Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Vấn Đề Ăn Chay Ăn Mặn Trong Đạo Phật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.59 KB, 129 trang )

Vấn Đề Ăn Chay Ăn Mặn
Trong Đạo Phật
Nhiều Tác Giả
---o0o--Nguồn
www.quangduc.com
Chuyển sang ebook 11-08-2009
Người thực hiện :
Nam Thiên -
Link Audio Tại Website
Mục Lục
Ăn chay
Ðức Phật đã nói gì về việc ăn thịt?
Ăn chay
Ðạo Phật và vấn đề ăn chay
Có tâm linh cao thượng gì khi là một người ăn chay?
Ăn chay, ăn mặn
Có phải tất cả Phật tử đều ăn chay?
Có phải các Phật tử đều là người ăn chay?
Phật giáo và vấn đề chay mặn
Ăn mặn, ăn chay
Vấn đề ẩm thực trong đạo Phật
Phụ đính
DĨ KINH CHỨNG KINH
TRA LẠI KINH SÁCH: TRAI VÀ CHAY
1. PHẬT GIÁO VÀ SỰ ĂN CHAY
2. LỤC TỔ HUỆ NĂNG VÀ SỰ ĂN CHAY
3. TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ VÀ SỰ ĂN CHAY
4. TAM TẠNG PÀLI VÀ SỰ ĂN CHAY
5. CƯ SĨ TRÙNG QUANG VÀ SỰ ĂN CHAY
6. SƯ THIỆN CHIẾU VÀ SỰ AN CHAY
7. PHẬT GIÁO ÐẠI THỪA TÂY TẠNG VÀ SỰ ĂN CHAY


8. HÒA THƯỢNG THIỆN HOA VÀ SỰ ĂN CHAY
BÁT NHÃ PHI BÁT NHÃ?

---o0o--Ăn chay


Hòa thượng Sri Dhammananda
Giới thiệu: Hòa thượng K. Sri Dhammananda là một tu sĩ người Tích Lan.
Ngài đã đến hoằng pháp tại Mã Lai trong 50 năm qua, và hiện nay là Tăng
trưởng Tăng đoàn Phật giáo Mã Lai.
Ta không nên phán đoán sự thanh tịnh hay bất tịnh của một người đơn giản
bằng cách chỉ nhìn xem người ấy ăn gì.
Trong kinh Amagandha, Đức Phật nói:
"Chẳng phải thịt, chẳng phải nhịn ăn, chẳng phải lõa thể,
Chẳng phải cạo đầu, chẳng phải bện tóc, chẳng phải trát đất,
Chẳng phải da xù xì, chẳng phải thờ thần lửa
Chẳng phải tự hành xác nơi đây trong thế giới này
Chẳng phải thánh ca, chẳng phải hiến cúng, chẳng phải tế thần
Chẳng phải hội mừng mùa màng
Có thể làm một kẻ tâm đầy hoài nghi trở thành trong sạch."
Ăn cá hay ăn thịt tự nó không làm cho một người trở thành bất tịnh. Một
người tự làm mình không trong sạch bởi niềm tin mù quáng, gian dối, thèm
muốn, tự đề cao, ô danh và những dụng ý tội lỗi. Do những tư tưởng và hành
động xấu xa của mình tự làm mình bất tịnh. Không có một giới luật khắt khe
nào trong Phật Giáo nói là tín đồ của Đức Phật không nên ăn cá thịt. Đức
Phật chỉ khuyên là không nên liên quan vào việc giết chóc có dụng ý hoặc
không nên yêu cầu người khác giết bất cứ chúng sanh nào cho mình. Tuy
nhiên những ai ăn chay và không ăn thịt của thú vật đáng được ca ngợi.
Mặc dù không chủ trương các thầy tu phải ăn chay, Đức Phật vẫn khuyên
các thầy không nên ăn mười loại thịt vì sự tôn trọng và bảo vệ cho chính các

thầy. Mười loại thịt ấy là: người, voi, ngựa, chó, rắn, sư tử, hổ, báo, gấu, linh
cẩu. Một số các thú vật tấn công người khi chúng ngửi mùi thịt sống cùng
loại với chúng. (Vinaya Pitaka - Tạng Luật)
Một đệ tử của Ngài là Đề Bà Đạt Đa yêu cầu Đức Phật bắt các đệ tử của
Ngài ăn chay, nhưng Ngài từ chối. Vì Đạo Phật là một tôn giáo tự do, nên
Ngài khuyên là để cá nhân các đệ tử tự mình quyết định việc ăn chay. Rõ
ràng Đức Phật không coi việc ấy là một luật lệ đạo lý quan trọng. Đức Phật
cũng không đả động gì về vấn đề ăn chay của các cư sĩ Phật Giáo trong giáo
lý của Ngài.


Jivaka Komarabhacca, một vị lương y, bàn thảo về vấn đề tranh luận này với
Đức Phật:
- "Bạch Đức Thế Tôn, con có nghe thấy rằng thú vật bị giết để dành cho
Ẩn Sĩ Cồ Đàm, và Ẩn Sĩ Cồ Đàm cố ý ăn thịt thú vật bị giết để dành cho
Ngài. Thưa Thế Tôn, có phải người ta nói thú vật bị giết là để cho Ẩn Sĩ Cồ
Đàm, và Ẩn Sĩ Cồ Đàm cố ý ăn thịt thú vật bị giết vì mục đích để dâng cho
Ngài Cồ Đàm. Họ buộc tội sai cho Đức Phật phải không? Hay đó là họ nói
sự thật? Những lời tuyên bố và những lời giải thích thêm của Ngài phải
chăng là đề tài bị người khác báng nhạo bằng một thái độ nào đó?"
- "Này Jivaka, những ai nói: 'Thú vật bị giết là để cho Ẩn Sĩ Cồ Đàm, và
Ẩn Sĩ Cồ Đàm cố ý ăn thịt thú vật bị giết để dâng cho mình', không nói đúng
điều ta nói, họ đã buộc tội ta không đúng. Này Jivaka, ta đã nói là không nên
ăn thịt, nếu nhìn thấy, nghe thấy hay nghi ngờ thịt đó do thú vật bị giết để
dâng cho các thầy tỳ kheo. Ta cho phép các thầy tỳ kheo dùng thịt trong ba
điều kiện: Nếu không nhìn thấy, không nghe và không nghi ngờ thịt do thú
vật bị giết để cung cấp cho các thầy tỳ kheo" (Kinh Jivaka).
Trong một số quốc gia, một số các Phật tử trường phái Đại Thừa chỉ ăn
chay. Sự tuân hành này dưới danh nghĩa tôn giáo đáng tán dương nhưng
chúng ta phải nhấn mạnh là họ cũng không nên buộc tội những người không

ăn chay. Họ phải hiểu rằng không có giới luật trong Giáo Lý nguyên thủy
của Đức Phật bắt tất cả người Phật tử phải ăn chay. Chúng ta phải nhận thức
Phật Giáo là con đuờng Trung Đạo. Phật Giáo là một tôn giáo tự do, và lời
khuyên của Đức Phật là không cần thiết đi đến cực đoan để thực hành lời
Ngài dạy.
Ăn chay không thôi không thể giúp cho một người trau dồi nhân phẩm. Có
những người mộ đạo thuần thành khả ái, nhũn nhặn và lễ phép giữa những
người không ăn chay. Cho nên ta không nên bỏ qua quan điểm là một người
trong sạch, mộ đạo là phải ăn chay.
Mặt khác, nếu bất cứ ai nghĩ rằng con người nếu không ăn thịt cá thì không
thể sống khỏe mạnh, không cần thiết phải theo điều đó vì không đúng: hàng
triệu người ăn chay trên khắp thế giới mạnh hơn và có sức khỏe hơn những
người ăn thịt.


Những ai chỉ phê bình Phật Tử ăn thịt là không hiểu thái độ của đạo Phật về
thực phẩm. Mỗi chúng sanh cần có thực phẩm. Chúng ta ăn để sống. Như
vậy con người cần phải cung cấp cho thân xác thực phẩm cần thiết để giữ
cho được khỏe mạnh và có đủ năng lực làm việc. Tuy nhiên, do kết quả của
sự gia tăng của cải, càng ngày càng nhiều người, nhất là trong các quốc gia
phát triển, đơn giản ăn để thỏa mãn khẩu vị của họ. Nếu ta tham đắm vào bất
cứ loại thực phẩm nào, hay giết thú vật để thỏa mãn thói tham ăn thịt của
mình thì điều đó là sai quấy. Nhưng nếu một người ăn thịt chẳng phải vì
tham lam, và không trực tiếp liên can vào hành động giết mà chỉ là để trợ
sức cho xác thân vật chất, người đó thực hành hạnh tự chế.
Trích: "Vì sao tin Phật" (What Buddhists believe), Tỳ kheo Thích Tâm
Quang dịch.
---o0o--Ðức Phật đã nói gì về việc ăn thịt?
Tỳ kheo Ajahn Brahmavamso
Giới thiệu: Tỳ kheo Brahmavamso là một tu sĩ người Anh. Ông xuất gia

năm 23 tuổi sau khi tốt nghiệp Ðại học Oxford ở Anh quốc. Ông là một
trong những vị đệ tử người Tây phương đầu tiên của ngài thiền sư Ajahn
Chah, Thái Lan. Hiện nay, ông là vị Tăng trưởng Tu viện Bodhinyana (Giác
Minh) và là vị lãnh đạo tinh thần Hội Phật Giáo Tây Úc.
-ooOooNgay từ lúc đạo Phật được thành lập hơn 2500 năm về trước, các
Tăng Ni vẫn sống nhờ vào việc khất thực. Trước kia và hiện giờ cũng vậy,
họ không được phép trồng tỉa lấy lương thực, không được tích lũy thực
phẩm, cũng như không được tự nấu nướng thức ăn. Thay vào đó, mỗi buổi
sáng họ dùng bữa của mình bằng cách sử dụng bất kỳ thứ gì các Phật Tử đã
tự nguyện dâng cúng cho họ. Cho dù thức ăn có giàu năng lượng hay kém
phẩm chất, khoái khẩu hay khó ăn, tất cả đều được họ chấp nhận với lòng tri
ân và được xem như là dược phẩm để duy trì sự sống. Ðức Phật đã đặt ra
nhiều giới luật ngăn cấm chư Tăng không được đòi hỏi thức ăn mà họ ưa
thích. Kết quả là chư Tăng chỉ nhận các loại thực phẩm giống hệt như thức
ăn người dân thường hay sử dụng -- và thông thường thì các thực phẩm đó
có chứa thịt cá.


