Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Lý thuyết về lợi thế so sánh qua các thời kỳ và vận dụng vào lĩnh vự xuất nhập khẩu nông sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.65 KB, 34 trang )

ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----------

TIỂU LUẬN
LÝ THUYẾT VỀ LỢI THẾ SO SÁNH QUA CÁC THỜI KỲ
VÀ VẬN DỤNG VÀO LĨNH VỰC XUẤT NHẬP KHẨU
NÔNG SẢN Ở VIỆT NAM

Giáo viên hướng dẫn: Thầy Hoàng Vinh

Hà Nội, 3/2016


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Bước sang thế kỉ XXI, tự do hoá thương mại đã và đang trở thành là xu

hướng chung của thế giới, và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Điều này mang
đến cho nước ta nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với việc phát triển nền
kinh tế nói chung. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam nói đã đạt
được những thành tựu đáng kể, dần khẳng định vị trí của mình trên thị trường
quốc tế, một trong số đó là lĩnh vực xuất nhập khẩu. Xuất khẩu ngày càng
đóng một vai trò lớn trong nền kinh tế, đặc biệt là xuất khẩu nông sản, hàng
năm xuất khẩu nông sản đóng góp 20% GDP vào nền kinh tế. Việt Nam đã
trở thành một trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về các mặt hàng


như: gạo, cao su, cà phê, hạt tiêu, hạt điều,...Một trong số nguyên nhân là Việt
Nam đã tận dụng được các lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên và con người
nhằm nâng cao khả năng của mình trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, hiện nay, trước bối cảnh hội nhập sâu rộng, nông sản Việt
sẽ chịu sự cạnh tranh gay gắt trước những đối thủ khác trên thế giới. Thêm
vào đó, thực tế sản xuất với quy mô nhỏ lẻ, tình trạng chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp còn mang tính tự phát, sản xuất chủ yếu theo tín hiệu thị trường
ngắn hạn cộng thêm các yếu tố tác động khách quan như khí hậu, dịch bệnh…
cũng là những thách thức đặt ra cho toàn ngành nông nghiệp nói chung và
xuất khẩu nông sản nói riêng. Vấn đề cấp thiết hiện nay là xác định lại rõ các
lợi thế so sánh của mình, từ đó tìm ra phương thức áp dụng một cách hiệu quả
các lợi thế đó vào thực tế. Chính vì thế, nhóm chúng em lựa chọn nghiên cứu
đề tài "Lý thuyết về lợi thế so sánh qua các thời kỳ và vận dụng vào lĩnh vự
xuất nhập khẩu nông sản Việt Nam".

3


2. Mục tiêu và nhiệm
2.1.
Mục tiêu

vụ nghiên cứu của đề tài

Phân tích lợi thế so sánh theo quan điểm David Ricardo và một số quan
điểm khác, từ đó vận dụng, tìm ra các lợi thế so sánh trong lĩnh vực xuất nhập
khẩu nông sản của Việt Nam và đề ra một số giải pháp nhằm giúp nước ta vận
dụng có hiệu quả lợi thế của mình vào xuất nhập khẩu nông sản.
2.2.




3.

Nhiệm vụ
Phân tích lý thuyết lợi thế so sánh
Trình bày, phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên nhân của hoạt động

xuất nhập khẩu Việt Nam hiện nay
 Đề ra các giải pháp nhằm phát triển xuất khẩu nông sản Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu
 Phạm vi không gian:
 Phạm vi thời gian: 2000 - 2015
 Phạm vi nội dung: Từ cơ sở trình bày lý thuyết lợi thế so sánh, tập
trung phân tích thực trạng xuất nhập khẩu hiện nay, giải thích nguyên

4.

nhân dẫn đến thực trạng.
Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm 3 phần:




Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Thực trạng xuất nhập khẩu nông sản Việt Nam hiện nay
Chương 3: Giải pháp

4



CHƯƠNG I. LÝ THUYẾT LỢI THẾ SO SÁNH QUA CÁC THỜI KÌ
1.1. Lý

thuyết lợi thế so sánh qua các thời kì
1.1.1. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo
• Nội dung
Năm 1817, David Ricardo đã cho ra đời tác phẩm “Nguyên lý của Kinh

tê chính trị và thuế khoá”, trong đó ông đã đề cập tới lợi thế so sánh. Lý
thuyết này đưcợ phát triển dựa trên quan điểm lợi thế tuyệt đối của Adam
Smith. Theo đó, những nước có lợi thế tuyệt đối so với nước khác về một loại
hàng hoá, thì lợi ích thương mại là rõ ràng. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu trong
trường hợp một nước có thế sản xuất có hiệu quả hơn nước khác trong hầu hết
các mặt hàng, ngược lại có những nước không có lợi thế tuyệt đối nào cả thì
chỗ đứng của họ trong phân công lao động quốc tế là ở đâu? Quá trình thương
mại sẽ diễn ra như thế nào giữa các nước này? Để trả lời những câu hỏi trên,
Ricardo đã đưa ra lý thuyết về lợi thế so sánh, với nội dung là tập trung phân
tích chi phí so sánh và tìm hiểu bằng cách nào để một quốc gia thu lợi được từ
thương mại khi chi phí thấp hơn tương đối. Lý thuyết được xây dựng trên một
số giả thiết:


Mọi nước có lợi về một loại tài nguyên và tất cả các loại tài nguyên đã













được xác định
Các yếu tố sản xuất dịch chuyển trong 1 phạm vi quốc gia
Các yếu tố sản xuất không được dịch chuyển ra bên ngoài
Mô hình của Ricardo dựa trên học thuyết về giá trị lao động
Công nghệ của hai quốc gia như nhau
Chi phí sản xuất là cố định
Sử dụng hết lao động (lao động được thuê mướn toàn bộ)
Nền kinh tế cạnh tranh hoàn hảo
Chính phủ không can thiệp vào nền kinh tế
Chi phí vận chuyển bằng không
Phân tích mô hình thương mại có hai quốc gia và hai hàng hoá.
Theo David Ricardo, lợi thế so sánh là lợi thế đạt được trong trao đổi

thương mại quốc tế, khi các quốc gia tập trung chuyên môn hoá sản xuất và
trao đổi những mặt hàng có bất lợi nhỏ nhất hoặc những mặt hàng có lợi lớn
5


nhất thì tất cả các quốc gia đều cùng có lợi. Vì vậy, những nước có lợi thế
tuyệt đối hoàn toàn hơn hẳn các nước khác, hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối so
với các nước khác trong sản xuất mọi sản phẩm, thì vẫn có thể và vẫn có lợi
khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế bởi vì mỗi nước có một lợi
thế so sánh nhất định về sản xuất một số sản phẩm và kém lợi thế so sánh nhất

định về sản xuất các sản phẩm khác. Bằng việc chuyên môn hoá sản xuất và
xuất khẩu sản phẩm mà nước đó có lợi thế so sánh, mức sản lượng và tiêu
dùng trên thế giới sẽ tăng lên, kết quả là mỗi nước đều có lợi ích từ thương
mại.
Một nước cần phải lựa chọn mặt hàng để chuyên môn hoá sản xuất theo
công thức:

Nếu chi phí để sản xuất của sản phẩm A của nước X so với thế giới nhỏ
hơn chi phí để sản xuất sản phẩm B của nước X so với thế giới, hay là A < B
thì nước X nên chuyên môn hoá vào việc sản xuất sản phẩm M, còn thế giới
nên chuyên môn hoá vào sản xuất sản phẩm N. Để làm rõ cho nội dung lý
thuyết trên, ta xét mô hình thương mại đơn giản sau:

Anh

Bồ Đào Nha

(giờ lao động)

(giờ lao động)

1 đơn vị lúa mì

15

10

1 đơn vị rượu vang

30


15

Sản phẩm

Theo số liệu trên thì Bồ Đào Nha có lợi thế tuyệt đối so với Anh cả về
sản xuất lúa mì và rượu vang, năng suất lao động của Bồ Đào Nha gấp 2 lần
của Anh trong sản xuất rượu vang và gấp 1,5 lần trong sản xuất lúa mỳ. Tuy
nhiên, nếu xét theo lợi thế so sánh, 1 đơn vị rượu vang tại Anh sản xuất tốn
6


chi phí tương đương với chi phí sản xuất 2 đơn vị lúa mì. Như vậy, Bồ Đào
Nha sản xuất rượu vang rẻ hơn tương đối so với ở Anh và ở Anh sản xuất lúa
mỳ sẽ rẻ tương đối hơn so với Bồ Đào Nha. Anh có lợi thế so sánh về sản
xuất lúa mì còn Bồ Đào Nha có lợi thế so sánh về sản xuất rượu vang. Từ đó,
Anh nên chuyên môn hoá vào sản xuất lùa mỳ, còn Bồ Đào Nha nên chuyên
môn hoá sản xuất rượu vang.
Từ ví dụ trên ta có thể kết luận rằng sau khi tập trung sản xuất mặt hàng
có lợi thế so sánh cùng với sự trao đổi thương mại giữa hai nước, tổng sản
phẩm tăng lên, thu nhập thực tế của xã hội nói chung, của mỗi quốc gia nói
riêng cũng tăng lên. Hay có thể nói ngắn gọn rằng, sau khi mỗi nước tập trung
chuyên môn hoá sản xuất ngành hàng có lợi thế và thông qua trao đổi thương
mại thì cả hai bên đều có lợi.


Ý nghĩa

Tư tưởng của D.Ricardo về lợi thế so sánh mở đầu cho những phân tích
mới về mối quan hệ của một nền kinh tế với thế giới bên ngoài. Nó chỉ ra

rằng, một nền kinh tế muốn đạt hiệu quả cao cần phải gắn mình với phần còn
lại của thế giới để lựa chọn chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm mà mình có
lợi thế so sánh. Đây chính là một trong những tư tưởng quan trọng của lý
thuyết kinh tế mở, hội nhập kinh tế quốc tế hiện đại.
1.1.2. Lợi thế so sánh theo một số quan điểm
• Học thuyết Heckcher – Ohlin (H.O.)

hiện đại

Như chúng ta đã biết lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo chỉ đề
cập đến mô hình đơn giản chỉ có hai nước và việc sản xuất hàng hoá chỉ với
một nguồn đầu vào là lao động. Vì thế mà lý thuyết của David Ricardo chưa
giải thích một cách rõ ràng về nguồn gốc cũng như là lơị ích của các hoạt
động xuất khâutrong nền kinh tế hiện đại. Để đi tiếp con đường của các nhà

