Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Lạm phát ở Việt Nam từ 1980 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.83 KB, 18 trang )

Bộ Giáo Dục Và Đạo tạo
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Tiểu luận nhóm
Đề tài
Tình hình lạm phát ở Việt Nam từ năm 1988 đến nay
Sinh viên thực hiện :
Phạm Thị Cẩm Linh

MSSV

Lê Thị Kim Ngân

MSSV : 31151022323

Lớp : DC028


Mục Lục


A. LỜI MỞ ĐẦU

Lạm phát, thất nghiệp, tăng trưởng kinh tế là ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế vĩ mô.
Trong đó, lạm phát là một vấn đề vô cùng nóng bỏng và có ảnh hưởng to lớn tới bề mặt
kinh tế xã hội hiện nay. Sự gia tăng liên tục mức giá chung của nền kinh tế đã làm thay
đổi mức sống, thu nhập thực tế và chi tiêu mua sắm hàng hóa dịch vụ của một nước có
thể giảm, nền kinh tế phát triển chậm bởi lạm phát. Lạm phát là một con dao hai lưỡi.
Một mặt nó kích thích tăng trưởng kinh tế, mặt khác khi lạm phát cao và không kiểm soát
được thì nó để lại hậu qủa nghiêm trọng đối với nền kinh tế cũng như xã hội
Việt Nam cũng như phần lớn các nước khác khi vừa trải qua chiến tranh, đều phải đối
mặt với tỉ lệ lạm phát rất cao, lên đến ba con số. Nhất là thời kì siêu lạm phát, tỷ lệ lạm


phát của Việt Nam khi ấy đạt tới 774,7% vào năm 1986 và vẫn kéo dài ở mức ba rồi hai
con số cho đến những thập niên 90. Hiện nay dù nền kinh tế nước ta đã chuyển thành nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trải qua ba mươi năm đã đối mặt với mức
lạm phát cao, nhưng việc làm thế nào để giữ mức lạm phát ổn định lâu dài vẫn là mối lo
của những nhà hoạch định chính sách
Vậy, tại sao lạm phát lại là một bất lợi của một quốc gia ? Cái giá thực sự mà lạm phát
gây ra cho xã hội là gì ? Những điều đó cho ta thấy được tầm quan trọng của lạm phát
trong nền kinh tế, cũng như khi lạm phát bùng nổ thì những biện pháp nào là hữu hiệu để
khống chế và kiểm soát lạm phát. Nhận thấy được tầm quan trọng của lạm phát đối với
nền kinh tế của một quốc gia nhóm chúng em quyết định chọn đề tài “ Tình hình lạm phát
ở Việt Nam từ năm 1988 đến nay”
Trong quá trình làm không tránh khỏi những sơ xuất hoặc có những điểm chưa chính xác
mong thầy thông cảm và đóng góp ý kiến cho bài tiểu luận của chúng em được tốt hơn.


I.

Lý thuyết :

1. Khái niệm lạm phát :
Trong kinh tế vĩ mô (macroeconomics), lạm phát là sự tăng mức giá chung của hàng hóa
và dịch vụ theo thời gian, và sự mất giá trị của một loại tiền tệ. Khi so sánh với các nước
khác thì lạm phát là sự giảm giá trị tiền tệ của một quốc gia này so với các loại tiền tệ của
quốc gia khác. Theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu lạm phát của một loại tiền tệ tác
động đến phạm vi nền kinh tế một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu lạm
phát của một loại tiền tệ tác động đến phạm vi nền kinh tế sử dụng loại tiền tệ đó. Phạm
vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một vấn đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế
học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ
số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự "ổn định giá cả".


2. Các mức lạm phát :
Người ta phân biệt có ba mức lạm phát khác nhau : lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã,
và siêu lạm phát :

2.1 Lạm phát vừa phải :
Khi giá cả tăng chậm ( dưới 10%/ năm), còn gọi là lạm phát một con số ( từ 1% đến 9%).
Trong điều kiện lạm phát vừa phải, giá cả tương đối không khác mức bình thường bao
nhiêu, lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa chênh nhau không đáng kể, tiền giữ được
phàn lớn giá trị của nó từ năm này sang năm khác ( không bị mất giá). Những kế hoạch
dự đoán tương đối ổn định không bị xáo trộn

2.2 Lạm phát phi mã :
Tỷ lệ tăng giá trên 10% đến < 100% được gọi là lạm phát 2 hoặc 3 con số. Đồng tiền mất
giá nhiều, lãi suất thực tế thường âm, không ai muốn giữ tiền mặt mọi người chỉ giữ
lượng tiền tối thiểu vừa đủ cần thiết cho việc thanh toán hằng ngày. Mọi người thích giữ
hàng hóa, vàng hay ngoại tệ. Thị trường tài chính không ổn định ( do vốn chạy ra nước
ngoài).

2.3 Siêu lạm phát :
Là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá
trị. Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một định
nghĩa đơn giản là chỉ số lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên (nghĩa là cứ 51 ngày thì giá
cả lại tăng gấp đôi). Nếu trong lạm phát phi mã nền kinh tế có vẻ còn sống sót được
( mặc dù không ổn định ) thì trong siêu lạm phát, nền kinh tế xem như đi vào cõi chết.


Trong siêu lạm phát, tốc độ chu chuyển tiền tăng rất nhanh còn hàng thì không tăng lên,
có tăng thì tăng rất ít.

3. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát :

Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến lạm phát, song những nguyên nhân đó đều
có những tính chất chung đó là :
Lạm phát do cầu kéo: Khi nhu cầu của thị trường về một mặt hàng nào đó tăng lên sẽ kéo
theo sự tăng lên về giá cả của mặt hàng đó. Giá cả của các mặt hàng khác cũng theo đó
leo thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hóa trên thị trường. Lạm phát do
sự tăng lên về cầu (nhu cầu tiêu dùng của thị trường tăng) được gọi là “lạm phát do cầu
kéo”.
– Lạm phát do chi phí đẩy: Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả
nguyên liệu đầu vào, máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế… Khi giá cả của
một hoặc vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn
cũng tăng lên, vì thế mà giá thành sản phẩm cũng sẽ tăng lên nhằm bảo toàn lợi nhuận và
thế là mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng sẽ tăng được gọi là “lạm phát do chi
phí đẩy”.
– Lạm phát do cơ cấu: Với ngành kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp tăng dần tiền
công “danh nghĩa” cho người lao động. Nhưng cũng có những nhóm ngành kinh doanh
không hiệu quả, doanh nghiệp cũng theo xu thế đó buộc phải tăng tiền công cho người
lao động. Nhưng vì những doanh nghiệp này kinh doanh kém hiệu quả, nên khi phải tăng
tiền công cho người lao động, các doanh nghiệp này buộc phải tăng giá thành sản phẩm
để đảm bảo mức lợi nhuận và làm phát sinh lạm phát.
– Lạm phát do cầu thay đổi: Khi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ về một mặt hàng nào
đó, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung
cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể
giảm, như giá điện ở Việt Nam), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá.
Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng
lên, dẫn đến lạm phát.
– Lạm phát do xuất khẩu: Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung
(thị trường tiêu thụ lượng hàng nhiều hơn cung cấp), khi đó sản phẩm được thu gom cho
xuất khẩu khiến lượng hàng cung cho thị trường trong nước giảm (hút hàng trong nước)
khiến tổng cung trong nước thấp hơn tổng cầu. Khi tổng cung và tổng cầu mất cân bằng
sẽ nảy sinh lạm phát.

