Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Kế hoạch hành động ngăn chặn đánh cá bất hợp pháp, không báo cáo và không quản lý được

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.77 KB, 21 trang )

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
DỰ ÁN SCAFI

KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG
NGĂN CHẶN ĐÁNH CÁ BẤT HỢP PHÁP, KHÔNG BÁO
CÁO VÀ KHÔNG QUẢN LÝ ĐƯỢC

HÀ NỘI 12/2007

i


MỤC LỤC
Trang
1. Giới thiệu về “ Chương trình ngăn chặn đánh bắt
bất hợp pháp, không báo cáo và không quản lý được “

1

2. Định nghĩa về đánh bắt bất hợp pháp, không báo cáo
và không quản lý được.

1

2.1. Đánh bắt bất hợp pháp :
2.2. Không báo cáo :
2.3. Không quản lý được :

1
2
2



3. Tác hại của đánh bắt bất hợp pháp :
4. Hiện trạng nghề khai thác cá ở Việt Nam
và vấn đề đánh bắt bất hợp pháp.
4.1. Hiện trạng nghề khai thác cá ở Việt Nam.
4.2. Vấn đề phân chia biên giới biển giữa Việt Nam
và các nước trong khu vực :
4.3. Tình hình khai thác bất hợp pháp ở Việt Nam .
4.3.1. Các tàu đánh cá Việt Nam khai thác vi phạm
vào vùng đặc quyền kinh tế của nước khác .
4.3.2. Tình hình vi phạm của các tàu đánh cá nước
ngoài vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
4.3.3. Khả năng hoạt động ở vùng biển Viễn Dương
của các tàu đánh cá Việt nam.
4.3.4. Tình trạng sử dụng các ngư cụ và biện pháp khai thác có hại :
4.3.5. Kiểm soát tại các cảng :
4.3.6. Hệ thống quản lý nghề cá và các chính sách :
5. Trách nhiệm của các nước trong việc ngăn chặn
đánh bắt bất hợp pháp.
5.1. Kế hoạch hành động quốc tế của FAO.
5.2. Các văn bản luật quốc tế, vùng và Việt Nam
liên quan đến ngăn chặn đánh bắt bất hợp pháp.
5.2.1. Ở cấp quốc tế và vùng :
5.2.2. Ở cấp quốc gia :
6. Kế hoạch hành động quốc gia của Việt Nam nhằm
ngăn chặn đánh bắt bất hợp pháp đến 2015.
ii

2
3


3
4
5
5
6
7
7
8
9
11

11
12
12
12
13


6.1. Mục tiêu:

13

6.2. Nội dung công việc cần thực hiện:

13

6.2.1. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản qui phạm
pháp luật liên quan đến ngăn chặn đấnh bắt bất hợp pháp.
6.2.2. Củng cố hệ thống giám sát, kiểm tra và điều tra.

6.2.3. Xây dựng năng lực.
6.2.4. Bảo vệ nguồn lợi, hệ sinh thái biển và môi trường.
6.2.5. Quản lý các hoạt động khai thác.
6.2.6. Thu thập và trao đổi thông tin.
6.2.7. Quản lý các cảng cá.
6.2.8. Quản lý thị trường.
7. Các đòi hỏi đặc biệt của các nước đang phát triển
cũng như của Việt Nam.
Tài liệu tham khảo

13
14
14
15
15
16
17
17
17

18

iii


KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG
NGĂN CHẶN ĐÁNH CÁ BẤT HỢP PHÁP, KHÔNG BÁO CÁO VÀ
KHÔNG QUẢN LÝ ĐƯỢC

1. Giới thiệu về “ Chương trình ngăn chặn đánh bắt bất hợp pháp, không

báo cáo và không quản lý được “
Hiện nay, nghề cá các nước trên thế giới đang hướng theo lời kêu gọi của
Tổ Chức Nông Lương Liên Hợp Quốc (FAO) về phát triển nghề cá có trách
nhiệm, nhằm hướng tới nghề cá bền vững . Tuy nhiên, vấn đề đánh bắt bất hợp
pháp, không báo cáo và không quản lý được (sau đây gọi tắt là đánh bắt bất hợp
pháp - ĐBBHP) đang trở nên nghiêm trọng và có xu hướng tăng lên . Việc đánh
bắt bất hợp pháp có thể làm tổn hại các cố gắng bảo tồn và khôi phục trữ lượng
các đàn cá ; Có thể làm thất bại các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn về phát triển
nghề cá của các quốc gia và các tổ chức quản lý nghề cá vùng ; Làm giảm hiệu
quả trong bảo vệ môi trường và an toàn thực phẩm và dẫn đến huỷ hoại nghề cá
.
Chính vì những lý do trên mà nhiều cuộc họp của Uỷ ban Nghề cá của
FAO đã được triệu tập để bàn các biện pháp ngăn chặn đánh bắt bất hợp pháp .
Ngày 2 tháng 3 năm 2001, Uỷ ban Nghề cá của FAO đã phê chuẩn “ Kế hoạch
hành động quốc tế về ngăn chặn đánh bắt bất hợp pháp “ (IPOA-IUU). Đồng
thời FAO cũng kêu gọi các quốc gia xây dựng “ Kế hoạch hành đông quốc gia “
để ngăn chặn đánh bắt bất hợp pháp này .
2. Định nghĩa về đánh bắt bất hợp pháp, không báo cáo và không quản lý
được.
Fao đã đưa ra những tiêu chí để xác định đánh bắt bất hợp pháp như sau :
2.1. Đánh bắt bất hợp pháp :
Vấn đề này liên quan đến các hoạt động sau :
- Hoạt động đánh bắt cá bằng tàu trong hoặc ngoài nước ở vùng đặc
quyền kinh tế của một nước mà không có giấy phép của nước đó hoặc vi phạm
luật, qui định của nước sở tại.
- Hoạt động đánh bắt được tiến hành bằng tàu của nước sở tại, mà nước
này lại là thành viên của tổ chức quản lý nghề cá vùng có liên quan, nhưng hoạt
động vi phạm các biện pháp bảo tồn và quản lý đã được các tổ chức và các nước
thông qua, hoặc các điều khoản liên quan của luật quốc tế .
- Vi phạm luật quốc gia hoặc các qui định quốc tế, bao gồm cả những điều

cam kết của các nước tham gia đối với các tổ chức quản lý nghề cá trong vùng
có liên quan .

1


2.2. Không báo cáo :
- Đánh bắt cá mà không báo cáo hoặc không có báo cáo cho cơ quan quản
lý Nhà nước có liên quan ; Vi phạm luật và qui định quốc gia .
- Hoạt động trong vùng thuộc quyền kiểm soát của cơ quan quản lý nghề
cá vùng có liên quan, mà cơ quan này không nhận được báo cáo hoặc vi phạm
qui định báo cáo của tổ chức đó .
2.3. Không quản lý được :
- Hoạt động đánh cá trong vùng quản lý của cơ quan quản lý vùng có liên
quan mà không phải là tàu của nước thành viên hoặc treo cờ của nước không
phải là thành viên của tổ chức đó ; hoặc đánh bắt không phù hợp với các điều
khoản bảo tồn và biện pháp quản lý của các tổ chức đó .
- Đánh bắt trong vùng hoặc đánh bắt các đàn cá mà các biện pháp quản lý
và bảo tồn nguồn lợi thuỷ sinh không cho phép theo qui định của luật quốc tế.
3. Tác hại của đánh bắt bất hợp pháp :
Hoạt động khai thác cá bất hợp pháp, không báo cáo và không quản lý
được đã trở thành vấn đề nghiêm trọng trên qui mô toàn thế giới và ngay cả ở
Việt Nam.
Tác hại của khai thác bất hợp pháp biểu hiện ở nhiều mặt như sau :
- Các tàu ĐBBHP thường không tuân theo các qui định quản lý nghề cá ở
cấp quốc gia, cấp vùng và cấp quốc tế .
- Đánh bắt cả vào những vùng cấm, vùng đặc quyền kinh tế của nước
khác, những khu bảo tồn, các bãi đẻ . Sát hại nhiều tôm, cá non tuổi, phá huỷ các
rạn san hô, ảnh hưởng xấu đến môi trường biển .
- Sử dụng kích thước mắt lưới nhỏ hơn qui định ; Sử dụng các phương