Một lần nọ, có một vị tướng giàu có và đầy uy thế tên là Siha (nghĩa là "Sư
tử") đến thăm Ðức Phật. Tuớng quân Siha trước kia là đồ đệ hết lòng ủng hộ
các tu sĩ Kỳ-na giáo; nhưng ông rất cảm động và cảm kích sau khi nghe
những lời dạy của Ðức Phật, nên ngay trong buổi gặp gỡ đó, vị tướng này đã
xin quy y Tam Bảo (nghĩa là trở thành Phật tử). Sau đó, tướng quân Siha
mời Ðức Phật cùng với một số rất đông các vị chư Tăng đến nhà của ông
trong thành phố để dùng cơm vào buổi sáng hôm sau. Ðể sửa soạn cho bữa
cúng dường thức ăn đó, tướng quân Siha ra lệnh người đầy tớ đi mua một số
thịt ở chợ để dùng vào dịp lễ này. Khi các vị tu sĩ Kỳ-na giáo nghe biết được
sự quy y Phật Pháp của người bảo trợ cũ của họ và ông ta đang sửa soạn một
bữa cơm cúng dường Ðức Phật cùng chư Tăng, họ trở nên bực tức và nói
rằng:

"Từ nay sẽ có nhiều vị đạo sĩ Ni-kiền (tu sĩ Kỳ-na giáo) vẫy tay, than
phiền từ đường xe ngựa này đến đường xe ngựa khác, từ khắp ngã rẽ này
sang ngã rẽ khác trong thành phố, rằng: Ngày hôm nay tướng quân Siha đã
giết một con vật béo, để dọn một bữa tiệc thiết đãi ẩn sĩ Cồ Ðàm (Ðức Phật).
Ẩn sĩ Cồ Đàm đã cố ý ăn thịt từ con vật mà ông ta biết đã được giết để thiết
đãi ông ta và các vị chư tăng đi theo; và việc này được thực hiện chỉ vì ông
ta mà thôi"1
Thật ra, tướng quân Siha đã phân biệt rất hợp với đạo đức, giữa một bên là
thịt mua tại chợ đã được giết mổ sẵn để bán và bên kia là mua một con vật
còn sống và ra lệnh giết. Sự phân biệt này không mấy hiển nhiên đối với một
số người Âu Mỹ, nhưng đã được ghi chép rất nhiều lần trong giáo lý của
Ðức Phật. Thế rồi, để xác định rõ thái độ về việc ăn thịt cho chư Tăng, Ðức
Phật dạy:
"Này chư Tỳ-kheo, Ta cho phép các vị dùng thịt cá trong ba truờng hợp
sau đây: thịt này phải chưa được các vị nhìn thấy, các vị chưa được nghe
biết, hoặc giả chư vị không có gì phải nghi ngờ là con vật đó đã được sát
sanh chỉ nhằm mục đích thiết đãi cho chư vị. Nhưng các vị không được cố
tình sử dụng thứ thịt đã được giết chỉ dành cho các vị sử dụng mà thôi."2
Có nhiều đoạn trong Kinh điển Phật giáo cho thấy Ðức Phật và các vị chư
Tăng của ngài được cúng dường thịt và các ngài cũng nhận để ăn. Một trong
những đoạn kinh nầy được viết trong phần mở đầu câu chuyện liên quan đến
một giới luật hoàn toàn không liên quan gì đến thịt (Ni-tát-kỳ Ba-dật đề, Xả
đọa pháp, 5) và thoáng qua cho thấy thịt nói ở đây hoàn toàn chỉ là ngẫu


nhiên đối với đề tài chính mà câu chuyện muốn nhấn mạnh đến tính xác thực
của đoạn văn:
- Bà Uppalavanna (Liên hoa sắc) là một trong hai vị nữ đại đệ tử của Ðức
Phật. Bà thọ giới tỳ-kheo-ni khi vẫn còn trẻ và chẳng bao lâu đã được giác
ngộ hoàn toàn. Ngoài sự kiện bà là một vị A-la-hán, bà còn có nhiều uy lực

thần thông đến độ chính Ðức Phật đã tuyên bố bà là người lỗi lạc nhất trong
số tất cả các vị nữ đệ tử về mặt này. Một lần kia, trong khi bà Uppalavanna
đang ngồi tham thiền một mình vào buổi trưa tại khu vườn "Người Mù",
trong một cánh rừng hẻo lánh bên ngoài thành Xá-vệ, có một vài tên cướp đi
ngang qua đó. Mấy tên cướp vừa mới đánh cắp một con bò, giết con vật và
chạy trốn với một ít thịt. Vừa nhìn thấy một vị ni sư tham thiền điềm tĩnh và
nghiêm trang, tên cướp đầu sỏ đã nhanh nhẹn bỏ một ít thịt bò trong một cái
bao làm bằng lá cây và để lại cho ni sư. Ni sư Uppalavanna nhặt miếng thịt
bò lên và quyết định dâng cúng cho Ðức Phật. Ngay sáng sớm hôm sau, sau
khi đã nấu thức ăn với thịt đó, bà cất mình lên không trung và bay tới nơi
đức Phật đang ngụ, tại Trúc lâm bên ngoài thành Vương xá, và như thế Ni
sư đã bay một quãng đường trên 200 kí-lô-mét. Mặc dù không nghe nói đến
việc Ðức Phật đã thực sự sử dụng món thịt đó, nhưng rõ ràng là một ni sư có
nhiều thần thông ắt hẵn bà đã biết Ðức Phật dùng món ăn nào.
Tuy nhiên cũng có một số thịt đặc biệt cấm các vị chư tăng không được sử
dụng. Đó là: thịt người, vì những lý do đã quá rõ ràng; thịt voi và thịt ngựa
vì trong thời kỳ đó, hai con vật này được coi là thú vật của nhà vua; thịt chó
- vì dân chúng thường coi chó là con vật ghê tởm; thịt rắn, sư tử, cọp, báo,
gấu và linh cẩu - vì người ta tin rằng ai ăn thịt những loài thú rừng nguy
hiểm này sẽ toát ra một mùi đặc biệt có thể khiến cho các con vật đồng loại
tấn công người đó để trả thù.
Vào cuối cuộc đời Ðức Phật, người anh họ của ngài tên là Devadatta (Đề-bàđạt-đa) có ý định chiếm quyền lãnh đạo Tăng đoàn. Ðể có được hậu thuẫn
của các vị khác, Devadatta đã cố gắng tỏ ra nghiêm khắc hơn cả Đức Phật và
muốn chứng minh rằng Đức Phật có phần dễ duôi. Devadatta đề nghị với
Ðức Phật là tất cả các vị Tăng Ni đều phải "ăn rau đậu" ("ăn chay trường").
Ðức Phật đã từ chối và một lần nữa Ngài nhắc lại một giới luật mà Ngài đã
thiết lập nhiều năm về trước, qui định tất cả các Tăng Ni có thể ăn thịt hay
cá, khi nào biết rõ thịt con vật đó không bị cấm sử dụng và khi họ không có
lý do gì để nghi ngờ rằng con vật đó được giết đặc biệt dùng để chiêu đãi họ
(Tam tịnh nhục).



Hồi đó, Luật đã đề cập rõ ràng đến vấn đề này. Các vị Tăng Ni có thể ăn thịt.
Ngay cả Ðức Phật cũng đã dùng thịt. Tiếc thay, một số người Tây phương
ngày nay thường xem việc ăn thịt đối với các vị Tăng Ni như là sự nuông
chiều ưu đãi. Đó là một điều rất xa sự thật - vì tôi đã từng thực hiện việc "ăn
chay trường" được ba năm trước khi trở thành một tu sĩ. Trong năm đầu khi
tôi tu học tại vùng Ðông Bắc Thái Lan, tôi đã phải cố gắng đối diện với
nhiều bữa ăn chỉ có cơm nếp với ếch luộc (ăn toàn bộ cả thịt lẫn xương),
hoặc với ốc sên dai như cao su, hoặc kiến càng nấu với cà-ri, hoặc châu chấu
chiên dòn - tôi nghĩ có lẽ người "ăn chay" là người tốt phước hơn! Nhân
ngày Lễ Giáng Sinh đầu tiên tại miền Ðông Bắc Thái Lan, một người Mỹ
đến thăm tu viện khoảng độ một tuần trước ngày 25 tháng 12. Thật khó có
thể tin nổi, ông ta có một trại nuôi gà tây, và rồi, ông ta đã nhanh chóng nhận
ra chúng tôi đang phải sống trong hoàn cảnh khổ sở như thế nào. Ông ta hứa
sẽ đem đến cho chúng tôi một con gà tây để ăn Giáng Sinh. Ông ta bảo sẽ
chọn một con gà tây thật to béo đặc biệt dành cho chúng tôi... và tôi thấy nản
lòng. Chúng tôi không thể nhận thịt gà tây đó khi biết đích xác con vật bị
giết lấy thịt đặc biệt để cho các vị tăng ni sử dụng. Chúng tôi từ chối không
nhận món quà đó. Thế là tôi đành phải quay về với thức ăn của cư dân trong
làng - lại cơm nếp với ếch luộc.
Các vị tăng ni không được lựa chọn gì cả khi đến bữa ăn và điều này còn
khó khăn hơn là "ăn chay trường". Tuy nhiên, chúng ta có thể khuyến khích
việc ăn rau đậu, và nếu như những vị cư sĩ hộ tăng đem đến cúng dường chư
Tăng toàn là thực phẩm rau đậu và không có thịt, thì trong trường hợp đó,
các vị sư cũng không phàn nàn. Mong rằng quí vị hiểu cho điều nầy, và hãy
đối xử tốt với các loài thú vật.
Nguyên tác: "What the Buddha said about eating meat?",
Ajahn Brahmavamso, Tỳ kheo Thiện Minh dịch.
---o0o--Ăn chay

Tỳ kheo S. Dhammika
Giới thiệu: Tỳ kheo S. Dhammika là một tu sĩ người Úc. Khi còn là cư sĩ,
ông là một thành viên hoạt động tích cực cho Hội Phật Giáo bang New
South Wales, Úc châu. Hiện nay, ông đang hoằng pháp tại Sri Lanka, Âu
châu, Singapore, và là một cố vấn chương trình tôn giáo của Bộ Giáo dục.