– Lạm phát do nhập khẩu: Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập khẩu tăng
hoặc do giá cả trên thế giới tăng) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng lên.
Khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên sẽ hình thành lạm phát.
– Lạm phát tiền tệ: Khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do ngân
hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với
ngoại tệ; hay do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước làm cho
lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.


II.

Thực trạng lạm phát ở Việt Nam :

Việt Nam đã từng trải qua thời kì lạm phát cao và kéo dài với những ảnh hưởng nghiêm
trọng tới nền kinh tế trong suốt thập kỉ 80. Đó là những gì tất yếu xảy ra với một nền kinh
tế tập trung bao cấp thời kì chiến tranh, cơ chế quản lý yếu kém cùng với những chính
sách không còn phù hợp với thời đại đã trực tiếp đẩy nền kinh tế nước ta rơi vào khủng
hoảng. Mặc dù tình trạng lạm phát trong những năm gần đây đã được kiểm soát ở mức
vừa phải, nhưng với những sự bất ổn thường xuyên xảy ra và không thể lường trước được
cùng với tình trạng giảm phát liên tục đã gây không ít khó khăn cho những nhà hoạch
định chính sách. Căn cứ mức độ và nguyên nhân diễn ra lạm phát trong suốt giai đoạn từ
1988 đến nay, có thể chia tình hình lạm phát ở Việt Nam ra làm ba giai đoạn lớn :

1. Giai đoạn 1986-1996 :
Thực sự lạm phát đã xuất hiện nhiều năm trước đó chỉ có điều lúc đó không ai thừa nhận
có lạm phát trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, không ai dám đưa vấn đề ra để phân tích,
bàn luận công khai. Cuối thập kỷ 80, cùng với sự cải tổ của Liên Xô, các nước Đông Âu
lần lượt bị sụp đổ, nguồn viện trợ cho Việt Nam bị cắt giảm mạnh, giá của sắt, thép, dầu
hỏa, máy móc thiết bị tăng lên, dẫn đến chi phí sản xuất tăng. Mặt khác, tình hình trong
nước khó khăn, tiền không đủ chi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Để giải quyết

tình trạng này, chính phủ phải in thêm tiền để các xí nghiệp quốc doanh mua nguyên vật
liệu. Tuy nhiên lẽ ra trước khi làm cuộc cách mạng về tiền thì Chính Phủ phải làm cuộc
cách mạng về giá và lương, nhưng ta đã làm theo qui trình ngược: Tiền - Lương - Giá.
Hậu quả là cuộc đổi tiền năm 1985 đã bị coi là không thành công nhất trong lịch sử lưu
thông tiền tệ Việt nam. Ngay sau khi đổi tiền, tình trạng lạm phát tiếp tục gia tăng hơn
bao giờ hết, chỉ 3,5 tháng sau ngày đổi tiền, Nhà nước đã phải cho phát hành thêm vào
lưu thông một khối lượng lớn tiền tương đương với 1,38 lần khối lượng tiền mới đã phát
hành trong đợt đổi tiền trước đó để phục vụ công cuộc cải cách lương và giá. Tiếp đó lại
là một quá trình diễn biến phức tạp mới về quan hệ tiền - hàng và kết quả là lạm phát đã
không ngừng gia tăng. Có năm như năm 1986, lạm phát tới trên 774,7% ngay đối với
đồng tiền mệnh giá mới đã gấp 10 lần đồng tiền mệnh giá cũ. Vì thế, sau đại hội lần thứ
VI, Đảng ta đã đề ra đường lối mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta vẫn đang trong tình trạng khủng hoảng kinh tế
xã hội, kinh tế tăng trưởng chậm và không ổn định, bình quân thời kì 1986- 1989, công
nghiệp tăng 6.2%, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 3.9%, trong khi dân số tăng 2.3%. Ở giai
đoạn này, hầu hết các cân đối lớn đều căng thẳng, thâm hụt ngân sách nhà nước ở mức độ
8% so với GDP, kinh ngạch xuất khẩu chỉ đạt ở mức thấp và chỉ bằng 54% so với kim
ngạch nhập khẩu. Năm 1986, kim ngạch xuất khẩu đạt 494 triệu USD, đến năm 1990
cũng chỉ đạt 1731 triệu USD. Trong giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam đã chứng kiến
hiện tượng lạm phát phi mã với mức đỉnh điểm là 774.7% vào năm 1986, 223.1% năm
1987 và 393.8% năm 1988.


Chỉ số tăng giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trên
thị trường trong thời kì 1988-1995 (%)
Năm
1988
1989
1990
1991


Tốc độ cả năm
308,2
134,9
167,5
167,6

Năm
1992
1993
1994
1995

Tốc đọ cả năm
117,4
105,2
114,5
112,7
Nguồn : Tổng cục thống kê

Ở giai đoạn này,mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của các nhân tố khác, song hiện tượng siêu
lạm phát ở Việt Nam thời kì này gắn chặt với tốc độ tăng trưởng lượng tiền trong lưu
thông (CU) tương ứng là 272.7% năm 1987 và 399,5% năm 1988 cũng như là sự gia tăng
quá mức của tăng trưởng cung tiền mở rộng M2 tương ứng là 320.5% năm 1987 và gần
445,4 % năm 1988 do tiến hành bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước bằng cách phát
hành tiền. Mức tín dụng cũng trong tình trạng quá nóng với tốc độ tăng trưởng tín dụng
đạt 429% và 394.9% trong năm 1987 và 1988. Hầu hết tín dụng trong nước thời kỳ này
đều dành phân bổ cho các doanh nghiệp quốc doanh với hậu quả là đầu tư thấp, năng suất
không cao.
Cũng trong giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam không chỉ hiện tượng lạm phát phi mã

