Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

chuyên đề ngôn ngữ dân gian trong thơ nguyễn bính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.61 KB, 20 trang )

Mục Lục

Chuyên đề: Nghệ thuật “chân quê” trong
thơ Nguyễn Bính
A.
I.

PHẦN MỞ ĐẦU.

Lý do chọn đề tài.
Trong lịch sử phát triển của văn hóa dân tộc, so với nhiêu ngành nghệ thuật khác văn học
có một vị trí quan trọng. Kho tàng văn học dân tộc vô giá chưa được khai thác hết sự giàu có
và giá trị văn chương của nó. Mười thế kỉ văn học viết với những tác giả tiêu biểu: Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Du, Hồ Chí
Minh, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Hồ Xuân Hương, Nam Cao, Tố Hữu…chính
là niềm tự hào của nền văn hóa, văn học dân tộc.
Văn học Việt nam là một quá trình phát triển liên tục có tính kế thừa và phát huy cao độ.
Tuy mỗi thời kì có một đặc trưng riêng biệt song vẫn có những giá trị mang tính truyền
thống. Việc nắm vững từng giai đoạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ với giai đoạn
đó mà còn là cơ sở để nắm vững các giai đoạn trước và sau nó. Thời kì 45 năm đầu thế kỉ
XX nói chung, giai đoạn 1932 – 1945 nói riêng là vô cùng quan trọng vì nó có nhiều biến
động lịch sử quyết định sự phát triển của dân tộc, vì thế văn học cũng vô cùng đa dạng,
phong phú và có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình văn học dân tộc.
Trên tiến trình phát triển của văn học, trên quá trình hội nhập cùng phương Tây, Nguyễn
Bính bước chân vào diễn đàn Thơ mới như một “người nhà quê” để “đánh thức người nhà
quê vẫn ẩn náu trong lòng ta” và để ghi tên mình vào phong trào Thơ mới. Với nghệ thuật
“chân quê”, Nguyễn Bính trở thành nhà thơ thứ hai sau Nguyễn Du, được mọi tầng lớp trong
xã hội tiếp nhận những tác phẩm của ông, và tôi dám khẳng định không một người Việt Nam
nào lại không biết đến những câu thơ giản đơn của Nguyễn Bính.
Xuất phát từ niềm cảm kính và trân trọng dành cho người nghệ sĩ mộc mạc đất Thành
Nam, tôi chọn đề tài “Nghệ thuật “chân quê” trong thơ Nguyễn Bính” để đi sâu thêm, tìm


hiểu về nghệ thuật biểu hiện đậm đà sắc thái văn hóa dân gian của ông, đồng thời có cái nhìn
1


rõ nét hơn về bút lực, cũng như phong cách, tầm vóc của Nguyễn Bính trên nền văn học dân
tộc.
II.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Nhìn chung qua các thời kỳ khác nhau, thơ Nguyễn Bính có những thăng trầm, nhưng
việc cảm thụ, đánh giá thơ Nguyễn Bính ít có những khác biệt hoặc những mâu thuẫn gay
gắt. Về căn bản, những nhận xét đánh giá của giới phê bình về Nguyễn Bính khá thống nhất.
Dù ở giai đoạn nào, Nguyễn Bính vẫn được xem là nhà thơ của “Chân quê”, “Hồn quê”,
“Tình quê”. Trong thời gian dài, thơ Nguyễn Bính đã được nghiên cứu xem xét ở nhiều góc
độ từ nội dung đến nghệ thuật, từ tư tưởng đến phong cách, từ giọng điệu đến kết cấu. Tiêu
biểu có thể kể đến một vài nghiên cứu sau:
+ “Nguyễn Bính: nhà thơ chân quê – chân tài” của Hà Minh Đức.
+ “Nguyễn Bính – thơ của truyền thống, của thế hệ” của Lê Đình Kỵ.
+ “Nguyễn Bính: khúc buồn lỡ của người chân quê” của Nguyễn Đăng Điệp.
+ “Bạn thơ của vốn dân gian” – Nguyễn Bính” của Nguyễn Xuân Sanh.
+ “Thi pháp dân gian trong thơ mới Nguyễn Bính” của Nguyễn Quốc Túy.

III.

Quá trình nghiên cứu và phạm vi đề tài.
Mặc dù đã có những công trình lớn được nêu ở trên nhưng con người của làng cảnh Việt
Nam – Nguyễn Bính vẫn luôn là đề tài mang nhiều khía cạnh, góc độ cuốn hút người viết
tìm hiểu và nghiên cứu. Tuy nhiên với chuyên đề “Nghệ thuật “chân quê” trong thơ Nguyễn
Bính” tôi chỉ đi sâu để làm rõ hơn bút pháp dân tộc trong các thi phẩm của ông. Đề tài có
mục đích góp phần nhỏ vào quá trình nghiên cứu thơ Nguyễn Bính, một phong cách thơ có

sự nối kết hiệu quả giữa truyền thống và cách tân trong nền thơ Việt Nam giữa thế kỉ XX.
Và để chuyên đề của tôi có sức thuyết phục, tôi đã lấy tư liệu từ các nguồn:
+ “Thi nhân Việt Nam” – Hoài Thanh, Hoài Trân.
+ “Nguyễn Bính: tác phẩm và lời bình” – nhà xuất bản văn học.
+ “Nguyễn Bính – người nghệ sĩ đắm say, mơ mộng với hồn quê” – nhà xuất bản văn
hóa thông tin.
+ “Nguyễn Bính về tác gia và tác phẩm” – nhà xuất bản giáo dục.
+ “Việt Nam thi nhân tiền chiến” – Nguyễn Tấn Long.
+ Một số nguồn Internet…

IV.

Phương pháp nghiên cứu.

1. Hệ thống: Được dùng khi khảo sát nguồn tư liệu theo từng vấn đề cụ thể.
2. So sánh: Được dùng khi so sánh đối chiếu với nhà thơ cùng thời hoặc cùng đề tài, cùng
“hồn đồng điệu”
3. Phân tích tổng hợp: Nhằm làm sáng tỏ từng luận điểm.
V.

Cấu trúc chuyên đề.
Ngoài phần mở đầu, kết luận chuyên đề gồm ba chương:
- Chương I: Khái quát chung.
+ Một số khái quát về phong trào Thơ mới 1932 – 1945.
+ Vài nét về thi nhân và các tác phẩm của ông.
2


-


-

Chương II: Nghệ thuật “chân quê” trong thơ Nguyễn Bính.
+ Giọng thơ.
+ Thể thơ.
+ Ngôn ngữ thơ.
+ Biện pháp nghệ thuật.
+ Thi liệu.
Chương III: Từ nghệ thuật dân gian đến những cách tân trong thơ Nguyễn Bính.
B.

PHẦN NỘI DUNG

Chương I: Khái quát chung.
I.