-ooOooCó rất nhiều ý kiến khác nhau giữa các Phật Tử về vấn đề này. Cho
nên chúng tôi chỉ xin trình bày những luận chứng của những người tin rằng
"Ăn Chay" là cần thiết cho các Phật tử và của những người không tin điều
đó. Ăn chay không phải là một phần truyền thống Phật Giáo nguyên thủy, và
chính Ðức Phật cũng không phải là người ăn chay. Ðức Phật sử dụng thực
phẩm hàng ngày do Ngài đi khất thực hay do những người ủng hộ mời Ngài
đến nhà dùng bữa, và trong cả hai trường hợp, Ngài đã ăn những gì được
dâng cúng cho Ngài. Trước khi giác ngộ, Ðức Phật đã thử dùng nhiều loại
thức ăn khác nhau, kể cả loại thức ăn không có thịt. Nhưng cuối cùng Ngài
đã bỏ không dùng các loại thức ăn đó vì Ngài tin rằng chúng chẳng giúp gì
cho việc phát triển tâm linh.
Kinh Tập, thuộc Tiểu Bộ, đã nhấn mạnh điểm này, cho rằng chính sự phóng
đãng đã khiến cho người ta trở nên ô uế (cả về đạo đức lẫn tinh thần), chứ
không phải là việc ăn thịt. Ðức Phật thường mô tả là người sử dụng thịt.
Ngài đã giới thiệu nước sốt thịt như là một phương thuốc chữa được một số
bệnh tật và khuyên các vị tăng ni dùng thịt vì những lý do thực tiển, tránh
một số loại thịt, hiểu ngầm là những loại thịt khác được chấp nhận cho sử
dụng.
Tuy nhiên về sau này, một số Phật tử dần dà cảm thấy khó chịu về việc ăn
thịt. Vào năm 257 trước Tây lịch, vua Asoka (A-dục) phán rằng trái với
trước đây, từ nay chỉ có hai con công và một con nai được giết thịt để cung
cấp thực phẩm trong nhà bếp của hoàng gia và cuối cùng ngay cả việc này
cũng đã được bãi bỏ. Vào thời kỳ bắt đầu kỷ nguyên Ky-tô Giáo, ăn thịt đã

trở thành điều không thể chấp nhận được, đặc biệt là đối với những người
theo phái Bắc Tông mặc dù những cuộc bút chiến chống lại điều này trong
các tác phẩm như Kinh Lăng Già cho thấy ăn thịt vẫn còn rất phổ biến hay ít
nhất cũng vào thời điểm của những tranh luận đó. Các bản văn phái Mật
tông có niên đại từ thế kỷ thứ 7 và 8 Tây lịch trở đi, thường khuyến khích cả
việc uống rượu lẫn ăn thịt, và cả hai đều thích hợp để dâng cúng các vị thần.
Rất có thể đây là để bầy tỏ sự tự do không ràng buộc vào quy ước mà phái
Mật tông đã dạy, để chống đối lại các người Bắc tông vốn thực hành việc
kiêng uống rượu và ăn thịt như là để thay thế cho sự thay đổi tâm linh thật
sự.


Ngày nay, người ta thường cho rằng những người theo Bắc tông thì "ăn chay
trường" còn những người theo Nam tông thì không. Tuy nhiên, thực tế lại có
phần phức tạp hơn. Thường thì các Phật tử Nam tông không có bất kỳ hạn
chế nào trong chế độ ăn uống, mặc dù chúng ta vẫn thường thấy nhiều vị
tăng ni hay cư sĩ ở Sri Lanka ăn toàn rau đậu. Một số khác kiêng thịt nhưng
lại ăn cá. Các vị tăng ni Trung Hoa và Việt Nam thì "ăn chay trường" rất
nghiêm khắc và cộng đồng cư sĩ tại đó noi gương họ, mặc dù cũng có nhiều
người không làm như thế. Tuy nhiên, trong số các Phật tử Tây Tạng và Nhật
Bản, rất ít khi thấy họ ăn chay.
Những nguời tu ăn chay chỉ dựa trên lý luận đơn giản, đầy thuyết phục là để
hỗ trợ cho lý tưởng tu hành của họ. Vì theo họ, ăn thịt khuyến khích một
công nghiệp tạo ra những hành động tàn ác và gây ra cái chết cho hàng triệu
súc vật. Một người có lòng từ bi nhân hậu muốn làm dịu đi tất cả những đau
khổ đó. Bằng cách từ chối ăn thịt, chúng ta sẽ làm được điều đó.
Những người tin rằng việc ăn chay là không cần thiết đối với Phật tử cũng
có các lý luận không kém phần thuyết phục, mặc dù phức tạp hơn, để hỗ trợ
cho quan điểm của họ: (1) Nếu như Ðức Phật cảm thấy các thức ăn không
thịt là hợp với các Giới Luật thì ắt hẳn Ngài đã tuyên bố và ít ra cũng đã

được ghi chép trong Tam tạng Pali, nhưng đàng này lại không thấy Ngài đề
cập đến. (2) Trừ phi chính chúng ta thực sự giết con vật (ngày nay điều này
ít khi xảy ra) để lấy thịt sử dụng, thì chúng ta không có trách nhiệm trực tiếp
về cái chết của con vật đó; và hiểu như vậy thì người ăn chay và không ăn
chay cũng không khác biệt gì cả. Những người ăn chay chỉ có thể ăn rau quả
vì có người nông dân cày cấy ruộng (như vậy họ cũng đã sát hại biết bao
nhiêu sinh vật) và phun thuốc trừ sâu (lại giết thêm nhiều sinh vật nữa) (3)
Cho dù những người ăn chay không ăn thịt, họ cũng phải dùng rất nhiều sản
phẩm khác dẫn đến việc sát hại thú vật (như sà-phòng, đồ da thuộc, huyết
thanh, tơ tằm, v.v...). Tại sao chúng ta kiêng không dùng một thứ sản phẩm
này, song lại sử dụng các thứ khác? (4) Các đức tính tốt như cảm thông,
nhẫn nại, quảng đại, và trung thực, và các tính xấu như ngu dốt, kiêu hãnh,
đạo đức giả, ganh tị và lãnh đạm thờ ơ không tùy thuộc vào những gì chúng
ta ăn vào miệng, và như vậy thì thức ăn không phải là nhân tố quan trọng để
phát triển tâm linh.
Một số người sẽ chấp nhận quan điểm này, nhưng số người khác thì lại chấp
nhận quan điểm kia. Như vậy, mỗi người phải tự quyết định lấy cho mình.
Tài liệu tham khảo:


1) Ruegg, D.S., "Ahimsa and Vegetarianism in the History of Buddhism",
Buddhist Studies in Honour of Walpola Rahula, S. Balasooriya et. al.,
London, 1980.
2) P. Kapleau, "To Cherish All Life", London, 1982
Nguyên tác: "Vegetarianism", Venerable S. Dhammika,
BhuddhaNet. Tỳ kheo Thiện Minh dịch.
---o0o--Ðạo Phật và vấn đề ăn chay
Tỳ kheo Ajahn Jagaro
Giới thiệu: Tỳ kheo Jagaro là người Úc gốc Ý. Ông xuất gia, tu học với
ngài thiền sư Ajahn Chah, vùng Đông Bắc Thái Lan. Ông trở về Úc năm

1982 và đã tích cực giúp thành lập tu viện Bodhinyana (Giác Minh) tại bang
Tây Úc. Ông hoàn tục, trở về đời cư sĩ năm 1995 và sang định cư ở New
York, Hoa Kỳ. Tại đó, với thế danh là John Cianciosi, ông tiếp tục đóng góp
Phật sự, hướng dẫn các khóa thiền và viết các bài pháp luận cho các nội san
địa phương. Bài viết dưới đây dựa theo một buổi thuyết pháp năm 1994 tại
Úc, khi ông còn là tu sĩ.
-ooOooTrước đây đã có một dịp tôi nói chuyện về đề tài "Phật Giáo và vấn đề
ăn chay," một vài nguời trong hàng thính giả đã có những phản ứng rất mạnh
mẽ. Những người có phản ứng mạnh với các bài nói chuyện thường là
những người quá quan tâm về đề tài đó, nghĩa là họ có quan điểm rất mạnh
mẽ về đề tài của bài nói chuyện. Ðây là một mối nguy hiểm lớn, là vì ngay
khi chúng ta đã có định kiến mạnh mẽ và cố hữu về bất kỳ điều gì, thường
khiến chúng ta trở thành cứng ngắc. Suy nghĩ của ta trở thành hẹp hòi, khiến
ta có phản ứng quá đáng với bất kỳ những gì được trình bày. Nếu điều gì
không hợp với ta, dứt khoát điều đó chống lại ta. Chúng ta chỉ thấy có vậy
thôi - chỉ có trắng hoặc đen - và thật là đáng hổ thẹn biết bao! Ðức Phật đã


từng cảnh cáo chúng ta về sự chấp thủ vào những quan niệm và ý kiến, như
là một trong những nguyên nhân cơ bản gây ra đau khổ.
Chúng ta thường thấy điều này lập đi lập lại trong mọi hình thức của cuộc
sống. Hầu hết các vụ xung đột mà chúng ta can dự trong đời sống đều phát
xuất từ bất đồng ý kiến với một số quan điểm về những việc nào đó. Những
xung đột này xẩy ra là do chúng ta quá gắn bó với những quan kiến và nhận
thức của ta.
Lẽ tất nhiên, chúng ta cần có những quan kiến, chúng ta không thể sống mà
không có chúng. Quan kiến là cách thức chúng ta nhìn sự vật xung quanh, là
cách chúng ta am hiểu đôi điều gì đó, là sở thích liên quan đến những lựa
chọn đa dạng về mọi vấn đề. Ðây là điều rất tự nhiên. Bao lâu chúng ta còn
có khả năng suy nghĩ, nhận thức hay bị chi phối cách này cách khác, chúng