mà còn ghi nhận sự thành công trong việc chống và kiềm chế lạm phát xuống mức 34.7%
vào năm 1989. Để đối phó với tình hình này, nhiều chương trình và chính sách cải cách
đã được tiến hành với các mức độ ảnh hưởng khác nhau đến việc chống lạm phát. Đặc
biệt là cải cách trong hệ thống ngân hàng, giữa năm 1988, hệ thống ngân hàng Việt Nam
được hình thành hai cấp, tách biệt giữa việc quản lí và kinh doanh tiền tệ. Chính điều này
đã hạn chế đáng kể mức cung ứng tín dụng nóng cho các doanh nghiệp nhà nước theo
kiểu kế hoạch chỉ tiêu rót trước và tốc độ tăng trưởng tín dụng trong nước đã được kiềm
chế tụt xuống chỉ còn khoảng 155.1%. Đồng thời, ngân hàng nhà nước cũng điều chỉnh
chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt dần và tăng mạnh lãi suất tiền gửi tiết kiệm lên
đến 9%, bảo đảm bằng vàng nhằm thu bớt lượng tiền mặt trong lưu thông và tiền nhàn rỗi
dân cư, góp phần đáng kể vào giảm tốc độ tăng trưởng tiền mặt trong lưu thông xuống
còn 129.69% năm 1989. Thêm vào đó, ngân hàng nhà nước chủ trương phá giá mạnh
đồng nội tệ vào tháng 3 năm 1989 và đính chính tỷ giá theo sát tín hiệu thị trường. Nhờ
thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt dần mà tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam đã giảm xuống
chỉ còn khoảng 34.7% năm 1989, các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế đều tăng dần, đồng thời
mở ra một thời kỳ mới cho nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó, năm 1989 có những hiện
tượng như là có "phép tiên", khi Đảng ta chủ trương mở cửa kinh tế để giải quyết khó
khăn do thiếu hàng tiêu dùng, hàng nhập tràn ngập thị trường và xuất hiện ngay trong cả
nước những dãy phố xá đầy ắp hàng hóa. Đó là do hàng hóa và dịch vụ lưu thông, tăng
vọt khoảng hơn hai lần làm cho tiền tăng 209,5%, mà lạm phát phi mã lại chấm dứt hẳn.
Với những nỗ lực trong việc đưa ra các giải pháp khắc phục lạm phát bước sang năm
1990, tình hình kinh tế nước ta có nhiều chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng đạt khá


cao, liên tục và toàn diện, nền kinh tế bước đầu vượt qua khủng hoảng để đi vào thế ổn
định. Tổng sản phẩm trong nước thời kỳ này bình quân tăng 8.2% trong một năm, tăng
dần theo các năm 1991 là 6%, 1993 là 8.1% và năm 1995 là 9.5%, sản lượng lương thực
thực phẩm hằng năm tăng 4%, là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới, giá trị sản
xuất công nghiệp tăng bình quân hằng năm là khoảng 13%. Các ngành dịch vụ phát triển
đa dạng, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và phục vụ đời sống của nhân dân. Lạm phát

bước đầu đã được ngăn chặn, chỉ số giá tiêu dùng giảm từ 67.1% năm 1990 xuống còn
12.7% năm 1995. Mặc dù chỉ số giá vẫn còn ở mức hai con số, nhưng đây là chỉ số nhỏ
bé so với các năm trước đó, tình hình kinh tế khởi sắc, đời sống nhân dân ngày càng được
cải thiện, tăng sự tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân từ năm 1990- 1996 (%)
Năm

Tốc độ tăng
trưởng GDP

Năm

Tốc độ tăng
trưởng GDP

1990
1991
1992
1993

5,09
5,81
8,70
8,08

1994
1995
1996

8,83

9,54
9,34
( Nguồn : ADB.org )

2. Giai đoạn 1997-2006 :
Đến năm 1996, tình hình kinh tế xã hội đã đi vào thế ổn định và phát triển, đây là giai
đoạn được xác định là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, có sự kế thừa những thành quả đã đạt được trong giai
đoạn trước, tình hình kinh tế xã hội tiếp tục có những chuyển biến tích cực đạt tốc độ
tăng trưởng kinh tế khá cao ( 9,34% ) . Tuy nhiên, khủng hoảng kinh tế khu vực đã có
những tác động lớn đến nền kinh tế nước ta. Đồng thời , nền kinh tế nước ta đã phải đối
mặt với những thách thức quyết liệt từ những yếu tố không thuận lợi bên ngoài và thiên
tai liên tiếp ở trong nước. Do tác động của cuộc khủng hoảng, tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam đang ở mức cao trong thời kỳ 1995-1997, thì đến năm 1998 chỉ tăng 5,76%,
năm 1999 chỉ tăng 4,77%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký, nếu năm 1995 đạt
trên 6,9 tỷ USD, năm 1996 đạt gần 10,2 tỷ USD, thì năm 1997 còn gần 5,6 tỷ USD, năm
1998 còn gần 5,1 tỷ USD, năm 1999 còn gần 2,6 tỷ USD. Giá USD nếu năm 1995 giảm
0,6%, 1996 tăng 1,2%, thì năm 1997 tăng 14,2%, năm 1998 tăng 9,6%,... Tốc độ tăng
kim ngạch xuất khẩu năm 1996 ở mức 33,2%, năm 1997 ở mức 26,6%, đến năm 1998 chỉ
còn 1,9%. Bên cạnh đó, lại có nhiều yếu kém từ nội tại nền kinh tế bộc lộ ra: Thị trường
xuất khẩu bị thu hẹp, sản xuất một số ngành trì trệ


Trước tình hình đó, Đảng và Chính phủ đã có nhiều biện pháp tháo gỡ khó khăn, hạn chế
sự giảm sút, duy trì và ổn định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tốc độ tăng GDP
theo các năm có giảm chút ít. Trong giai đoạn này, điều đặc biệt làm chúng ta quan tâm là
đi cùng với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế có chiều hướng chững lại và đi xuống thì
tỷ lệ lạm phát được kiểm soát, tỷ lệ lạm phát năm 1995 là 12.7%, năm 1997 là 3.6%.
Nhưng từ đầu năm 1996 nền kinh tế bắt đầu có dấu hiệu của giảm phát, khi cuối quý I giá
cả giảm liên tục và chuyển sang âm đến cuối quý IV giá cả mới nhích lên được do điều

chỉnh mức tăng của tổng phương tiện thanh toán. Cho tới năm 1998 mức gia tăng lạm
phát 9,2% gấp khoảng 5,2 lần năm 1997 chấm dứt thời kì thiểu phát tiền tệ kéo dài hai
năm ( 1996-1997). Sở dĩ lạm phát năm này tăng mạnh là do biến động và gia tăng các
yếu tố kích cầu nền kinh tế ( liên quan đến bố trí cơ cấu đầu tư, chi tiêu ngân sách, giảm
khung thuế tiêu thụ đặc biệt,…) bắt đầu phát huy tác dụng.
Năm 1999 giá cả thị trường có diễn biến bất thường, giá cả liên tục giảm trong suốt tám
tháng liền từ tháng 3 đến tháng 12. Đặc biệt tháng 10 năm 1999 CPI giảm 0,8% so với
tháng 12 năm 1998. Điều đó được thể hiện ở chỗ: Tỷ lệ lạm phát năm 1995 là 12.7%,
năm 1997 là 3.6%, năm 1999 là 0.1% và năm 2000 tỷ lệ này là -0.6%. Chỉ số giá lương
thực tháng 10 năm 1999 sút giảm 10.5% so với tháng 12 năm 1998. Sự sút giảm giá
lương thực làm cho CPI chung hầu như không tăng (do tỉ trọng của hàng lương thực
trong rổ hàng hóa lớn).
Trong năm 2000, CPI cả năm giảm 0.6% so với năm 1999. Bước sang năm 2001, CPI
tháng 6/2001 giảm 0.3% so với tháng 6/2000 và giảm 0.7% so với tháng 12/2000. CPI
giảm liên tục trong 3 tháng liên tiếp: tháng 3 giảm 0.7%, tháng 4 giảm 0.5%, tháng 5
giảm 0.2%. Kết quả là đến cuối năm 2001, nhờ nhiều nỗ lực, chúng ta đã đẩy được tỷ lệ
lạm phát lên 0.8%. Theo thống kê, trong giai đoạn này, tình trạng ứ đọng sản phẩm, sản
xuất cầm chừng xảy ra ở một số sản phẩm và một số khu vực, đặc biệt là khu vực nhà
nước. Số hàng tồn kho của Tổng công ty 90-91 trong 6 tháng đầu năm 1999 đã lên tới