Một số khái quát về phong trào Thơ mới 1932 – 1945.
Trong những năm đầu thập kỷ thứ ba của thế kỷ trước xuất hiện một dòng thơ ca thuộc
khuynh hướng lãng mạn. Đó là Thơ mới (hay còn gọi là Thơ mới lãng mạn). Thơ mới là một
cuộc cách mạng thơ ca trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc ở thế kỷ 20. Sự xuất hiện của
Thơ mới gắn liền với sự ra đời của Phong trào thơ mới 1932 – 1945. Phong trào thơ mới đã
mở ra "một thời đại trong thi ca", mở đầu cho sự phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại.
Quá trình phát triển của Thơ mới là quá trình tự khẳng định, tự thể hiện mình của cái tôi cá
nhân.
Một trào lưu văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất định của lịch sử xã
hội. Bởi nó là tiếng nói, là nhu cầu thẩm mỹ của một giai cấp, tầng lớp người trong xã hội.
Thơ mới là tiếng nói của giai cấp tư sản và tiểu tư sản. Sự xuất hiện của hai giai cấp này với
những tư tưởng tình cảm mới, những thị hiếu thẩm mỹ mới cùng với sự giao lưu văn học
Đông Tây là nguyên nhân chính dẫn đến sự ra đời của Phong trào thơ mới 1932 – 1945.
Có thể phân chia các thời kỳ phát triển của Phong trào thơ mới thành ba giai đọan:

+ Giai đoạn 1932 – 1935: giai đoạn Thơ mới đấu tranh quyết liệt với Thơ cũ để
chiếm lĩnh thi đàn. Các nhà thơ mới được cởi trói tâm hồn để nhìn ngắm thế giới
không phải thông qua những ước lệ cổ điển mà bằng chính con mắt và những rung
động của chính tâm hồn mình.
+ Giai đoạn 1936 – 1939: thời kì Thơ mới chiếm lĩnh trọn vẹn thi đàn, nhiều tài năng
thi ca xuất hiện biến khu vườn Thơ mới thành một vườn hoa trăm hương nghìn sắc
tạo nên một diện mạo phong phú và rực rỡ hiếm thấy của “một thời đại trong thi
ca”.
+ Giai đoạn 1940 – 1945: Thơ mới bắt đầu bước vào thời kì khủng hoảng, các thi
nhân đã gạt bỏ lí trí, đề cao cái vô thức và siêu hình.
Trên cây phả hệ văn học, Thơ mới không phải là một đứa con lạc loài mà là một đứa con
ưu tú bởi những đóng góp lớn của nó vào văn mạch dân tộc.
3


+
+
+
II.

Thơ mới được coi là một cuộc cách mạng trong quan niệm về thế giới và con
người.
Thơ mới là sự bừng tỉnh của ý thức cá nhân.
Thơ mới là một cuộc cách tân về nghệ thuật thơ ca.

Vài nét về thi nhân và các tác phẩm của ông.
1.

Thời đại


Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh năm 1918 mất năm 1966. Được sinh ra
trong thời gian này, Nguyễn Bính nhập cuộc vào thời đại mới của những năm 30-45 của thế
kỉ XX, làm một nhà thơ lãng mạn trong phong trào Thơ mới, mang tầm vóc chung của các
thi sĩ lớn đương thời.
2.

Quê hương

Nguyễn Bính sinh ra tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội (nay là xã Cộng Hòa,
huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Làng quê đã sinh ra Bính, ban cho ông một tâm hồn mang
đầy đủ bản chất thôn dã của nó, cùng với toàn bộ tinh hoa văn hoá, tinh thần được chung đúc
từ bao đời. Đồng thời làng quê cũng tiên lượng cho Bính một số phận: ngọt ngào thì ít đắng
cay nhiều – như chính nó phải chịu đựng qua cả ngàn năm.
3.

Cuộc đời.

Mồ côi mẹ từ sớm, cha lấy vợ kế, được người cậu ruột đưa về nuôi dạy. Sau theo anh trai
là nhà thơ Trúc Đường ra Hà Nội. Để kiếm sống, Nguyễn Bính đã lưu lạc nhiều nơi, vừa dạy
học vừa làm thơ. Đến cách mạng tháng Tám 1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp, ông
hoạt động ở Nam Bộ, làm tuyên huấn và văn nghệ.năm 1954, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc,
tiếp tục làm văn nghệ và báo chí ở Hà Nội và Nam Định.
Ông mất đột ngột vào sang 30 Tết Ất Tỵ, tức 20-1-1966 vì một căn bệnh hiểm nghèo khi
chưa kịp sang tuổi 49.
“Năm mới tháng giêng mùng một Tết
Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân”.
(Nhạc xuân)
Ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học và nghệ thuật năm
2000.
4.

-

-

Phong cách thơ Nguyễn Bính.

Vị trí: Nguyễn Bính được coi là chủ soái của dòng thơ Việt, là người dẫn độc giả về với
“Chân quê”, “khơi dậy hồn xưa đất nước” – Hoài Thanh. Trong bản hòa âm thơ mới, thơ
Nguyễn Bính được ví như tiếng đàn bầu nỉ non, réo rắt.
Đặc điểm:
+ Cái tôi “chân quê” của Nguyễn Bính hóa thân vào những con người nhà quê như bà
mẹ, cô thôn nữ, anh lái đò chàng trai thôn Đông, cô gái bên khung cửi,… Nhà thơ đã
viết về những nỗi niềm của họ, viết về những dở dang, những lỡ làng, những cay đắng
của họ như khắc họa tâm tư của những mảnh hồn khác nhau nơi thôn dã. Mặt khác, thi

4


+

+

+
+

nhân cũng tìm thấy sự đồng điệu, nghe thấy phía sau hững lỡ làng của họ dường như
chính là sự lỡ làng của chính mình.
Cái tôi “chân quê” của Nguyễn Bính luôn thấy mình là khách, là kẻ ngoài lề trong môi
trường đô thị. Cảm giác lạc lõng ngậm ngùi không thể hòa lẫn trong môi trường đô thị
khiến nhà thơ luôn hoài niệm về quê hương, về những giậu mồng tơi, cay cần, hội

chèo, giàn giầu,…
Chính cảm giác đó đã làm nên hương thơm đặc biệt của thơ Nguyễn Bính nhưng cái
hồn cốt của chân quê, điều mà Nguyễn Bính luôn hướng về, chính là thế giới của con
người – luôn sống theo ý thức, bổn phận, coi trọng lối sống vong thân.
Thơ Nguyễn Bính đi về giữa hai bờ nông thôn và thành thị nên nhà thơ luôn cảm thấy
bất an trước sự xâm lăng của đô thị, sự mai một của văn hóa cổ truyền.
Thơ Nguyễn Bính là một cuộc hành trình trở về với truyền thong, cội nguồn. Thế giới
nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính mang đậm dấu ấn dân gian khiến thơ Nguyễn Bính
mang vẻ đẹp mộc mạc, đậm đà.
5.

Tác phẩm tiêu biểu.