pháp khai thác có hại ; sát hại nhiều loài quí hiếm, làm ảnh hưởng đến những nỗ
lực duy trì và bảo tồn nguồn lợi cá .
- Tàu ĐBBHP không tuân theo các nguyên tắc an toàn hàng hải, không
đăng ký, không có quốc tịch hoặc khai thác không có giấy phép. Tàu ĐBBHP
thường tắt đèn khi khai thác ban đêm, dễ gây tai nạn đâm va trên biển .
- Không bảo đảm quyền lợi cho thuỷ thủ, điều kiện sống và lao động của
thuỷ thủ trên các tàu ĐBBHP rất thấp kém.
- Do không tuân theo các qui tắc, tiêu chuẩn của quốc gia và quốc tế,
không phải trả các chi phí về an toàn, xin giấy phép, bảo hiểm, kiểm tra... , nên
các tàu ĐBBHP thường có chi phí sản xuất thấp, các tàu này kiếm lợi bất công
so với những tàu chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp . Điều này đã tạo ra tấm
gương xấu, càng kích thích cho đánh bắt bất hợp pháp phát triển và dẫn đến huỷ
hoại nghề cá .
- Bảo quản sản phẩm không tốt, không đảm bảo các tiêu chuẩn an toàn vệ
sinh thực phẩm, gây tổn hại cho sức khoẻ người tiêu dùng.
2


- Theo ước tính của FAO, sản lượng khai thác của các tàu ĐBBHP chiếm
tới 30% tổng sản lượng khai thác toàn cầu . Hoặc hàng năm có tới 70.000 tấn cá
ngừ khai thác ở Ấn Độ Dương không được báo cáo.
Từ những tác hại nêu trên, rõ ràng cần phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa
các quốc gia và các tổ chức quản lý nghề cá vùng để đưa ra các chương trình
hành động nhằm ngăn chặn và chống lại đánh bắt bất hợp pháp ở mỗi quốc gia
và trên toàn thế giới.
4. Hiện trạng nghề khai thác cá ở Việt Nam và vấn đề đánh bắt bất hợp
pháp.
4.1. Hiện trạng nghề khai thác cá ở Việt Nam.
Ngành thuỷ sản là một trong những ngành phát triển nhanh và năng động
của nền kinh tế Việt Nam. Trong thời kì 1994 – 2004, tổng công suất máy tàu đã

tăng từ 1.443.950cv lên 4.723.264cv, tức là tăng gấp 3,27 lần , trong khi đó sản
lượng khai thác tăng từ 878.474 tấn lên 1.724.200 tấn, tăng 1,96 lần.
Hiện nay, số lượng tàu đánh cá lắp máy có 87.100 chiếc ( 12/2004 ). Tổng
công suất máy tàu tăng trung bình 18,3% một năm trong suốt thập niên vừa qua
và công suất máy trung bình của một tàu đạt 55cv.
Mặc dù có sự phát triển nhanh, nhưng nghề khai thác hải sản Việt Nam
vẫn mang nặng tính chất của nghề cá qui mô nhỏ. Các tàu công suất máy nhỏ
hơn 90cv chiếm tới 84% tổng số tàu lắp máy trong toàn quốc, ngư trường hoạt
động chủ yếu là vùng biển ven bờ, vì vậy vùng biển ven bờ đang bị khai thác
quá mức, nguồn lợi thuỷ sản đang có nguy cơ bị cạn kiệt cả ở vùng ven bờ và xa
bờ.
Trong thời gian qua, số lượng tàu cá phát triển một cách tự phát. Mặc dù
nguồn lợi thuỷ sản ven bờ đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt, nhưng vì nhiều lý
do về kinh tế, xã hội và việc làm, số lượng tàu cá cỡ nhỏ vẫn tăng bình quân
2300 chiếc/năm và số lượng ngư dân trực tiếp khai thác hải sản tăng bình quân
khoảng 23.000 người/năm. Điều này dẫn đến cạnh tranh trong khai thác hải sản
vùng ven bờ ngày càng ráo riết, làm cho nguồn lợi hải sản bị suy kiệt nhanh
chóng đã ảnh hưởng ngay đến nghề khai thác cá xa bờ. Năng suất khai thác bị
giảm sút cả ở vùng ven bờ và xa bờ. Các hoạt động khai thác đang đứng trước
nguy cơ bị thua lỗ, và đây cũng chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến khai thác
bất hợp pháp . Vì cuộc sống trước mắt, ngư dân dùng mọi biện pháp để đánh bắt
như giảm kích thước mắt lưới, tăng cường độ khai thác, đánh bắt vào cả những
vùng cấm, vùng đặc quyền kinh tế của nước khác, sử dụng cả những biện pháp
khai thác có hại như chất nổ, xung điện, chất độc để khai thác, đánh bắt tất cả
các cỡ cá, kể cả những đàn cá non tuổi.
3


Sự suy giảm nguồn lợi cá đã ảnh hường trực tiếp đến hiệu quả đánh bắt
của các loại nghề. Tỉ lệ cá tạp trong các mẻ lưới ngày càng cao, chiếm 30-80%

sản lượng đánh bắt tuỳ theo từng loại nghề. Doanh thu của các hoạt động khai
thác có xu hướng thấp dần.
Tuy nhiên, một khó khăn lớn xuất phát từ đặc điểm của nghề cá Việt
Nam, đó là nghề cá “ Đa loài, đa công cụ “ nên khó có thể áp dụng các mô hình
quản lý của các nước Âu - Mỹ vào nghề cá Việt Nam. Với gần 70.000 tàu đánh
cá cỡ nhỏ hoạt động ven bờ, việc kiểm tra, kiểm soát không phải là dễ dàng.
Hơn nữa, các tàu nhỏ này có thể bán cá ở bất cứ đâu mà không cần cập các cảng,
nên việc quản lý tàu càng khó khăn hơn. Ngư dân rất nghèo, trình độ học vấn
thấp, cũng là những khó khăn khi áp dụng các hình thức xử phạt.
Từ những phân tích trên cho thấy, cần phải có ngay chương trình hành
động cụ thể để quản lý, giám sát, kiểm tra sự hoạt động của các tàu cá; bảo tồn
và duy trì nguồn lợi hải sản, ngăn chặn kịp thời các hoạt động khai thác bất hợp
pháp, không báo cáo và không quản lý được sao cho phù hợp với hoàn cảnh
thực tế của Việt Nam và qui định quốc tế.
4.2. Vấn đề phân chia biên giới biển giữa Việt Nam và các nước trong
khu vực :
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã tiến hành nhiều cuộc đàm phán
về biên giới trên đất liền và trên biển với nhiều quốc gia láng giềng.
Đối với việc phân định trên biển, Việt Nam đã kí được một số văn kiện
quan trọng như :
- Tuyên bố của Chính phủ nước cộng hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam. ( Ngày 12/11/1982 ).
- Tuyên bố của Chính Phủ nước CHXHCN Việt Nam về lãnh hải, vùng
tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ( ngày
12/5/1977 ).
- Ngày 7/7/1982, Việt Nam và Cămpuchia đã ký hiệp định về vùng nước
lịch sử giữa 2 nước.
- Ngày 5/6/1992, tại vòng đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao ở
Kualalumpua Việt Nam và Malaysia đã ký bản nghi nhớ về thăm dò khai thác
chung vùng chồng lấn.