ta sẽ có quan kiến riêng, và với một số vấn đề nào đó, những quan kiến này
lại hết sức mạnh mẽ và cứng nhắc.
Chủ nghĩa ăn rau đậu, hay "ăn chay", là một vấn đề thuộc loại này. Tối nay,
tôi sẽ trình bày một đề tài để suy gẫm. Tôi không có ý định ngồi đây để đưa
ra lời cuối cùng về đạo Phật và chủ nghĩa ăn chay. Ðó không phải là ý định
của tôi, cũng không phải là phong cách của một Phật tử. Sự hiểu biết của tôi
là từ kinh nghiệm của tôi, từ nhận thức của tôi, và từ sự suy tư của tôi. Các
bạn có thể đồng ý hay không đồng ý với tôi . Ðiều đó không thành vấn đề,
khi nào các bạn vẫn còn suy tư rõ ràng về đề tài này và tự rút ra kết luận cho
chính mình. Tôi giữ một vị thế trung hòa vì tôi không cho là đề tài đặc biệt
này lại chỉ đơn giản có thể hiểu được bằng các từ ngữ trắng hay đen. Tôi giữ
vị thế của một Phật tử như theo tôi hiểu.
Căn bản kinh điển
Chúng ta hãy bắt đầu với một câu hỏi hết sức cơ bản: Theo tất cả những gì
chúng ta có thể thẩm định được, "ăn chay" có phải là điều kiện tiên quyết để
trở thành Phật tử theo giáo lý của Đức Phật hay không? Tôi phải nói ngay là:
Không. Theo các bản kinh của đạo Phật, ăn chay không phải là một điều
kiện tiên quyết để trở thành Phật tử.
Có người nói, "Vâng, làm sao ông biết được Ðức Phật đã dạy gì nào?" Ðúng
vậy, tôi không thể biết được bằng chính kinh nghiệm cá nhân của mình; nếu
tôi đã gặp Ðức Phật vào thời của Ngài, bây giờ tôi cũng không nhớ hết. Vậy
thì chúng ta phải dựa vào điều gì đây? Chúng ta phải dựa vào những kinh


điển đã được truyền lại cho chúng ta qua bao thế kỷ nay. Chúng ta có tin vào
các bản kinh đó hay không là tùy ở thái độ chúng ta có chấp nhận chúng như
là những bản ghi chép chính xác về những lời giảng dạy của Ngài hay
không. Theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy, chúng ta có được các bản
kinh, gọi là Thánh điển Pali. Có rất nhiều quyển kinh: như tạng Luật, bao
gồm các giới luật dành cho các vị Tăng Ni, tạng Kinh, bao gồm các bài

thuyết giảng của Đức Phật, và cuối cùng là tạng Vi Diệu Pháp, là hệ thống
triết học và tâm lý Phật giáo được phát triển từ những bản văn cơ bản trên.
Ða số các học giả đều đồng ý rằng tạng Vi Diệu Pháp, "giáo lý cao cấp",
được phát triển sau này bởi các vị luận sư từ các bài kinh căn bản, như là
một hệ thống phân tích để dễ giải thích và cũng để dùng trong các buổi tranh
luận.
Tóm lại, có ba bộ tạng kinh điển. Những nghiên cứu của tôi chỉ giới hạn vào
tạng Luật và tạng Kinh, là những quyển sách ghi chép về giới luật và các bài
thuyết giảng. Từ những nghiên cứu học hỏi, tôi có được một niềm tin tưởng
rất lớn rằng những gì được trình bày trong những kinh điển này đều mô tả
chính xác những gì Ðức Phật đã giảng dạy. Tuy nhiên, tôi không dám khẳng
định là từng chữ trong các kinh điển đó đều giống y như lời của Ðức Phật.
Ðã có một vài thay đổi, thêm thắt qua thời gian, nhưng điều cốt lõi vẫn còn
đó. Điều quan yếu là các bản văn này là một hồ sơ ghi nhận chính xác và
thành thật những gì Đức Phật đã giảng.
Nền tảng cho lý luận của tôi chỉ đơn giản dựa trên thực tế là: những người
truyền lại cho ta và kiểm chứng những giáo lý này đều là những đệ tử,
những vị Tăng Ni đã hết lòng kính trọng Ðức Phật, y hệt như chư Tăng ngày
nay, và tôi không nghĩ là có nhiều người dám cố ý thay đổi những lời giảng
dạy của Ðức Phật. Rất ít khi có vị tăng ni nào lại dám sẵn sàng thực hiện
điều đó. Bất kỳ thay đổi nào, nếu có xảy ra, cũng chỉ đơn giản là những
phương cách thiết thực giúp cho việc tụng đọc được thuận lợi hơn mà thôi.
Rất có thể đã có những thay đổi vô ý, nhưng tôi không tin các văn bản đó
đều đã bị cố ý hủy hoại, nhất định không thể có trong một đường lối nghiêm
trọng.
Ðiều này đã được xác minh đặc biệt đối với các quyển Giới Luật Tu Sĩ. Qua
nhiều thời đại, Phật giáo được truyền bá một cách chậm chạp, từ vùng thung
lũng sông Hằng xuyên suốt Ấn Độ, tiến về hướng Nam đến Sri Lanka, băng
qua Miến Điện và Thái Lan, rồi tiến về hướng Bắc đến Tây Tạng và cuối
cùng là đến Trung Hoa. Qua nhiều thế kỷ, đạo Phật bắt đầu chia chẻ thành

nhiều trường phái. Một vài trường phái phát triển mạnh mẽ tại nhiều miền


khác nhau ở Ấn Độ và tại nhiều địa phương xa xôi khác, và như vậy các
trường phái này có rất ít hay hầu như không có liên lạc với nhau. Tuy nhiên,
khi so sánh bản Giới Luật, chúng ta thấy được những điểm tương đồng rõ rệt
giữa các trường phái khác nhau này. Vì các bộ Luật rất tương đồng với nhau,
ắt hẳn các bộ đó phải có cùng một nguồn gốc nhất định.
Thế nên, có đủ lý do mà tin tưởng vào những tài liệu chúng ta gọi là Thánh
điển Pali và chấp nhận thánh điển đó là đại diện giáo lý của Ðức Phật. Trong
bất kỳ tình huống nào, đây chính là bằng chứng hiển nhiên ta phải xử lý, bởi
vì chẳng có ai hiện diện ở đây có thể nói, "Tôi đã nghe Ðức Phật nói khác
như vậy." Những kinh điển đó là đại diện có thẩm quyền nhất hay minh định
nhất cho những lời giảng dạy của Ðức Phật.
Nếu chúng ta nghiên cứu các kinh điển này một cách cẩn thận, chúng ta sẽ
không tìm thấy huấn thị nào dành cho cả cư sĩ lẫn tu sĩ về vấn đề ăn chay.
Cũng không có bất kỳ đề cập nào về ăn chay như là lời giáo huấn Phật giáo
dành cho các vị tăng ni hoặc cư sĩ. Nếu như Đức Phật đã qui định ăn chay là
điều kiện tiên quyết để trở thành Phật tử, chắc chắn Ngài phải đề cập đến ở
đâu đó trong kinh điển. Nhưng ngược lại, chúng ta có thấy một số trường
hợp Đức Phật có nói đến thực phẩm, đặc biệt các giới luật có liên quan đến
chư tăng, cho thấy là, vào thời đức Phật, đôi khi các vị chư tăng cũng ăn thịt.
Nếu các bạn kiên nhẫn với tôi, tôi có thể trình bày cho các bạn một số chứng
cớ lịch sử. Trong các bản kinh điển này, đặc biệt là trong tạng Luật, có nhiều
đoạn trích dẫn về các vị chư tăng được và không được phép làm gì. Có nhiều
giới luật qui định về thức ăn thức uống; có những giới luật đề cập đến đủ thứ
linh tinh liên quan đến thực phẩm, một số qui định xem ra rất lạ thường. Nếu
như các vị sư bắt buộc phải là người "ăn chay trường" thì những qui định
này hình như hoàn toàn vô tác dụng hoặc vô nghĩa.
Thí dụ như có một giới luật cấm các vị sư không được ăn thịt một số các con

vật như: thịt ngựa, thịt voi, thịt chó, thịt rắn, thịt hổ, thịt báo và thịt gấu. Có
hàng tá các loại thịt mà Đức Phật đã chỉ định cấm các vị tăng ni không được
sử dụng. Việc Ngài ra luật nghiêm cấm các vị Tăng Ni không được dùng
một số loại thịt đó cho thấy là họ có thể sử dụng các loại thịt khác.
Cũng có một giới luật khác: khi có một vị sư bị bệnh, và vì ông bị đau quá
nặng, có một môn đệ phụ nữ rất sùng đạo đã đến hỏi xem nhà sư đã bị đau
như vậy bao giờ chưa và nhà sư dùng thứ gì để chữa trị? Có lẽ nhà sư bị đau
dạ dày, và ông cho biết lần trước ông cũng đã bị như vậy và có người đem