60,000 tỷ đồng. Theo báo cáo của IMF, có đến 60% doanh nghiệp nhà nước bị thua lỗ,
trong đó 16% là thua lỗ triền miên. Tình trạng các công ty tư nhân cũng không có gì khá
hơn, trong năm 1998 và 6 tháng đầu năm 1999, có hàng ngàn xí nghiệp thua lỗ phải đóng
cửa, các xí nghiệp lớn thì hoạt động cầm chừng. Tỷ lệ thất nghiệp năm 1999 ở Hà Nội là
10.3% và ở Thành phố Hồ Chí Minh là 7.04%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm: từ tốc độ
tăng trưởng GDP năm 1996 là 9.34% xuống còn 8.15% năm 1997, 5.8% năm 1998, 4.8%
năm 1999, 6.75% năm 2000.
Việc lạm phát xuất hiện ở mức thấp như vậy là do giá hàng nông sản giảm mạnh, đặc biệt
là giá lương thực, cà phê, hạt tiêu, hạt điều làm giảm thu nhập của nông dân, ảnh hưởng

tới sức mua hàng công nghiệp. Từ 1998 đến 6 tháng đầu năm 2001, chỉ số lương thực liên
tục giảm: năm 1999 giảm 7.8%, năm 2000 giảm 7.9%, 6 tháng đầu năm 2001 giảm 5.7%.
Giá những hàng hóa trên giảm không chỉ làm cho CPI chung giảm mà nó còn gián tiếp
làm cho sức mua và giá cả đầu vào các hàng hóa và dịch vụ khác giảm theo. Bên cạnh đó,
hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam chất lượng thấp, giá thành cao nên không có điều kiện
cạnh tranh được với hàng nhập khẩu, đặc biệt là hàng nhập khẩu lậu trốn thuế, do đó giá
cả hàng hóa công nghiệp và dịch vụ đang có xu hướng giảm giá để có thể cạnh tranh
được với hàng hóa nhập khẩu. Kèm theo đó cơ cấu tăng trưởng kinh tế giữa khu vực công
nghiệp và nông nghiệp là không hợp lý, làm cho thu nhập và theo đó là sức mua của nông
dân, là bộ phân cư dân lớn nhất nước không tăng lên được. Tình trạng vốn ứ động ở các
ngân hàng phản ánh người có tiền không muốn bỏ vốn vào đầu tư. Nợ khó đòi và nợ quá
hạn ở các ngân hàng lớn cũng gây ảnh hưởng rất lớn đối với nền kinh tế. Đặc biệt là sự
chậm trễ trong việc cải tiến những chính sách của chính phủ, làm cho nước ta đạt được ít
kết quả trong cạnh tranh, vai trò điều tiết của nhà nước còn rất nhiều hạn chế.
Tóm lại, diễn biến tình hình kinh tế trong giai đoạn từ năm 1996- 2000 là không tốt đối
với nền kinh tế, chính bởi lẽ đó gần cuối giai đoạn này chúng ta đã áp dụng nhiều biện
pháp kích cầu để đẩy tăng trưởng kinh tế lên :
• Để nâng cao sức mua của các tằng lớp dân cư chương trình giải quyết việc làm được
đẩy mạnh: Trong năm 2000, đã thu hút và tạo việc làm cho khoảng 1.3 triệu người, tỷ
lệ thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn khoảng 6.5% so với 7.4% năm 1999, sử
dụng lao động ở nông thôn được nâng lên. Các chương trình xóa đói giảm nghèo, các
chính sách phúc lợi xã hội được thúc đẩy, cải thiện chất lượng cuộc sống của người
dân, xây dựng cơ sở hạ tầng.
• Song song đó là những biện pháp nhằm đẩy mạnh đầu tư sản xuất kinh doanh : Sử
dụng chính sách tiền tệ, cuối năm 1997 Ngân hàng Nhà nước liên tục cắt giảm giá
trần lãi suất cho vay. Năm 1999, Ngân hàng Nhà nước 5 lần điều chỉnh lãi suất cho
vay trung và dài hạn từ 1.25%/tháng xuống còn 0.85%/ tháng, 4 lần điều chỉnh lãi
suất tái cấp vốn từ 1.1%/ tháng xuống 0.55%/tháng, 2 lần điều chỉnh tỷ lệ dữ trữ bắt
buộc đối với các tổ chức tín dụng từ mức 7% xuống còn 5%. Năm 2000, Ngân hàng
Nhà nước bỏ lãi suất trần, chuyển sang điều hành theo lãi suất cơ bản, tạo điều kiện

cho cung cầu về vốn theo cơ chế thị trường và các NHTM chủ động hơn trong kinh
doanh. Lãi suất tiền gửi của hệ thống ngân hàng cũng liên tục giảm xuống đến mức


thấp nhất từ trước đến nay. Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước ban hành các văn bản
nhằm nới lỏng điều kiện vay vốn trong khu vực nông thôn. Cùng với việc ngân hàng
hạ lãi suất cho vay, một loạt các tỉnh và thành phố dành một phần vốn ngân sách của
mình hỗ trợ vay vốn ngân hàng cho một số dự án, một số doanh nghiệp, một số
chương trình kinh tế trọng điểm của địa phương. Sử dụng chính sách tài chính: giảm
thuế suất các mặt hàng nhập khẩu Thuế thu nhập doanh nghiệp được áp dụng theo
mức ưu đãi, thấp nhất là 25% đối với các dự án đầu tư có giá trị xuất khẩu đạt trên
30% tổng giá trị hàng hóa và miễn thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung nếu có giá trị
hàng hóa xuất khẩu trên 50%. Nhà nước cũng quy định miễn thuế thu nhập doanh
nghiệp trong 2 năm đầu co các doanh nghiệp sản xuất, vận tải, xây dựng mới được
thành lập và giảm 50% thuế thu nhập trong 2 năm tiếp theo.
Những biện pháp trên góp phần khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, đặc
biệt trong lĩnh vực đầu tư phát triển theo hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng có
lợi cho quốc tế dân sinh, góp phần khôi phục và ổn định kinh tế, kích thích tiêu dùng.
Với những vấn đề nêu trên, những năm đầu của giai đoạn từ 2001- 2006, chúng ta đã áp
dụng nhiều biện pháp hạn chế thiểu phát nhằm đưa tỷ lệ lạm phát lên một mức hợp lý và
để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn. Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh,
bền vững và ổn định.