- Ngày 9/8/1997, Việt Nam Và Thái lan đã ký hiệp định về biên giới biển
Việt Nam – Thái lan.

4


- Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ giữa chính phủ 2 nước
CHXHCN Việt Nam và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã được ký ngày
25/12/2000.
- Hiệp định giữa Cộng hoà XHCN Việt Nam và nước Cộng hoà
Indonesia về phân định thềm lục địa giữa 2 nước đã được ký ngày 26/6/2003.
Như vậy Chính phủ Việt Nam đã và đang cố gắng hết sức mình để xác
định các đường biên giới trên biển, phân chia chủ quyền trên các vùng biển với
các nước liên quan, ổn định tình hình an ninh quốc phòng, vùng đặc quyền kinh
tế và ổn định các hoạt động nghề cá.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số vùng chưa hoàn thành việc phân định
ranh giới trên biển, nên vẫn có sự tranh chấp và va chạm trong hoạt động nghề
cá.
4.3. Tình hình khai thác bất hợp pháp ở Việt Nam .
4.3.1. Các tàu đánh cá Việt Nam khai thác vi phạm vào vùng đặc quyền
kinh tế của nước khác .
+ Nguyên nhân vi phạm :
Hiện nay hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á đều gặp phải tình
trạng khai thác quá mức và dư thừa năng lực khai thác (dư thừa số lượng tàu
đánh cá). Vì vậy, nguồn lợi thuỷ sản đang ngày càng cạn kiệt, năng suất khai
thác có xu hướng thấp dần, cộng với chi phí săng dầu tăng cao đã đẩy các tàu
đánh cá vào nguy cơ thua lỗ khi tiến hành các hoạt động khai thác trên biển.
Những điều trên đã kích thích các tàu đánh cá tìm các ngư trường có nguồn lợi
phong phú hơn và dẫn đên việc vi phạm vùng đặc quyên kinh tế của nước khác.
Các tàu vi phạm thường có năng suất khai thác cao hơn các tàu không vi

phạm từ 30-50%. Chính điều này lại càng kích thích sự vi phạm tăng lên. Vì
vậy, để có thể quản lý tốt được các hoạt động khai thác cá, ngăn chặn việc đánh
bắt bất hợp pháp, Chính phủ các nước cần có những chương trình hành động
ngăn chặn đánh bắt bất hợp pháp (IUU).
Chính phủ Việt nam đã có nhiều biện pháp để ngăn chặn các tàu Việt
Nam đánh bắt bất hợp pháp ở vùng đặc quyền kinh tế của nước khác. Cụ thể là :
- Tổ chức nhiều lớp tập huấn cho ngư dân các tàu đánh cá xa bờ về ranh
giới phân định trên biển giữa Việt Nam và các nước khác trong khu vực.
- Tiếp tục đàm phán với các nước láng giềng để phân định rõ các khu vực
chồng lấn hay còn đang tranh chấp.
5


- Phổ biến cho ngư dân về nội dung các hiệp định đã được ký kết giữa
Việt Nam và các nước khác trong khu vực.
- Vận động các chủ tàu, thuyền trưởng của các tàu lớn, khai thác xa bờ ký
bản cam kết không vi phạm các qui định của luật quốc gia và luật pháp quốc tế.
Tuy nhiên, nhà nước vẫn chưa trang bị được những phương tiện kiểm tra
hữu hiệu nên việc các tàu đánh cá Việt Nam vi phạm và đánh cá bất hợp pháp
trong vùng đặc quyền kinh tế của nước khác vẫn xẩy ra. Các tàu đánh cá Việt
Nam bị bắt giữ chủ yếu do họ khai thác ở vùng ranh giới biển giữa Việt Nam và
các nước láng giềng; Ngoài ra còn bị bắt ở vùng biển còn đang tranh chấp .
+ Số lượng tàu bị bắt thực tế:
Theo thống kê, số lượng các tàu đánh cá của Việt Nam bị bắt giữ ở các
vùng biển trong thời gian từ 2002-2006 như sau :
Nước bắt giữ
Trung Quốc
Malaysia
Indonesia
Campuchia

Philippin
Thái Lan
Tổng

2002
24
140
42
103
16
4
329

2003
8
7
1
158
2
5
181

2004
34
15
0
143
5
16
213


2005
25
29
7
116
3
13
193

2006
27
24
32
133
2
42
260

Do nỗ lực thực hiện các biện pháp ngăn chặn đánh bắt IUU của Việt Nam
và các nước trong khu vực, số lượng các tàu vi phạm gần đây có xu hướng giảm
dần.
4.3.2. Tình hình vi phạm của các tàu đánh cá nước ngoài vào vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam.
+ Tình hình vi phạm :
Khoảng trước năm 2000, khi lực lượng tàu khai thác xa bờ của Việt Nam
còn chưa phát triển, thì hiện tượng các tàu đánh cá nước ngoài xâm phạm vùng
đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam diễn ra khá phổ biến trên toàn bộ vùng
biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Đến nay, khi số lượng các tàu đánh cá cỡ lớn
của Việt Nam đã tăng nhanh chóng, ở một số vùng như vùng biển Đông – Tây

Nam Bộ, nguồn lợi thuỷ sản ở vùng xa bờ này của Việt nam cũng đã bị khai thác
tới mức, lợi nhuận thu được của hoạt động nghề cá không còn hấp dẫn nữa, thì
số lượng các tàu nước ngoài xâm nhập vào vùng biển Đông – Tây Nam bộ cũng
bị giảm đi rõ rệt. Trong khi đó, vùng biển Vịnh Bắc bộ và Bắc Trung bộ, do qui

6


mô các tàu cá Việt Nam ở đây còn nhỏ bé, nên các tàu nước ngoài vẫn tiếp tục
vi phạm, đánh bắt sâu vào vùng nước ven bờ của Việt Nam.
+ Số lượng tàu bị bắt thực tế:
Số lượng các tàu nước ngoài bị bắt giữ qua các năm như sau:
Nước bị bắt
Trung Quốc
Thái Lan
Campuchia
Nước khác
Tổng