7


khoa học đi trước hai nhà kinh tế học người Thuỵ Điển đã bổ sung mô hình
mới trong đó ông đã đề cập tới hai yếu tố đầu vào là vốn và lao động.
Học thuyết Hecksher- Ohlin phát biểu: Một nước sẽ xuất khẩu loại
hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng sử dụng nhiều yếu tố rẻ và tương đối sẵn
của nước đó và nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng cần
nhiều yếu dắt và tương đối khan hiếm ở quốc gia đó. Hay nói một cách khác
một quốc gia tương đối giàu lao động sẽ sản xuất hàng hoá sử dụng nhiều lao
động và nhập khẩu những hàng hoá sử dụng nhiều vốn.
Về bản chất học thuyết Hecksher- Ohlin căn cứ về sự khác biệt về tình
phong phú và giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất, là nguyên nhân dẫn
đến sự khác biệt về giá cả tương đối của hàng hoá giữa các quốc gia trước khi
có các hoạt động xuất khẩu để chỉ rõ lợi ích của các hoạt động xuất khẩu. sự

khác biệt về giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất và giá cả tương đối của
các hàng hoá sau đó sẽ được chuyển thành sự khác biệt về giá cả tuyệt đối của
hàng hoá. Sự khác biệt về gíá cả tuyệt đối của hàng hoá là nguồn lợi của hoạt
động xuất khẩu.
Nói một cách khác, một quốc gia dù ở trong tình huống bất lợi vẫn có
thể tìm ra điểm có lợi để khai thác. Bằng việc khai thác các lợi thế này các
quốc gia tập trung vào việc sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế
tương đối và nhập khẩu những mặt hàng không có lợi thế tương đối. Sự
chuyên môn hoá trong sản xuất này làm cho mỗi quốc gia khai thác được lợi
thế của mình một cách tốt nhất, giúp tiết kiệm được những nguồn lực như
vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên…trong quá trình sản xuất hàng hoá.
Chính vì vậy trên quy mô toàn thế giới thì tổng sản phẩm cũng sẽ tăng.


Lợi thế so sánh theo mô hình trường đại học Stanford Hoa Kỳ

8


Một trong những quan điểm hiện đại về lợi thế so sánh được áp dụng
rộng rãi trong quan hệ kinh tế quốc tế ngày nay là lý thuyết lợi thế so sánh của
Đại học Stanford Hoa Kỳ. Nội dung của lý thuyết là một quốc gia được coi là
có lợi thế so sánh trong sản xuất sản phẩm X khi chi phí cơ hội xã hội để sản
xuất thêm một đơn vị sản phẩm X thấp hơn giá bên giới (trước khi thông
quan) của sản phẩm đó. Định nghĩa lợi thế so sánh này dựa vào hai khái niệm:
giá biên giới (trước khi thông quan) và chi phí cơ hội.


Giá biên giới của sản phẩm X trước khi thông quan bao gồm: giá
F.O.B đối với quốc gia xuất khẩu X và giá giá C.I.F đối với quốc




giá nhập khẩu X.
Chi phí cơ hội xã hội gắn liền với lợi ích xã hội để phân biệt với lợi
ích tư nhân:

Lợi ích tư nhân = giá trị gia tăng – các yếu tố chi phí (không




kể chi phí sử dụng vốn) và thuế gián thu theo giá hiện hành.
Lợi ích xã hội = giá trị gia tăng – các yếu tố chi phí (không kể

chi phí sử dụng vốn) theo chi phí cơ hội.
Lợi thế so sánh theo mô hình đàn nhạn bay

Mô hình đàn nhạn bay được Akmatsu Kaname đề xướng từ những năm
1930 và được phát triển bởi một số nhà kinh tế Nhật Bản khác. Đâu là lý
thuyết phát triển công nghiệp để tạo ra sự chuyển dịch lợi thế so sánh của nền
kinh tế với 3 phiên bản cụ thể:

9




Phiên bản 1: Một nước - một ngành hàng


Tình huống này đặt ra cho nước đang phát triển ấp dụng để phát triển
một ngành hàng công nghiệp cụ thể. Ban đầu, quốc gia đó phải nhập khẩu sản
phẩm từ các nước công nghiệp phát triển đi trước. Sau đó, tích luỹ vốn và học
tập kinh nghiệm để phát triển sản xuất tại chỗ thay thế nhập khẩu. Trên cơ sở
đso, nhập khẩu sẽ giảm dần và tiến đến xuất khẩu.


Phiên bản 2: Một nước - nhiều ngành hàng

Quy luật phát triển trong từng ngành hàng giống như trong phiên bản 1.
Quy luật phát triển công nghiệp của một nước là: phát triển các ngành thứ cấp
trước, phát truueenr các ngành sơ cấp sau. Theo đó, lợi thế so sánh của một
quốc gia sẽ chuyển dịch liên tiếp giữa các ngành theo thứ tự trên.


Phiên bản 3: Nhiều nước - một ngành hàng

Quy luật phát triển công nghiệp từng nước giống như trong phiên bản 1
và phiên bản 2. Từ đó, sẽ diễn ra sự phân công lao động quốc tế theo khu vực
trong từng ngành hàng cụ thể.
Đội hình bay của đàn nhạn Đông Á: trong đó Nhật Bản là đầu đàn, các
nước NICs thuộc hàng thứ hai; các nước nổi trội ASEAN hàng ba; và Trung
Quốc và Việt Nam ở hàng thứ tư.
Đánh giá chung về lợi thế so sánh
Ưu điểm

1.1.3.


Dễ dàng tính toán, lượng hoá được mức lợi thế so sánh, từ đó đánh giá vị thế

của các ngành hàng trên thị trường thế giới một cách tương đối, xác định
được mô hình thương mại giữa các quốc gia.