đến cho ông một ít "nước sốt thịt" để giúp làm dịu cơn đau. Thế là người
phụ nữ sùng đạo liền chạy ra chợ tìm mua một ít thịt để làm nước sốt thịt
cho nhà sư dùng. Tuy nhiên hôm đó lại là ngày Bố-tát, nên không thể kiếm
đâu ra thịt. Có một truyền thống tại Ấn Độ là không giết mổ thú vật vào
những ngày kể trên. Vì quá mộ đạo, người phụ nữ này đã quyết định không
thể để cho nhà sư phải tiếp tục chịu đau khổ, thế nên bà ta cắt ngay một
miếng thịt của chính mình và làm món nước sốt thịt. Rồi bà đem món đó lại
cho nhà sư, dâng cho ông, và hình như nhà sư đã dùng món nước sốt thịt đó
và đã bình phục. Khi Ðức Phật nghe được điều này, Ngài đã đưa ra một giới
luật nghiêm cấm các vị chư tăng không được ăn thịt người. Thật là may (cho
tu sĩ chúng tôi) khi có được giới luật đó! Cho nên, đây sẽ là một giới luật lạ
lùng, hoàn toàn vô nghĩa lý, nếu như đã có qui định là các vị chư tăng không
bao giờ được dùng thịt.
Còn có nhiều thí dụ tương tự như thế, trong tạng Luật và tạng Kinh. Khi
Đức Phật nghe biết người ta tố cáo các vị chư tăng của Ngài gây ra sự giết
hại thú vật vì họ ăn thịt, Ngài đã khẳng định không phải như vậy. Thế rồi
Ngài công bố ba điều kiện (tam tịnh nhục), theo đó các vị sư không được ăn
thịt là: nếu như họ đã nhìn thấy, đã nghe được hoặc nghi ngờ là con vật đó
được giết mổ đặc biệt để cúng dường họ, trong các trường hợp này các vị
tăng ni phải từ chối, không nhận thực phẩm đó. Còn các trường họp khác,

khi các vị chư tăng đi khất thực, thông thường họ phải nhìn vào bình bát
khất thực của mình và nhận bất cứ món gì được dâng cúng với tấm lòng biết
ơn, không được tỏ vẻ thích thú hay khó chịu gì cả. Tuy nhiên, nếu một vị sư
biết, nghe và nghi ngờ là con vật đó bị giết lấy thịt chỉ để nuôi các vị sư, thì
họ phải từ chối, không nhận thực phẩm đó.
Còn có nhiều ví dụ khác nữa mà tôi không nêu ra đây, rải rác đây đó trong
kinh điển cho thấy là không nhất thiết đòi hỏi các vị chư tăng và các cư sĩ
phải là người ăn chay.
Hơn thế nữa, chúng ta có thể nhận thấy qua lịch sử đạo Phật, không có quốc
gia Phật giáo nào lại áp dụng việc ăn chay thành phổ biến cho mọi công dân
Phật tử. Ðiều này cho thấy việc ăn chay không được thực hiện ngay từ lúc
ban đầu. Mặc dù một số tu sĩ Bắc Tông ăn chay - nhất là người Trung Hoa,
Việt Nam và một vài người Nhật Bản - đa số các cư sĩ thì không ăn chay. Về
mặt lịch sử từ thuở ban đầu cho đến ngày nay, nhìn chung, các Phật Tử
không phải là những người ăn chay nghiêm khắc. Ðiều này hỗ trợ cho kết
luận rút ra từ việc khảo sát kinh điển là không bao giờ có một điều kiện tiên


quyết nào đòi hỏi những người muốn trở thành Phật tử phải là người ăn
chay.
Tuy nhiên ta cũng có thể tranh luận với nhau, và điều này thường hay xảy ra,
đặc biệt nơi các vị chư tăng ăn chay, cũng như các cư sĩ, cho là kinh điển có
thể đã bị sửa đổi. Họ biện luận là chính Đức Phật đã dạy phải ăn chay,
nhưng các vị chư tăng (kết tập kinh điển) muốn ăn thịt nên đã cố tình thay
đổi một số điều có liên quan đến vấn đề ăn chay trong toàn bộ tất cả các bản
văn. Lúc đó, họ đã không có máy vi tính để chỉ gõ vào cụm từ "có liên quan
đến thịt" và có được danh sách liệt kê các đoạn kinh về vấn đề đó. Ngay từ
đầu, khi kinh điển được truyền tải qua lời truyền khẩu và đã có rất nhiều các
vị chư tăng tham gia vào công việc này. Không ai trong họ có được một "đĩa
mềm" để có thể thực hiện được việc thay đổi đó trong vòng nửa giờ đồng hồ.

Thật không dễ gì thực hiện được điều đó, vì có quá nhiều điểm tham khảo
rải rác khắp trong kinh điển. Bạn có thể thay đổi một điểm ở chỗ này nhưng
rồi điều đó có thể mâu thuẫn với các điểm qui chiếu khác. Các vị tu sĩ khó
có thể đạt được một mức độ thuần nhất nếu họ phải thay đổi vô số điểm quy
chiếu trong toàn bộ kinh điển. Vì thế cho nên tôi nghĩ lập luận cho là các vị
chư tăng muốn ăn thịt đã thay đổi sai lạc kinh điển là hoàn toàn không có cơ
sở. Tôi nghĩ là kinh điển là chính xác. Tôi nghĩ Ðức Phật đã không đưa ra
một điều kiện tiên quyết nào cho bất kỳ ai muốn trở thành đệ tử của Ngài.
Tôi cũng không nghĩ là Ngài đã đề ra một giới luật (về ăn chay) như vậy để
huấn luyện các vị chư tăng.
Một điểm gây tranh cãi nữa lại nổi lên về giáo lý của Ðức Phật, vì một trong
những học giới cho tất cả những ai muốn trở thành đệ tử của ngài là họ
không được giết hại (sát sinh) bất kỳ sinh vật nào. Giới luật đầu tiên dành
cho một Phật tử là: Panatipata veramani sikkhapadam samadiyami (Tôi
nguyện gìn giữ học giới là không giết hại bất kỳ sinh vật nào). Ðây là công
việc tu tập cho mỗi vị tăng, ni, sa di, bạch y, nam và nữ cư sĩ, và là căn bản
cho sự tu tập đức tính vô hại.
Dường như có một sự không nhất quán, dường như không cân bằng, nhưng
đây chỉ đơn giản là do không suy nghĩ rõ ràng về vấn đề thảo luận. Rõ ràng
là Ðức Phật đã thấy sự khác biệt rộng lớn nơi hai việc luyện tập này - việc
luyện tập không giết hại (sát sanh) và việc luyện tập có liên quan đến chế độ
ăn uống. Chúng hoạt động trong các cấp độ khác nhau.
Ðức Phật rất thực tế. Khi Ngài đề ra những học giới, Ngài chỉ đề ra những
giới luật nào mọi người có thể tuân theo, có thể gìn giữ được. Thí dụ như,


Ngài đã không đưa ra một giới luật tu tập cấm bạn không được ăn uống quá
độ. Các nhà sư phải sống nhờ khất thực và Ngài đã đề ra rất nhiều giới luật
có liên quan đến ăn uống cho các vị chư tăng - họ chỉ được phép ăn vào buổi
sáng (trước ngọ), khi ăn họ không được gây tiếng động với thức ăn nhai

trong miệng hay húp xì xụp, họ không được làm rơi vãi cơm, họ không được
vét bát, không được nhìn ngó xung quanh. Tuy nhiên Ngài không đưa ra giới
luật cấm không được ăn quá độ. Các bạn có thể ăn cho căng đầy bụng mà
vẫn không phạm luật. Bạn có thể nghĩ rằng đáng lẽ Ðức Phật phải đặt ra một
giới luật về vấn đề này. Sao lại không nhỉ, trong khi Ngài đã lập ra đủ mọi
thứ luật lệ? Đó chính là vì tùy ở mỗi người nhằm tự rèn luyện chính mình để
ăn uống sao cho điều độ. Ðó chính là điều bạn phải tự lãnh lấy trách nhiệm
để tự rèn luyện dần dần, nhưng không nhất thiết phải bắt đầu bằng một giới
luật.
Có một điểm khác biệt rất lớn giữa ăn thịt và giết hại (sát sanh) thú vật, cho
dù có thể tranh luận là khi chúng ta ăn thịt, chúng ta gián tiếp ủng hộ việc
giết hại thú vật. Chắc chúng ta phải cân nhắc một vài điều, và tôi sẽ trở lại
điều này với nhiều chi tiết hơn. Tuy nhiên có một sự khác biệt rất lớn giữa
hai điều trên, là vì việc giết hại (sát sanh) thú vật được quy vào sự cố ý cướp
đi khỏi thú vật sự sống của chúng hay cố ý gây ra hoặc trực tiếp bảo ai đó
giết chết con vật. Ðiều này là điều giới luật đầu tiên nhắm tới - sự cố ý hay
tác ý giết chết một con vật. Ðó là mục đích ở phía sau hành động. Có ý định,
có mục đích và có cả việc tiến hành thực hiện hành động của mục tiêu đó
trong việc giết hại (sát sanh).
Nếu bạn lái xe của bạn đến đây vào buổi tối hôm nay, tôi đoan chắc là bạn
đã giết chết một số sinh vật nào đó - bạn thử nhìn xem trên kính chắn gió
của xe bạn, chắc hẳn đó có một số côn trùng chết dính trên đó. Khi chúng tôi
đi xe từ tu viện, nơi tôi đang sống tại huyện Serpentine đến thành phố Perth,
cách xa khoảng 60 kilômét, kính chắn gió trên xe ô tô phủ đầy một lớp các
côn trùng chết dính trên đó, đặc biệt vào buổi sáng và buổi tối. Tôi biết khi
tôi bước vào xe và nhờ một người lái xe đưa tôi tới một nơi nào đó, chắc
chắn sẽ có một số côn trùng bị chết như vậy. Tôi biết điều này, nhưng đó
không phải là ý định của tôi để vào xe và được chở đi. Tôi không nói,
"Chúng ta hãy lái xe đi chơi và xem có bao nhiêu côn trùng đã bị giết chết."
Nếu đó là ý định của tôi, thì tôi đã thực hiện "sát sanh", sát sanh một cách cố

ý. Nhưng chúng ta không làm thế. Chúng ta chỉ bước vào xe và lái từ A đến
B với một mục đích rõ ràng khác. Có lẽ một số côn trùng sẽ bị giết chết,
nhưng không phải chúng ta có ý định giết chúng.