Trong những năm này, nền kinh tế của nước ta đạt được nhiều thành tựu khả quan: Năm
2001, tăng trưởng đạt 6.89%, năm 2003: 7.24%, năm 2004: 7.26%, năm 2005: 7.8%. Nền
kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối cao, cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng
công nghiệp hóa hiện đại hóa, đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt. Mọi mặt của đời
sống xã hội được cải thiện và phát triển. Tỷ lệ lạm phát trong các năm này cũng tăng dần,
năm 2000 là -0.6%, năm 2002 là 4%, năm 2004 là 9.5%. Ở giai đoạn này, bên cạnh thực
hiện các biện pháp kích cầu như thực thi chính sách nới lỏng tiền tệ, các công cụ lãi suất,

tỷ giá, hạn mức tín dụng,… Được sử dụng hết sức nhạy bén phù hợp với cung cầu hàng
hóa và giá cả thị trường. Nhưng đến năm 2004, tình hình biến động trên thị trường thế


giới cũng như trong nước, lạm phát lại như một “bóng ma”, một lần nữa rình rập gây bất
ổn nền kinh tế. Với chỉ số giá 9.5% là một ranh giới mỏng manh giữa lạm phát kiểm soát
được và lạm phát cao. Vì thế, nhà nước lại tiếp tục thực hiện những biện pháp nhằm giữ
lạm phát ở mức kiểm soát được cho đến hết năm 2006.

3. Giai đoạn 2007 đến nay :
Năm 2008 được biết đến như một năm năm đầy biến động và sóng gió trên tất cả các thị
trường của nền kinh tế Việt Nam. Từ thị trường trong nước cho đến nước ngoài, từ thị
trường hàng hóa dịch vụ thông thường, cao cấp đến thị trường tài chính và thị trường bất
động sản. Dấu hiệu lạm phát đã xuất hiện từ tháng 6 năm 2007 khi CPI tháng 6 tăng vọt
lên 1%, trái hẳn với thông lệ giá cả hơn một thập kỉ qua. Tín hiệu này đã được ghi nhận
và xử lý kịp thời. Tuy nhiên, do không phân tích đúng nguyên nhân của lạm phát, thêm
vào đó việc triển khai thực hiện không nghiêm túc nên mặc dù tăng trưởng kinh tế cả
năm 2007 ở mức cao trên 8.5%, song lạm phát cũng ở mức kỷ lục 12.63%. Nửa đầu năm
2008, cùng với đà suy thoái kinh tế thế giới, đồng USD mất giá, giá dầu thô tăng cao, giá
cả lương thực, nguyên vật liệu tăng đột biến cùng với tác động của thiên tai dịch bệnh đã
làm lộ rõ những nhược điểm của một nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi như
Việt Nam. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2008 giảm xuống còn 6,31%, năm
2009 còn 5,32%. Trong bối cảnh lạm phát quá cao, kết quả tăng trưởng đã mất đi khá
nhiều ý nghĩa, nhất là đối với các tầng lớp nghèo dễ bị tổn thương, thu nhập chủ yếu
trông chờ vào đồng lương. Khi vật giá leo thang số tiền mỗi người có được dường như là
nhiều hơn do doanh thu bán hàng, thu nhập hoặc tiền lương khá hơn trước. Nhưng thực
chất họ lại mua ít hàng hóa và dịch vụ hơn vì sức mua của đồng tiền đã giảm. Nếu không
nhận diện đúng và có những biện pháp thích hợp thì nguy cơ phải đối mặt với lạm phát
phi mã gây bất ổn kinh tế xã hội là điều khó tránh khỏi.


Chỉ sau 6 tháng, theo thống kê của IFM chỉ số CPI đã lên tới 26.8% so với tháng 6 năm
2007 và 18.44% so với cuối năm 2007. Riêng nhóm hàng lương thực thực phẩm tăng


tương ứng tới 74.3% và gần 60%. Điều này đã phá vỡ mọi dự tính của chúng ta về kiểm
soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Càng nghiêm trọng hơn khi Việt Nam là một nước
nông nghiệp với hơn 60% dân số và lực lượng lao động là nông dân. Sự phụ thuộc của
nền kinh tế nói chung và của giá cả thị trường nói riêng vào những biến động trong khi
vực sản xuất lương thực thực phẩm của nước ta còn rất lớn, mặc dù tỉ trọng nông nghiệp
trong GDP giảm xuống chỉ còn 20%. Thông thường những tháng gần tết giá cả tăng
nhanh, nhưng năm 2008 đặc biệt hơn vì qua tết Mậu Tý mà giá cả vẫn ở mức cao trái
ngược với quy luật vận động của giá cả trong thời gian gần đây.
Giá cả tăng liên tục đã đẩy mức lạm phát tháng sau cao hơn tháng trước. So với tháng 12
(2007), CPI tháng 1 (2008) tăng 2.4%, sang tháng 2 tăng vọt lên 6%, tháng 3 là 9.2%.
Đến tháng 4 chỉ số CPI đã tăng lên tới hai con số (11.6%) và tháng 5 lại tăng đột ngột đến
16%. Đỉnh điểm lạm phát đã đến mức 3.91% vào tháng 5 (2008), trùng với thời điểm giá
cao trên thị trường quốc tế ở mức 1000USD/ tấn, khủng hoảng lương thực đã trở thành
mối đe dọa toàn cầu. Ngay cả một cường quốc xuất khẩu gạo như Việt Nam mà tin đồn
thiếu gạo đã làm rất nhiều người dân hoang mang lo lắng. Các cơ quan chức năng nhà
nước do dự báo sai lệch nên yêu cầu các doanh nghiệp ngừng xuất khẩu mặc dù giá lúa
gạo đang tăng rất cao. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng GDP bắt đầu suy giảm trong khi
tỷ lệ đầu tư vẫn ở mức cao. Xuất hiện những cơn “sốt ảo” USD, vàng, gạo, thép, vật liệu
xây dựng,… Thâm hụt thương mại tăng vọt (gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu). Thị
trường chứng khoán thiết lập đáy mới chỉ khoảng ¼ đỉnh cao nhất là 1173 điểm. Giá
vàng có thời điểm lên đến xấp xỉ 20 triệu VND/ lượng. Sau 3 năm (tính đến tháng 9 năm
2008), đồng tiền đã mất giá 48.5% so với kỳ gốc 2005. Sang tháng 10, 11, 12 liên tiếp ba
tháng giá nhiều loại hàng hóa đã chững lại và giảm xuống, CPI cũng giảm, tốc độ tăng
trưởng kinh tế tháng âm: -0.19% tháng 10, -0.76% tháng 11 và -0.66% tháng 12. Tỷ lệ
lạm phát từ 21.9% vào thời điểm tháng 9 chỉ còn 19.89% so với tháng 12 năm 2007, làm
dịu bớt cơn lạm phát của Việt Nam. Nguyên nhân là do những tháng đầu năm giá mặt