Hạn chế
Hạn chế của nguyên tắc lợi thế so sánh nằm trong các giả định của nó,

ví dụ giả định rằng các nhân tố sản xuất có thể dịch chuyển hoàn hảo sẽ nảy
10


sinh hạn chế nếu trên thực tế không được như vậy. Trong ví dụ trên, những
người sản xuất rượu vang của Anh có thể không dễ dàng tìm được việc
làm (chuyển sang sản xuất lúa mỳ) khi nước Anh không sản xuất rượu vang
nữa và sẽ thất nghiệp. Nền kinh tế sẽ không toàn dụng nhân công làm cho sản
lượng giảm sút. Chính vì thế mặc dù nguyên tắc lợi thế so sánh có thể được
tổng quát hoá cho bất kỳ quốc gia nào, với nhiều loại hàng hoá, nhiều loại đầu
vào, tỷ lệ các nhân tố sản xuất thay đổi, lợi suất giảm dần khi quy mô tăng...
và là nền tảng của thương mại tự do nhưng những hạn chế như ví dụ vừa nêu
lại là lập luận để bảo vệ thuế quan cũng như các rào cản thương mại.
1.2. Lý

thuyết chung về xuất khẩu
1.2.1. Một số khái niệm
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một

quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán, với mục
tiêu là lợi nhuận.
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương .
Nó đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử phát triển của xã hội và ngày càng

phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Hình thức sơ khai của
chúng chỉ là hoạt động trao đổi hàng hoá nhưng cho đến nay nó đã phát triển
rất mạnh và được biểu hiện dưới nhiều hình thức.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện của
nền kinh tế, từ xuất khẩu hàng tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc
hàng hoá thiết bị công nghệ cao. Tất cả các hoạt động này đều nhằm mục tiêu
đem lại lợi ích cho quốc gia nói chung và doanh nghiệp tham gia nói riêng.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của từng
quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa

11


các quốc gia đều có lợi thì các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt
động này.
Vai trò của xuất khẩu
Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia
 Xuất khẩu nhằm khai thác lợi thế, phát triển có hiệu quả kinh tế trong
1.2.2.

a)

nước
Hiện nay, trong xu hướng mở cửa nền kinh tế, xuất khẩu đóng vai trò
then chốt mở hướng phát triển mới tạo điều kiện khai thác lợi thế tiềm năng
sẵn có trong nước nhằm sử dụng phân công lao động quốc tế một cách hiệu
quả nhất.
Đối với các nước có trình độ phát triển tương đối thấp như nước ta thì
những nhân tố tiềm năng là tài nguyên thiên nhiên và lao động, những nhân tố
thiếu hụt là vốn, kĩ thuật, thị trường, kĩ năng quản lý. Xuất khẩu là giải pháp

mở cửa nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kĩ thuật của nước ngoài, kết hợp
với tiềm năng trong nước để tạo tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, rút ngắn
khoảng cách chênh lệch với các nước phát triển.
 Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Đối với mọi quốc gia đang phát triển thì bước đi thích hợp nhất là phải
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để khắc phục tình trạng nghèo làn lạc
hậu chận phát triển. Tuy nhiên quá trình công nghiệp hoá phải có một lượng
vốn lớn để nhập khẩu công nghệ thiết bị tiên tiến. Thực tế cho thấy, để có
nguồn vốn nhập khẩu một nước có thể sử dụng nguồn vốn huy động chính là
đầu tư nước ngoài, vay nợ các nguồn viện trợ và thu từ hoạt động xuất khẩu.
Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ thì bằng cách này hay
cách khác đều phải trả. Chỉ có xuất khẩu mới là hoạt động có hiệu quả nhất
tạo ra nguồn vốn cho nhập khẩu bởi chúng không cần phải trả bất cứ một
khoản chi phí nào khác như nguồn vốn vay ngoài.

12


Thực tiễn đã chỉ ra rằng xuất khẩu và nhập khẩu có mối quan hệ mật
thiết với nhau, đẩy mạnh xuất khẩu để tăng cường nhập khẩu, ngược lại tăng
nhập khẩu để mở rộng và tăng khả năng xuất khẩu.


Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển
Xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia từ nông

nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ. Có hai cách nhìn nhận về tác
động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Thứ nhất, chỉ xuất khẩu những sản phẩm thừa so với nhu cầu tiêu dùng
nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất
về cơ bản chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự dư thừa ra của sản
xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong phạm vi nhỏ và tăng trưởng chậm, do đó
các ngành sản xuất không có cơ hội phát triển.
Thứ hai, coi thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Quan
điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy xuất
khẩu. Nó thể hiện:
-

Xuất khẩu tạo tiền đề cho các ngành cùng có cơ hội phát triển. Điều này có
thể thông qua ví dụ như khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu, các ngành
khác như bông, kéo sợi, nhuộm, tẩy…sẽ có điều kiện phát triển.

-

Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định sản
xuất, tạo lợi thế nhờ quy mô.

-

Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở
rộng thị trường tiêu dùng của một quốc gia.

13


-

Xuất khẩu góp phần thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất

của từng quốc gia.

b)



Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm, cải



thiện đời sống nhân dân.
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan

hệ kinh tế đối ngoại.
Vai trò của xuất khẩu đối với các doanh nghiệp
Cùng với sự bùng nổi của nền kinh tế toàn cầu thì xu hướng vươn ra thị

trường quốc tế là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh
nghiệp. Xuất khẩu là một trong những con đường quen thuộc để các doanh
nghiệp thực hiện kế hoạch bành trướng, phát triển, mở rộng thị trường của
mình.


Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Nhờ có xuất khẩu mà tên tuổi của doanh
nghiệp không chỉ được các khách hàng trong nước biết đến mà còn có mặt ở



thị trường nước ngoài.

Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp, tăng dự trữ qua đó nâng
cao khả năng nhập khẩu, thay thế, bổ sung, nâng cấp máy móc, thiết bị,



nguyên vật liệu… phục vụ cho quá trình phát triển.
Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công



tác quản trị kinh doanh.
Xuất khẩu tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, buộc các doanh
nghiệp tham gia xuất khẩu phải nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu, hạ
giá thành của sản phẩm, từ đó tiết kiệm các yếu tố đầu vào, hay nói cách khác



tiết kiệm các nguồn lực.
Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động, tạo
ra thu nhập ổn định cho đời sống cán bộ, công nhân viên.

14




Doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất khẩu có cơ hội mở rộng quan hệ buôn
bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài dựa trên cơ sở đôi bên cùng có
lợi.
1.3. Đánh giá về lợi thế so sánh của Việt Nam theo các quan điểm trên

Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay thì hoạt động ngoại thương
không thể thiếu. Hoạt động thương mại giữa Việt Nam và các nước trong khu
vực và trên thế giới đã không những kích thích nền sản xuất trong nước phát
triển mà còn đóng góp một phần không nhỏ vào nguồn thu ngân sách nhà
nước, đặc biệt là nguồn ngoại tệ. Vì thế, Việt Nam cần xác định rõ những mặt
hàng có lợi thế của mình trên thị trường quốc tế, từ đó tăng cường sản xuất
nhằm phục vụ cho mục đích xuất khẩu.
Từ việc nghiên cứu lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo, Việt Nam đã
xác định được lợi thế của mình là trong sản xuất nông nghiệp và sản xuất
những mặt hàng sử dụng nhiều lao động. Việt Nam chủ yếu tâp trung xuất
khẩu những mặt hàng nông sản như gạo, cà phê, cao su, những mặt hàng thô
sơ chưa qua sơ chế (dầu thô, than đá..) và sau này là những mặt hàng sử dụng
nhiều lao động như dệt may, giầy dép… Xuất phát từ những lợi thế rất rõ mà
Việt Nam đang có là vị trí địa lý thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp với trên 9
triệu ha đất nông nghiệp, trong đó có hai vùng đồng bằng phì nhiêu là vùng
đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, là những vùng trồng lúa
được xếp vào loại tốt nhất của thế giới; có vùng đất đồi núi bao la có thể phát
triển cây công nghiệp và rừng; có bờ biển dài tới 3.200 km, cùng với diện tích
mặt nước lớn khác có thể phát triển thuỷ sản. Ngoài ra, Việt Nam còn có lợi
thế về tài nguyên thiên nhiên phong phú bao gồm tài nguyên đất, nước, biển,
rừng, sinh vật, khoáng sản và du lịch, lợi thế về nguồn lao động trẻ dồi dào,
giá rẻ. Tuy nhiên, những lợi thế so sánh Việt Nam hiện có chỉ là lợi thế “tĩnh”
hay còn gọi là lợi thế cấp thấp (sản xuất ra sản phẩm sử dụng nhiều yếu tố lao
động, giá trị gia tăng thấp).

15


Hiện tại, lợi thế so sánh cấp thấp đang là một nhân tố quan trọng hấp
dẫn các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Nhưng nếu chỉ đơn thuần dựa

vào lợi thế này thì Việt Nam khó có khả năng thay đổi và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cơ cấu công nghiệp ở mức độ cao hơn. Mặt khác, điều kiện tự do của
AFTA, cùng với sự phát triển nhiều loại hình công nghệ mới, sẽ hướng các
công ty xuyên quốc gia đầu tư vào những nước có các điều kiện và lợi thế sản
xuất cấp cao hơn (gọi là lợi thế “động” bao gồm vốn, công nghệ cao, nhân
công trình độ cao, cơ sở hạ tầng hiện đại…). Hơn nữa, giá cả của các loại
hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra chủ yếu dựa trên lợi thế về điều kiện sản
xuất cấp thấp luôn rẻ hơn so với các mặt hàng chế biến dựa trên lợi thế về các
điều kiện sản xuất cấp cao hơn. Vì vậy, Việt Nam cần phải có một bước
chuyển rất căn bản: mở rộng lợi thế so sánh ra nhiều mặt hàng, nhóm hàng có
giá trị cao. Muốn vậy phải kết hợp đồng thời nhiều yếu tố: vị trí địa lý thuận
lợi, tài nguyên thiên nhiên sẵn có và nguồn nhân lực phong phú, trong đó
nguồn nhân lực là một yếu tố rất quan trọng cho việc thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh phát triển hiện nay, bởi nó tạo ra
bước nhảy vọt về năng suất.

16


CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG XUẤT NHẬP KHẨU NÔNG SẢN VIỆT
NAM HIỆN NAY
2.1.