Nguyễn Bính làm thơ từ năm mười ba tuổi. Năm 1937, ông đã đoạt giải thưởng của Tự
lực văn đoàn với tập thơ “Tâm hồn tôi”.
Tác phẩm tiêu biểu:
+ Cô Hái Mơ (Thơ 1939)
+ Tương tư
+ Chân quê (Thơ 1940)
+ Các tập thơ “Lỡ Bước Sang Ngang” (Thơ 1940)
+ Tập thơ “Tâm Hồn Tôi” (Thơ 1940)
+ Hương Cố Nhân (Thơ 1941)
+ Một Nghìn Cửa Sổ (Thơ 1941)
+ Người Con Gái Ở Lầu Hoa (Thơ 1942)
+ Mười Hai Bến Nước (Thơ 1942)
+ Mây Tần (Thơ 1942)
+ Bóng Giai Nhân (Kịch Thơ 1942)
+ Cây đàn Tỳ Bà (Truyện Thơ 1942)
+ Ông Lão Mài Gươm (Thơ 1947)


Chương II: Nghệ thuật “chân quê” trong thơ Nguyễn Bính.
I.

Giọng thơ.
Trên thi đàn Thơ mới, trong khi ảnh hưởng của thơ ca Pháp đến tư tưởng của các thi nhân
không nhỏ mà theo Hoài Thanh nhận xét là: “Mỗi nhà thơ Việt hình như mang nặng trên đầu
năm bảy nhà thơ Pháp”, thì hồn thơ Nguyễn Bính một mình đi trên con đường riêng, tìm đến
và trở về với ca dao và sâu sa hơn là trở về với cội nguồn, bản sắc dân tộc đã hàng ngàn năm
ấp ủ ở làng quê. Bởi thế, giọng thơ của ông thấm đượm cách nói dân gian, dân tộc đậm đà.
5


Người nông dân Việt Nam “một nắng hai sương”, sống với nỗi buồn nhiều hơn niềm vui
– đây như là cái hồn quen thuộc bao đời của làng quê đất Việt. Và hồn quê ấy đã thấm nhuần
vào trang thơ của Nguyễn Bính một cách tự nhiên khiến âm điệu chung của thơ Nguyễn
Bính là buồn. Theo khảo sát trong số 154 bài thơ của ông trước cách mạng, số bài thuần vui
thực rất ít ỏi. Thơ Nguyễn Bính buồn vì tình yêu lỡ dở, buồn vì tha hương, buồn vì cuộc đời
dâu bể hay thậm chí buồn vì cô gái không giữ được nguyên vẹn nét “quê mùa”:
Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!
( Chân quê )
Giọng thơ Nguyễn Bính cũng thường là giọng kể lể, tâm sự, giãi bày quen thuộc của thơ
dân gian:
Nếu ca dao khi muốn thể hiện tình yêu, biểu lộ nỗi thương nhớ với chàng trai, người con
gái mượn hình ảnh “khăn” để giãi bày, tâm sự:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt
(Ca dao)
Đến thơ Nguyễn Bính, người nghệ sĩ chân quê ấy không mượn hình ảnh “khăn” nhưng để
thể hiện nỗi thương nhớ, sự mong ngóng với tình nhân, ông cũng sử dụng lối nói kể lể, phơi
bày cảm xúc:
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy cho tình xa xôi...
( Tương tư)
Như một nếp sống, những người nông dân quanh năm gắn với ruộng đồng dù vui dù
buồn , dù yêu thương hay căm ghét, họ luôn mạnh dạn bày tỏ phơi trải lòng mình, từ đấy mà
hình thành nên một đức tính rất đáng quý: sự thật thà, mộc mạc từ tận đáy lòng. Thơ Nguyễn
Bính cũng vậy, nhiều thi phẩm của ông tựa như một câu chuyện nhỏ, như một lời tâm sự mà
những câu chuyện, những lời tâm sự ấy luôn đem lại cảm giác gần gũi, thân thuộc, chất phác
như chính con người ông. Dù nói về mình hay thác lời cho bao số phận khác, hình như bao
giờ Nguyễn Bính cũng muốn thanh minh lý giải hay biện hộ cho những tình cảm tốt đẹp,
phức tạp của con người mà không phải ai cũng thấu tỏ. Chính giá trị nhân văn cao đẹp hài
hòa nhuần nhuyễn trong cái tài hoa của giọng kể, lời tâm sự đã làm cho thơ Nguyễn Bính dễ
tìm được sự giao cảm với mọi người.

6


Nhưng điều đáng phải nhấn mạnh không chỉ là giọng kể lể của dân gian in đậm trong thơ
Nguyễn Bính mà thơ Nguyễn Bính còn bị ảnh hưởng bởi thể thơ hát nói cổ truyền dân tộc,
đến nỗi Hoài Thanh phải thốt lên: “Giá Nguyễn Bính sinh ra thời trước, tôi chắc người đã
làm những câu ca dao mà dân quê vẫn hát quanh năm”. Chính Nguyễn Bính cũng đã từng

khẳng định: “Tôi chủ trương thơ Việt viết cho người Việt, do đó giản dị là một điều cốt lõi.
Giản dị đây không đồng nghĩa với dễ dãi tầm thường”. Bởi thế, Nguyễn Bính làm thơ thật
đơn giản chỉ như những người nghệ sĩ dân gian mà ta có thể gặp ở bất cứ đâu nơi làng quê
thuở trước – những người giỏi đặt vè, nói tiếu lâm, kể chuyện khéo…
Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung quần lĩnh rộn rang
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!
(Chân quê)
Nguyễn Bính, cũng như những nghệ sĩ tài năng khác, biết cách làm giàu cho thi phẩm của
mình bằng phù sa màu mỡ của mảnh đất dân gian.
Nếu dân gian có câu:
Em về dọn quán bán hàng
Để anh là khách đi đàng trú chân.
Thì trong thơ Nguyễn Bính, ta bắt gặp thi liệu không mới nhưng hồn thơ vẫn đậm chất
Nguyễn Bính:
Lòng em là quán bán hàng
Dừng chân cho khách qua đàng mà thôi.
(Em với anh)
Bên cạnh lối nói giãi bày kể lể, Nguyễn Bính còn vận dụng triệt để, tinh luyện lối nói
khẩu ngữ quen thuộc trong các câu ca giao duyên, câu ca tán tỉnh trêu ghẹo của trai hiền và
gái đồng trinh. Một vài biểu hiện rõ nét của lối nói khẩu ngữ chính là lối nói đùa ghẹo và lối
nói bóng gió. Lối nói đùa ghẹo được Nguyễn Bính sử dụng để hoàn thiện những câu thơ lục
bát của mình bằng giọng điệu dân gian.
Hỡi cô con gái hái mơ già
Cô chửa về ư? Đường thì xa
Mà cái thoi ngày như sắp tắt
Hay cô ở lại về cùng ta?
(Cô hái mơ)
Nếu lối nói đùa ghẹo tạo cho thơ Nguyễn Bính sự đùa vui, nghịch ngợm thì lối nói bóng

gió xuất hiện nhiều trong thơ Nguyễn Bính tạo nên vẻ đẹp ý nhị, duyên dáng cho những câu
chuyện tình yêu đôi lứa.
Đêm nay mới thật là đêm
Ai đem giăng giãi lên trên vườn chè.
(Thời trước)
Thơ Nguyễn Bính theo Nguyễn Quốc Túy nhận xét là “cái dấu nối thơ hiện đại và thơ
dân gian. Có thể nói thơ ông đích thực là một thứ thơ dân gian hiện đại”. Giọng điệu thấm
7


nhuần dấu ấn dân gian đã khiến thơ mới dân gian Nguyễn Bính như một ngôi sao mang màu
sắc ánh sáng khác lạ trên bầu trời Thơ mới trước cách mạng Tháng Tám.
II.