hàng lương thực thực phẩm tăng nhanh, hàng phi lương thực thực phẩm mặc dù chậm
nhưng vẫn tăng giá. Đến cuối năm hàng lương thực thực phẩm dường như không tăng
nữa và đồ thị là đường nằm ngang. Trong khi đó hàng hóa phi lương thực thực phẩm
giảm nhanh nên tốc độ tăng giá chung giảm xuống.
Nguyên nhân sâu xa xảy ra cuộc lạm phát năm 2008 là do giá dầu thô, lương thực, thực
phẩm liên tục tăng cao ( 4 tháng đầu năm 2008 so với cùng kì năm 2007 giá dầu thế giới
đã tăng 51,24%, phân bón tăng 67%, giá ngô tăng 31%,.. ) trong khi đó Việt Nam là một
nước nhập khẩu 70% đa phần là nguyên nhiên vật liệu,... Bên cạnh đó, lượng ngoại tệ
tăng mạnh cũng góp phần đẩy lạm phát lên cao ( vốn đầu tư nước ngoài lên đến 15 tỷ
tương đương 25% GDP của năm 2006 ). Cùng với đó, trình độ phát triển, hiệu quả kinh tế
thấp, sức cạnh tranh chưa cao, cơ cấu kinh tế chậm cải thiện,.. Mặt khác chính sách tiền
tệ nới lỏng trong nhiều năm dẫn đến tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán gây sức ép
lạm phát lên nền kinh tế. Không những thế chính sách tài chính nới lỏng trong nhiều năm,
lấy tăng đầu tư là động lực tăng trưởng kinh tế ( tổng vốn đầu tư xã hội năm 2006 và
2007 khoảng 40% GDP ) chưa đi liền với nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư. Tình
trạng đầu tư dàn trải, nhiều công trình dở dang chậm đưa vào khai thác và sử dụng kéo


dài ở trung ương lẫn địa phương và chậm được khắc phục. Đây là nguyên nhân quan
trọng đẩy chi phí thực của nền kinh tế Việt Nam cao hơn các nước khác. Năng lực kiểm
tra, giám sát, dự báo, phát hiện và đề suất các chính sách vĩ mô của các bộ, ngành chậm
được tăng cường, không theo kịp tình hình khi nền kinh tế chuyển mạnh sang hoạt động
theo cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống thông tin chưa đủ độ chuẩn
xác,…
Để khắc phục tình hình lạm phát nói trên, chính phủ và hệ thống ngân hàng nhà nước đã
có những biện pháp quyết liệt trên mọi phương diện :
-

-


-

Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt : Sử dụng quản lý nhà nước khuyến cáo các
ngân hàng thương mại không được nâng lãi suất huy động vượt quá 12% vào cuối
tháng 2/2008 và đã chặng đứng được cuộc đua tăng lãi suất. Khống chế tỷ lệ cho vay
đầu tư chứng khoán, bất động sản. Tăng dự trữ bắt buộc đối với hầu hết các loại tiền
gửi vào các nhóm ngân hàng thương mại, thu tiền từ lưu thông về bằng tín phiếu bắt
buộc. So với lãi suất cơ bản, các mức lãi suất của ngân hàng thương mại không được
vượt quá 15%. Ngân hàng nhà nước dùng lãi suất này để điều chỉnh mặt bằng lãi suất
của thị trường trên cơ sở dựa vào tín hiệu của hiệu ứng chống lạm phát phát ra từ
chính thị trường hàng hóa, dịch vụ. Gắn chặt thị trường tiền tệ, tín dụng với thị trường
hàng hóa để chống lạm phát.
Cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách:
Kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm
hụt ngân sách nhà nước. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh
nghiệp nhà nước hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư
này sẽ giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh
tế. Quy định cụ thể vốn đầu tư và chi phí hành chính phải cắt giảm. Đối với công trình
chưa thực sự cần thiết thì phải có sự điều chỉnh phù hợp, cắt bỏ các chương trình kém
hiệu quả đồng thời tạo điều kiện và tập trung vốn cho những công trình đầu tư sản
xuất hàng hóa thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy nhanh tiến độ sớm đưa vào sản xuất.
Tăng hiệu quả chi tiêu ngân sách bằng việc hoàn thành các chương trình, các dự án
đúng thời hạn để sớm phát huy tác dụng.
Bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hóa, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu:
Cân đối cung cầu về hàng hóa nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống
nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ.
Kiểm soát chặt chẽ pháp luật nhà nước để tránh hiện trạng đầu cơ
Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam từ năm 2008-2015 (%) ( Nguồn : IMF.org )
Năm Tỷ lệ lạm phát Năm
Tỷ lệ lạm phát

2008
2009
2010
2011

23,12
7,05
8,86
18,68

2012
2013
2014
2015

9,09
6,59
4,09
0,88


Do ảnh hưởng của lạm phát và suy thoái kinh tế thế giới năm 2008 khiến tốc độ tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam bị chậm lại, tăng trưởng GDP năm 2008 chỉ đạt 6,36%,
nhưng đây là năm đánh dấu mốc phát triển của nền kinh tế VN chuyển từ nhóm nước có
thu nhập thấp nhất sang nhóm nước có thu nhập trung bình dưới với GDP bình quân trên
đầu người ước tính đạt khoảng 1,047 USD/năm. Năm 2009 tốc độ tăng trưởng đạt 5,32%,
năm 2010 là 6,7% cao hơn mức tăng trưởng của 2 năm trước, nhưng vẫn thấp hơn mức
tăng trưởng thời kỳ 2000-2007. Động lực mạnh mẽ khiến CPI trong năm 2009 tăng mạnh
đến từ mặt hàng lương thưc, với mức tăng 6,88%. Tác động của việc tăng giá xăng dầu
cũng làm đội giá cước vận tải, vận chuyển và các hàng hóa khác, kèm theo theo đó lãi

suất cơ bản tăng lên 8% cũng ảnh hưởng đến lãi suất huy động và cho vay của các ngân
hàng. Năm 2009 khép lại với mức CPI nằm trong vòng kiểm soát, nhưng gạo và xăng dầu
luôn là những yếu tố bất định trong những qua. Đến năm 2011 tỷ lệ lạm phát tiếp tục tăng
lên tới 8,86% nhưng vẫn là con số nằm trong tầm kiểm soát, chỉ số CPI trong năm này
tăng một phần là do sự tăng giá của giáo dục ( gần 20%) tiếp đó là mặt hàng ăn
( 16,18%),..Tính chung cả năm 2010 giá vàng tăng tới 30% trong khi đô la Mỹ xấp xỉ
10%
Sau hai năm từ 2009-2010 tỷ lệ lạm phát vừa mới được ổn đinh thì đến năm 2011 lại tái
diễn một lần nữa. Tổng cục Thống kê vừa công bố số liệu chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của
cả nước trong tháng 12 và cả năm 2011. Theo đó, CPI trong tháng cuối năm tăng 0,53%,
cao hơn 2 tháng trước đó. Con số này đưa chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 tăng cao
hơn 18,13% so với cùng kỳ 2010. Tuy nhiên, tính chung trong cả năm 2011, mặt bằng giá
đã tăng 18,58% so với 2010.
Diễn biến chỉ số giá tiêu dung trong năm 2011 (%)
Tháng1