Tình hình xuất khẩu các mặt hàng nông sản
2.1.1. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu các mặt hàng nông sản
Trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập

khẩu của các nước là thước đo đánh giá quá trình hội nhập của các nước. Sự
phát triển của mỗi quốc gia đòi hỏi sự phụ thuộc của quốc gia đó vào thế giới
phải cân bằng với sự phụ thuộc của thế giới vào quốc gia đó. Hoạt động xuất

nhập khẩu là yếu tố quan trọng nhằm phát huy nguồn nội lực, tạo thêm vốn
đầu tư để đổi mới công nghê, tăng việc làm, đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá nước nhà.
Việt Nam có lợi thế về đất đai, có một nền nông nghiệp chuyên canh
lâu dài. Chính vì thế xuất khẩu nông nghiệp chiếm một phần quan trọng trong
nền kinh tế đang phát triển của nước nhà. Trong những năm qua hoạt động
xuất khẩu nông sản nước ta đã thu được những chuyển biến tích cực như sự
tăng lên về kim ngạch xuất khẩu, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu cũng được
tăng lên theo chiều hướng đa dạng hoá, giảm tỷ trọng loại hàng hoá chưa qua
chế biến và tăng tỷ trọng các loại hàng hoá đã qua chế biến. Thị trường xuất
khẩu nông sản của Việt Nam cũng ngày càng được mở rộng và có sự thay đổi
của cơ cấu thị trường. Theo tổng kết của PGS.TS. Ngô Thị Tuyết Mai,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, Trong những năm gần đây, cùng
với xu thế hội nhập quốc tế, tăng trưởng xuất khẩu hàng nông sản đã phản ánh
nền nông nghiệp Việt Nam đang chuyển sang nền sản xuất hàng hóa hướng
về xuất khẩu.

17


Số liệu cho thấy, giá trị xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam đã tăng liên
tục, từ 25 tỷ USD năm 2011, tăng lên đến 27,764 tỷ USD năm 2013 và tiếp
tục tăng đến 30,1 tỷ USD năm 2015 (giảm nhẹ 0,8% so với năm 2014). Giá trị
xuất khẩu hàng nông sản luôn chiếm khoảng 20-27% tổng kim ngạch xuất
khẩu của cả nước trong giai đoạn 2001-2015.
Về cơ cấu xuất khẩu, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính của
Việt Nam luôn giữ vị trí dẫn đầu, đạt khoảng 13-15 tỷ USD, chiếm khoảng
50% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam (Biểu đồ 2).

Nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam hiện đứng vị trí cao trên thị

trường thế giới trong nhiều năm trở lại đây (hạt điều, tiêu đen - đứng thứ nhất
thế giới cả về khối lượng và giá trị; cà phê nhân và sắn lát khô - đứng vị trí
thứ 2 và 2; gạo - đứng vị trí thứ 3 và 4; cao su - đứng vị trí thứ 4 và 4; chè đứng vị trí thứ 5 và 7). Điểm chú ý là trong số 10 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu
18


của cả nước năm 2015 thì có tới 4 mặt hàng nông sản (hàng thủy sản, gỗ và
sản phẩm đồ gỗ, cà phê và gạo).
Tuy nhiên bên cạnh những tín hiểu chuyển biến tăng trưởng đáng
mừng, hàng nông sản Việt Nam vẫn còn nhiều yếu kém. Thị trường xuất khẩu
hàng nông sản Việt Nam chủ yếu tập trung tại các nước trong khu vực, trong
khi thị trường các nước TPP có tiềm năng lớn chưa thực sự được chú trọng,
mới chiếm khoảng 11% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt
Nam. Hơn nữa, chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam tuy có
được cải thiện trong những năm gần đây, nhưng vẫn còn ở mức thấp so với
đối thủ cạnh tranh.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, hiện gần 90% hàng
nông sản của Việt Nam xuất khẩu dưới dạng thô, sơ chế, mang thương hiệu
nước ngoài. Do đó, khi xuất khẩu hàng nông sản, phần giá trị gia tăng thấp và
dễ gặp rủi ro trong hoạt động kinh doanh do giá cả sản phẩm thô trên thị
trường thế giới đang có xu hướng giảm mạnh và thường xuyên biến động với
biên độ cao. Một số mặt hàng nông sản của ta tuy đang được xếp ở vị trí cao
trên thị trường thế giới nhưng do chất lượng thấp nên thường bán với giá thấp
hơn giá thế giới.
Thực tiễn cho thấy, năm 2015, một số mặt hàng nông sản xuất khẩu
chủ lực của nước ta như cà phê, ca cao, gạo… có xu hướng giảm cả về lượng
và kim ngạch. Thực trạng này do 1 phần ảnh hưởng từ suy giảm tổng cầu thế
giới tuy nhiên ó thực tế hơi buồn là lâu nay giá nông sản xuất khẩu của ta còn
luôn thấp hơn so với sản phẩm cùng loại của nhiều quốc gia khác.
2.1.2.


Các thị trường tiêu thụ nông sản của Việt Nam

Do điều kiện tương đồng về văn hóa, gần về địa lý nên trên 70% khối
lượng hàng hóa nông sản của ta được xuất khẩu sang các nước châu Á, còn
với các thị trường khác như châu Phi, Mỹ, Úc... chiếm tỉ trọng tương đối thấp.
19


Theo thống kê của bộ công nông nghiệp và phát triển nông thôn xuất khẩu
của ta sang những thị trường này chưa đáng kể, chưa có được thị phần của
bạn chứ nói gì đến xâm nhập thị trường
Tuy nhiên những năm gần đây, có 2 thị trường mới vô cùng tiềm năng
đối với hàng nông sản Việt Nam đó là Nga, Mỹ và Tanzania.
Với Nga và các nước SNG, ta có kim ngạch XKNS 60-90 triệu
USD/năm. Đây là thị trường truyền thống đã từng tiêu thụ một lượng lớn
hàng nông sản VN (gạo, cà phê, chè, hồ tiêu...). Nhu cầu của Nga về hàng
nông sản của VN là rất lớn, tuy nhiên phía VN mới đáp ứng được rất ít mà lại
thua kém các nước khác về chất lượng nên giá thường rẻ hơn.
Hàng năm, Mỹ phải nhập khối lượng lớn hàng nông sản với chủng loại
đa dạng và yêu cầu chất lượng không quá khó tính như EU, Nhật. Vậy mà
kim ngạch XKNS của ta sang Mỹ mới chỉ đạt 100 - 130 triệu USD. Lấy ví dụ
mặt hàng tiêu để so sánh: Ta xuất sang châu Á là 55 - 58% nhưng sang châu
Mỹ chỉ khoảng 6 - 7%; rau quả sang châu Á là 65 - 76%, sang Mỹ là 3- 4%...
Nguyên nhân có thể do DN ta ngại Mỹ là thị trường mới, hơn nữa những quy
định luật pháp rất hà khắc. Thanh long và chôm chôm là hai mặt hàng của VN
đang được Mỹ nghiên cứu để nhập khẩu.
Tanzania, một nước châu Phí. Với 945.000 km2, 32 triệu dân nhưng do
khí hậu và địa hình nên chỉ có 4% diện tích Tanzania có thể canh tác được.
Tanzania mua gạo của VN với khối lượng 10 - 12 vạn tấn/năm (chiếm hơn

