Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO HỌC THUYẾT KINH tế CHÍNH TRỊ tư SẢN tầm THƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.56 KB, 21 trang )

CHỦ ĐỀ 8

HỌC THUYẾT KINH TẾ CHÍNH TRỊ TƯ SẢN TẦM THƯỜNG
I- HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VÀ ĐẶC ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA KINH
TẾ CHÍNH TRỊ TƯ SẢN TẦM THƯỜNG

1. Hoàn cảnh lịch sử xuất hiện của khoa kinh tế chính trị tầm thường.
Đầu thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành, phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập ở hầu hết các nước Tây Âu. Từ năm 1830
giai cấp tư sản thực hiện được sự thống trị về chính trị ở Anh và Pháp. Đồng
thời, giai cấp vô sản cũng ngày càng lớn mạnh, chuyển từ đấu tranh tự phát sang
đấu tranh tự giác, mang tính chất giai cấp quyết liệt, đe doạ sự tồn tại của chủ
nghĩa tư bản. Sự xuất hiện và phát triển của trào lưu chủ nghĩa xã hội không
tưởng tiêu biểu là Saint Simond, M.Farier và R.Owen phê phán kịch liệt chủ
nghĩa tư bản đã có ảnh hưởng sâu rộng trong phong trào của giai cấp công
nhân. Để bảo vệ chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản cần một lý luận chống lại
chủ nghĩa xã hội không tưởng. Trong bối cảnh lịch sử đó, kinh tế chính trị tầm
thường ra đời đã biểu hiện sự phản ứng của giai cấp tư sản đối với phong trào
cách mạng của giai cấp công nhân và những tư tưởng của chủ nghĩa xã hội
không tưởng. C.Mác viết: "Đồng thời, giờ tận số của khoa kinh tế chính trị tư
sản khoa học cũng đã điểm. Bây giờ, vấn đề không còn là tìm hiểu xem định
lý này hay định lý kia là đúng hay không đúng nữa, mà tìm xem có lợi hay có
hại cho tư bản, tiện hay bất tiện, phù hợp hay không phù hợp với yêucầu của
cảnh sát. Sự nghiên cứu không vụ lợi nhường chỗ cho những cuộc bút chiến
của những kẻ viết văn thuê, những sự tìm tòi khoa học vô tư nhường chỗ cho
lương tâm độc ác và ý đồ xấu xa của bọn chuyên nghề ca tụng"

1

2. Đặc điểm phương pháp luận của kinh tế chính trị tư sản tầm
thường.


Khoa kinh tế chính trị học tầm thường có những đặc điểm chủ yếu sau:
1

C.Mác, Ph.Ăng ghen, toàn tập, tập 23 - Nxb CTQG, Hà Nội 1993 trang 29.


Thứ nhất, kinh tế chính trị tầm thường đứng trên lập trường của chủ nghĩa
duy tâm chủ quan đối lập với lập trường duy vật siêu hình của các nhà kinh tế
chính trị học cổ điển, trong xem xét sự vật, hiện tượng kinh tế - xã hội. Kinh tế
chính trị tầm thường chỉ xem xét hệ thống hoá các hiện tượng bề ngoài, không
nghiên cứu bản chất bên trong của các hiện tượng kinh tế, trong lúc, kinh tế
chính trị tư sản cổ điển xem xét toàn bộ hiện thực và nội tại của những quan
hệ sản xuất trong xã hội tư bản.
Thứ hai, Các quan điểm của kinh tế chính trị tầm thường tìm cách bảo vệ
lợi ích cho giai cấp tư sản, biện hộ cho sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, còn
các nhà kinh tế học tư sản cổ điển lấy nền sản xuất làm đối tượng nghiên cứu,
vạch ra quy luật vận động của nền sản xuất xã hội.
II-CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ CHÍNH TRỊ TẦM THƯỜNG

1. Học thuyết kinh tế của Jean Baptiste Say.
a)Tiểu sử của Jean Baptiste Say (1766 - 1832)
Jean Baptiste Say sinh năm 1766 trong một gia đình thương gia lớn ở
thành phố Lyon. Thời thanh niên, ông tham gia vào công việc kinh doanh của
bố và hoàn thành học vấn của mình ở Anh. Lúc đầu, Jean Baptiste Say bị cuộc
cách mạng tư sản Pháp 1789 lôi cuốn. Nhưng khi cuộc cách mạng mang tính
chất triệt để thì Jean Baptiste Say lại trở thành một người chống lại cách mạng
kịch liệt. Năm 1799, ông được chỉ định làm tổng biên tập tờ "Tuần báo triết
học, văn hoá và chính trị". Khi Napôleông lên cầm quyền, ông được mời đến
làm việc ở Bộ Tài chính. Đồng thời, ông tiến hành những công trình nghiên
cứu lý luận. Năm 1803, cuốn "Bàn về khoa kinh tế chính trị" ra đời, trong đó,

ông có ý định trình bày một cách có hệ thống những nguyên lý của kinh tế
chính trị. Năm 1817, Jean Baptiste Say xuất bản "Sổ tay kinh tế chính trị"
trình bày vắn tắt tác phẩm "Bàn về khoa kinh tế chính trị". Vào cuối đời, ông
làm trưởng khoa kinh tế chính trị nhiều trường đại học ở Pháp. Hợp tuyển


