện hộ cho chế độ tư hữu và đi đến kết
luận: "Sở hữu là ăn cắp". Như vậy, ông đã giải thích được một cách khoa học thế
nào là sở hữu.
Ông đề nghị xoá bỏ sở hữu và giữ lại tài sản cá nhân. Về thực chất là xoá bỏ
sở hữu tư bản chủ nghĩa, giữ lại sở hữu nhỏ, dưới danh từ tài sản. Qua đó cho thấy,
ông không hiểu mối quan hệ giữa sản xuất hàng hoá giản đơn và sản xuất hàng hoá
tư bản chủ nghĩa, cũng như không hiểu qui luật giá trị.
Proudhon nhận thấy thế yếu của những người sản xuất nhỏ trong cạnh tranh
và có ý định cải tạo lưu thông (sự trao đổi hàng hoá và tín dụng) để có lợi cho


người tiểu sản xuất. Tạo ra sự bình đẳng giữa mọi người và thủ tiêu bóc lột. Điều
đó chứng tỏ, ông không hiểu lưu thông hàng hoá và sai lầm là ở chỗ cho rằng cải

tạo lưu thông sẽ cải tạo được tư bản chủ nghĩa.
*Lý luận về giá trị
Đây là lý thuyết quan trọng trong học thuyết kinh tế của Proudhon.
Về hình thức, ông có đặt vấn đề một cách biện chứng hứa hẹn bóc trần mâu
thuẫn giữa giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng ông đã giải thích không đúng mâu
thuẫn đó. Ông coi giá trị sử dụng là hiện thân của sự dồi dào, còn giá trị trao đổi là
hiện thân của sự khan hiếm, thành thử giá trị sử dụng và giá trị biểu hiện hai
khuynh hướng đối lập dồi dào và khan hiếm.
Trung tâm lý luận giá trị của Proudhon là "Giá trị cấu thành" hay "Giá trị xác
lập". Theo ông, trao đổi trên thị trường người ta có sự lựa chọn đặc biệt về sản
phẩm. Một loại hàng hoá nào đó đi vào lĩnh vực tiêu dùng, đã qua thị trường, được
thị trường thừa nhận trở thành giá trị, là giá trị cấu thành. Ngược lại, những hàng
hoá bị đẩy ra, không được thị trường chấp nhận, theo ông, cần cấu thành hay xác
lập trước giá trị, làm thế nào cho hàng hoá chắc chắn được thực hiện, đi vào lĩnh
vực tiêu dùng. Ông lấy dẫn chứng vàng và bạc là những hàng hoá đắt tiền, mà giá
trị đã được xác lập.
Qua đó thấy rõ, trong lý luận "giá trị cấu thành" về thực chất Proudhon muốn
xáo bỏ những mâu thuẫn của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Quan điểm của ông thể
hiện rõ những sai lầm về mặt phương pháp luận: Bảo vệ sản xuất hàng hoá (mặt
tốt), xoá bỏ mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị (mặt xấu). Về cơ bản ông
muốn kết hợp giá trị lao động, để từ đó coi cả lao động và trao đổi đều là nguồn
gốc của giá trị.
*Lý luận về lợi nhuận và lợi tức.


Proudhon hoàn toàn không hiểu bản chất của lợi nhuận công nghiệp, ông coi
nó là hình thái đặc biệt của tiền công.
Về lợi tức, ông coi đó là hình thái duy nhất của sự chiếm đoạt giá trị thặng dư
và coi sự tồn tại của lợi tức là cơ sở của sự bóc lột. Theo ông, các nhà tư bản đem
lợi tức tăng thêm vào chi phí, điều đó làm cho công nhân không thể mua hết sản

phẩm. Trong dự án cải tổ lưu thông, ông đề nghị, gạt bỏ lợi tức thì sẽ xoá bỏ được
nạn bóc lột. Muốn xoá bỏ lợi tức thì cần phải cho vay không lấy lãi. Bên cạnh việc
trao đổi thông qua tiền, ông đề ra việc thành lập ngân hàng quốc gia Pháp, ngân
hàng này sẽ cho công nhân và người sản xuất nhỏ vay, coi đó là biện pháp lớn nhất.
c) C. Mác và V.I. Lênin phê phán Proudhon.
*C. Mác đánh giá về Proudhon.
Khi Proudhonviết, "Sở hữu là gì" phê phán chủ nghĩa tư bản, kết luận sở hữu
là ăn cướp. C.Mác đánh giá cao và coi đây là tác phẩm ưu tú nhất của Proudhon,
trong tác phẩm “Gia đình thần thánh” của C.Mác.
C. Mác xếp Proudhon vào kinh tế chính trị tầm thường vì ông cố tình bảo vệ
lợi ích tiểu tư sản khi lịch sử đã báng bổ cương lĩnh của Sismondi.
*V.I. Lênin đánh giá về Proudhon:
V.I. Lênin coi Proudhon là kẻ thù của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Proudhon dẫn
tới chủ nghĩa công đoàn vô chính phủ. Bởi vì trong cuốn "Bảo vệ năng lực hoạt
động của giai cấp công nhân", Proudhon ca ngợi chính quyền cảnh sát đã bắn vào
những người thợ mỏ bãi công.
Chủ nghĩa Proudhon có ảnh hưởng đến các học thuyết kinh tế tư sản hiện đại.
J. M. Keynes kế thừa chủ trương của ông về xoá bỏ lợi tức và coi đó là một trong
những biện pháp lớn nhất để xoá bỏ tiêu cực trong chủ nghĩa tư bản.


Tóm lại, các nhà kinh tế học tiểu tư sản đều đứng trên lập trường của tầng lớp
tiểu tư sản với phương pháp luận duy tâm chủ quan. Một mặt các ông phê phán chủ
nghĩa tư bản, mặt khác các ông lại muốn kéo lịch sử trở lại với sản xuất nhỏ, C.
Mác và V.I. Lênin có quan điểm rõ ràng về những thành tựu của các ông, đồng thời
đặc biệt phê phán các quan điểm sai trái phản động mà họ đưa ra.
Câu hỏi ôn tập
1. Đồng chí cho biết: Sismondi và Proudon đã phê phán chủ nghĩa tư bản như
thế nào?
2. Trình bày lý luận về: Giá trị, lợi nhuận, địa tô và khủng hoảng kinh tế của

Sismondi?
3. Trình bày lý luận về: Giá trị, tiền tệ – tín dụng và lợi tức của Proudon?



×