một nửa nhu cầu gạo của Tanzania). Đất nước trồng rất nhiều điều với 12 nhà
máy chế biến nhưng do công nghệ chưa phát triển, xuất khẩu vẫn ở dạng sơ
chế nên giá rất rẻ mạt. Tanzania có rất nhiều chính sách lý thú thu hút đầu tư.
Chẳng hạn như bạn có thể mang toàn bộ lợi nhuận về VN, bạn có thể thoải
mái trong sử dụng ngoại tệ và bạn được nhiều chính sách miễn giảm thuế...
Chúng tôi đang mong chờ các bạn.

20


Ngoài ra, các thành viên TPP cũng là những thị trường vô cùng rộng
lớn của nông sản Việt Nam.
2.2.

Tình hình nhập khẩu nông sản Việt Nam
2.2.1. Tốc độ nhập khẩu của 1 số thị trường nông sản vào Việt Nam
Theo Thống kê của Bộ NN&PTNT, trong 10 tháng đầu năm 2015,

nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam lên tới 19,17 tỷ USD,
tăng 7%. Trong khi, ngành nông nghiệp chỉ xuất khẩu được 24,61 tỷ USD,
giảm 3,8% so với cùng kỳ. Trong đó, riêng mặt hàng ngô nhập khẩu tăng rất
mạnh. Ước tính khối lượng ngô nhập khẩu trong tháng 10.2015 đạt 584 nghìn
tấn với giá trị đạt 119 triệu USD.
Như vậy khối lượng nhập khẩu mặt hàng này trong 10 tháng đầu năm
2015 đạt 5,72 triệu tấn, giá trị nhập khẩu đạt 1,26 tỷ USD, tăng 55,8% về khối
lượng và tăng 32,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2014.
Bên cạnh ngô, mặt hàng đậu tương cũng tăng mạnh. Ước tính khối
lượng đậu tương nhập khẩu trong tháng 10.2015 đạt 23 nghìn tấn với giá trị
12 triệu USD, đưa khối lượng nhập khẩu mặt hàng này trong 10 tháng đầu
năm 2015 đạt 1,29 triệu tấn, giá trị nhập khẩu đạt 592 triệu USD, tăng 1,1%

về khối lượng nhưng giảm 20,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2014.
Thống kê cũng cho hay, giá trị nhập khẩu nhóm mặt hàng thức ăn gia
súc và nguyên liệu trong tháng 10.2015 ước đạt 258 triệu USD. Điều này đưa
giá trị nhập khẩu 10 tháng đầu năm 2015 đạt 2,81 tỷ USD, tăng 2,8% so với
cùng kỳ năm 2014.
Ngoài ra, thống kê cho thấy, phân bón cũng là mặt hàng có sự gia tăng
trong nhập khẩu. Ước tính, khối lượng nhập khẩu phân bón các loại trong 10
tháng đầu năm 2015 đạt 3,56 triệu tấn, giá trị nhập khẩu đạt 1,12 tỷ USD,
tăng 7,7% về khối lượng và tăng 4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2014.

21


Cụ thể, khối lượng nhập khẩu phân đạm URE ước đạt 335 nghìn tấn
với giá trị đạt 103 triệu USD, tăng 70,6% về khối lượng và tăng 73,6% về giá
trị so với cùng kỳ năm 2014; phân SA ước đạt 869 nghìn tấn với giá trị nhập
khẩu đạt 123 triệu USD, tăng 6,1% về khối lượng và tăng 11,6% về giá trị so
với năm 2014.
Về thuốc trừ sâu và nguyên liệu, ước giá trị nhập khẩu trong tháng
10.2015 đạt 45 triệu USD, đưa giá trị nhập khẩu 10 tháng đầu năm 2015 đạt
592 triệu USD, giảm 4,3% so với cùng kỳ năm 2014.
2.2.2.