những bài giảng của ông được xuất bản thành cuốn "Giáo trình kinh tế chính
trị", gồm 6 tập. Một số nhà kinh tế Pháp ca ngợi hết lời Jean Baptiste Say coi
ông là người kế tục ưu tú của Smith và là "Hoàng tử" của khoa kinh tế chính
trị. C. Mác đã vạch trần "Tính chất nâng cao tầm thường" của vị "Hoàng tử
khoa học nực cười" đó và đã xác định rõ vai trò của Jean Baptiste Say là
người phổ biến học thuyết của S.mith.
b) Những tư tưởng phản khoa học của Jean Baptiste Say.
* Định nghĩa về khoa kinh tế chính trị.
Jean Baptiste Say cho rằng, "Khoa kinh tế chính trị không phải là chính
trị" và yêu cầu tách kinh tế chính trị ra khỏi chính trị. Theo ông, không nên
coi kinh tế chính trị là chính trị. Thực chất luận điểm của JeanBaptistesay là
che đậy ý muốn xoá bỏ yếu tố giai cấp và xã hội trong kinh tế chính trị, vì vậy
có thể lẩn tránh việc xem xét những mâu thuẫn vốn có trong xã hội tư sản.
Ông định nghĩa kinh tế chính trị là một khoa học về sản xuất, phân phối
và tiêu dùng của cải. Với khuynh hướng này, Jean Baptiste Say muốn biến
khoa kinh tế chính trị thành thứ khoa học thực hành. Cụ thể, ông đã chia kinh
tế chính trị thành ba bộ phận sản xuất, phân phối và tiêu dùng. Đây là một
cách phân loại tầm thường kinh tế chính trị học, điều đó chứng tỏ sự nghiên
cứu hời hợt, bề ngoài, cắt đứt mối liên hệ thực tế giữa sản xuất, phân phối và
tiêu dùng. Nhưng sự phân chia đó của ông đã thống trị trong kinh tế chính trị
tầm thường, nó biện hộ cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời.
Khi xét những nhân tố của sản xuất, phân phối và tiêu dùng, ông không
chú ý đến những hình thái đặc thù mà những yếu tố của quá trình tái sản xuất
phải khoác lấy ở mức độ phát triển khác nhau của xã hội. Jean Baptiste Say đã

đồng nhất sản xuất tư bản chủ nghĩa với sản xuất nói chung, sản xuất tư bản
cũng là tạo ra sản phẩm nói chung. Ông đã coi lao động, tư bản (coi tư bản và
tư liệu sản xuất là một) và ruộng đất là ba yếu tố của mọi nền sản xuất. Những


"qui luật được khái quát như vậy, Jean Baptiste Say coi là những qui luật"
vĩnh viễn của sản xuất. Nó tác động trong tất cả mọi thời kỳ và ở mọi dân tộc,
kể cả ở trong xã hội tư sản hiện đại. Với lập luận như vậy, ông đã biến các
quan hệ tư sản thành những quan hệ sản xuất tự nhiên và vĩnh cửu mà "không
ai hay biết"
* Học thuyết về tính hữu dụng.
Học thuyết về tính hữu dụng của Jean Baptiste Say đối lập với lý luận giá
trị của Đ.Ricardo. Theo ông, sản xuất tạo ra tính hữu dụng (giá trị sử dụng),
còn tính hữu dụng lại truyền giá trị cho các vật. Giá trị là thước đó tính hữu
dụng. Như vậy, Jean Baptiste Say đã không phân biệt được giá trị sử dụng và
giá trị, coi giá trị sử dụng và giá trị là một, do đó che đậy tính chất xã hội của
giá trị.
Trong học thuyết của mình, Đ.Ricardo đã phân biệt rõ giá trị và giá trị
sử dụng, giá trị khác với của cải. giá trị không tuỳ thuộc vào việc có nhiều hay
ít của cải, mà tuỳ thuộc vào điều kiện sản xuất khó khăn hay thuận lợi; năng
xuất lao động tăng lên thì sẽ ảnh hưởng một cách khác nhau đến của cải và giá
trị v.v. Ngược lại, Jean Baptiste Say cho rằng, giá trị của vật càng cao thì tính
hữu dụng càng lớn, của cải càng nhiều thì giá trị càng lớn và giá trị chỉ được
xác định trên thị trường. Thước đo giá trị của đồ vật là số lượng các vật mà
người khác đồng ý đưa ra để "đổi lấy" đồ vật nói trên. Thực chất Jean Baptiste
Say quan niệm giá trị được quyết định bởi quan hệ cung cầu. Như vậy ông đã
mâu thuẫn với chính mình. Theo C.Mác, cung cầu chỉ điều tiết sự chênh lệch
giữa giá trị cả thị trường của hàng hoá với giá trị của chúng.
* Về tiền công, lợi tức, địa tô.
Với học thuyết về tính hữu dụng, Jean Baptiste Say không coi lao động là

nhân tố duy nhất tạo ra giá trị. Dựa vào đó, ông đã giải thích vấn đề thu nhập
trong xã hội.


Theo ông, có ba nhân tố tham gia vào sản xuất: Lao động, tư bản và
ruộng đất. Mỗi nhân tố đều có công phục vụ, mà cái gì tạo ra sự phục vụ đều
là sản xuất, dó đó, không chỉ có lao động mà cả tư bản và tự nhiên đều tạo ra
giá trị. Cả ba yêu tố đều có công phục vụ: Lao động tạo ra tiền lương, tư bản
tạo ra lợi nhuận, ruộng đất sáng tạo ra địa tô. Vì vậy, phải có được thu nhập
tương ứng; công nhân được tiền lương, nhà tư bản hưởng lợi nhuận, địa chủ
nhận được địa tô.
Cũng với cách lập luận đó, ông cho rằng, nếu tăng thêm đầu tư tư bản
vào sản xuất sẽ tăng thêm sản phẩm, có nghĩa là tăng thêm giá trị, máy móc
tham gia vào sản xuất ra sản phẩm cũng tạo ra giá trị. Jean Baptiste Say coi
lợi tức của kẻ sở hữu tư bản là con đẻ của bản thân tư bản, còn thu nhập của
nhà kinh doanh (Fécmiê, chủ xưởng, thương nhân) là "Phần thưởng về năng
lực kinh doanh về hoạt động của anh ta", một hình thức đặc biệt của tiền
công" mà nhà tư bản tự trả cho mình.
Jean Baptiste Say quan niệm, các nhà kinh doanh nhận được "tiền công"
là do "tài năng. . . tinh thần trật tự và công tác lãnh đạo của họ", còn công
nhân làm những việc giản đơn, thô kệch nhận được "cái mà công nhân cần để
sống ". Jean Baptiste Say đã thừa nhận với số tiền công lúc đó chưa đáp ứng
được nhu cầu về thức ăn, áo mặc và nhà ở của công nhân, song ông lại khẳng
định xã hội tư sản không chịu trách nhiệm về tình hình đó và kiên quyết phản
đối việc nâng cao tiền công của công nhân.
*Học thuyết tiêu thụ.
Thực chất, Jean Baptiste Say muốn chứng minh sự nhịp nhàng, không có
khủng hoảng của quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa:
Một là, một đôi lúc người ta gặp khó khăn trong việc bán một vài thứ
hàng hoá nào đó, nguyên nhân là ở chỗ sản xuất của một ngành nào đó không