Ðó không phải là giết hại (sát sanh) - có sự chết xảy ra nhưng bạn không tạo
ra nghiệp sát sanh. Giới luật này là nền tảng mọi công việc tu trì trong Phật
Giáo "không gây hại cho ai" (vô hại): bạn tự hạn chế không cố ý sát sanh.
Khi người ta ăn thịt, ý định của họ là gì nhỉ? Có bao nhiêu người ăn thịt mà
lại có ý định giết chết con bò, con heo hay con cừu? Nếu như ý định của họ
khi ăn thịt của họ là giết chết thêm nhiều bò, thì rất có thể hành vi ăn thịt đó
gần giống với sát sanh. Nếu bạn xem xét lý do tại sao người ta thực sự ăn
thịt, bạn sẽ thấy có nhiều lý do khác nhau. Tại sao những người sống ở
những xã hội nguyên sơ, quê mùa tại vùng Ðông Bắc Thái Lan là nơi tôi đã
sống một thời gian, và ở đó đa số là những người theo đạo Phật nhưng họ lại
vẫn ăn thịt? Họ ăn ếch, châu chấu, kiến càng, trứng kiến... và ăn đủ mọi thứ
khác trên đời. Tại sao thế? Là vì để có được chất đạm, vì họ cần phải sống
còn, họ cần phải có thứ gì để ăn, và kiếm được thức ăn là điều vô cùng khó
khăn. Một người sống trong hang động thì họ ăn thứ gì nhỉ? Họ ăn bất kỳ
thứ gì họ có thể có được. Do bản năng cơ bản là để sinh tồn, họ ăn bất kỳ thứ
gì có được. Ðó là điều có nhiều liên quan đến những gì chúng ta ăn - bản
năng cơ bản của sinh tồn. Nó còn tùy thuộc vào những gì có sẵn.
Thế rồi lại còn có ảnh hưởng văn hóa nữa, cách thức vị giác của bạn được
hình thành là do bạn đã được nuôi dưỡng ra sao. Nếu bạn quen dùng một số
thực phẩm nào đó, bạn sẽ cảm thấy thoải mái khi ăn loại thức ăn đó. Chính
vì vậy mà bạn thích mua thức ăn đó. Ðó là loại thực phẩm bạn đã biết cách
nấu nướng ra sao. Tại sao đa số người Úc lại là người "không-ăn-chay"? Họ
ăn thịt là bởi vì đó là điều họ đã quen ăn. Ðó là một phần tạo ra nền văn hóa
Úc.
Chính vì thế khi mà phần lớn những người ăn thịt không ăn chay, không

phải vì họ có ý muốn giết hại thú vật. Ðó chỉ là điều họ đã quen ăn ngay từ
thuở nhỏ. Ðó chính là một phần nền văn hóa của họ, chính là vì họ đã biết
cách nấu món ăn đó, và họ biết cách ăn món đó ra sao. Ðiều đó thích hợp
với họ, chính vì vậy mà họ ăn thịt.
Bạn có thể cho như vậy là kém hiểu biết (vô minh). Vâng, đa số chúng ta
đều vô minh, đa số chúng ta chỉ có được những mục tiêu hết sức giới hạn
trong toàn bộ qui trình hiểu biết, lựa chọn và khả năng; đa số chúng ta sống
theo những gì đã được định sẵn. Không cần thiết phải là như vậy, nhưng đó
lại là cách thức sinh hoạt của đa số chúng ta.


Điều quan trọng là chúng ta có thể phân biệt được như vậy. Ăn thịt không
đồng nghĩa với giết hại sinh vật, vì ý định khác nhau. Ðức Phật đã đề ra giới
luật này, là tự kiềm chế không cố ý giết hại bất kỳ sinh vật nào, như là một
bước đầu tiên hướng tới việc tôn trọng sự sống, của cả con người lẫn của
loài vật. Ðó mới chỉ là bước đầu, chứ chưa phải là điểm đến. Và đa số chúng
ta cũng không thể thực hiện được ngay cả điều đó. Có bao nhiêu người trên
trái đất này đã thực sự kiềm chế để không giết chết các sinh vật nào? Rất có
thể chúng ta phải rơi vào một trận chiến lý tưởng để xem vì lý do gì mọi
người nên "ăn-chay-trường", nhưng bạn phải thừa nhận một thực tế là tuyệt
đại đa số những người trên hành tinh này vẫn chưa đạt đến mức độ "không
cố ý sát sanh". Chỉ cần họ đạt đến được mức độ đó thôi, thì mọi sự có thể tốt
đẹp hơn rất nhiều. Tầm nhìn của Ðức Phật hết sức thực tiễn, nên Ngài đã
dạy rằng tất cả chúng ta ít nhất là hãy bắt đầu ở mức độ này trước đã.
Đến đây, tôi đã trình bày những lý lẽ tại sao Phật giáo lại không ép buộc
phải ăn chay. Thế thì Phật giáo có khuyến khích mọi người ăn thịt chăng?
Trong kinh điển, chúng ta không đọc được ở đoạn nào Ðức Phật nói, "Hãy
ăn nhiều thịt, điều đó rất tốt cho quý vị". Chúng ta cũng không tìm thấy đoạn
nào Ngài nói, "Hãy mang thịt đến cho con người." Không có đoạn kinh nào
khuyến khích cúng dường nhiều thịt đến cho chư tăng. Kinh điển chắc chắn

không khuyến khích ăn thịt; không có đoạn nào nói như vậy cả, không có
một đề nghị nào tương tự như vậy. Như thế, chúng ta phải hiểu thế nào đây?
Ðơn giản là mỗi cá nhân chúng ta hãy xem xét cẩn thận vấn đề này, và tự rút
ra những kết luận cho chính mình và nhận trách nhiệm về những kết luận đó.
Những cứu xét về mặt luân lý
Giờ thì chúng ta phải xét xem ăn chay có thích hợp với giáo lý của Ðức Phật
không. Tôi có thể nói là hoàn toàn thích hợp. Ăn chay là công việc thực
hành hết sức bổ ích cho những ai đang phát triển hai điều kiện mà mỗi Phật
tử nên cố gắng đạt đến, đó là lòng bi mẫn và trí tuệ. Ðó là điều chúng ta nỗ
lực tu dưỡng qua con đường tâm linh. Lòng từ bi có nghĩa là cảm thông với,
cảm thông vì, nhạy cảm với những đau khổ của người khác. Kết quả đương
nhiên do việc phát triển lòng bi mẫn là chúng ta không muốn sát sanh, chúng
ta không muốn làm tổn thương đến người khác,
Với trí tuệ, chúng ta bắt đầu nhận thức rõ là hành động của chúng ta không
chỉ gây ra những hậu quả trực tiếp, nhưng còn gây ra cả những hậu quả gián
tiếp nữa. Ðây chính là sự hiểu biết đang khởi hiện. Tôi thường luôn viện dẫn
một trong những luật tự nhiên cơ bản, gọi là Duyên Sinh hay Phát Sinh Có


Ðiều Kiện. "Khi cái nầy có, cái kia sẽ có" (có khói, phải có lửa). Nói cách
khác, một số điều kiện nào đó sẽ duyên sinh những kết quả nào đó. Khi trí
hiểu biết của chúng ta phát triển rõ ràng hơn và ý thức được nhiều hơn,
chúng ta sẽ nhận ra mối tương quan này. Bất luận điều gì chúng ta làm, đều
gây ra những hậu quả. Ngay cả cách thức chúng ta đang sống cũng làm phát
sinh những nguyên nhân và hậu quả. Chúng ta bắt đầu nhận thức rõ đây là
một luật tự nhiên cơ bản, và chúng ta bắt đầu ý thức nhiều hơn cách thức
chúng ta đang sống ra sao, kèm theo những hậu quả gắn với các hành động
của chúng ta. Một khi ta cảm thông và khôn ngoan hơn, chúng ta sẽ bắt đầu
định hướng cuộc sống của chúng ta để đến chỗ "vô hại" hơn, hay là làm
giảm bớt đau khổ và thiệt hại trong cuộc sống.

Ðến đây chúng ta hãy xem xét vấn đề này trên một bình diện rộng hơn là
việc chỉ ăn rau đậu, bởi vì chủ đề "Phật giáo và Chủ nghĩa ăn chay" quá hạn
hẹp. Chúng ta không thể thảo luận về chủ nghĩa ăn chay giống như là một
điều gì đó riêng rẽ lẻ loi một mình. Có rất nhiều vấn đề liên quan đến đề tài
này, ăn chay dính dáng đến cả môi sinh, nghĩa là mọi lãnh vực trong cuộc
sống. Có lẽ chúng ta phải đặt tên cho đề tài này lại là: "Phật giáo và Môi
sinh", hay "Phật giáo và Đời sống" mới đúng.
Một khi chúng ta nhận thức được rằng bất kể chúng ta sống ra sao cũng đều
gây ra những hậu quả, thế thì ảnh hưởng nào sẽ nảy sinh do cách chúng ta
sống? Chúng ta thẩm định như thế nào về những gì những gì chúng ta đang
làm? Mọi việc làm, mọi lời nói của chúng ta đều gây ra hậu quả, vì chúng ta
là bộ phận của một hệ thống. Mỗi người đang ngồi đây đều là một bộ phận
của một hệ thống, của toàn bộ vũ trụ.. Chỉ có một hệ thống và chính bạn là
một phần của hệ thống đó. Mọi hành vi của bạn đều tác động đến vũ trụ này.
Bạn có thể nghĩ, "Tôi làm được gì mà ảnh hưởng đến sự chuyển động của
các hành tinh và các giải ngân hà?" Có lẽ rất ít tác dụng, nhưng theo nguyên
lý tương quan tương tác, thì mọi hành vi bạn thực hiện đều ảnh hưởng đến
tất cả mọi thứ khác. Nếu các bạn không thể nhận ra điều đó trong toàn khối
của nó, thì chắc hẳn bạn có thể nhìn ra được điều đó trong căn phòng này.
Bất kỳ điều gì bạn làm ở đây tối nay đều ảnh hưởng đến mọi người khác.
Ðiều gì tôi làm đang ảnh hưởng đến bạn đó. Ðiều chúng ta đang làm sẽ ảnh
hưởng đến bên ngoài kia. Bất kỳ điều gì chúng ta làm đều có ảnh hưởng về
lâu về dài đến mọi sự việc khác.
Vậy thì khi chúng ta ăn thịt, cũng sẽ tất yếu gây ra những hậu quả. Những
hậu quả đó là gì? Chúng ta đang trực tiếp hỗ trợ cho một kỹ nghệ mà công


việc sản xuất của họ là chăn nuôi súc vật, thường thì với những điều kiện vô
cùng khủng khiếp, chỉ với một mục tiêu đó là giết mổ. Thịt được bán trong
những gói nhỏ gọn, để chúng ta mua và ăn. Ý định của chúng ta khi nấu và