Thể thơ.
Thơ mới dân gian Nguyễn Bính có thể chia thành 3 thể: thơ viết bằng thể lục bát, thơ viết
bằng thể ngũ ngôn và thơ viết bằng thể thất ngôn. Thống kê trên cuốn “Tuyển Tập Nguyễn
Bính”, trên tổng số 59 bài có đến 28 bài viết bằng thể lục bát – thể loại điển hình nhất của ca
dao dân ca.
Anh về quê cũ: thôn Vân
Sau khi đã biết phong trần ra sao.
Từ nay lại tắm ao đào
Rượu dâu nhà cất, thuốc lào nhà phơi.
(Anh về quê cũ)
Thơ lục bát đã có truyền thống lâu đời với sự tuần hoàn của hai câu sáu – tám, với vần
chân và vần lưng bao giờ cũng hợp theo thanh bằng. Thể thơ này rất thích hợp cho giọng kể
lể, lời tâm sự về những buồn thương đau sót, bâng khuâng nhớ nhung…Nguyễn Bính đã
phát huy cao độ sự phù hợp giữa đặc trưng của thể loại lục bát là mềm mại uyển chuyển,
giàu nhạc điệu với phong cách thơ của mình là mộc mạc, đằm thắm, dịu dàng. Thi nhân
thường ngắt theo nhịp 2/2/2 hay 3/3 trong câu lục và 2/2/2/2 hay 4/4 trong câu bát, cách ngắt

nghịp này thường tạo cho thơ ông một vẻ trầm buồn tha thiết:
Em ơi em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa.
(Lỡ bước sang ngang)
Đoạn thơ ngắn với cách ngắt nhịp 2/2/2 ở câu lục và 4/4 ở câu bát đều đặn đã giúp tác giả
diễn tả sâu nhất nỗi quặn đau của người chị của Nguyễn Bính khi đi lấy chồng nhưng vẫn
còn vương vấn, băn khoăn với đạo làm con.
Nhờ thể lục bát quen thuộc, thi phẩm của người nghệ sĩ đồng quê của chúng ta, thời ấy,
được dân chúng học thuộc, truyền miệng rộng rãi. Còn thời nay, nếu đi sâu về một số vùng
nông thôn chúng ta vẫn có thể nghe thấy những lời hát ru trong các tác phẩm của ông:
Thày đừng nhớ, mẹ đừng thương
Cầm như đồng kẽm ngang đường bỏ rơi!
Thày mẹ ơi, thày mẹ ơi,
Tiếc công thày mẹ đẻ người con hư!
(Thư gửi thày mẹ)

III.

Ngôn ngữ thơ.
Tắm mình trong không gian thơ mộng, thanh bình của làng quê, uống nước con sông quê,
lớn lên từ hạt lúa củ khoai của làng quê chiêm chũng nghèo khó “chiêm mất đằng chiêm,
mùa mất mùa”, Nguyễn Bính trở thành nhà thơ của các đòng ruộng, của cánh diều bay, của
dây thiên lý, của giậu mồng tơi… Chính vì vậy, đọc thơ ông người ta ngỡ như “thơ ông là
viện bảo tàng của tâm hồn người Việt Nam xưa”. Và chính ngôn ngữ thơ đã lấp đầy bảo tàng
ấy như thế.
8



Ngôn ngữ Thơ mới dân gian Nguyễn Bính trước hết là ngôn ngữ của ca dao, dân ca, của
thơ ca dân gian nói chung. Rộng hơn nữa là ngôn ngữ trong đời sống hàng ngày của quần
chúng nhân dân được người “nhà quê” chọn lọc, mài giũa và tinh luyện.
Chúng ta gặp trong thơ Nguyễn Bính những thành ngữ, tục ngữ thân thuộc, gần gũi:
Thuốc lào hút mãi người ra khói
Thơ đọc suông tình hết cả say
Túi rỗng nợ nần hơn chúa chổm
Áo quần trộm mượn túng đồ thay.
(Giời mưa ở Huế)
Nhà thơ đã nói lái đi thành ngữ “nợ như chúa chổm” quen thuộc trong khẩu ngữ của quần
chúng để chỉ tâm trạng bất an của con người muốn hòa mình vào cuộc sống thành thị nhưng
không hòa nổi, muốn quay về với thôn quê nhưng bị níu kéo nhiều bề.
Hay:
Hỡi người đi gió về mưa
Có xây dựng nỗi cơ đồ gì không?
Đã đành nhớ núi thương sông,
Nằm đây xa cách muôn trùng ải quan.
(Nam Kỳ cũng gió mưa)
Từ các thành ngữ “đi mây về gió”, “đi mưa về nắng” Nguyễn Bính kết hợp để thành “đi
gió về mưa”, chỉ những nhọc nhằn trong việc theo đuổi khát vọng của con người.
Thành ngữ, tục ngữ, rồi những từ ngữ, cách nói, cách diễn đạt mộc mạc mà người nông
dân quê hay dùng: thể nào, thế là, rõ khéo, chán mớ đời, chả nhẽ, giẫu sao,…cũng được
Nguyễn Bính đưa vào trong thơ hết sức tự nhiên. Không những vậy, nó còn được kết hợp
với cách phát âm mang đậm màu sắc quê hương làng cảnh Bắc Bộ: giàn trầu – giàn giầu, trai
làng – giai làng, trời – giời,…và một số từ ngữ địa phương. Cách kết hợp này không hề làm
mất đi sự mềm mại, chất trữ tình của những câu thơ Nguyễn Bính mà nó còn toát ra được cái
linh hồn, đem đến hơi thở nồng nàn của thôn dã.
Ví chăng nhớ có như vừng nhỉ
Em thử lào xem được mấy thưng!
(Nhớ)

Ở hai câu thơ trên, tác giả sử dụng hai từ địa phương “lào” và “thưng” để cụ thể hóa nỗi
nhớ người yêu đồng thời cũng gợi lên tình cảm kín đáo ẩn bên trong của nhân vật trữ tình.
Trong các thi phẩm của ông, bên cạnh các từ ngữ mộc mạc, Nguyễn Bính còn thêm cài
các từ cửa miệng của thôn dân vào lời thơ cùng với việc tổ chức câu thơ theo cấu trúc ngữ
đoạn của khẩu ngữ đã làm cho thơ ông mang đậm chất “điệu nói”.
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê.
(Chân quê)
Hay:
Chết nhỉ! Đêm nay ngủ với chồng,
Trời ơi! Gió lạnh! Gớm mùa đông...
(Giọt nến hồng)
9