đủ, cho nên ngành khác sản xuất thừa. Như vậy, JeanBaptistesay thừa nhận


sản xuất thừa bộ phận. Nhưng ông lại cho rằng, trong xã hội không thể có sản
xuất thừa vượt quá khả năng tuyệt đối của nhu cầu. Theo ông, sản phẩm bao
giờ cũng được trao đổi bẳng sản phẩm, lợi ích chủ yếu của tất cả những người
sản xuất hình như là trao đổi sản phẩm này lấy sản phẩm khác. Tiền chỉ đóng
vai trò "trung gian không hơn không kém", chúng chỉ đóng vai trò nhất thời.
Cuối cùng thì "hàng hoá chỉ đổi bằng hàng hoá", vì người ta chỉ có thể mua
một hàng hoá nào đó bằng tiền nhận được do bán những hàng hoá khác. Một
khi sản phẩm được trao đổi lấy sản phẩm khác thì người bán đồng thời cũng là
người mua hàng khác. Do đó, mỗi sản phẩm được sản xuất ra không những
tạo ra lượng cung mà còn tạo ra lượng cầu, nó tự mở thị trường tiêu thụ cho
những sản phẩm khác.
Hai là, "thị trường tiêu thụ các sản phẩm do bản thân sản xuất tạo ra".
Nếu số lượng những người sản xuất càng nhiều thì việc tiêu thụ sản phẩm
càng dễ dàng, nhiều vẻ và rộng rãi hơn. Từ đó, ông rút ra kết luận: Mỗi người
sản xuất đều phải quan tâm tới phúc lợi của tất cả mọi người.
Ba là, khủng hoảng thương nghiệp hay khó khăn về tiêu thụ chỉ là ngẫu
nhiên, nhất thời, không liên quan gì đến nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ông
gắn cho các cuộc khủng hoảng thương nghiệp là do "những biện pháp cưỡng
chế" của chính phủ; nếu để cho mọi việc đi theo "sự vận động riêng" của
chúng thì tất cả đều kết thúc một cách thuận lợi. Jean Baptiste say chủ trương
bảo vệ chế độ tự do mậu dịch, chống chính sách bảo hộ bằng thuế quan. Theo
ông, việc nhập khẩu hàng nước ngoài tạo thuận lợi cho việc bán sản phẩm
trong nước, vì muốn nhập khẩu phải đẩy mạnh xuất khẩu, nên chính sách bảo
hộ thuế quan sẽ làm hại nền công nghiệp trong nước.
Bốn là, Jean Baptiste Say chủ trương một nhà nước bảo đảm các chức năng
đặc quyền (quân đội, tư pháp, cảnh sát) và tránh mọi sự can thiệp. Ông không tán
thành tạo lập những doanh nghiệp công cộng, chủ trương tư nhân hoá những



doanh nghiệp đã quốc hữu hoá, nhà nước phải tạo ra một môi trường thuận lợi
cho sự làm giàu, đặc biệt là xây dựng đường xá, cầu cống, kênh đào và cảng
biển. “Học thuyết thực hiện", của Jean Baptiste Say đã đánh tráo đối tượng
nghiên cứu; thay quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng sản xuất hàng hoá
giản đơn. Đối với sản xuất hàng hoá giản đơn thì khủng hoảng sản xuất thừa chỉ
là mầm mống, khả năng, nhưng trong sản xuất tư bản chủ nghĩa thì khả năng ấy
tất yếu trở thành hiện thực. Sản xuất thừa ở đây không phải là sản xuất thừa sản
phẩm mà là sản xuất thừa hàng hoá, nghĩa là thừa so với khả năng thanh toán của
đa số nhân dân lao động, chứ không phải thừa so với nhu cầu tự nhiên của họ.
Thực tế những cuộc khủng hoảng mang tính chu kỳ nổ ra từ năm 1825
đến nay đã chứng minh học thuyết tiêu thụ của Jean Baptiste Say hoàn toàn
không có căn cứ khoa học.
*Thuyết bù trừ.
Jean Baptiste Say là người ca ngợi chủ nghĩa tư bản, do đó tìm mọi cách
che đậy hậu quả của việc sử dụng máy móc theo lối tư bản chủ nghĩa. Theo
ông, chỉ có trong thời kỳ đầu việc sử dụng máy móc mới gây ra "một số bất
tiện" là gạt bỏ một bộ phận công nhân và làm cho họ "tạm thời" mất việc làm.
Nhưng cuốc cùng thì công nhân vẫn có lợi vì việc sử dụng máy móc, việc tăng
lên. Jean Baptiste Say đưa ra dẫn chứng, việc sử dụng máy in ra sách báo lúc
đầu làm cho số lượng người chép sách mất việc, nhưng sau đó đội ngũ công
nhân ngành in đã vượt nhiều lần số lượng người chép sách trước kia. Mặt
khác, ông cho rằng, máy móc làm ra nhiều sản phẩm rẻ thì người lao động
được hưởng lợi nhiều nhất.
Thực chất, Jean Baptiste Say muốn chứng minh sự hoà hợp lợi ích giữa
tư bản và lao động. Trong bộ "Tư bản" C.Mác đã vạch rõ tính chất phản khoa
học của lý thuyết này và khẳng định: "Những mâu thuẫn và đối kháng gắn liền
với việc sử dụng máy móc theo kiểu tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn không có,



bởi vì những cái đó không phát sinh từ bản thân máy móc mà chỉ phát sinh từ
việc sử dụng chúng theo kiểu tư bản chủ nghĩa mà thôi" 1. Như vậy, không thể
có sự "hoà hợp lợi ích" giữa tư bản và lao động, khi sử dụng máy móc theo
kiểu tư bản chủ nghĩa.