ăn món thịt không phải là giết hại (sát sanh) thú vật - tôi không nghĩ ai trong
chúng ta lại có ý định đó, tuy nhiên, qua hành vi mua, nấu và ăn, chúng ta
vẫn gián tiếp hỗ trợ cho việc giết hại (sát sanh) con vật đó. Đây không phải
là hành vi sát sanh, mà là hỗ trợ cho hành vi sát sanh đó.
Hiểu như vậy, một số cá nhân có thể quyết định không hỗ trợ cho hành vi sát
sanh. Họ không muốn là một phần của sự giết hại đó, họ muốn tách ra ngoài
hệ thống giết hại đó. Nếu có một lý do vì sao người Phật tử nên có quyết
định chỉ ăn toàn rau đậu, quyết định đó nên đặt cơ sở trên viễn tượng này.
Chỉ có một lý do hợp lý nhất, tốt nhất, đó là lòng bi mẫn - nghĩa là không
muốn gây đau khổ cho bất kỳ một ai ngoài sự bắt buộc.
Ăn chay là một vấn đề chọn lựa và trách nhiệm của mỗi cá nhân, không thể
là sự ép buộc, nhưng rất đáng khen và rất phù hợp với giáo lý của Ðức Phật.
Thế nhưng, bạn chỉ dừng lại ở đó thôi sao? Hiện giờ bạn có thanh tịnh chưa?
Bạn vừa trở thành một người ăn chay, nhưng bạn đã là người "vô tội vạ"
chưa? Bàn tay của bạn đã sạch chưa?
Tôi xin báo cho bạn biết bao lâu bạn còn sống trên hành tinh này, bao lâu
bạn còn là thành viên của hệ thống đó, bàn tay của bạn sẽ không bao giờ
thanh sạch cả. Khi bạn ăn bất kỳ món gì, bạn luôn luôn góp phần tạo ra cái
chết và sự tàn phá, cho dù bạn có làm gì đi chăng nữa. Bạn có thể ăn toàn
rau đậu, nhưng bạn vẫn góp phần tạo ra sự tàn phá vì bạn là một phần của hệ
thống này. Bạn không thể trốn thoát. Bạn đang ngồi trên ghế, thế thì ghế từ
đâu mà ra? Ghế lại kê trên tấm thảm, thảm từ đâu mà có? Còn điện khí, máy
điều hòa, căn nhà này, xe ô tô, xe lửa, xe buýt, tất cả những thứ đó từ đâu mà
ra? Tất cả những thứ đó đều có tương quan với nhau. Vạn vật đều có quan
hệ với nhau. Chúng ta luôn dự phần vào toàn bộ một hệ thống, và khi nào
chúng ta còn sống trên đời này, chúng ta luôn luôn dự phần đóng góp vào
đó. Chúng ta sử dụng máy điều hòa, chúng ta sử dụng điện năng, điều đó có
nghĩa là chúng ta đang hỗ trợ cho công việc xây dựng các đập nước, dẫn đến
tàn phá nhiều cánh rừng. Không còn gì phải nghi ngờ nữa. Các bạn ai cũng
đang mặc y phục, đang đi giầy, có phải không? Nếu không đi giầy da thì bạn

đi giầy nhựa. Thế ai chế tạo ra giầy nhựa? Hẳn phải là các công ty hóa chất,
các công ty này cũng là đã là nơi chế ra bom na-pan và các chất độc. Các
bạn đang hỗ trợ cho họ đấy!


Như tôi đã nói, việc huấn luyện tu sĩ là phải biết chấp nhận những gì người
khác cho mình và không đòi hỏi điều gì đặc biệt cả. Hầu hết các thực phẩm
chúng tôi nhận được là đồ chay, nhung không phải là tất cả (nghĩa là cũng có
đồ thịt cá). Chính vì thế mà tôi vẫn có thể bị kết án là đóng góp (vào việc sát
hại). Tôi phải thú nhận là bàn tay của tôi không trong sạch gì cả. Ngay cả
nếu như tôi là người ăn chay, như tôi có thể hành trì trong đa số thời gian
sống, thì bàn tay của tôi vẫn không trong sạch. Thế bạn nghĩ hoa quả và rau
đậu từ đâu mà có? Làm sao những vườn rau lại sạch bóng không còn bất kỳ
thứ cây rừng và bụi rậm nào cả? Cây rừng và bụi rậm đó đã biến đi đâu? Các
cánh đồng bao la trồng lúa mì, ngô bắp và cây ăn trái ... điều gì đã xảy đến
với những cánh rừng nguyên sinh ngày xưa? Chúng đã biến mất với những
luống cầy và thuốc hóa học xịt liên tục. Chúng ta đang hưởng một lượng rau
quả tuyệt vời. Nhưng để có những giỏ rau quả tuyệt vời đó, các bạn đã phải
xử lý một số sâu bọ côn trùng.
Ở mức độ cá nhân, nếu bạn thực sự có lòng từ bi, nếu bạn thực sự khôn
ngoan, bạn có thể phục vụ tận khả năng của bạn để giảm thiểu sự tổn hại.
Nhưng khi bạn xét rằng hiện đang có 6 tỷ người trên hành tinh này, đó là
một lượng người khổng lồ để nuôi ăn và nuôi mặc, thì như thế chắc hẳn đã
tạo ra biết bao nhiêu là sự hủy hoại, trực tiếp hay gián tiếp. Ðời sống là như
thế đó!
Những gì tôi đang trình bày ở đây không dựa trên thuyết định mệnh. Những
điều đó chỉ đơn giản giúp chúng ta ý thức được thực tế mà thôi. Trong hiện
trạng này, tất cả chúng ta có thể và phải xem xét cẩn thận điều gì chúng ta
đang làm, chúng ta đang sống ra sao, chúng ta đang tiêu thụ những gì.
Chúng ta đang góp phần vào cái chết và sự hủy hoại ra sao? Ðây không chỉ

là chuyện ăn chay. Thật đáng trân trọng biết bao nếu ta ăn chay một cách
thích hợp, và như tôi đã trình bày, là phải hợp với giáo lý của Ðức Phật,
nhưng còn phải làm nhiều việc hơn thế.
Bước đi thận trọng và dè dặt.
Ngay cả nếu như chúng ta không ăn chay, chúng ta cũng còn rất nhiều điều
phải làm. Ngày nay chúng ta đang bắt đầu hiểu ra vấn đề. Chúng ta không
thể tiếp tục tiêu thụ nhiều hơn, không thể đòi hỏi nhiều hơn nữa, ước muốn
có được đủ thứ, càng nhiều càng tốt và không thể kỳ vọng ở cái hành tinh
hữu hạn này với những tài nguyên hữu hạn của nó có thể cung cấp cho
chúng ta đủ mọi thứ. Một trong những lời dạy căn bản của Ðức Phật đó là
hãy bằng lòng với những điều nhỏ bé. Ðiều này không có nghĩa là hãy nhịn


đói đến chết, đó là chỉ vấn đề hài lòng, biết đủ, với những gì bạn đang có,
đừng để liên tục bị ám ảnh kiếm được càng nhiều càng tốt, đây chính là hội
chứng của xã hội tiêu thụ ngày nay, có phải không? Ða số chúng ta, những
người trong xã hội Tây Phương đều đau khổ về điều đó.
Tôi có một thiền sinh người Mỹ luôn phàn nàn than trách vì ở đây, tại nước
Úc này, các loại thức ăn quá hạn chế. Cô ta nói, "Ở đây quý vị chỉ có ba loại
sô-cô-la, trong khi đó ở Mỹ, chúng tôi có đến 20 loại khác nhau". Hai mươi
loại sô-cô-la và một trăm hai mươi thứ kem lạnh khác nhau để lựa chọn thật là một thành tựu tuyệt vời của nhân loại, là tột đỉnh của văn minh con
người! Ðây chính là tiêu thụ chủ nghĩa, trong đó có chứa các cụm từ "thêm
nữa đi", "nữa đi, nữa đi, và nữa đi". Lúc nào cũng đòi thêm nữa, mà không
thấy nhấn mạnh vào chữ "mãn nguyện, hài lòng, vừa đủ".
Các bạn có thể nhận ra xã hội này sẽ đi về đâu, với hội chứng con ma đói ngạ quỷ - luôn luôn muốn có được nhiều hơn, không bao giờ biết thỏa mãn.
Nó đang hủy diệt toàn bộ hành tinh này. Hành tình này rất hữu hạn, các hậu
quả đó sẽ rộng lớn vô cùng. Một con ma đói chắc là không mấy nguy hiểm,
nhưng nếu một khi chúng ta đạt đến hàng triệu con ma đói đó, lòng ham
muốn có được càng nhiều càng tốt này sẽ thiêu rụi toàn bộ hành tinh chúng
ta. Nó đang tàn phá thế giới với một mức độ đáng báo động.

Ðức Phật đã chỉ ra một nguyên lý căn bản, đó là: - lòng tham thủ là nguồn
phát sinh ra đủ mọi vấn đề, và chẳng bao giờ có thể thỏa mãn nếu cứ chạy
theo nó. Sự mãn nguyện, thỏa mãn với những nhu cầu tối thiểu là vô cùng hệ
trọng. Ðương nhiên đây phải là một phán đoán của riêng mỗi cá nhân. Ðức
Phật không thể ngồi xuống đây và dạy: "Tôi chỉ phân phối có 20 gam phômai cho mỗi người mỗi ngày mà thôi." Ðiều đó thật là khôi hài! Ðức Phật là
một nhân vật đã được giác ngộ và Ngài cũng muốn mọi người được giác ngộ
giống như Ngài, và trở nên có trách nhiệm hơn. Ðức Phật không tước trách
nhiệm khỏi bạn bao giờ, điều này tùy thuộc vào mỗi cá nhân. Ngài chỉ đưa
ra những hướng dẫn mà mỗi người chúng ta phải tận dụng lấy, qua suy gẫm
về cuộc sống của mình. Hãy cân nhắc những gì chúng ta đang làm, những
hậu quả của chúng, và nhận lãnh trách nhiệm. Chúng ta đang sẵn sàng từ bỏ
bao nhiêu? Mỗi người trong chúng ta đều phải tìm cho ra giới hạn của mình.
Ðối với một số người có thể là một chiếc xe ô tô, với người khác có thể là
hai chiếc. Một số người khác có lẽ chỉ muốn có mỗi một chiếc xe đạp mà
thôi. Ðây chính là thẫm định nhu cầu của mỗi người chúng ta.