2002
118
19
0
18
155

2003
72
26
1

14
113

2004
23
26
4
12
65

2005
37
14
2
3
56

2006
49
2
0
2
53

Những số liệu nêu trên là những số tàu thực tế đã bị bắt giữ, còn số lượng
các tàu vi phạm nhưng chưa bị bắt giữ lớn gấp nhiều lần con số trên.
4.3.3. Khả năng hoạt động ở vùng biển Viễn Dương của các tàu đánh cá
Việt nam.
Để có thể khai thác cá ở vùng biển Viễn dương, đòi hỏi các tàu đánh cá
phải có kích thước đủ lớn, có trang bị hiện đại và hệ thống hậu cần đủ mạnh (

cung cấp nhiên liệu, thực phẩm, tiêu thụ cá ). Tuy nhiên, qui mô của hệ thống
tàu cá Việt Nam khá nhỏ. Số lượng tàu đánh cá có công suất máy lớn hơn 400cv
chỉ có 1.032 chiếc, chiếm 1,2% tổng số tàu đánh cá.Trong số này, nếu loại trừ
các tàu lưới kéo ( không thể hoạt động ở vùng biển sâu ), thì các tàu còn lại chỉ
là 82 chiếc, chiếm 0,1% tổng số tàu thuyền đánh cá.
Như vậy, sự hoạt động của các tàu đánh cá Việt Nam ở vùng biển Viễn
dương là rất ít. Sản lượng khai thác được chủ yếu là các nghề như : Câu vàng cá
ngừ đại dương; Câu mực xà.
Hiện nay, Việt Nam cũng đang xem xét kế hoạch nghiên cứu thăm dò
phát triển đội tàu khai thác viễn dương trong tương lai, đồng thời áp dụng các
biện pháp quản lý phù hợp đối với các tàu này.
4.3.4. Tình trạng sử dụng các ngư cụ và biện pháp khai thác có hại :
- Hầu hết các ngư cụ được sử dụng trong thực tế đều vi phạm qui định về
kích thước mắt lưới. Do nguồn lợi bị giảm sút, nên ngư dân có xu hướng giảm
kích thước mắt lưới để tận thu sản lượng, vì vậy tỉ lệ cá tạp và cá nhỏ trong mẻ
lưới cao. Tỉ lệ cá tạp so với sản lượng cá của mẻ lưới chiếm 60-80% trong lưới
kéo tôm; 40-80% trong lưới kéo cá; 90% trong lưới kéo đáy; 90-93% trong te
xiệp.
- Các rạn san hô, dải có biển vẫn đang bị suy thoái và bị phá huỷ bởi
những hoạt động đánh bắt bất hợp lý.
7


- Các ngư cụ có hại vẫn hoạt động, huỷ diệt nhiều cá con, như các nghề
đăng đáy cửa sông, te đẩy. Theo số liệu thống kê năm 2004, tổng số tàu thuyền
làm nghề te là 3060 chiếc, trong đó các tàu có công suất máy nhỏ hơn 33cv có
số lượng chiếm 67,4% tổng số tàu làm nghề te xiệp. Sản lượng khai thác của
nghề te xiệp ước tính khoảng 25.000 tấn/năm 2004, trong đó tỉ lệ sản lượng hải
sản chưa đủ qui cỡ khai thác chiếm tới 73,9% tổng sản lượng của nghề te.
- Các phương pháp đánh bắt có hại vẫn chưa ngăn chặn được, việc đánh

mìn xảy ra ở nhiều vùng, sử dụng chất độc Xianua để đánh bắt thuỷ sản đang là
những nguy cơ chưa kiểm soát hết được.
Theo thống kê của Bộ Thuỷ Sản, từ năm 2001 đến 2004, các lực lượng
kiểm tra về sử dụng thuốc nổ, kích điện để đánh bắt cá đã bắt được 193 vụ sử
dụng thuốc nổ, trong đó bắt được 5.305 kg thuốc nổ và bắt 598 tàu sử dụng xung
điện khai thác cá.
- Nhiều loài cá, tôm là đối tượng khai thác truyền thống trước đây đã trở
nên hiếm như tôm hùm, cá mòi . . . hoạt động của các tàu lưới kéo ở vùng ven
bờ đã tàn phá nền đáy, ảnh hưởng đến môi trường sống của các loài thuỷ sinh
và làm suy giảm nguồn lợi ven bờ.
Theo các kết quả điều tra, tình trạng sử dụng mìn, chất độc, xung điện chủ
yếu do các tàu đánh cá nhỏ, hoạt động ven bờ tiến hành. Các tàu nhỏ có số
lượng rất lớn và quản lí được sự hoạt động của các tàu nhỏ này rất khó khăn. Vì
vậy mô hình “Quản lý nghề cá dựa vào cộng đồng “ đang là mô hình có nhiều
triển vọng để quản lý nghề cá quy mô nhỏ một cách hữu hiệu. Mô hình này cũng
đang được nghiên cứu áp dụng trong thời gian tới ở Việt nam.
4.3.5. Kiểm soát tại các cảng :
Kể từ năm 1995 đến năm 2005, ngành thuỷ sản đã đầu tư nâng cấp, mở
rộng và xây dựng mới được 75 cảng cá, bến cá. Trong đó có 57 cảng thuộc vùng
ven biển, 18 cảng cá thuộc tuyến đảo. Trong tương lai khi 91 cảng cá, bến cá đi
vào hoạt động sẽ có 10.500m cầu cảng cho tàu thuyền neo đậu, trong đó có trên
8.000m cầu bến có khả năng tiếp nhận các loại tàu trên 200 cv.
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là các cảng cá cỡ nhỏ và trung bình phục vụ cho
việc cung cấp nhiên liệu , nước đá, nhu yếu phẩm và các dịch vụ sửa chữa có kết
hợp tránh bão cho các tàu thuyền.
Nói chung các cảng này còn nhiều hạn chế, thiếu các trang bị hiện đại như
các phương tiện bốc dỡ, kho lạnh; Các khu chợ cá và mặt bằng để phân loại, lựa
chọn cá còn nhỏ hẹp. hệ thống đường cho xe vận tải chưa thuận tiện, hệ thống
nước sạch, cống thoát nước và vệ sinh môi trường còn kém.
8



Việc kiểm tra vệ sinh, an toàn thực phẩm ở các cảng cá thường chỉ được
tiến hành ở các cảng cá lớn. Chưa tiến hành kiểm tra được xuất xứ hàng hoá của
các tàu bốc dỡ cá tại cảng. Chưa có các thông tin đầy đủ đối với các tàu
ĐBBHP. Hiện nay ở Việt Nam chưa có bộ luật phù hợp để kiểm tra tại các cảng
để ngăn chặn các hoạt động bốc dỡ cá buôn bán các sản phẩm cá từ những tàu
liên quanđến hoạt động ĐBBHP.
4.3.6. Hệ thống quản lý nghề cá và các chính sách :
- Hệ thống kiểm tra, giám sát :
Hiện nay, việc giám sát sự hoạt động của tàu thuyền trên biển được thực
hiện bởi 4 lực lượng. Đó là lực lượng Hải quân; Bộ đội Biên phòng; Cảnh sát
biển và Cục khai thác Bảo vệ nguồn lợi. Ba lực lượng trên trực thuộc bộ Quốc
phòng. Nhiệm vụ chủ yếu của các lực lượng này là giữ gìn an ninh và chủ quyền
quốc gia. Vì vây, lực lượng chuyên ngành kiểm tra, kiểm soát sâu sát nhất đối
với các tàu khai thác hải sản chính là Cục khai thác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản (
NADAREP). Dưới Cục là các chi cục ở các tỉnh ven biển, có trách nhiệm kiểm
tra các vấn đề liên quan đến khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. Mỗi chi cục
đều có các tàu kiểm ngư và các cán bộ chuyên trách, tiến hành kiểm tra các tàu
thuyền đánh cá hoạt động trong vùng biển thuộc tỉnh mình.
Hiện nay các hoạt động kiểm tra tập trung vào việc ngăn chặn các hoạt
động đánh bắt bất hợp pháp như sử dụng mìn, xung điện, chất độc trong khai
thác hải sản; Hạn chế việc sử dụng ngư cụ có hại, vi phạm các qui định về bảo
tồn . . . Tuy nhiên, do lực lượng và các phương tiện kiểm soát còn ít chưa được
trang bị hệ thống giám sát tàu cá (VMS) nên việc kiểm tra diễn ra chủ yếu ở
vùng biển ven bờ và kết quả của công tác kiểm tra, giám sát còn bị hạn chế;
chưa có khả năng quản lý được sự hoạt động của các tàu lớn đánh bắt xa bờ.
Chưa quản lý đươc xuất xứ của sản phẩm khai thác, nên cũng không biết sản
phẩm này có phải là kết quả của hoạt động khai thác bất hợp pháp hay không ?.
- Các văn bản pháp luật trong nghề cá :