2. Học thuyết kinh tế của Thomas Robert Malthus (1766 - 1834).
a) Tiểu sử của Thomas Robert Malthus.
Thomas Robert Malthus sinh năm 1766 là con trai út của một nhà quí tộc,
không được nhận gia tài, vì vậy ông đi vào nghề tu hành. Sau khi tốt nghiệp
trường Đại học Cambridge, ông trở thành một mục sư ở nông thôn. Năm
1807, ông làm giáo sư khoa kinh tế chính trị ở trường Trung học của của Công
ty Đông Ấn cho đến lúc mất.
Thomas Robert Malthus viết nhiều tác phẩm như: "Bàn về qui luật nhân
khẩu” (năm 1789), đây là tác phẩm làm cho ông nổi tiếng xấu xa, vì tác phẩm
đó đã ca ngợi một cách hết sức vô liêm sỉ sự bần cùng và sự bóc lột những
người lao động; “Nghiên cứu hậu quả của các đạo luật về lúa mì” (năm 1814);
“Cơ sở lý luận của chính sách hạn chế nhập khẩu lúa mì từ nước ngoài” (năm
1815); “Nghiên cứu bản chất và sự phát triển của địa tô” (năm 1815); “Những
nguyên lý của khoa kinh tế chính trị” (năm 1820).
Những tác phẩm trên của Thomas Robert Malthus thể hiện rõ ông là tư
tưởng gia của giai cấp địa chủ, quí tộc tư sản hoá.
b) Những quan điểm phản khoa học của Thomas Robert Malthus.
* Lý luận nhân khẩu.
Lý luận nhân khẩu là lý thuyết trung tâm của Thomas Robert Malthus.
Cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh đã dẫn đến sự phân cực nhanh chóng,

1

mC.Mác, Ph.Ăng ghen, toàn tập, tập 23 - Nxb CTQG, Hà Nội 1993 trang 630.



hàng triệu người sản xuất nhỏ bị phá sản rơi vào hàng ngũ giai cấp vô sản,
làm tăng sự thất nghiệp và bần cùng.
Những nhà lý luận xã hội chủ nghĩa không tưởng và các nhà văn tiến bộ
đã chỉ rõ nguyên nhân của sự nghèo khổ, các tệ nạn xã hội là chế độ tư hữu tư
bản chủ nghĩa và sự áp bức bóc lột của giai cấp thống trị. Nhưng Thomas
Robert Malthus chống lại các tư tưởng tiến bộ đó, bằng cách chứng minh
rằng, sự nghèo khổ không phải do chế độ tư bản chủ nghĩa gây nên mà do bản
tính của con người có khuynh hướng tăng sinh sản quá giới hạn, vô cùng lớn
hơn khả năng đất đai sản xuất ra thực phẩm cho con người.
Có thể khái quát nội dung cơ bản của "lý luận nhân khẩu" do Thomas
robert Malthus xây dựng như sau:
Một là, con người muốn sống phải được nuôi dưỡng, do đó, phải có tư
liệu sinh hoạt. Nhưng xu hướng thường xuyên biểu hiện ở mọi sinh vật là một
sự gia tăng giống loài nhiều hơn số lượng thực phẩm nằm trong tầm tay của
mình. Vì vậy, ở nơi nào nhân khẩu lớn hơn dự trữ thức ăn thì dĩ nhiên ở đó có
nhân khẩu thừa.
Qua đó thấy, Thomas Robert Malthus đã đứng trên quan điểm tiêu thụ để
xét nhân khẩu thừa và ông đã đồng nhất con người với sinh vật nói chung.
Thomas Robert Malthus không thấy rằng con người khác với các sinh vật ở
chỗ, con người không thụ động chờ đợi sự có sẵn thức ăn do thiên nhiên ban
cho mà còn biết tạo ra công cụ lao động, tác động vào thiên nhiên, tự sản xuất
ra tư liệu sinh hoạt cho mình.
Hai là, Theo ông, sự nghèo khổ, đói khát, chết dần chết mòn và những
nỗi bất hạnh khác không phải do chế độ xã hội mà do dân số không thích ứng
với tư liệu sinh hoạt. "Chúng ta có thể nói chắc chắn rằng, một khi dân số
không bị dừng lại bởi bất cứ trở ngại nào, cứ 25 năm nó sẽ tăng gấp đôi và
tăng lên từ thời kỳ này sang thời kỳ khác như vậy theo cấp số nhân . . ., còn



những tư liệu sinh hoạt thì trong những điều kiện thuận lợi nhất bao giờ cũng
chỉ có thể tăng theo cấp số cộng". Với việc chứng minh sơ sài, không có
những thông kê xác thực ông tự nêu lên một thí dụ làm bằng chứng như sau:
"Hãy lấy số dân số của trái đất là một nghìn triệu người. Loài người sẽ
tăng theo cấp số 1, 2, 3, 4, 8, 16, 32, 64, 128, 256....Còn những tư liệu sinh
hoạt thì sẽ tăng cấp số 1, 2, 3; 4, 5, 6, 7, 8, 9. Sau hai thế kỷ, dân số và tư liệu
sinh hoạt sẽ nằm trong khối tương quan 256 đối với 9, sau ba thế kỷ nữa là
4096 đối với 13. Sau hai nghìn năm nữa, sự khác biệt sẽ là vô tận và không
thể tính được.
Thomas Robert Malthus không nhận thấy vai trò của tiến bộ kỹ thuật,
dựa vào những tài liệu ở nước Pháp lấy qui luật màu mỡ đất đai giảm dần
"làm cơ sở để chứng minh tư liệu tiêu dùng tăng theo cấp số cộng"vạư gia
tăng dân số cơ học của Mỹ để chứng minh dân số tăng theo cấp số nhân.
Đây là một luận điểm không đúng, bởi vì các nhà khoa học đã tính rằng,
muốn giữ được mức thu nhập bình quân tính theo đầu người không thay đổi
thì tốc độ tăng trưởng kinh tế phải nhanh gấp đôi tốc độ tăng nhân khẩu, nếu
không thì mức sống sẽ giảm. Qua đó cho thấy, trong điều kiện kinh tế lạc hậu,
tăng dân số quá nhanh sẽ không tránh khỏi nghèo đói nên cần phải kế hoạch
hoá sự phát triển dân số. Nhưng từ đó mà đi đến kết luận nhân khẩu tăng theo
cấp nhân và tư liệu sinh hoạt tăng theo cấp số cộng, qui mọi tệ nạn xã hội về
nguyên nhân tăng nhân khẩu là sai lầm. Trong thực tế, tăng trưởng kinh tế
thường nhanh hơn tốc độ tăng nhân khẩu.
Ba là, ông đưa ra lối thoát để giải quyết tình trạng mất cân đối quá lớn
giữa dân số và tư liệu sinh hoat cần phải có những trở ngại làm đình trệ việc
tăng nhân khẩu, bao gồm: sự cưỡng bức đạo đức, những tệ nạn xã hội, dịch
bệnh, thiên tai và chiến tranh.
Bonnard (người viết tiểu sử Thomas Robert Malthus) cho rằng: Ông là