Chúng ta càng nhấn mạnh đến lòng từ bi và hiểu biết những hậu quả của các
hành động, chúng ta càng có thể thực hiện được những sự chọn lựa đúng
đắn, để đơn giản hóa, để phát triển thêm lòng mãn nguyện và hiểu được thế
nào là điều độ (tiết độ). Điều này còn quan trọng hơn là chỉ biết có ăn chay.
Ăn chay chỉ là một yếu tố, một khía cạnh trong một bức tranh toàn cảnh.
Toàn cảnh còn rộng lớn hơn rất nhiều, vì phải đề cập đến số lượng chúng ta
tiêu thụ, ngay cả hoa quả, rau đậu, quần áo, giầy dép, năng lượng, không khí,
nhiên liệu và đủ thứ khác... vì mọi nhu cầu tiêu dùng đều gây ra hủy diệt.
Ðây là cách sống của đạo Phật: hãy bắt đầu vun trồng lòng từ bi và hiểu biết,
và từ đó ta bắt đầu định hướng lại cuộc sống chúng ta bằng cách thực hiện
những lựa chọn đúng đắn. Tùy mỗi cá nhân chúng ta quyết định xem mình
phải tiến tới bao xa, bước những bước đi rất thận trọng trên hành tinh này,
để cho cuộc sống chúng ta không phải là nguyên nhân của biết bao nhiêu sự

hủy diệt không cần thiết.
Đây là một sự kiện cá nhân. Các bạn không làm được gì tốt nếu bạn đi vòng
quanh và chỉ tay điểm mặt người khác rồi đòi hỏi họ phải ngưng, "Quí vị
nên ngưng dùng các loại giấy vệ sinh được tẩy trắng (vì chúng phá hoại môi
sinh), nếu không thì chúng tôi sẽ bắt bỏ tù quý vị". Nếu xã hội tiến tới điểm
cực đoan này, thì cấm đoán sản phẩm đó cũng là một điều tốt, nhưng bạn
không thể làm như thế cho đến khi nào có đủ số người thông hiểu và tán
đồng nhu cầu cần phải làm như thế. Mục đích chính của đạo Phật là luôn
luôn khuyến khích lòng từ bi và trí tuệ. Từ đó, mọi việc khác sẽ xảy đến
tương hợp với sự đáp ứng của từng cá nhân và sự hiểu biết trách nhiệm của
từng người.
Các bạn có thể nhận ra lý do tại sao tôi tin tưởng rằng Ðức Phật lại không
chủ trương bó buộc các Phật tử phải ăn chay, vì đó không phải là cách thức
Ngài tiếp cận vấn đề. Mối bận tâm chính của Ngài là đề ra một tiêu chuẩn cơ
bản, nhưng ngay cả tiêu chuẩn đó cũng là tự nguyện. Từ đó, tùy ở bạn có
nên tuân thủ theo hay không. Tùy ở mỗi cá nhân, qua lời dạy của Ngài, mà
trở nên từ bi hơn, khôn ngoan hơn, nhận lấy trách nhiệm cho cuộc sống của
chính mình. Cho dù bạn có hay không có đề ra một luật lệ nào, điều quan
trọng là người ta có tuân thủ theo luật đó hay không. Ðường hướng của Ðức
Phật, mục đính chính của giáo lý của Ngài, là khuyến khích để mọi người
hiểu biết hơn, từ bi hơn, giúp mỗi cá nhân có thể thực hiện được những sự
lựa chọn thích hợp - không chỉ trong việc ăn chay, nhưng còn trong nhiều
việc khác nữa.


Ăn chay là một sự lựa chọn rất cao thượng, nhưng sự lựa chọn đó phải phát
xuất từ một vị thế đúng - phát xuất từ lòng bi mẫn và sự hiểu biết. Sau khi có
một sự lựa chọn như vậy, xin đừng làm ô uế nó qua lòng ác cảm đối với
những người không ăn chay. Bởi vì nếu như thế, sự tốt lành phát sinh từ việc
lựa chọn đó sẽ trở nên băng hoại, và cách này hay cách khác bạn sẽ trở nên

tệ hơn những người không ăn chay. Chúng ta thực hiện sự lựa chọn này xuất
phát từ lòng từ bi. Nếu chúng ta ở vào vị thế phải giải thích (về sự chọn lựa),
chúng ta giải thích cho người khác theo lý trí và lô-gích, không phải bằng
cách chỉ trích họ vì họ không ăn chay.
Tôi kính trọng những người ăn chay. Họ có hành động rất cao thượng; đó là
một cử chỉ xuất ly. Ăn chay chỉ là chuyện nhỏ nhưng cao thượng, và rất hòa
hợp với những lời dạy của Ðức Phật về lòng bi mẫn và sự hiểu biết. Nhưng
không được dừng lại ở đó. Ngay cả khi bạn không ăn chay, cũng xin đừng
nghĩ là không còn gì để cho bạn thực hiện được nữa. Có rất nhiều điều để
cho bạn thực hiện trong cuộc sống này, trong cách nói năng của bạn, trong
hành động của bạn, trong mọi sự việc. Xin hãy là người hành động thận
trọng, xin hãy là người không tạo thêm đau khổ cho nhân loại và cho mọi
sinh linh trên hành tinh này. Một khi chúng ta có ý định nỗ lực đi theo chiều
hướng đúng đắn đó, chúng ta là những đệ tử tốt của Ðức Phật. Mỗi người
chúng ta phải bước đi với nhịp chân của chính mình.
Nguyên tác: "Buddhism and Vegetarianism", Ajahn Jagaro (1994). Tỳ kheo
Thiện Minh dịch.
---o0o--Có tâm linh cao thượng gì khi là một người ăn chay?
Tỳ kheo Kumara
Giới thiệu: Tỳ kheo Kumara là người Mã Lai gốc Hoa. Khi còn là cư sĩ,
ông đã từng hoạt động tích cực trong các hội Phật giáo tại Mã Lai, và là một
trong những sáng lập viên của diễn đàn Phật giáo "Dhamma-List" trên mạng
Internet. Bài nầy được viết và gửi vào diễn đàn đó khi ông còn là một Sa-di.
-ooOooTrên diễn đàn nầy tôi biết có một số người ăn chay. Là một người có
nhiều quan tâm về sức khỏe, tôi hầu như cũng thích ăn rau đậu. Tuy nhiên,


tôi nhận thấy là có một số người hình như bám víu lấy một quan điểm mà
theo ý tôi cần phải được nghiêm túc cứu xét lại -- nghĩa là quan điểm cho
rằng có được một tâm linh cao thượng gì đó khi là một người ăn chay.

Ðối với những ai có quan điểm như thế, xin đọc những gì tôi viết dưới đây:
Như các bài kinh đã chỉ rõ, chính Ðức Phật - với trí tuệ rộng lớn - đã không
bao giờ đòi hỏi các môn đệ của mình, tu sĩ hay cư sĩ, phải "ăn chay". Và như
vậy, bạn nên xét lại quan điểm cho rằng có được một tâm linh cao thượng gì
đó khi là một người ăn chay.
Chính Ðức Phật cũng không phải là người "ăn chay." Và như vậy, bạn nên
xét lại quan điểm cho rằng có được một tâm linh cao thượng gì đó khi là một
người ăn chay.
Một số người có thể tranh luận cho là qua dòng thời gian, ai đó đã sửa đổi
một số chi tiết trong các kinh điển. Ðiều đó khó lòng có thể xảy ra, vì các bài
kinh (ít nhất là theo truyền thống Phật Giáo Nam Tông) được truyền lại cho
đến ngày nay qua một nhóm rất đông các vị tăng ni, chứ không phải do một
vài cá nhân nào cả. Như vậy họ có thể kiểm tra lẫn nhau về các sai sót, nếu
có. Không một có nhân nào có thể thay đổi điều gì nếu không có sự đồng ý
của những người khác. Trong khoảng 500 năm, sự tinh tuyền trong các bộ
kinh được duy trì qua truyền thống truyền khẩu do một nhóm rất đông các vị
tăng ni tụng đọc. Cuối cùng, khi kinh tạng được ghi chép vào đầu thế kỷ Tây
lịch vì các cuộc nội chiến, các vị tăng với lòng thành tín và quý kính Ðức
Phật chắc chắn đã phải cố gắng hết sức để bảo đảm được tính chính xác.
Giả sử rằng, mặc dù tất cả những sự kiện đó là như vậy, vẫn có vài người đã
cố tình sửa đổi các bài kinh, thì điều đó hoàn toàn không thể xảy ra được vì
"không" hề có "một mảy may" dấu vết nào trong Tam tạng kinh điển dầy
cộm như thế (gồm các tạng Luật, tạng Kinh, và tạng Vi Diệu Pháp) đã gợi ý
cho thấy là Ðức Phật đã khuyên chúng ta nên "ăn chay". Và như vậy, bạn
nên xét lại quan điểm cho rằng có được một tâm linh cao thượng gì đó khi là
một người ăn chay.
Ngay cả những điều vừa nêu trên vẫn chưa thuyết phục được bạn, thì bạn
hãy tự hỏi chính mình điều này xem sao, "Tại sao tôi lại cho rằng người ăn
chay là có được một tâm linh cao thượng gì đó?" Bạn có thể nói là, "Nếu tôi
ăn thịt, tôi có thể gián tiếp ủng hộ sự sát hại các thú vật"; hoặc giả, "Nếu tôi



×