Tháng2

Tháng3

Tháng4

Tháng5

Tháng6

Tháng7

Tháng8


Tháng9

Tháng10

Tháng11

Tháng12

1.78

2.09

2.20

3.23

2.21

1.09

1.17

0.93

0.82

0.36

0.39


0.53

Nguồn : Tổng cục thống kê

Lạm phát tiếp tục được đẩy lên, CPI theo tháng tăng 2.2 trong tháng 3 và đạt đỉnh ở tháng
4 với mức 3.23% cao nhất trong ba năm trở lại đây. Trong rổ hàng hóa, lương thực là
phân nhóm có tốc độ tăng giá mạnh nhất trong tháng 12 khi tăng 1,4%. Giá thực phẩm
cũng tăng trở lại 0,49% sau 3 tháng giảm liên tiếp. Cùng với khu vực ăn uống ngoài gia
đình (0,57%), 2 nhóm này đẩy chỉ số của hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,69% và đóng
góp chủ yếu vào đà tăng của CPI. Tăng giá mạnh nhất trong tháng là các mặt hàng may
mặc - mũ nón - giầy dép (0,86%) chủ yếu do nhu cầu tiêu thụ tại miền Bắc vào mùa
đông. Các mặt hàng khác như nhà ở - vật liệu xây dựng (tăng 0,51%), thiết bị - đồ dùng
gia đình (0,68%) và hàng hóa - dịch vụ khác (0,6%) cũng tăng giá tương đối mạnh theo
quy luật tiêu dùng cuối năm.
Nói chung lạm trong năm 2011 cũng có những nét tương đồng với năm 2008, tương tự
năm 2007, lạm phát bùng nổ dữ dội vào cuối năm đẩy chỉ số giá tiêu dùng năm 2010 tăng
đến 11.75% (gần bằng năm 2007). Những tháng đầu năm 2011 lạm phát cũng tăng lên rất
mạnh, chỉ 2 tháng đầu năm CPI đã tăng 3.78%. Con số này tuy thấp hơn cùng kỳ năm


2008 nhưng lại là mức rất cao trong nhiều năm trở lại đây. Một điểm tương đồng năm
2008 khác là CPI những tháng sắp tới tiếp tục tăng mạnh do giá lương thực, nguyên
nhiên liệu thế giới tăng. Ngoài ra, CPI tăng mạnh vào cuối năm 2010 và đầu năm 2011
còn do các chính sách tiền tệ nới lỏng trước đó. Các gói kích cầu, chính sách hỗ trợ lãi
suất từ năm 2009 đã bơm một lượng lớn tiền vào nền kinh tế. Điểm khác biệt giữa lạm
phát năm 2008 và 2011 là cường độ. Lạm phát năm 2011 tuy tăng mạnh nhưng vẫn còn
thấp hơn so với năm 2008. Hơn nữa, nguy cơ về một đợt bùng nổ dữ dội của giá hàng
hóa trên thế giới tương tự như năm 2008 không nhiều. Trong đó những nguyên nhân gây
ra lạm pháp cũng gần như năm 2008 : Bội chi ngân sách tăng, lạm phát cao, lãi suất cao,
vàng và usd hóa, nợ nước ngoài tăng, nhập siêu tăng, thay đổi tỉ giá, xuất khẩu kém, đầu

tư công bị thất thoát và kém hiệu quả. Các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò là mũi
nhọn của nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả không tương xứng với các ưu đãi mà nhân
dân và chính phủ giành cho,…
Chính sách tiền tệ nới lỏng năm 2009 đã làm cho tín dụng năm này tăng mạnh. Liên tục
từ tháng 10 đến tháng 11, tín dụng tăng trên 40% và kết thúc năm tăng 37.74%. Năm
2010, dù ngân hàng nhà nước đặt mục tiêu kiểm soát tín dụng ở mức 25% nhưng tín dụng
cả năm vẫn tăng gần 30%. Tín dụng tăng cao là nguyên nhân chính khiến cho lạm phát
của Việt Nam bùng nổ vào cuối năm 2010. Tính trong 2 tháng đầu năm 2011 tín dụng đã
tăng vượt quá 30% so với cùng kỳ năm trước.
Trước thực trạng tín dụng tăng quá mạnh và lạm phát cao, ngân hàng nhà nước buộc phải
tuyên bố kiểm soát tín dụng dưới 20%, cung tiền từ 16-17%. Lãi suất tái chiết khấu, lãi
suất cho vay qua đêm cùng đồng loạt tăng lên 12%. Các chính sách này tương đồng với
chính sách tiền tệ năm 2008. So sánh con số giới hạn tăng trưởng tín dụng còn cho thấy
chính sách tiền tệ năm 2011 còn bị kiểm soát chặt hơn cả năm 2008. Nói tóm tắt lại
những giải pháp mà chính phủ đã thực hiện trong năm 2008 vẫn tiếp tục được thực hiện
trong năm 2011 nhưng ở mức độ kiểm soát chặt chẽ và hiệu quả hơn. Nền kinh tế năm
2011 không xấu như năm 2008 nhưng vẫn hết sức khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh các
nguồn lực đã suy yếu thì sự phục hồi mạnh càng gặp nhiều trở ngại.
Từ sau giai đoạn này lạm phát vẫn được kiềm chế ở mức vừa phải ( năm 2012 là 9.09%,
năm 2013 là 6.59%) nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế bị chậm lại và thấp hơn so với dự
báo. Năm 2011, GDP của Việt Nam đạt 5,89%, năm 2012 mức tăng trưởng giảm xuống
còn 5,25%. Năm 2013, mức tăng đạt 5,42%, cao hơn so với năm 2012 nhưng thấp hơn so
với 2011 do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tới năm 2014 bức tranh
kinh tế đã sáng hơn năm 2013, tăng trưởng GDP đạt 5,98% và CPI chỉ tăng 4,09 và tỷ lệ
lạm phát ở mức vừa phải cao nhất cũng chỉ 5.45%, điều này cho thấy đà hồi phục kinh tế
năm này đã có những dấu hiệu tích cực. Nhờ những chính sách thắt chặt tiền tệ đã được
đề ra từ năm 2008
Nhưng đến năm 2015 tình hình lạm phát lại xuất hiện nhiều biến động mới, theo thông
tin từ Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2015 tăng 0.63% so với năm
2014. Đây cũng là con số thấp nhất trong vòng 15 năm trở lại đây, và thấp hơn nhiều so

với chỉ tiêu lạm phát mà Quốc hội thông qua năm nay (dưới 5% ). Nguyên nhân chính
khiến CPI năm nay thấp là chi phí đẩy giảm. Cụ thể, nguồn cung về lương thực, thực
phẩm trong nước dồi dào, cùng với sự cạnh tranh với các nước đã khiến chỉ số giá nhóm