Sự ảnh hưởng của chất dân gian trong thơ Nguyễn Bính còn thể hiện qua hệ thống các từ
tính thái như: à, ơi, hử, nhé, nhỉ, hỡi kia… Các từ tình thái này khiến thơ ca của ông thân
thuộc như lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng, như một lời giao tiếp thông thường.
Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày
Bao giờ em mới gặp anh đây!
(Mưa xuân)
Nếu như Xuân Diệu say đắm trong màu sắc phương Tây, trong thơ ca tượng trưng Pháp,
Hàn Mặc Tử siêu thực trong thơ Điên… thì Nguyễn Bính tinh ròng trong chất ca dao. Bởi
trong thơ Nguyễn Bính, bên cạnh các thành ngữ, tục ngữ, cách nói dân gian được ông sử
dụng nhuần nhuyễn, thì những thi liệu, từ ngữ quen thuộc trong ca dao cũng được thi nhân
vận dụng hết sức thi vị: thôn Đoài, thôn Đông, bên ấy, bên này, bến, thuyền, giậu mồng tơi,
hàng cau, giàn giầu,…
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người.
(Tương tư)

Chính nhờ thi liệu quen thuộc ấy khiến thơ Nguyễn Bính như bản giao hưởng, bản đàn
hiện đại mang âm hưởng dân gian. Bằng cách tách thôn Đoài, thôn Đông như lối nói của dân
gian, Nguyễn Bính đã đặt hai miền không gian vào trong nỗi nhớ, niềm tương tư khiến nỗi
niềm của nhà thơ như dâng cao hơn!
Bên cạnh đó, Nguyễn Bính còn bị ảnh hưởng từ dân gian lối nói định ước, áng chừng –
lối nói thiên về cảm tính. Điều này được thể hiện rõ qua ngôn ngữ thơ của ông.
Em nghe họ nói mong manh
Hình như họ biết chúng mình với nhau.
(Chờ nhau)
Cụm từ “hình như” có chút gì mơ hồ, không xác định đã diễn tả một cách thật tinh tế
những tình cảm e ấp, ngượng ngùng của những tình cảm trong sáng, nhẹ nhàng của những
chàng trai, cô gái trong tình yêu.
Vậy, ngôn ngữ của dân gian đã thấm nhuần trong ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính như thế,
một cách tự nhiên như nó vốn thuộc về, vừa tạo nên sắc thái biểu cảm vừa mang nét chân
quê đậm chất phong cách Nguyễn Bính.
IV.

Biện pháp nghệ thuật.
Thơ Nguyễn Bính vốn có khả năng biểu đạt cao, dễ thấm vào lòng người, dễ chạm vào kí
ức về quê hương mà mỗi người đều có. Và sắc thơ mộc mạc đó còn được tác giả làm tăng
thêm sắc thái biểu hiện bằng việc sử dụng thành thạo những biện pháp tu từ mà thơ dân gian
hay dùng.
1.

So sánh.

So sánh ví von là cách diễn đạt rất hay thường được dùng trong ca dao để biểu đạt ý tình.
Cũng như ca dao, thơ Nguyễn Bính sử dụng biện pháp so sánh với tần số cao để xây dựng
hình tượng, gửi gắm tâm tư tình cảm. Qua khảo sát 35 bài thơ của Nguyễn Bính trong tập
“Lỡ bước sang ngang”, ta có thể dễ dàng thấy so sánh là biện pháp tu từ xuất hiện nhiều nhất

trong các biện pháp tu từ khác được tác giả sử dụng như: ẩn dụ, hoán dụ, đối, điệp, nhân hóa,

10


Xét về hình thức thể hiện, trong thơ Nguyễn Bính có 2 kiểu so sánh: so sánh có sử dụng
liên từ, và so sánh không sử dụng liên từ.
Trong đa số các bài thơ có sử dụng biện pháp so sánh thì Nguyễn Bính trọng hơn trong
kiểu so sánh có liên từ. Thơ Nguyễn Bính không những sử dụng nghệ thuật so sánh quen
thuộc trong thơ dân gian mà ngay cả cách so sánh, cách cảm, cách đặt cảm xúc vào hình ảnh
thơ của Nguyễn Bính cũng đậm chất ca dao.
Nếu ca dao có câu ca đặt chủ thể trữ tình vào hai vế đối lập:
Anh như chỉ gấm thêu cờ
Em như rau má mọc bờ giếng khơi.
Thì một lần nữa ta được gặp lại kiểu so sánh đối lập ấy trong thơ Nguyễn Bính:
Lòng anh như biển sóng cồn
Chứa muôn con nước nghìn con sông dài
Lòng em như thể lá khoai
Đổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu.
(Em với anh)
Khi miêu tả hình ảnh nữ nhân, ca dao viết:
Cổ tay em trắng như ngà
Đôi mắt em sắc như là dao cau
Miệng cười như thể hoa ngâu
Chiếc khăn đội đầu như thể hoa sen.
Thì trong thơ Nguyễn Bính cũng có những câu như:
Một đi làm nở hoa sen
Một cười làm rụng hàng ngàn hoa mai
Hương thơm như thể hoa nhài
Những môi tô đậm làm phai hoa đào

Nõn nà như như thể hoa cau
Thân hình yểu điệu như là hoa lan.
(Lòng yêu đương)
Bên cạnh những câu thơ so sánh có sử dụng liên từ, nhiều khi do khuôn khổ của câu thơ
và sự chi phối của luật thơ, nhà thơ không sử dụng liên từ nhưng vẫn đảm bảo sắc thái ví von
so sánh và hàm ý ẩn dụ cho thơ. Và chính ở cách so sánh này, nhịp thơ lại có chức năng đặc
biệt, tạo nghĩa cho câu thơ một cách thú vị:
Hồn tôi giếng ngọt trong veo
Trăng thu trong vắt, biển chiều trong xanh.
(Tình tôi)
Nhưng dù là kiểu so sánh nào, ta vẫn có thể nhìn thấy được dấu ấn dân gian đậm nét trên
trang thơ của người nghệ sĩ dân gian, của người “nhà quê”.
2.

Ẩn dụ.

11


Ngoài biện pháp so sánh quen thuộc trong ca dao, cũng như quen thuộc trong thơ Nguyễn
Bính, thơ ông còn chịu ảnh hưởng rõ nét từ phép ẩn dụ dân gian. Qua khảo sát 106 bài thơ
tình bất kì của thi nhân, có khoảng 30 bài thơ tác giả sử dụng biện pháp ẩn dụ.
Khi nói đến tình yêu đôi lứa, giống như ca dao, Nguyễn Bính sử dụng hàng loạt hình ảnh
dường như đã gắn liền với tiềm thức của quần chúng: bướm – hoa, trầu – cau, bến – thuyền,
…cùng với motip ẩn dụ quen thuộc.
Nếu trong ca dao khi thể hiện nỗi mong ngóng, sự khao khát sánh đôi, chúng ta thường
nhắc đến những câu ca như:
Trầu vàng nhá lẫn cau xanh
Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời.
Thì đồng thời ta cũng bắt gặp trong thơ Nguyễn Bính những thi liệu quen thuộc đó:

Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào.
(Tương tư)
Bên cạnh những hình ảnh ẩn dụ về tình yêu đôi lứa, ca dao cũng như thơ Nguyễn Bính
còn rất quen thuộc với những hình ảnh ẩn dụ về số phận người phụ nữ. Và đối tượng tạo nên
phép ẩn dụ cho thơ Nguyễn Bính vẫn là những thi liệu dân gian: lỡ bước sang ngang, nhịp
cầu chênh vênh, sóng gió ngang sông,…
Rồi đây sóng gió ngang sông
Đầy thuyền hận, chị lo không tới bờ.
(Lỡ bước sang ngang)
Không chỉ vận dụng ẩn dụ để thể hiện nỗi niềm thân thuộc trong ca dao, Nguyễn Bính
còn dùng phép ẩn dụ để khẳng định hồn thơ gắn liền với chất quê của mình qua câu thơ:
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê.
(Chân quê)
Nói cách khác, hai câu thơ trên chính là bản tuyên ngôn của Nguyễn Bính, tuyên ngôn
chống lại các kiểu thơ lai căng, Âu hóa tới mức lộ liễu.
Như vậy, hầu hết các ẩn dụ trong thơ tình Nguyễn Bính đều bắt nguồn từ những ẩn dụ
quen thuộc trong ca dao, từ chất liệu đến cách xây dựng hình tượng nhưng không hề tạo cảm
giác nhàm chán, không mất đi giá trị biểu cảm, hơn thế còn làm thức dậy trong lòng người
đọc vẻ đẹp của tình quê, cảnh quê.
3.

Nhân hóa.

Nhân hóa cũng là một trong những nghệ thuật quen thuộc trong thơ ca dân gian. Khi viết
về tình cảm hay đời sống con người, ông cha ta hay gán cho sự vật những tâm trạng, đặc
điểm như con người:
Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi, sao hỡi! Nhớ ai sao mờ?

Buồn trông con nhện giăng tơ
12


Nhện ơi, nhện hời! Nhện chờ mối ai?
Hay:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày giữ nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy, ai mà quản công
Bao giờ cây lúa còn bong
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn
Bước vào trang thơ Nguyễn Bính ta thấy nghệ thuật này không những không hiếm hoi mà
còn rất phổ biến. Khi viết về tậm trạng của nhân vật trữ tình, ông thường gửi gắm những tình
cảm, tâm tư ấy qua những hình ảnh thiên nhiên.
Tóc liễu hong dài nỗi nhớ nhung
Trăng nghiêng nửa mái gội mơ mòng.
(Bất chợt mùa thu)
Hay:
Hôm nay lá thấy tôi buồn
Luồn theo cánh gió lá luồn theo song.
(Lá mùa thu)
Nhân hóa trong thơ Nguyễn Bính cũng như những biện pháp nghệ thuật dân gian khác
xuất hiện trong thơ Nguyễn Bính càng làm tăng lên vẻ đẹp của hồn quê mộc mạc vốn có
trong thơ ông.
4.

Phép đối, điệp.

Kết cấu đối trong thơ Nguyễn Bính rất đa dạng, ông có thể đặt hai vế trong một phép đối,

đôi khi đặt hai câu trong một phép đối, thậm chí đối cả khổ thơ này với khổ thơ khác.
Lòng anh như hoa hướng dương
Trăm nghìn đổ lại một phương mặt trời.
Lòng em như cái con thoi
Thay bao nhiêu suốt mà thoi vẫn lành!
(Anh với em)
Bằng phép đối “lòng anh – lòng em”, tác giả đã khắc họa rõ nét sự trắc trở trong tình yêu
của đôi lứa khi trái tim, tâm hồn luôn song song ngược hướng, không cách nào gặp nhau.
Bài “Lỡ bước sang ngang”, nhà thơ còn dùng phép đối để khắc sâu bi kịch, nghịch cảnh
của người con gái: tình yêu đến mà không được nhận, tự mình phải khước từ rồi lại trông
theo tiếc nuối.
Người đi xây dựng cơ đồ
13


Chị về giồng cỏ nấm mồ thanh xuân
Người đi khoác áo phong trần
Chị về may áo liệm dần nhớ thương.
(Lỡ bước sang ngang)
Bên cạnh những phép đối, tác giả còn sử dụng những phép điệp – nghệ thuật quen thuộc
trong thơ dân gian.
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời trông đất trông mây
Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng.
(Ca dao)
Mục đích sử dụng như ca dao, dân ca, điệp từ bước vào thơ Nguyễn Bính để nhấn mạnh
thêm những tâm tư tình cảm của nhân vật trữ tình, từ đó tác đọng đến người đọc, khiến

người đọc tập trung vào nội dung, ý nghĩa của bài thơ:
Mười năm gối hận bên giường
Mười năm nước mắt bữa thường thay canh
Mười năm đưa đám một mình
Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên
Mười năm lòng lạnh như tiền
Tim đi hết máu mà duyên không về.
(Lỡ bước sang ngang)
Nhờ cách sử dụng phép đối rất tinh luyện, Nguyễn Bính một lần nữa thành công trong
việc khắc họa nỗi đau của người phụ nữ đi lấy chồng mà không được ở gần người mình yêu
thương.
Như vậy, phép đối hay phép điệp được đưa vào thơ Nguyễn Bính đều rất tinh tế vừa gợi
được cái hồn trong thơ ca cổ vừa tạo được nét riêng cho phong cách thơ Nguyễn Bính trên
thi đàn Thơ mới.
V.

Thi liệu.
1. Không gian nghệ thuật.
Không gian nghệ thuật của thơ mới dân gian Nguyễn Bính là một thứ không gian của cổ
tích, của huyền thoại.

14


Nguyễn Bính đang ngồi viết thơ ở xóm Ngự Viên, nhưng nhà thơ lại tự mình sống lại và
cho cả bạn đọc sống lại cái cảnh sắc không gian vườn Thượng uyển ngày xưa được xây
dựng bằng trí tưởng tượng:
Sớm Đào, trưa Lý, đêm Hồng Phấn
Tuyết Hạnh, sương Quỳnh, máu Đỗ Quyên
Đức vua một sớm đầu xuân ấy

Lòng đẹp theo giời, dạo Ngự Viên.
(Xóm Ngự Viên)
Nguyễn Bính chỉ nhìn chiếc cầu trên sông Hương ở Huế (1941), nhà thơ cũng tưởng
tượng ra cảnh:
Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung nga buông hờ
Đôi bờ đôi cánh tay vua
Cung nga úp mặt làm thơ thất tình.
(Vài nét Huế)
Không những vậy, không gian: vườn, chùa, hội chèo, bến… quen thuộc trong thơ ca dân
gian cũng trở đi trở lại trong thơ Nguyễn Bính. Đặc biệt, hình ảnh “vườn” hiện diện trong
thơ Nguyễn Bính, dù trực tiếp hay ẩn sau những thi liệu quen thuộc: giậu mồng tơi, cây cần,
giàn giầu,…, đều trở thành một biểu tượng về đời sống nông thôn. “Vườn” ở đây vừa là nhà,
vừa là quê hương, vừa là nơi ưm mầm, đồng thời cũng là nơi nuôi dưỡng mầm sống.
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi,
Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn
Hai người sống giữa cô đơn,
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi.
Giá đừng có giậu mùng tơi,
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng.
(Người hàng xóm)
“Giậu mồng tơi” trong đọan thơ trên trở thành hình ảnh để nhà thơ vịn cớ cho lý do
không sang thăm “nàng”, ẩn sau đó, thi nhân còn gửi gắm tâm trạng thầm kín của chủ thể trữ
tình – nỗi mong ngóng được trò chuyện, giao duyên với cô thôn nữ làm chàng trai thầm
thương trộm nhớ nhưng không đủ can đảm để phá bỏ rào cản giữa đôi bên nên đành giữ
riêng tình cảm này cho mình.
Trong con mắt của người dân quê, hình ảnh đầu tiên đọng vào tâm hồn khi nhìn ra thế
giới là mảnh vườn nhà và bước chập chững đầu tiên khi vượt ra khỏi góc sân nhỏ bé cũng
chính nơi ấy. Dẫu năm tháng phôi pha bao kỷ niệm, dù bước chân mòn mỏi chốn giang hồ ,
mảnh vườn quê thời thơ ấu vẫn vẹn nguyên trong ký ức:

Nhà tôi có một vườn dâu
Có giàn đỗ ván, có ao cấy cần
Hoa đỗ ván nở mùa xuân
15


Lứa dâu tháng tháng, lứa cần năm năm.
(Nhà tôi)
Như vậy, thi nhân làm thơ với tất cả cảnh sắc, con người, và tình đời đều được tắm trong
ánh sáng lung linh của quê hương từ đó làm cho không gian nghệ thuật trong thơ ông đậm
chất dân gian.

2. Thời gian nghệ thuật.
Bên cạnh không gian nghệ thuật, thời gian trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Bính
cũng in rất đậm sắc thái đân gian. Nơi xóm làng dân dã, tâm hồn con người không chịu ràng
buộc bởi những đo đếm tính toán chi li, kể cả về thời gian. Chịu ảnh hưởng sâu sắc điều đó,
thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính thường là thời gian của tâm tưởng, không phụ
thuộc vào thế giới bên ngoài, công thức thời gian, cách tính thời gian là hoàn toàn ước lệ.
Nếu Xuân Diệu thuộc dòng thơ Pháp với công thức đo đếm thời gian theo tư duy lý tính để
thấy sự chảy trôi rất vội vã thì Nguyễn Bính – chủ soái của dòng thơ Việt – đi theo một lối đi
khác, ông cảm nhận thời gian bằng tư duy cảm tính, sự chảy trôi của thời gian phụ thuộc vào
tâm trạng thi nhân.
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
(Tương tư)
Trong thơ Nguyễn Bính những cụm từ chỉ thời gian ước lệ thân thuộc trong thơ dân gian
xuất hiện với tần số cao: thuở ấy, thuở trước, năm xưa, năm ấy, ngày xưa, bữa ấy,…
Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay
Hoa xoan đã nát dưới chân giày.
(Mưa xuân)

Với cụm từ “bữa ấy”, Nguyễn Bính đã đặt nhân vật trữ tình vào cách cảm nhận thời gian
bằng tư duy cảm tính vừa tạo sự mơ hồ, không rõ ràng trong thời gian đồng thời hư vô trong
tâm trạng nhân vật.
Chính sự ước lệ trong xác định thời gian vừa khái quát được hoàn cảnh vừa vĩnh cửu hóa
được thời điểm sự việc, dễ tạo được sức giao cảm mạnh mẽ với mọi tâm hồn.
Học trò trường huyện ngày năm ấy
Anh tuổi bằng em lớp tuổi thơ.
(Trường huyện)
Hay:
Từ ngày cô chửa thành hôn
Từ ngày anh khóa hãy còn hàn vi.
(Quan trạng)
Khi dùng những công thức ước lệ về thời gian quá khứ xa xôi, tác giả trả con người về
với vùng đất của tưởng tượng và mộng mơ – thế giới cổ tích:
Em ạ! Ngày xưa vua nước Bướm
Kén nhân tài, mở Điệp lang khoa.
(Chuyện cổ tích)
Hay:
16


Thuở trước loài hoa chửa biết cười
Vô tình con bướm trắng sang chơi
Khác nào tôi đã sang chơi đấy
Rước bướm dừng chân. Hoa hé môi.
(Hương cố nhân)
Rõ ràng, thời gian nghệ thuật ước lệ như thế đã tập trung khắc họa tâm tưởng, chuyển hóa
thời gian thành những hình ảnh, sự vật, hiện tượng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người
đọc, tác động vào tình cảm hơn là lí trí.


Chương III: Từ nghệ thuật dân gian đến những cách tân trong
thơ Nguyễn Bính.
Mặc dù, thơ Nguyễn Bính thấm nhuần màu sắc văn hóa dân tộc đến độ Tô Hoài nhận
định: “Chỉ có quê hương mới tạo nên từng chữ từng câu Nguyễn Bính. Trên chặng đường
ngót nửa thế kỉ đời thơ, mỗi khi những gắn bó mồ hôi nước mắt kia đằm lên ngây ngắt, nhớ
thương, day dứt không thể yên, khi ấy xuất hiện những bài thơ tình quê tuyệt vời của
Nguyễn Bính” song từ chính chất liệu dân gian ấy, Nguyễn Bính vẫn có những biến thể,
cách tân khiến thơ mình không thuần là những bài ca dao, dân ca mà là tác phẩm nghệ thuật
mang tính thời đại.
1.

Cái tôi trữ tình

Cái tôi trữ tình hiện diện trong thơ Nguyễn Bính ẩn sau những chất liệu dân gian vẫn là
cái tôi lãng mạn Thơ mới, cái tôi cá nhân cá thể.
Khi bộc lộ tình cảm đơn phương của mình với đối phương, Nguyễn Bính cất lên:
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
(Tương tư)
Vừa mượn lối nói ví von ý nhị của ca dao truyền thống, vừa sử dụng cách bày tỏ trực tiếp
của thơ mới, Nguyễn Bính đã nói hộ tiếng lòng biết bao đôi lứa yêu nhau. Như vậy, Nguyễn
Bính đã mượn chất liệu dân gian và cách bày tỏ ca dao để thể hiện lòng mình nhưng cái
trong 2 câu thơ trên, cái tôi trữ tình của Nguyễn Bính vẫn hiện lên là cái tôi lãng mạn, cô
đơn, khao khát sẻ chia với cuộc đời, con người.
Trong khi ca dao, thơ dân gian, những đại từ nhân xưng dường như không xuất hiện bởi
con người luôn hòa vào công đồng để bộc lộ tâm tư của mình. Nhưng đến với Thơ mới dân
gian Nguyễn Bính, đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất: ta, tôi, anh, mình,…xuất hiện với tần số
không phải là nhỏ.
Cô nhân tình bé của tôi ơi!
Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười.

17


(Ghen)
2.

Thể lục bát.