Hiện nay Nhà nước đã ban hành luật thuỷ sản ( 11/2003 ) và một số văn
bản luật khác liên quan đến quản lý các hoạt động khai thác hải sản của các tàu
cá Việt Nam và các tàu cá nước ngoài hoạt động trong các vùng biển Việt Nam.
Tuy nhiên, còn khá nhiều vấn đề còn cần phải có các văn bản dưới luật và các
thông tư hướng dẫn thi hành luật. Vì vậy, trong thực tế, hiệu lực của luật chưa
cao và việc áp dụng luật chưa thật sự nghiêm minh.
Đối với việc ngăn chặn đánh bắt bất hợp pháp, không báo cáo và không
quản lý được (IUU), cần phải bổ sung những chính sách, cơ chế quản lý, các
biện pháp kiểm tra và giám sát thật cụ thể.
9


- Hệ thống thống kê nghề cá :
Hiện nay hệ thống thống kê nghề cá ở Việt Nam vẫn chưa hoàn chỉnh,
nên hàng năm chỉ công bố các số liệu chung cho tàu ngành thuỷ sản như : Tổng
sản lượng khai thác; Tổng số tàu thuyền đánh cá; tổng số mã lực máy tàu. Các
số liệu thống kê lịch sử hàng năm về sản lượng khai thác cho từng loại ngư cụ,
từng loài cá chính, từng vùng biển đều không được thu thập. Điều này đã gây
khó khăn lớn cho việc hoạch định các chính sách và công tác quản lý nghề cá,
trong đó có việc ngăn chặn đánh bắt bất hợp pháp .
Căn cứ Luật Thuỷ Sản 2003, các tàu khai thác hải sản phải ghi sổ “Nhật
ký khai thác “ và phải báo cáo cho cơ quan quản lý địa phương (Sở Thuỷ Sản)
theo định kỳ . Tuy nhiên, việc này chưa được thực hiện nghiêm túc và liên tục .
Vì vậy các Sở Thuỷ Sản cũng không có thông tin cần thiết phục vụ cho công tác
quản lý.
- Đăng ký tàu cá :
Việc đăng ký tàu cá đã được tiến hành rộng khắp đối với các tàu đánh cá
trong toàn quốc. Tuy nhiên vẫn còn nhiều tàu cá có công suất máy chính nhỏ
hơn 20 cv chưa làm đăng ký. Ngoài ra có một số tàu cá công suất máy lớn hơn (
tới 100 cv ) nhưng vẫn né tránh đăng ký để trốn thuế.

- Giấy phép đánh cá :
Gần đây Bộ Thuỷ Sản (cũ) đã triển khai cấp “ Giấy phép đánh cá “ cho
các tàu đánh cá trong toàn quốc. Việc này đang gặp phải một số khó khăn là có
khá nhiều tàu thiếu những giấy tờ cần thiết như bằng thuyền trưởng, máy trưởng
... nên chưa được cấp giấy phép đánh cá .
Tuy nhiên, việc cấp giấy phép đánh cá như đang làm hiện nay chưa đáp
ứng được mục tiêu để khống chế số lượng tàu khai thác ở một mức độ nhất định,
phù hợp với khả năng cho phép của nguồn lợi, nhằm tránh sự phát triển quá mức
của số lượng tàu cá, dễ dẫn đến dư thừa năng lực khai thác, khai thác quá mức.
- Thành lập các khu bảo tồn biển :
Do nguồn lợi ven bờ ngày càng bị cạn kiệt, sự cạnh tranh trong khai thác
rất ráo riết, đã nảy ra nhu cầu cần nhanh chóng xây dựng các khu bảo tồn, phục
vụ cho việc bảo tồn, duy trì và tái tạo nguồn lợi .
Việt Nam hiện có 4 khu bảo tồn biển là : Côn Đảo, Phú Quốc, Cù Lao
Chàm, Hòn Mun . Dự kiến đến 2010 sẽ xây dựng thêm 2 khu bảo tồn ở Cồn Cỏ
và Bạch Long Vĩ ; đến năm 2015 sẽ xây dựng thêm 9 khu bảo tồn nữa, nâng
tổng số khu bảo tồn ở Việt Nam lên 15 khu .

10


Việc xây dựng các khu bảo tồn để bảo vệ đa dạng sinh học và hỗ trợ cho
việc bảo vệ, tái tạo nguồn lợi đang được chú ý đầu tư ở các nước trên thế giới và
Việt Nam.
5. Trách nhiệm của các nước trong việc ngăn chặn đánh bắt bất hợp pháp.
5.1. Kế hoạch hành động quốc tế của FAO:.
Kế hoạch hành động quốc tế do FAO soạn thảo kêu gọi tất cả các nước
hãy tuân thủ luật quốc tế về ngăn cản, loại bỏ đánh bắt bất hợp pháp, không báo
cáo và không quản lý được. Khuyến khích các nước thông qua các điều khoản
đã được đồng ý trong các hội nghị quốc tế và thực hiện các văn kiện nghề cá có

liên quan.
Trong thực tế thấy rằng, việc ĐBBHP xảy ra ở hầu hết các quốc gia và
cần được các nước phối hợp hành động để giảm và ngăn chặn ĐBBHP .
Bản qui tắc ứng xử đánh cá có trách nhiệm của FAO đã kêu gọi các nước
cùng thực hiện khai thác có trách nhiệm và có kế hoạch hành động quốc gia
ngăn chặn ĐBBHP.
Tuy nhiên, hiện nay các nước vẫn chưa ngăn cản có hiệu quả bằng luật
pháp quốc gia của họ đối với việc đánh bắt bất hợp pháp của các tàu của họ
trong vùng đặc quyền kinh tế của nước khác. Sự hợp tác quốc tế trong việc ngăn
chặn ĐBBHP cấp vùng và cấp quốc tế vẫn còn cần tiếp tục thúc đẩy nhiều nữa.
Một số điểm chủ yếu liên quan đến xây dựng kế hoạch hành động cấp
vùng để chống lại ĐBBHP là :
- Việc chống ĐBBHP là do mỗi quốc gia tự nguyện thực hiện theo bản
qui tắc ứng xử thực hiện đánh cá có trách nhiệm của FAO.
- Các tổ chức quản lý nghề cá vùng (RFMOs), thông qua các kế hoạch
hành động quốc gia, có vai trò chính trong việc thúc đẩy thực hiện kế hoạch
hành động quốc tế chống lại đánh bắt bất hợp pháp.
- Vai trò của Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) là giám sát, báo
cáo và tạo điều kiện hợp tác trong việc thực hiện kế hoạch hành động quốc tế
ngăn chặn ĐBBHP.
- Các nước cần xây dựng “Kế hoạch hành động quốc gia “ chống lại
ĐBBHP và có sự hợp tác, trao đổi thông tin, kinh nghiệm quản lý liên quan đến
ngăn chăn ĐBBHP.
- Các nước sẽ tự giải quyết vấn đề ĐBBHP của nghề cá qui mô nhỏ ở
nước mình , còn nghề cá qui mô lớn sẽ được giải quyết cả ở cấp quốc gia và cấp
khu vực.