Các thị trường Việt Nam nhập khẩu nông sản

Brasil và Argenti na là 2 thị trường lớn để nhập khẩu ngô và đậu tương
của Việt Nam do giá thành rẻ. Với mặt hàng thức ăn gia súc, Thị trường nhập
khẩu chính của nhóm mặt hàng này là Achentina (chiếm 42,2% thị phần), tiếp
đến là Hoa Kỳ (13,5%); Brazil (9,1%) và Trung Quốc (5,6%). Nguồn nhập
khẩu thuốc trừ sâu và phân đạm chủ yếu đến từ thị trường Trung Quốc. Các

thị trường có giá trị tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2014 là Malaixia (tăng
86%), Pháp (tăng 51,7%) và Hàn Quốc (tăng 47,7%).
Phân tích thực trạng xuất nhập khẩu nông sản Việt Nam
2.3.1. Lợi thế

2.3.

a) Lợi thế so sánh tự nhiên


Vị trí địa lý:
Nước ta có đường bờ biển giáp với các nước rất dài: biên giới Việt –

Trung dài xấp xỉ 1,400 km, phần lớn dự theo núi, sông tự nhiên và những hẻm
núi hiểm trở; biên giới với Lào là mộ xương sống chung, được hia ra nhiều
đoạn với những đèo thấp, không gây trở ngại cho sự giao lưu giữa hai nước
mà trái lại còn mở ra những tuyến giao thông quan trọng, giúp dễ dàng thông
thương giữa các tỉnh thành với các nước khác. Điều này giúp cho hoạt động
xuất nhập khẩu nông sản Việt Nam trở nên dễ dàng hơn.
22




Tài nguyên thiên nhiên:
Nước ta có nguồn tài nguyên tự nhiên vô cùng giàu có và phong phú,

đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng và thiết yếu góp phần vào sự
phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam.
Tài nguyên đất: Việt Nam có trên 39 triệu ha đất tự nhiên, diện tích

đất đã sử dụng vào các mục đích kinh tế - xã hội là 18,881 triệu ha, chiếm
57,04% quỹ đất tự nhiên, trong đó đất nông nghiệp chiếm 22,20% diện tích
đất tự nhiên và 38,92% diện tích đất đang sử dụng. Hiện còn 14,217 triệu ha
đất chưa sử dụng, chiếm 43,96% quỹ đất tự nhiên. Vị trí và địa hình đặc biệt
làm cho thổ nhưỡng Việt Nam có tính chất chung của vùng nhiệt đới ẩm
nhưng rất đa dạng và phân hóa rõ từ đồng bằng lên núi cao, từ Bắc vào Nam
và từ Ðông sang Tây. Tiềm năng đất có khả năng canh tác nông nghiệp của cả
nước khoảng từ 10-11 triệu ha, diện tích đã được sử dụng chỉ có 6, 9 triệu ha;
trong đó 5,6 triệu ha là đất trồng cây hàng năm (lúa: 4, 144 triệu ha; màu, cây
công nghiệp ngắn ngày: 1, 245 triệu ha) và 1, 3 triệu ha là đất trồng cây ăn
quả và cây lâu năm khác (cà phê, cao su, dâu tằm, hồ tiêu, cam, chanh, quýt.
Tài nguyên nước: Nếu xét chung trong cả nước, thì tài nguyên nước
mặt của nước ta tương đối phong phú, chiếm khoảng 2% tổng lượng dòng
chảy của các sông trên thế giới, trong khi đó diện tích đất liền nước ta chỉ
chiếm khoảng 1,35% của thế giới. Nước ta có mạng lưới sông ngòi dày đặc
với 2.345 con sông có chiều dài trên 10 km, mật độ trung bình từ 1,5 – 2 km
sông/1 km2 diện tích, cứ đi dọc bờ biển khoảng 20 km lại gặp một cửa sông.
Tổng lượng dòng chảy của tất cả các con sông chảy qua lãnh thổ Việt Nam là
853 km3, trong đó tổng lượng dòng chảy phát sinh trên nước ta chỉ có 317
km3. Tỉ trọng nước bên ngoài chảy vào nước ta tương đối lớn, tới 60% so với
tổng lượng nước sông toàn quốc. Nước ta có trữ lượng nước ngầm phong phú,
khoảng 130 triệu m3/ngày, đáp ứng được 60% nhu cầu nước ngọt của đất

23


nước. Nước ta cũng đã phát hiện được 350 nguồn suối khoáng, trong đó có
169 nguồn nước có nhiệt độ trên 300C.
Khí hậu: Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm là kiểu khí hậu rất
thuận lợi trong phát triển ngành trồng trọt cây nhiệt đới, thích hợp xen canh,

tăng vụ. Lượng mưa quanh năm cao nên cung cấp đủ nguồn nước để sản xuất
và phục vụ đời sống. Khí hậu phân hóa từ bắc tới nam, từ đông sang tây,
khiến cơ cấu cây trồng, vật nuôi nước ta rất đa dạng, phong phú. Nhờ đó ta sở
hữu nhiều loại đặc sản cây trái, thực phẩm từ các vùng miền như nhãn lồng
Hưng Yên, thịt dê Ninh Bình,…


Nguồn lao động:
Việt Nam có quy mô dân số trên 90 triệu người. Lực lượng lao động

nước ta hiện nay khoảng 52.207.000 người; hàng năm trung bình có khoảng
1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Thể lực và tầm vóc của
nguồn nhân lực đã được cải thiện và từng bước được nâng cao. Lao động Việt
Nam được đánh giá là thông minh, khéo léo, cần cù.
Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh. Điều
này có thể được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo
nhân lực.
Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng: Theo cách tính năng
suất lao động đo bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá hiện hành
chia cho tổng số người làm việc bình quân trong 01 năm, năng suất lao động
năm 2005 là 21,4 triệu đồng/người, năm 2010 là 44,0 triệu đồng/người, năm
2012 là 63,1 triệu đồng/người, sơ bộ năm 2013 là 68,7 triệu đồng/người.
Điều kiện này rất phù hợp cho nền sản xuất nông nghiệp của nước ta
khi mà ngành này đòi hỏi số lượng lớn lao động với các trình độ từ thấp tới
cao nhằm đáp ứng kịp thời các hoạt động sản xuất.
24


25



×