người thích thú bệnh đậu mùa, chế độ nô lệ và nạn giết trẻ con; người tố cáo
những bát súp bình dân, những cuộc tảo hôn và những cuộc trợ giúp làng xã . . .
C. Mác lên án cuốn "Bàn về qui luật nhân khẩu" của Thomas Robert Malthus,
coi đó là cuốn sách phỉ báng loài người một cách vô liêm sỉ, tính chất thấp hèn
của tư tưởng Thomas Robert Malthus là nhằm phục vụ bởi lợi ích của giai cấp
thống trị nói chung và những phần tử phản động trong giai cấp đó.
*Lý thuyết về giá trị hàng hoá, về lợi nhuận chuyển nhượng và thuyết về
người thứ ba.
Bắt đầu từ Smith, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản công nghiệp đã
không ngừng nhấn mạnh tính chất vô dụng của bọn quí tộc địa chủ. Sự thù
ghét của giai cấp tư sản đối với giai cấp quí tộc địa chủ đã được Ricardo thể
hiện một cách đâỳ đủ hơn cả. Ông đòi tự do cạnh tranh và kiên quyết chống
lại các đạo luật về lúa mì.Với tư cách là một tư tưởng gia của quí tộc địa chủ,
đương nhiên Thomas Robert Malthus phải chống lại các học thuyết muốn lật
đổ quí tộc địa chủ là bọn ăn bám, cản trở sự phát triển của xã hội tư bản chủ
nghĩa. Thomas Robert Malthus đã dựa vào định nghĩa sai của A.Smith về giá
trị hàng hoá. Khi quan sát lưu thông của tư bản theo công thức T-H-T, ASmith
đã lầm lẫn việc trao đổi tiền công lấy sức lao động với việc trao đổi tiền công
lấy lao động sống, việc không giải thích được vì sao trao đổi theo qui luật giá
trị mà lại thu được nhiều giá trị hơn lượng giá trị ứng ra ban đầu. Từ đó,
A.Smith đã đưa ra định nghĩa sai về giá trị: Giá trị của hàng hoá là do lao
động có thể mua được bằng hàng hoá đó quyết định. Thomas Robert Malthus
đã nắm lấy định nghĩa đó và đưa ra định nghĩa: "Lao động mà một hàng hoá
có thể chi phối được là thước đo tiêu chuẩn của giá trị". Có thể minh hoạ khái
niệm giá trị của Thomas Robert Malthus bằng ví dụ sau: Một chủ xưởng đem
một số lượng vải len chứa đúng 8 giờ lao động vật hoá biểu hiện thành tiền là
10 bảng Anh (hoặc bán lấy 10 bảng Anh để trả lương cho công nhân) để đổi
lấy lao động sống của công nhân. Người công nhân lại sản xuất cho chủ



xưởng một lượng vải len mới chứa đựng 12 giờ lao động. Theo định nghĩa
của Thomas Robert Malthus thì giá trị của lượng vải len ứng ra ban đầu không
phải là lượng lao động vật hoá chứa đựng trong đó (8giờ), mà là lượng lao
động mà nó chi phối được (tức 12 giờ). Lượng lao động chi phối này lớn hơn
lượng lao động chứa đựng trong hàng hoá ứng ra và số chênh lệch đó chính là
lợi nhuận. Điều đó có nghĩa là chủ xưởng đã bán vải len theo giá 14 bảng,
theo giá trị của vải, nhưng trước đó ông ta đã chỉ phải trả có 10 bảng, nhờ vậy
lãi 4 bảng.
Theo ông, hàng hoá bao giờ cũng chi phối một lượng lao động lớn hơn số
lao động chứa đựng trong bản thân nó. Ông muốn gộp "lợi nhuận" vào định
nghĩa giá trị của hàng hoá. Điều phi lý là ông đã đồng nhất hàng hoá, giá trị
hàng hoá với việc sử dụng giá trị hàng hoá ấy làm tư bản. Khi hàng hoá hay
tiền được đổi, với tư cách là tư bản lấy lao động lớn hơn là số lao động chứa
đựng trong bản thân chúng. Nếu người ta so sánh một bên là hàng hoá trước
khi xảy ra sự trao đổi và bên kia là sản phẩm nhận được do trao đổi hàng hoá
ấy lấy lao động sống, thì sẽ thấy rằng hàng hoá được trao đổi lấy giá trị của
bản thân nó (vật ngang giá) cộng một số dư ngoài giá trị của nó, tức là giá trị
thặng dư. Đây là một sự phi lý hết sức bởi vì giá trị của hàng hoá bằng giá trị
của nó cộng số dư ngoài giá trị đó.
Thomas Robert Malthus đã cố tình biến tất cả những người mua thành
giai cấp công nhân làm thuê, nghĩa là bắt tất cả những người mua phải trao đổi
lao động trực tiếp, chứ không phải hàng hoá với nhà tư bản và phải trả cho
nhà tư bản nhiều lao động hơn số lao động chứa đựng trong hàng hoá. Do đó,
ông quay lại quan điểm tầm thường coi lợi nhuận là "lợi nhuận do chuyển
nhượng", giải thích lợi nhuận là do người bán hàng bán cao hơn giá trị của
chúng.


Sự đồng nhất phi lý giá trị hàng hoá với việc sử dụng giá trị hàng hoá với
tư cách là tư bản, quan niệm lợi nhuận do bán cao hơn giá trị mà có là chỗ dựa

cho lập luận của Thomas Robert Malthus về "những người thứ ba". Có thể
tóm tắt lập luận đó như sau:
Một là, mỗi nhà tư bản vừa là người mua, vừa là người bán nên việc mua
bán cho nhau quá đắt và do đó, lừa bịp lẫn nhau theo mức độ như nhau, nếu
như cả hai thực hiện được tỷ suất lợi nhuận chung. Như vậy, với tư cách là
người mua, mỗi người mất đi cái mà họ được với tư cách là người bán, không
ai thu được lợi nhuận.
Hai là, giai cấp công nhân là ngoại lệ duy nhất. Vì giá cả sản phẩm cao
hơn chi phí của nó, nên công nhân chỉ mua được trở lại có một bộ phận sản
phẩm do mình làm ra, bởi vậy, nhà tư bản ( giai cấp các nhà tư bản ) không
bao giờ có thể thực hiện được hết lợi nhuận bằng cách trao đổi toàn bộ sản
phẩm lấy tiền công.
Ba là, ngoài bản thân người công nhân, còn cần phải có số cầu khác và
những người mua khác, cần phải có " những người thứ ba " là những người
mua vốn không phải là người bán, để nhà tư bản có thể thực hiện được lợi
nhuận. Những người đó là địa chủ, quí tộc, những người hưởng lương bổng,
các mục sư . v .v. Tuy nhiên, Thomas robert Malthus không giải thích "
Những người chỉ mua không bán " ấy lấy các phương tiện mua ở đâu ra, bằng
cách nào mà trước đó họ đã lấy một phần sản phẩm của nhà tư bản ( không
phải trả vật ngang giá ) để rồi dùng số lấy được đó mua trở lại ít hơn là vật
ngang giá của số đó.
Tóm lại, theo Thomas Robert Malthus cần tăng càng nhiều càng tốt các
giai cấp phi sản xuất để những người bán hàng có thể tìm được một thị
trường, một số cầu cho số cung của họ. Nếu tư bản đại biểu cho nguyện vọng
chạy theo của cải trừu tượng, nguyện vọng làm tăng giá trị thì nguyện vọng