11



5.2. Các văn bản luật quốc tế, vùng và Việt Nam liên quan đến ngăn
chặn đánh bắt bất hợp pháp.
Việt Nam luôn xác định việc đấu tranh chống lại ĐBBHP là trách nhiệm
chung và Việt Nam sẵn sàng tuân thủ và chấp hành các điều ước quốc tế mà
Việt Nam đã tham gia ký kết. Tuy nhiên, do đặc điểm nghề cá Việt Nam là nghề
cá qui mô nhỏ, đa loài , đa công cụ, Nên nghề cá Việt Nam có một số nét đặc
thù riêng. Vì vậy trong bản kế hoạch hành động chống lại sự đánh bắt bất hợp
pháp, Việt Nam sẽ nhấn mạnh những vấn đề chính của mình và cũng sẽ ít đề cập
hoặc bỏ qua những vấn đề mà Việt Nam ít gặp phải hay không có.
5.2.1. Ở cấp quốc tế và vùng :
Chấp hành các văn bản luật và điều ước quốc tế . Đó là :
+ Công ước liên hợp quốc luật biển năm 1982 (United Nation Convention
on the Law of the Sea - UNCLOS).
+ Thoả thuận về đàn cá liên quốc gia (United Nation Fish Stocks
Agreement-UNFSA).
+ Qui tắc ứng xử đánh cá có trách nhiệm của FAO-1995 (Code of
Conduct for Responsible Fishing- CCRF).
+ Kế hoạch hành động quốc tế về ngăn chặn đánh bắt bất hợp pháp,
(International Plan of Action to Prevent, Deter and Eliminate Illegal, Unreported
and Unregulated Fishing – IPOA-IUU).
+ Kế hoạch hành động quốc tế về giảm lượng đánh bắt ngẫu nhiên chim
biển trong nghề câu vàng.(International Plan of Action for Reducing Incidental
Catch of Seabirds in Longline Fisheries ).
+ Kế hoạch hành động quốc tế về bảo tồn và quản lý cá mập
+ Kế hoạch hành động quốc tế về quản lý năng lực khai thác.
+ Công ước quốc tế về an toàn sinh mạng trên biển SOLAS.
+ Công ước Torremolinos về an toàn tàu cá.
+ Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ, trong đó có thiết lập “ Vùng đánh cá
chung “ giữa Việt Nam và Trung quốc.
+ Hiệp định phân định các vùng chồng lấn, biên giới biển với các nước

láng giềng.
+ Tiếp tục đàm phán phân định biên giới biển với các nước liên quan.
+ Tham gia nhiều cuộc hội nghị quốc tế về “ Đánh cá có trách nhiệm “ “
Ngăn chặn đánh bắt bất hợp pháp ”, lắp các thiết bị thoát rùa (TED) và thoát cá
con, cá tạp (JTED).
5.2.2. Ở cấp quốc gia :
Các văn bản luật của Việt Nam liên quan đến ngăn chặn đánh cá bất hợp
pháp :
+ Ngày 25/4/1989, Nhà nước Việt Nam đã công bố “ Pháp lệnh bảo vệ và
phát triển nguồn lợi hải sản như sau :
* Cấm sử dụng chất độc, chất nổ, dòng điện để khai thác cá.
12


* Cấm để rò rỉ chất độc hại có nồng độ vượt qua qui định.
* Cấm khai thác các đối tượng quí hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng.
* Cấm khai thác có thời hạn ở các bãi đẻ của các loài thuỷ sản.
* Cấm dùng các kích thước mắt lưới nhỏ hơn qui định.
+ Luật thuỷ sản – Đã được Quốc hội Nước Cộng hoà XHCN Việt Nam
thông qua ngày 26/11/2003.
+ Nghị định 191/2004/NĐ-CP ngày 18/11/2004 của Chính phủ, về quản
lý hoạt động thuỷ sản của tàu cá nước ngoài trong vùng biển Việt Nam.
+ Nghị định 66/2005/NĐ-CP, ngày 19/5/2005 của Chính Phủ, về đảm bảo
an toàn cho người và tàu cá hoạt động khai thác thuỷ sản.
+ Nghị định 128/2005/NĐ-CP, ngày 11/10/2005 của Chính phủ, qui định
về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuỷ sản.
+ Nghị định 123/2006/NĐ-CP, ngày 27/10/2006 của Chính Phủ về quản
lý hoạt động khai thác thuỷ sản của tổ chức, cá nhân Việt Nam trên các vùng
biển.
+ Nghị định 71/2006/NĐ-CP, ngày 25/7/2006 của Chính phủ về quản lý

cảng biển và luồng hàng hải.
+ Quyết định 131/2004/QĐ-TTg, ngày 16/7/2004 của Thủ Tướng, về phê
duyệt Chương trình bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản đến năm 2010.
Để có thể ngăn chặn ĐBBHP một cách hữu hiệu, Việt Nam tiếp tục soạn
thảo và điều chỉnh các văn bản luật mới để phù hợp với tình hình thực tế hiện
nay.
6. Kế hoạch hành động quốc gia của Việt Nam nhằm ngăn chặn đánh
bắt bất hợp pháp đến 2015.
6.1. Mục tiêu:
Đảm bảo cho sự phát triển nghề cá Việt Nam một cách bền vững. Bảo tồn
tốt nguồn lợi và môi trường ; Trình độ quản lý năng lực khai thác được nâng
cao, ngăn chặn có hiệu quả đánh bắt bất hợp pháp.
6.2. Nội dung công việc cần thực hiện:
6.2.1. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản qui phạm pháp luật liên
quan đến ngăn chặn đấnh bắt bất hợp pháp.
- Hoàn thiện các văn bản dưới luật liên quan đến ĐBBHP của luật thuỷ
sản – 2003 trong đó liên quan đến các chế tài về xử lý các vi phạm luật như : sử
dụng các ngư cụ và phương pháp đánh bắt có hại; Đánh bắt ở những vùng cấm,
mùa cấm khai thác; Nghĩa vụ ghi sổ nhật ký khai thác. . .
- Xây dựng ( hoàn thiện ) các văn bản luật liên quan đến giám sát, kiểm
tra và điều tra các hoạt động của tàu đánh cá như các qui định về sử dụng mạng
lưới của hệ thống giám sát tàu cá (VMS), chế độ báo cáo sản lượng khai thác, vị
trí ngư trường khai thác và xuất xứ của sản phẩm trên tàu(nếu là sản phẩm mua).
13


- Các văn bản luật xác định quyền và nghĩa vụ kiểm tra giám sát của các
cảng liên quan đến việc bốc dỡ cá tại cảng, bảo đảm rằng xuất xứ sản phẩm
không phải của các tàu hoạt động đánh bắt bất hợp pháp, chất lượng sản phẩm
không vi phạm qui định về an toàn vệ sinh.