Điểm cách tân của thể lục bát ở Thơ mới Nguyễn Bính so với thể thơ lục bát truyền thống
là ở việc: hình thành khổ thơ và ngắt nhịp thơ.
Đơn vị khổ thơ của Nguyễn Bính có khi chỉ có hai câu thơ trong một khổ.
Hội làng mở giữa mùa thu
Giời cao gió cả giăng như ban ngày.
(Đêm cuối cùng)
Cũng có khi là bốn câu thơ trong một khổ.
Nhà em có một giàn giầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phong
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?
(Tương tư)
Ca dao, dân ca quen thuộc với cách ngắt nhịp 2/2/2 hay 3/3 ở câu lục, 2/2/2/2 hay 4/4 ở
câu bát, Nguyễn Bính tiếp thu dựa trên đặc điểm đó trong đa số thi phẩm của ông song có
nhiều bài thơ của Nguyễn Bính vẫn có cách ngắt nhịp linh hoạt và khá độc đáo không theo
niêm và luật.
Kiểu ngắt nhịp 3/3/2 ở câu bát đã làm cho lời thơ sinh động hẳn lên, nhịp thơ ngắt bất
ngờ đã mở ra cả không gian, thời gian và chất chứa tâm trạng của sự chia xa:
Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm.
(Cánh buồm nâu)
Bên cạnh đó, thơ Nguyễn Bính còn có những lối ngắt nhịp phá vỡ tính cân xứng hài hoà,

thơ ông nhiều khi chẻ nhỏ câu thơ tạo nên những nhịp lẻ gấp khúc đứt đoạn như các kiểu
1/1/4; 1/1/2/2 trong câu lục và các liểu nhịp 2/1/5; 2/1/3/2; 1/1/1/1/2/2 trong câu bát.
Rồi…rồi chị nói sao đây?
Em ơi! nói nhỏ câu này với em.
(Lỡ bước sang ngang )
3.

Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật.

Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính là sự kết hợp hoàn
hảo giữa thi liệu xưa và nay.
Trong bài thơ “Thơ xuân”, khi viết về cái Tết Việt Nam, khổ đầu thi nhân đi sâu vào cảnh
sắc quen thuộc mà ta có thể gặp ở bất cứ làng quê nào trên trang văn của các nhà văn, nhà
thơ cùng thời.
Đây cả mùa xuân đã đến rồi
Từng nhà mở cửa đón vui tươi
Từng cô em bé so màu áo
Đôi má hồng lên nhí nhảnh cười.
Nhưng đến khổ 3, tác giả lại đưa ngòi bút của mình trở về với cảnh sắc ngày tết của một
thời xa xưa.
18


Từng gã thư sinh biếng chả đầu
Một mình mơ ước chuyện mai sau
Lên kinh thi đỗ làm quan Trạng
Công chúa cài trâm thả tú cầu.

Tiểu kết chương.
Đúng như lời Tô Hoài nhận xét về Nguyễn Bính: “Nguyễn Bính chẳng khác một người

tài kể chuyện, cứ nhẩn nha nói về mọi thứ quen thuộc quanh mình mà khiến ta phải chú ý”,
Nguyễn Bính bằng đôi chân trần, tâm hồn mộc mạc đã nhẹ nhàng đánh dấu tên tuổi mình
trên thi đàn văn học, trở thành một trong những thi nhân xuất sắc nhất của phong trào Thơ
mới 1932 – 1945 bằng nghệ thuật “chân quê” của mình. Trong xã hội có xu hướng hội nhập,
tiếp thu nền văn hóa phương Tây, “người nhà quê của Nguyễn Bính ngang nhiên sống như
thường” – Hoài Thanh, bởi thế giới nghệ thuật của ông một lòng hướng về nghệ thuật dân
tộc nhưng không chỉ thuần là nghệ thuật trong thơ dân gian, mà thế giới nghệ thuật Nguyễn
Bính là một thế giới vô cùng phong phú, đầy đặn được nâng đỡ bằng chất dân gian và được
lấp đầy bằng tâm hồn của cái tôi thơ mới.

C.

PHẦN KẾT LUẬN

Làng quê và thành thị là hai đề tài được khai thác nhiều trong văn thơ thời kỳ 1932 –
1945. Thành thị như một môi trường mới lạ, ở đấy cuộc sống đô hội chen chúc đang đổi thay
từng ngày theo nhịp sống hiện đại. Và không tránh khỏi sinh hoạt đô thị nảy sinh biết bao tệ
nạn, làm cho đạo đức truyền thống suy thoái, và đồng tiền như một quyền lực thực sự chi
phối đến cuộc sống con người. Đối lập với đời sống đô thị, làng quê vẫn là bộ phận chủ yếu,
bao la, rộng lớn trên dải đất Việt Nam. Làng quê còn bao phủ trong lớp sương mai, vừa đau
khổ trong cuộc đời cũ, vừa chứa chan thi vị trong nếp sống văn hóa và truyền thống nhân ái
tự lâu đời. Trong phần lớn các bài thơ của mình, Nguyễn Bính bằng thế giới nghệ thuật
phong phú đã rất thành công khi miêu tả làng quê và từ đó nhìn về thành thị với thái độ vừa
chấp nhận lại vừa từ chối, chấp nhận môi trường hiện đại mang xu thế của thời đại, của văn
hóa tiên tiến và từ chối lối sống phức tạp, xô bồ của đời sống đô thị. Bởi vậy, hiện diện trong
thơ Nguyễn Bính bên cạnh dấu ấn đậm nét của dân gian, vẫn có những cách tân trong nghệ
thuật của một cái tôi Thơ mới. Tuy nhiên với chuyên đề: “Nghệ thuật “chân quê” trong thơ
Nguyễn Bính tôi chỉ đi sâu tìm hiểu những dấu ấn dân gian trong thế giới thi pháp của
Nguyễn Bính và lược qua một số cách tân từ nghệ thuật dân gian của thi nhân Thơ mới –
Nguyễn Bính.

19


Có thể nói, sau khi nghiên cứu sâu vào nghệ thuật thơ Mới dân gian Nguyễn Bính, tôi
có thể chắc chắn rằng những thi phẩm của ông đã khẳng định sức mạnh, tài năng và
tâm huyết của ngòi bút Nguyễn Bính trên phong trào Thơ mới mà rộng ra là trên sự
phát triển của văn học dân tộc.
2. Chọn đề tài “Nghệ thuật “chân quê” trong thơ Nguyễn Bính” tôi muốn góp một phần
tiếng nói, dù là nhỏ nhoi, vào việc khẳng định vị trí, tầm vóc và sức sống của thơ ca
đậm dấu ấn dân gian của Nguyễn Bính trên tiến trình thay máu cho văn học dân tộc
Tuy nhiên, do trình độ và thời gian có hạn, nên việc giải quyết vấn đề này một cách
hoàn chỉnh nhất không phải là điều dễ dàng. Do vậy, nghiên cứu của tôi chỉ dừng lại ở
những khám phá bước đầu.
Khi nhắc đến những cây bút luôn một lòng hướng về đồng quê, quê hương, nếu Trung
Hoa có Lỗ Tấn, thơ Sergei Esenin đẫm ướt tâm hồn Nga, thì khi gợi đến dân tộc đói nghèo,
khổ cực nhưng luôn sống lạc quan, tin tưởng – Việt Nam, người ta nhớ ngay đến Nguyễn
Bính – nhà thơ được nhà phê bình Hoài Thanh gọi là “người nhà quê”.
1.

20



×