này chỉ có thể thực hiện được thông qua giai cấp những người mua là những
kẻ đại biêủ cho nguyện vọng chi tiêu, tiêu dùng hoang phí - tức là nhờ các giai
cấp phi sản xuất, họ là những người mua mà không phải là người bán.

3. Học thuyết kinh tế của Natxau Uyliam Xenio (1790 - 1864 )
a) Tiểu sử của Natxau Uyliam Xenio.
Natxau Uyliam Xenio sinh trong một gia đình mục sư ở nông thôn. Sau
khi tốt nghiệp trường đại học Oxford, ông làm nghề luật sư trong một số năm.
Bắt đầu từ năm 1825, Natxau Uyliam Xenio trở thành giáo sư khoa kinh tế
chính trị ở trường đại học Oxford. Những năm 30-40 của thế kỷ XIX, ông
tham gia tích cực vào những uỷ ban khác nhau của chính phủ, nghiên cứu về
những vấn đề của phong trào công nhân; trong những uỷ ban đó, Natxau
Uyliam Xenio tỏ ra là một đầy tớ trung thành của các nhà tư bản, là người
chống lại pháp chế công xưởng. Các tác phẩm về kinh tế của ông bao gồm:
"Khái luận về kinh tế chính trị " (1836), và " Những bức thư về pháp chế
công xưởng " (1837).
b) Các lý thuyết kinh tế tầm thường của Natxau Uyliam Xenio
* Thuyết nhịn ăn tiêu
Natxau Uyliam Xenio đem " Thuyết nhịn ăn tiêu " của mình đối lập với
học thuyết của Ricardo về lao động, theo Ricardo lao động là nguồn gốc duy
nhất của giá trị, còn theo Natxau Uyliam Xenio thì hai yếu tố lao động và tư
bản là những chi phí sản xuất ra giá trị. Ông đã giải thích một cách chủ quan
các yếu tố đó, ông coi lao động "Như là một sự hy sinh của công nhân, người
đã mất những thời giờ nhàn rỗi và yên tĩnh của mình. Còn đối với tư bản thì
Natxau Uyliam Xenio thay thế bằng sự hy sinh " của nhà tư bản. Sự hy sinh
này là ở chỗ nhà tư ản nhịn không tiêu dùng cá nhân khi biến tư bản của mình
thành tư liệu sản xuất.


Ông viết: "Tôi thay danh từ tư bản, được coi là công cụ sản xuất, bằng
danh từ nhịn ăn tiêu". Như vậy, theo ông ngoài lao động ra, sự "nhịn ăn tiêu"
của nhà tư bản cũng được coi là nguồn sinh ra giá trị. Phần thưởng đền bù lại
cho những hy sinh tương ứng của công nhân và nhà tư bản, theo ông là tiền
công và lợi nhuận.

C.Mác đã phê phán gay gắt "Thuyết nhịn ăn tiêu" Natxau Uyliam Xenio
trong bộ "Tư bản" ông viết: "Thật là một mẫu mực" phát kiến "không thể nào
sánh kịp của khoa kinh tế chính trị tầm thường! Một phạm trù kinh tế nhất
định được thay thế bằng một câu nói giả dối" 1
* Thuyết giờ cuối cùng:
Thực chất của "Thuyết giờ cuối cùng" có thể khái quát là, với một
ngàylao động 11 1/2 giờ, thì lợi nhuận của nhà tư bản được tạo ra trong giờ cuối
cùng của ngày lao động, do đó, việc rút ngắn ngày lao động xuống 10 giờ sẽ
làm cho lợi nhuận biến mất, nếu lợi nhuận biến đi thì mọi sự kích thích đối
với phát triển sản xuất cũng sẽ biến mất.
Thuyết "Giờ cuối cùng" của Natxau Uyliam Xenio nhằm mục đích thực
tiễn nhất định. Ở Anh trong những năm 30 thế kỷ XIX người ta tích cực cổ
động cho ngày lao động 10 giờ. Các chủ xưởng rất cần những lý lẽ chống lại
việc rút ngắn ngày lao động. "Thuyết giờ cuối cùng" của Natxau Uyliam
Xenio đã đáp ứng nguyện vọng của giai cấp tư sản.
Trong bộ "Tư bản", C. Mác đã vạch rõ những sai lầm của Natxau Uyliam
Xenio về vấn đề này. Tiền đề mà Natxau Uyliam Xenio đưa ra là giả thiết vô
lý cho rằng, toàn bộ giá trị của khối lượng hàng hoá được sản xuất ra trong
năm là hoàn toàn do kết quả lao động cuả năm đó tạo ra. Trên thực tế, điều đó
chỉ đúng đối với giá trị sử dụng của sản phẩm hàng năm. Còn giá trị của sản
phẩm, thì ngoài giá trị do lao động năm đó sáng tạo ra (v+m), còn có giá trị đã
1