Các văn bản luật về thương mại thuỷ sản, liên quan đến việc gắn nhãn
sinh thái cho sản phẩm, trong đó có các thông tin chứng minh nguồn gốc sản
phẩm không phải từ ĐBBHP và bảo đảm về chất lượng sản phẩm.
- Các qui định an toàn cho các tàu cá cỡ nhỏ ( chiều dài vỏ tàu < 24m ,
loại tàu này không thuộc phạm vi điều chỉnh của công ước Torremolinos về an
toàn tàu cá ).
- Các văn bản luật qui định những điều kiện để nhận được giấy phép
đánh cá tạm thời trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cũng như ở vùng
nước ngoài quyền tài phán của Việt Nam.
6.2.2. Củng cố hệ thống giám sát, kiểm tra và điều tra.
- Củng cố hệ thống “ Giám sát, kiểm tra và điều tra”, trong đó bao gồm
việc củng cố cơ cấu tổ chức của hệ thống, mạng lưới kiểm tra, giám sát; trang bị
kỹ thuật để kiểm tra ; trình độ nghiệp vụ của các kiểm tra viên để tiến hành tốt
công tác kiểm tra ngăn chăn ĐBBHP. - Phát triển mạng lưới “Giám sát-Kiểm
tra-Điều tra” phù hợp cho từng vùng biển. Thúc đẩyviệc thu thập và chia sẻ
thông tin . Điều phối các hoạt động kiểm tra trên biển nhằm thực hiện đánh cá
có trách nhiệm.
- Hoàn thiện các qui định và biện pháp quản lý trong giám sát, kiểm tra và
điều tra để chống lại ĐBBHP.
- Tổ chức tập huấn, nâng cao nhận thức và hiểu biết của ngư dân về các
hoạt động của hệ thống kiểm tra để ngư dân chấp hành và tự giác thực hiện các
qui định chống ĐBBHP.
- Trang bị và vận hành hệ thống giám sát tàu cá qua vệ tinh (VMS). Hệ
thống này sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong việc ngăn chặn các tàu cá hoạt
động vi phạm vào các vùng cấm đánh bắt và vi phạm vào vùng đặc quyền kinh
tế của nước khác .
- Đến năm 2015, hoàn thành việc đăng ký tàu cá, cấp giấy phép đánh cá,
trên cơ sở tính toán số lượng tàu cá sao cho khả năng khai thác phù hợp với khả
năng cho phép của nguồn lợi .
6.2.3. Xây dựng năng lực.

Việc nâng cao năng lực cho các kiểm tra viên và trang bị các phương tiện
kỹ thuật để kiểm tra là rất cần thiết. Các cán bộ kiểm tra cần được huấn luyện kỹ
thuật, kinh nghiệm trong quản lý nguồn lợi, trong giám sát, kiểm tra và điều tra.
Các công việc cần thực hiện là :
- Tăng cường thêm nguồn kinh phí, phương tiện và lực lượng cho các Chi
Cục KT&BVNL để nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra các hoạt đông
ĐBBHP.
14


- Soạn thảo tài liệu hướng dẫn về kỹ năng kiểm tra, giám sát đối với các
hoạt động của tàu cá trên biển và bốc dỡ cá ở cảng.
- Tổ chức các cuộc tập huấn về kỹ năng kiểm tra, giám sát ; kỹ năng quản
lý các hoạt động của tàu cá thông qua hệ thống VMS.
- Thực hiện các đề tài nghiên cứu phục vụ cho việc ngăn chặn đánh bắt
bất hợp pháp như :
* Nghiên cứu áp dụng các thiết bị thoát rùa, thoát cá con vào nghề cá Việt
Nam.
* Áp dụng lưỡi câu vòng để tránh sát hại rùa biển.
* Thiết lập các khu bảo tồn biển .
* Nghiên cứu các giải pháp chuyển đổi nghề ( đối với những nghề có hại
); giảm số lượng tàu cá nhỏ để giảm năng lực khai thác ( giảm cạnh tranh trong
khai thác ).
6.2.4. Bảo vệ nguồn lợi, hệ sinh thái biển và môi trường.
Hiện nay, việc dư thừa năng lực khai thác (Số lượng tàu đánh cá quá
cao), dẫn đến khai thác quá mức nguồn lợi hải sản . Điều này cũng là nguyên
nhân dẫn đến khai thác bất hợp pháp.
Các hoạt động cần tiến hành là :
- Tiếp tục nghiên cứu, đánh giá hiện trạng nguồn lợi hải sản và khả năng
khai thác của các đội tàu.

- Hợp tác với các nước trong khu vực để đánh giá, bảo tồn và quản lý
nguồn lợi cá di cư trong và ngoài vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
- Xúc tiến các đề án thành lập các khu bảo tồn ( dự kiến đến 2015 thành
lập thêm 11 khu bảo tồn ).
- Triển khai các chương trình áp dụng các thiết bị thoát rùa cho lưới kéo
tôm , thiết bị thoát rùa con, cá tạp cho lưới kéo đáy , lưỡi câu vòng cho nghề câu
vàng cá ngừ .
- Thúc đẩy việc áp dụng phân tuyến khai thác (tuyến bờ, tuyến lộng, tuyến
khơi )để qui định vùng hoạt động phù hợp với từng cỡ loại tàu. Cấm sự hoạt
động của nghề lưới kéo ở vùng biển sát bờ.
- Tăng cường công tác bảo vệ nguồn lợi; Thực hiện việc cấm đánh bắt ở
một số khu vực bãi đẻ của cá vào thời gian nhất định; Bảo vệ các loài có nguy
cơ tuyệt chủng.
6.2.5. Quản lý các hoạt động khai thác.
- Áp dụng các biện pháp quản lý để giảm tình trạng dư thừa năng lực khai
thác, giảm việc khai thác quá mức và chống lại ĐBBHP. Đảm bảo cho sản
lượng khai thác phù hợp với sản lượng cho phép khai thác cực đại (MSY) , đồng
thời chú trọng đến khía cạnh kinh tế xã hội .
- Qui hoạch lại cơ cấu tàu thuyền khai thác, theo hướng giảm số lượng
tàu nhỏ khai thác ven bờ; Giảm tính cạnh tranh trong khai thác để giảm nguy cơ
khai thác bất hợp pháp.
15


* Qui hoạch cơ cấu tàu thuyền cần dựa trên kết quả của những nghiên cứu
khoa học về kinh tế-sinh học nghề cá.
* Khẩn trương hoàn thành việc qui hoạch cơ cấu tàu thuyền đánh cá cho
từng tỉnh ven biển.
* Các đề án phải có kế hoạch và lộ trình cụ thể để giảm số lượng tàu cá
qui mô nhỏ, trong đó đặc biệt chú ý đến các vấn đề kinh tế-xã hội nghề cá có