lương thực năm 2015 giảm 1,24% so với cuối năm trước. Giá nhiên liệu trên thị trường
thế giới gần đây giảm mạnh, đặc biệt là giá dầu cũng khiến nhóm hàng "nhà ở và vật liệu
xây dựng” và “giao thông” năm 2015 lần lượt giảm 1,62% và 11,92%, so với năm trước,
trong đó riêng giá xăng dầu giảm gần 25% góp phần giảm CPI chung 0,9%. Bên cạnh đó,
còn do yếu tố tâm lý, chi tiêu của người dân được tính toán kỹ hơn, cân nhắc hơn. Do đó,
người cung cấp hàng hóa, dịch vụ cũng không tăng giá cao vào dịp trước, trong và sau
Tết Nguyên đán hay các ngày lễ hội như những năm trước đây. Trái lại với lạm phát, tốc
độ tăng trưởng năm này cũng đạt ở mức 6.7% cao nhất trong 7 năm qua, đây là những
chính sách kịp thời của Chính phủ trong việc ổn định nền kinh tế vĩ mỗ.
Trải qua 5 năm với những biến động của thị trường trong và ngoài nước đã khiến cho
tỷ lệ lạm phát ở nước ta luôn trong tình trạng cao hơn so với các nước trong khu vực,
nhưng nhờ những chính sách vĩ mô kịp thời và hiệu quả của chính phủ, mà theo dự
báo của Ngân hàng phát triển châu Á ( ABD ), năm 2016 tốc độ tăng trưởng GDP
trong năm này vẫn duy trì ở mức 6.7% và tỷ lệ lạm phát là 3%. Theo báo cáo của tổng
cục thống kê trong 3 tháng đầu năm, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2016 ước
tính tăng 5,46% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng của quý I các năm 20122014, nhưng có dấu hiệu chững lại so với mức tăng 6,12% của cùng kỳ năm 2015. Chỉ số
giá tiêu dùng bình quân quý I năm nay tăng 1,25% so với bình quân cùng kỳ năm
2015, tuy cao hơn so với mức tăng 0,74% của cùng kỳ năm trước, nhưng thấp hơn
nhiều so với mức tăng CPI trong quý I của một số năm gần đây. Các yếu tố chủ yếu
giữ cho giá tiêu dùng 3 tháng đầu năm nay tăng thấp: Mặc dù trong quý I nhu cầu
hàng hóa phục vụ TếtNguyên đán tăng, nhưng do giá xăng dầu và giá cước vận tải
giảm, nguồn cung hàng hóa dồi dào nên giá cả không biến động lớn; Giá các mặt hàng
thiết yếu trên thế giới tương đối ổn định, trong đó giá nhiên liệu, chất đốt, sắt thép giảm
mạnh; Các cấp, các ngành tăng cường thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát thị
trường, đồng thời thực hiện các chính sách bình ổn giá một số mặt hàng thiết yếu, ổn định

giá cả thị trường trong dịp Tết Nguyên đán. Lạm phát cơ bản tháng 3/2016 giảm 0,09%
so với tháng trước và tăng 1,64% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 3
tháng đầu năm 2016 tăng 1,76% so với bình quân cùng kỳ năm 2015.
Nói chung tình hình lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 2007 đến nay là trải qua nhiều
biến động về lạm phát nhất, chịu nhiều ảnh hưởng tác động từ bên trong lẫn bên ngoài,
nhưng nhờ những phản ứng kịp thời mà tỷ lệ lạm phát cho đến nay vẫn nằm trong tầm
kiểm soát, với tốc độ tăng trưởng kinh tế khá khả quan. Cho tới nay nền kinh tế của nước
ta vẫn nỗ lực đạt được những mục tiêu mà chính phủ đã đề ra, cùng với việc đảm bảo các
chính sách an sinh, xã hội và đặc biệt hoàn thành tốt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
năm 2016, tạo đà cho việc thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2016-2020 đã được đề ra bằng việc tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chủ
động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ
mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần hỗ trợ
tăng trưởng kinh tế lâu dài.


B. Kết luận

Sau khi tìm hiểu thực trạng lạm phát ở Việt Nam, chúng ta mới biết được rằng để dự báo
lạm phát là việc không hề dễ dàng gì. Việt Nam đã từng trải qua những năm mà tình trạng
lạm phát biến đổi không ngừng và vượt ra khỏi dự đoán hay các quy tắc về kinh tế . Do
vậy để hiểu được lạm phát và khắc phục lạm phát ở nước ta là một việc không dễ dàng gì.
Một nền kinh tế khỏe mạnh là nền kinh tế có mức lạm phát vừa phải, tốc độ tăng lạm
phát thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, để kiềm chế lạm phát, ổn định nền kinh
tế vĩ mô, đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, an sinh xã hội, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của nước ta trong giai đoạn tới, Đảng và Nhà nước cần hoàn thiện các chính
sách, thể chế, kỹ năng ứng phó với lạm phát do tác động từ bên ngoài, xây dựng một nền
kinh tế khỏe mạnh từ bên trong. Lạm phát không phải hoàn toàn xấu mà nó cũng có
những ưu điểm. Có nghĩa là khi nền kinh tế phát triển có hiệu quả, tiến bộ kĩ thuật được
áp dụng tích cực, cơ cấu kinh tế được đổi mới nhanh chóng và đúng hướng thì lạm phát

là một công cụ để tăng trưởng kinh tế, chống suy thoái. Vì vậy, chúng ta cần phải kiềm
chế lạm phát ở mức có thể chấp nhận được hay lạm phát cân bằng và có dự tính tạo điều
kiện để nó trở thành động lực thúc đẩy quá trình phát triển. Chúng ta nhận thức được
rằng, quá trình đấu tranh chống lạm phát không đơn giản ngày một ngày hai. Nó là căn
bênh kinh niên nhưng việc xóa bỏ lạm phát hoàn toàn thì cái giả phải trả không tương
thích với lợi ích đem lại. Lạm phát luôn rình rập và đe dọa chúng ta bất cứ lúc nào. Chính
vì vậy đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải luôn thận trọng trong mỗi bước đi của mình để
đảm bảo nền kinh tế nước ta phát triển, ổn định làm nền tảng để phát triển khoa học, kỹ
thuật, giáo dục, đuổi kịp các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên thế giới nói
chung. Với bản chất năng động và giàu thực tiễn, Việt Nam đã điều hành quá trình chống
lạm phát một cách sáng tạo, không sa vào lý thuyết sách vở thuần tuý và giáo điều, mà sử
dụng các giải pháp phù hợp với thực tế, vừa sử dụng công cụ của chính sách tài chính
tiền tệ, vừa sử dụng các giải pháp phi tài chính tiền tệ, gắn chống lạm phát với tiềm lực
mới của công cụôc đổi mới, gắn chống lạm phát với quá trình đổi mới để hỗ trợ và làm
điều kiện thúc đẩy lẫn nhau, tạo ra những kết quả ngoài dự kiến của nhiều nhà phân tích
kinh tế của thế giới và trong nước. Và kết quả khôi phục được lòng tin đối với đồng tiền
Việt Nam và niềm tin đối với chính sách và năng lực điều hành nền kinh tế của Nhà
nước, sự lãnh đạo kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam.



×