C.Mác, tư bản, QI, tập III. Nxb.ST, Hà Nội 1960-tr 50


vật hoá (c) được tạo ra trong những năm trước đây và bây giờ nhờ lao động cụ
thể của người công nhân chuyển vào sản phẩm.
Điều đó chứng tỏ, Natxau Uyliam Xenio không hiểu tính chất hai mặt
của lao động sản xuất hàng hoá, do đó, không hiểu sự khác nhau giữa việc tạo

ra giá trị mới và việc chuyển giá trị cũ vào sản phẩm mới sản xuất ra.
Natxau Uyliam Xenio cũng không thấy được quá trình sản xuất tư bản
chủ nghĩa là quá trình thống nhất biện chứng giữa sản xuất ra giá trị sự dụng
và giá trị thặng dư. Chính vì vậy, trong mỗi đơn vị của khối lượng hàng hoá
đều là đại biểu vật chất mang phần lợi nhuận tương ứng chứ không phải chỉ có
bộ phận được sản xuất ra và được thực hiện sau cùng mới mang lại lợi nhuận
cho nhà tư bản. Thuyết "Giờ cuối cùng" hết sức vô lý, đến chính bản thân
Natxau Uyliam Xenio sau này cũng phải từ bỏ lý thuyết đó.
4. Học thuyết kinh tế của Hery Charles Carey.
a) Tiểu sử của Hery Charles Carey
Hery Charles Carey là con của một chủ nhà xuất bản sách lớn, quê gốc ở
Irland. Ông khởi đầu sự nghiệp của mình từ lĩnh vực hoạt động thương mại.
Sau khi giàu lên và trở thành chủ xưởng, ông quay ra viết sách báo. Hery
Charles Carey là một tư tưởng gia của giai cấp tư sản Mỹ.
Hery Charles Carey viết nhiều tác phẩm kinh tế, có những tác phẩm tiêu
biểu như: "Những nguyên lý của khoa kinh tế chính trị” (1837 - 1840);
“Những nguyên lý của khoa học xã hội” (1857 - 1859), và “Bài tóm tắt tác
phẩm đó”; “cuốn sách chỉ nam về khoa học xã hội” (1865).v.v. Trong các tác
phẩm này, Hery Charles Carey đã trình bày thuyết "hoà hợp lợi ích". Giai cấp
tư sản Mỹ đã tôn sùng ông là "nhà kinh tế vĩ đại".
b) Học thuyết kinh tế của Hery Charles Carey.
Học thuyết của ông thể hiện lập trường và biện hộ cho lợi ích của giai
cấp tư sản Mỹ.


Nền công nghiệp Mỹ vào thời kỳ đầu thế kỷ XIX là một nền công nghiệp
non trẻ, cần được bảo vệ bằng chính sách bảo hộ thuế quan. Để biện hộ cho
chính sách này, các lý luận gia tư sản Mỹ phải chống lại tư tưởng tự do mậu
dịch của Smith và Ricardo. Mặt khác, hệ thống lý luận của Ricardo đã vạch
trần những mâu thuẫn của xã hội tư bản, cung cấp vũ khí tư tưởng cho những

người xã hội chủ nghĩa phê phán chế độ tư bản. Hery Charles Carey đã thể
hiện sự căm ghét của giai cấp tư sản Mỹ đối với đại biểu kiệt xuất của kinh tế
chính trị tư sản cổ điển, ông coi "Hệ thống Ricardo là hệ thống của sự thù
địch"... Mục đích chủ yếu trong các tác phẩm của Hery Charles Carey là gạt
bỏ học thuyết của Ricardo và chứng minh cho "Sự hoà hợp hoàn toàn của
những lợi ích thực tế và chân chính giữa các giai cấp khác nhau của nhân
loại", sự hoà hợp hình như vốn có của chế độ sản xuất tư bản chủ nghĩa, do
bản chất của chế độ đó đẻ ra.
Hery Charles Carey lấy "quy luật phân phối” làm cơ sở cho thuyết hoà
hợp lợi ích. Theo qui luật này, cùng với sự phát triển của năng suất lao động,
phần của công nhân tăng lên về tỷ lệ cũng như về tổng số. Còn phần của nhà
tư bản thì tăng lên về tổng số, nhưng giảm về tỷ lệ.
Hery Charles Carey minh họa luận điểm đó bằng sơ đồ sau:
Tổng số sản phẩm

Phần của công

Phần của nhà tư

nhân
bản
Búa đá
4
1
3
Búa đồng thau
8
2,66
5,33
Búa sắt .v.v..

16
8
8
Việc chuyển từ búa đá sang búa đồng, rồi búa sắt dẫn tới với việc tăng
năng xuất lao động. Tổng số sản phẩm tăng lên (từ 4 đến 16). Thu nhập tăng
lên một cách tuyệt đối đối với công nhân (từ 1 đến 8) cũng như đối với nhà tư
bản (từ 3 đến 8), nhưng phần tương đối của nhà tư bản lại giảm xuống (từ 3/4
lên 1/2). Hery Charles Carey khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản càng phát triển


thì tình hình của giai cấp công nhân không những được cải thiện, mà phúc lợi
của họ thậm chí còn tăng nhanh hơn thu nhập của nhà tư bản.
Để chứng minh cho điều đó, nhằm che đậy cho sự đối kháng giữa lao
động và tư bản, ông đưa ra "thuyết" đặc biệt về giá trị. Theo thuyết này, giá trị
của hàng hoá không phải do số lượng lao động thực tế đã chi phí để tái sản
xuất ra hàng hoá quyết định, mà do chi phí để tái sản xuất ra hàng hoá trong
những điều kiện nhất định quyết định. Với sự phát triển của năng suất lao
động thì những chi phí để tái sản xuất ra hàng hoá kể cả tư liệu sản xuất giảm
xuống. Điều đó dẫn tới giá trị của tư bản (Hery Charles Carey coi tư bản và tư
liệu sản xuất là một) giảm xuống, lợi tức giảm xuống. Còn giá trị của lao động
và phần của nó trong sản phẩm lại tăng lên.
Những lập luận trên của Hery Charles Carey vừa thiếu cơ sở lý luận, vừa
mang tính chất tán dương cho giai cấp tư sản.
Một là, ai cũng biết rằng lợi tức là một bộ phận của giá trị lao động sống
sáng tạo ra. Vì vậy, nó không liên quan gì tới lao động quá khứ được vật hoá
trong tư liệu sản xuất, giá trị của những tư liệu sản xuất này chỉ được chuyển
vào sản phẩm mới mà thôi.
Hai là, Hery Charles Carey cho rằng cùng với sự phát triển của sức sản
xuất của lao động thì giá trị của lao động cũng tăng lên, giá trị của lao động
tăng lên thì phần của công nhân trong sản phẩm cũng tăng lên. Đây là lời