liên quan .
* Đặc biệt chú trọng đến quản lý nghề cá qui mô nhỏ. Có các chính sách
trợ giúp để thực hiện giảm số lượng tàu nhỏ dư thừa và quản lý tốt nguồn lợi ven
bờ.
- Thực hiện chương trình đánh cá có trách nhiệm. Hạn chế về cơ bản việc
sử dụng các ngư cụ và phương pháp khai thác có hại vào năm 2015.
- Xây dựng chương trình phối hợp về kiểm tra, kiểm soát, cứu nạn, cứu
hộ trên biển giữa Bộ NN và PTNT với các lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển.
Biên phòng và Ủy ban quốc gia tìm kiếm cứu nạn. Tăng cường đầu tư trang thiết
bị kỹ thuật phục vụ ngăn chặn ĐBBHP, cứu hộ , cứu nạn, bảo đảm an ninh quốc
phòng trên biển.
- Xây dựng các biện pháp quản lý và chế tài xử phạt đủ mạnh để ngăn
chặn có hiệu quả tình trạng ĐBBHP.
- Phối hợp với các nước trong vùng và các tổ chức quốc tế (FAO,
SEAFDEC) trong việc cung cấp thông tin và phối hợp ngăn chặn các hoạt động
khai thác bất hợp pháp.
- Áp dụng quản lý dựa vào cộng đồng để khuyến khích ngư dân tham gia
vào quản lý nghề cá và tự giác chấp hành các qui định về quản lý khai thác và
bảo vệ nguồn lợi.
6.2.6. Thu thập và trao đổi thông tin.
- Nâng cấp hệ thống thống kê nghề cá, trong đó cần có nguồn ngân sách
của Nhà nước cho công tác thống kê một cách ổn định, lâu dài và chuyên nghiệp
hoá.
- Thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu để lưu trữ các số liệu của hệ thống giám
sát, các số liệu của tàu vi phạm, dữ liệu về cường lực khai thác, sản lượng khai
thác. Xác định được sản lượng khai thác bất hợp pháp và nguồn gốc của sản
lượng này ; số lượng các tàu có đăng ký, có giấy phép khai thác; danh sách các
tàu, vùng lãnh thổ không hợp tác, không tuân theo các qui định chống lại đánh
bắt bất hợp pháp.
- Thúc đẩy việc tập hợp, xử lý số liệu và cung cấp thông tin kịp thời, tin

cậy là rất cần thiết để quản lý nguồn lợi, quản lý các hoạt động khai thác, thương
mại thuỷ sản cả ở cảng và trên biển, nhằm đấu tranh chống lại ĐBBHP .
- Chia sẻ thông tin với các nước trong khu vực để ngăn chặn ĐBBHP.
6.2.7. Quản lý các cảng cá.

16


Các cảng cá đóng vai trò quan trọng trong đấu tranh chống lại ĐBBHP .
Cảng phục vụ cho nhu cầu bốc cá, hỗ trợ cho các hoạt động khai thác cá và cũng
giúp cho việc kiểm tra ngăn chặn ĐBBHP. Các hoạt động cần tiến hành là :
- Chấp hành các biện pháp quản lý cảng cá dựa trên “ Qui trình mẫu về
biện pháp kiểm tra ở cảng để ngăn chặn ĐBBHP “ .
- Có các chính sách và nguồn lực để hỗ trợ các cảng cá thực hiện các biện
pháp quản lý, ngăn chặn ĐBBHP.
- Tăng cường kiểm tra tình trạng bảo quản và chất lượng cá của các tàu
đánh cá khi bốc hàng tại cảng .
- Kiểm tra nguồn gốc ngư trường khai thác và các biện pháp khai thác.
- Kiểm tra tình trạng xuất nhập cá đúng luật.
- Kiểm tra kích thước cá non tuổi, cá có nguy cơ tuyệt chủng.
- Kiểm tra sổ nhật ký khai thác của các tàu cá (theo qui định trong Luật
Thuỷ Sản 2003).
6.2.8. Quản lý thị trường.
Để giảm việc không báo cáo sản lượng và ngăn chặn ĐBBHP, cần phải
thực hiện các biện pháp quản lý thị trường . Bao gồm :
- Tiêu chuẩn hoá các biểu mẫu ghi số liệu về sản lượng cá bốc lên bờ.
Thực hiện ghi chép hồ sơ đánh bắt của chuyến biển, trong đó ghi rõ xuất sứ của
sản phẩm đối với các sản phẩm có giá trị cao.
- Kiểm tra việc xuất nhập cá của các tàu nước ngoài theo đúng qui định
của luật quốc tế.

- Kiểm tra các sản phẩm thuỷ sản khi vận chuyển bằng đường bộ. (các
loài cần được bảo vệ ; kích thước cá ...).
- Chấp hành các qui định liên quan đến thương mại quốc tế .
- Nghiên cứu các biện pháp để quản lý việc mua bán cá trên biển, nhằm
ngăn chặn ĐBBHP.
7. Các đòi hỏi đặc biệt của các nước đang phát triển cũng như của Việt
Nam.
Xuất phát từ đặc điểm nghề cá của các nước đang phát triển và của Việt
Nam là nghề cá qui mô nhỏ, đa nghề, đa loài, nên khi thực hiện chương trình
hành động ngăn chặn đánh bắt bất hợp pháp, các nước này đã gặp phải nhiều
khó khăn như sau :
- Rất khó quản lý số lượng lớn các tàu đánh cá nhỏ :
Các tàu đánh cá qui mô nhỏ thường có số lượng lớn ở các nước đang phát
triển. Riêng ở Việt Nam, số lượng các tàu có công suất máy nhỏ hơn 90cv chíếm
84 % tổng số tàu đánh cá ( khoảng 73.200 chiếc ). Các tàu này thường thiếu
hoặc không có các phương tiện thông tin liên lạc; Ngư trường hoạt động là vùng
ven bờ, thường xuyên vi phạm các qui định về bảo tồn, đánh bắt nhiều cá non
tuổi; Sử dụng các biện pháp và ngư cụ có hại để khai thác hải sản; Sản lượng cá
17


đánh bắt được nhiều khi không cập cảng để bốc cá và thường không báo cáo sản
lượng. Ngư dân trên các tàu cá nhỏ thường nghèo, ý thức chấp hành các qui định
quản lý kém.
Những điều trên gây khó khăn rất lớn cho công tác kiểm tra, kiểm soát.
Một trong những giải pháp để quản lý là cần nghiên cứu áp dụng mô hình “
Quản lý dựa trên cộng đồng”. Tuy nhiên, đây là mô hình mới và đang cần tiếp
tục nghiên cứu để áp dụng.
- Hệ thống giám sát, kiểm tra nghề cá chưa mạnh; Thiếu các trang bị và
phương tiện để kiểm tra.

Hệ thống kiểm tra của các nước đang phát triển và Việt Nam còn chưa đủ
mạnh, còn thiếu các trang bị kỹ thuật như hệ thống các tàu kiểm ngư, hệ thống
giám sát tàu qua vệ tinh ( VMS ). Vì vậy vấn đề kiểm tra và ngăn chặn đánh bắt
bất hợp pháp cũng gặp nhiều khó khăn và cần có sự hợp tác quốc tế trong vấn đề
này.
Tài liệu tham khảo
1. Chung, Bui Dinh et all, 1999. Summary results of stock abundance and marine
fishing capacity in Vietnam. RIMF.
2. Implementation of the International Plan of Action to Prevent, Deter and Eliminate
Illegal. Unreported and Unregulated Fishing. FAO Technical Guidelines for
Responsible Fisheries . FAO, Rome, 2002.
3. Long, Nguyen, 1997. Report of the project “Evaluation of the current status, fishing
skill and fishing techniques in off shore fisheries of Vietnam” (Document of RIMF)
4. Long, Nguyen, 1998. Report of sub-project “Scientific base on the fishing in order
to utilize reasonably marine resources”. (Document of RIMF)
5. Managing fishing capacity and IUU fishing in the Asian region.

6.
7.
8.
9.

APFIC Regional consultative workshop – Phuket, Thailand, 13-15 June 2007.
Rap Publication 2007/18.
Ministry of Fisheries. Yearly fisheries statistics of Ministry of Fisheries.
Stopping Illegal, Unreported and Unregulated Fishing. FAO, 2002.
Vinh, Chu Tien, 1999. Report on exploring marine resources to support for off shore
fisheries development (Document of RIMF)
Yearly Reports of provincial fisheries departments of Vietnam .


18



×