khẳng định mang tính hoang đường, trên thực tế sự việc hoàn toàn ngược lại.
Trong chủ nghĩa tư bản, năng suất lao động tăng lên sẽ làm cho giá trị của sức
lao động giảm xuống, tăng tỷ xuất giá trị thặng dư, do đó, làm tăng phần thu
nhập của các nhà tư bản trong thu nhập quốc dân. Điều này C.Mác đã chứng
minh bằng lý luận "bần cùng hoá tương đối" giai cấp vô sản.
Sau khi đã "thanh toán" mâu thuẫn giữa lao động và tư bản, Hery Charles
Carey bắt tay vào việc chứng minh sự "hoà hợp lợi ích" giữa các nhà tư bản


và địa chủ, cũng như giữa địa chủ và những người công nhân nông nghiệp.
Trong vấn đề này, Hery Charles Carey đã vấp phải học thuyết về địa tô của
Ricarddo, học thuyết đã chứng minh địa chủ bóc lột công nhân, làm thiệt hại
cho tư bản và công nhân. Hery Charles Carey đã bác bỏ học thuyết địa tô của
Ricardo bằng cách, đả kích vào quan niệm sai lầm của Ricardo gắn liền địa tô
và việc địa tô tăng lên với việc chuyển từ những ruộng đất tốt sang canh tác
những ruộng xấu hơn. Ngược lại với Ricardo, Hery Charles Carey lấy ví dụ
nước Mỹ để khẳng định rằng, ở đây việc canh tác cũng bắt đầu từ những
khoảng đất đồi, dễ làm, nhưng ít phì nhiêu và chỉ dần dần mới chuyển sang
canh tác những vùng đồng bằng phì nhiêu hơn. Như vậy, Hery Charles Carey
đã đưa ra một quan niệm rất phiến diện để đối lập với Ricardo, vì trong thực
tế những mảnh đất có độ phì nhiêu khác nhau được canh tác cùng lúc.
Hery Charles Carey cũng không đồng ý với luận điểm (hợp lý) của
Ricardo cho rằng địa tô là hình thái đặc thù khác của lợi nhuận mà giai cấp địa
chủ ăn bám được hưởng. Theo Hery Charles Carey địa chủ được tiền thuê
ruộng không phải nhờ ruộng đất với tư cách là ruộng đất. Dưới hình thái tiền
thuê ruộng, địa chủ chỉ được bù lại về những chi phí mà họ hay ông cha họ đã
bỏ ra để làm cho đất hoang trở thành trồng trọt được. Như vậy, Hery Charles
Carey đã bỏ qua độc quyền tư hữu ruộng đất và sự khác nhau về màu mỡ đất
đai để giải thích địa tô. Về thực chất, ông phủ nhận địa tô khi quy nó thành
một dạng của lợi tức do tư bản đầu tư vào ruộng đất đem laị. Kết quả của công

việc đó là sự khác nhau về kinh tế giữa tư bản và địa chủ bị xoá bỏ. Địa chủ
cũng giống như nhà tư bản, chỉ phân biệt với nhau về lĩnh vực đầu tư tư bản.
Mối quan hệ giữa địa chủ và công nhân theo Hery Charles Carey cũng
được điều tiết bởi "qui luật phân phối" đã nói ở trên. Để chứng minh cho điều
đó, Hery Charles Carey viện vào tình hình là sự tiến bộ kỹ thuật trong nông
nghiệp đã làm giảm lượng lao động cần thiết để làm cho một mảnh ruộng trở
nên cach tác được. Do đó, giá trị của tư bản đầu tư vào ruộng đất giảm đi,


phần của địa chủ cũng giảm xuống, còn phần của công nhân tăng lên, trong
khi thu nhập của cả hai đều tăng tuyệt đối.
Như vậy, sự nhất trí về lợi ích giữa công nhân và địa chủ cũng được Hery
Charles Carey chứng minh bằng biện pháp sai lầm, giống như sự hoà hợp giữa
lao động và tư bản.
Trong những tác phẩm đầu, Hery Charles Carey tán thành tự do mậu dịch
phản đối sự can thiệp của nhà nước, vì nó phá hoại sự "hoà hợp". Nhưng về
sau, đi theo lợi ích của giai cấp tư bản Mỹ, ông chuyển sang lập trường bảo hộ
công nghiệp, nông nghiệp trong nước bằng thuế quan và quay sang tuyên
truyền cho chính sách đó. Đồng thời chống lại chính sách tư do mậu dịch của
nước Anh. Nhưng để cho chính sách bảo hộ bằng thuế quan nhất trí với việc
tuyên truyền "sự hoà hợp lợi ích", ông cho rằng, một trong những cơ sở của sự
"hoà hợp" đó là sự gần gũi tối đa giữa người sản xuất và người tiêu dùng, nhờ
đó gạt bỏ được sự vận chuyển vô ích, giảm bớt chi phí thương nghiệp khôi
phục lại sức sống của ruộng đất. Hery Charles Carey khẳng định rằng mục
tiêu đó có thể đạt tới tốt nhất bằng cách phân tán sản xuất về các trung tâm
của các địa phương, trong các vùng này nông nghiệp kết hợp hữu cơ với công
trường thủ công. Nhưng ở đây Hery Charles Carey cho rằng mối liên hệ giữa
công nghiệp và nông nghiệp trong nước, cần thiết cho sự " hoà hợp hoàn toàn
" đã bị chính sách tự do mậu dịch của nước Anh phá hoại. Do đó, Hery
Charles Carey đã kích chống lại tác động phá hoại của nước Anh. Theo ông,

sự bảo vệ duy nhất chống lại những tác động phá hoại của Anh, đồng thời là
phương tiện duy nhất để bảo tồn "sự hoà hợp vĩnh cửu", là sự can thiệp của
chính phủ và thuế quan của nhà nước.
Tóm lại, tuỳ theo lợi ích của giai cấp tư sản dân tộc mà trong trường hợp
này thì chính sách tự do mậu dịch, còn trong trường hợp khác là chính sách
bảo hộ bằng thuế quan, lại được coi là điều kiện tất yếu của "sự hoà hợp". Đó
là "lôgíc" của Hery Charles Carey trong sự biện hộ cho chủ nghĩa tư bản.


Câu hỏi ôn tập
1. Trình bày những quan điểm kinh tế cơ bản trong Học thuyết kinh tế của
Jean Baptiste Say, Thomas Robert Malthus, Natxau Uyliam Xenio, Hery Charles
Carey?
2. Đồng chí hãy so sánh với các quan điểm kinh tế của các nhà kinh tế tư
sản cổ điển?



×