I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
TRN TH NH TUYT
CHứC NĂNG CủA VIệN KIểM SáT NHÂN DÂN
TRONG ĐIềU TRA Vụ áN HìNH Sự Mà Bị CAN
Là NGƯờI CHƯA THàNH NIÊN
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04
TểM TT LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2016
Công trình được hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐỖ THỊ PHƯỢNG
Phản biện 1: .........................................................................
Phản biện 2: .........................................................................
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi .... giờ ...., ngày ..... tháng ..... năm 2016
Có thể tìm hiểu luận văn tại
Trung tâm tư liệu Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm tư liệu – Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội
MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................................5
Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ:............................................5
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu..........................................................................5
5. Ý nghĩa và điểm mới và đóng góp của luận văn.....................................................5
Chương 1......................................................................................................................6
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CAN LÀ NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN.................................................................................................6
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư
pháp trong đó có Viện kiểm sát (VKS) là một đòi hỏi có tính cấp bách của Đảng,
Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới” đã đặt ra yêu cầu đối với VKSND các cấp là: “Viện kiểm sát
nhân dân các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong
suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của
những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ...”. Sau đó, tại Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020” xác định: “...tăng cường nhiệm vụ của công tố trong hoạt động
điều tra...”. và gần đây nhất, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta
xác định: “Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và
bảo vệ quyền con người...Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ
chức toà án, bảo đảm tốt hơn các điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thực hiện
hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp;
tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt
động điều tra...”. Yêu cầu trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013
(sửa đổi) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là
NCTN là thể hiện cụ thể một trong những chức năng của VKS, bảo đảm việc
giải quyết vụ án có bị can là NCTN được chính xác, nhanh chóng, đảm bảo
quyền con người của NCTN, đồng thời còn là biểu hiện của việc thực hiện
quyền lực nhà nước nhằm góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế và bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Để đáp ứng yêu cầu này ngành kiểm sát phải không
ngừng nâng cao chất lượng thực hiện chức năng của mình trong quá trình giải
quyết vụ án.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, trong công tác của mình, VKS đã thực
hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong
vụ án hình sự nói chung, cũng như vụ án có bị can là NCTN nói riêng. Tuy
nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động của VKS vẫn còn có những hạn chế
trong việc thực hiện chức năng của mình, như: Vẫn còn tình trạng bắt, tạm giam,
2
tạm giữ NCTN chưa đáp ứng được điều kiện, yêu cầu của Bộ luật Tố tụng hình
sự; việc tạm giam NCTN còn được áp dụng tương đối phổ biến trong khi đó biện
pháp giám sát tại gia đình và cộng đồng thì lại ít được áp dụng trên thực tế, mặc
dù đây là biện pháp tốt đối với quá trình giáo dục, cải tạo đối với NCTN; các
quyền cơ bản của NCTN trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đặc biệt là
quyền bào chữa của họ vẫn chưa được đảm bảo, điều này dẫn đến tình trạng oan
sai, vi phạm quyền con người của NCTN đang còn xảy ra; về đội ngũ cán bộ tư
pháp như Điều tra viên, Kiểm sát viên; Thẩm phán chưa được đào tạo chuyên
sâu về tâm lý học, về khả năng giao tiếp, làm việc với NCTN. Những bất cập
trên vẫn còn xảy ra, và có xu hướng gia tăng, chính vì vậy cần thiết phải có
những nghiên cứu, sửa đổi các quy định của BLTTHS và các văn bản có liên
quan để hoàn thiện hơn thủ tục tố tụng đối với người thành niên nói chung và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra vụ án có NCTN nói riêng.
Từ các lý do trên đây, chúng tôi đã chọn đề tài "Chức năng của Viện
Kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là người chưa
thành niên" làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý hình sự, chức năng của VKSND trong điều tra vụ
án hình sự và thủ tục tố tụng đối với NCTN nói chung đã được một số tác giả
trong nước nghiên cứu ở các cấp độ và mức độ khác nhau.
Một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về chức năng của VKSND trong
điều tra vụ án hình sự và thủ tục tố tụng đối với NCTN như: luận văn thạc sỹ của
Nguyễn Ngọc Thương với đề tài: Thủ tục TTHS đối với những vụ án do NCTN
thực hiện - Lý luận và thực tiễn năm 2006, Luận án tiến sỹ luật học của tác giả Đỗ
Thị Phượng với đề tài Thủ tục tố tụng đối với NCTN – một số vấn đề lý luận và
thực tiễn năm 2008, Luận văn thạc sỹ của Võ Huỳnh Ngọc Thủy với đề tài “Thủ
tục giải quyết các vụ án đối với người chưa thành niên (trên cơ sở số liệu của địa
bàn tỉnh Bình Dương)” năm 2013, luận văn thạc sỹ của Bùi Ngọc Tú với đề tài
“nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát điều tra” năm 2013, luận văn thạc sỹ
của Vũ Thị Anh Đào với đề tài “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tố tụng đối với bị can, bị cáo là NCTN” năm 2014, luận văn thạc sỹ của
Trần Quỳnh Hoa với đề tài “Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát
viên trong hoạt động tố tụng đối với người chưa thành niên” năm 2014, luận án
tiến sĩ của Nguyễn Quang Thành với đề tài “Hoạt động thực hành quyền công tố
và Kiểm sát điều tra của Viện Kiểm sát nhân dân trong điều tra các vụ ánh hình sự
trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2015.
Về đề tài khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội của tập thể tác giả: Nguyên
tắc nhân đạo trong các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật TTHS đối
3
với NCTN ở Việt Nam, năm 2005. Ngoài ra, còn có những nghiên cứu đề cập
đến những vấn đề lý luận chung hoặc nghiên cứu những đề tài khác nhưng có
một số nội dung liên quan đến thủ tục tố tụng đối với NCTN như cuốn: Tăng
cường năng lực hệ thống tư pháp NCTN tại Việt Nam, thông tin khoa học pháp
lý của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp năm 2000; hay cuốn:
Thủ tục điều tra và xét xử liên quan đến trẻ em và NCTN: Đánh giá về các thủ
tục nhạy cảm đối với trẻ em của Tòa án nhân dân (TAND); Trường Cao đẳng
Kiểm sát Hà Nội với công trình: Đào tạo kiểm sát viên làm việc với NCTN
(Sách dự án Danida).
Bên cạnh đó, một số tác giả đã công bố các tác phẩm liên quan đến chức
năng của VKSND và thủ tục tố tụng đối với NCTN như:
- Tác giả Nguyễn Đức Mai với bài viết: Áp dụng các quy định của
BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với NCTN phạm tội đăng trên Tạp chí Kiểm sát
số 6 tháng 3 năm 2007;
- Tác giả Mai Bộ với bài viết: Hoàn thiện các quy định của BLTTHS về
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với NCTN phạm tội đăng trên Tạp chí
Kiểm sát số 6 tháng 3 năm 2007;
- Tác giả Phan Trung Hoài với bài viết: Vấn đề bảo đảm quyền bào chữa
của NCTN phạm tội đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 6 tháng 3 năm 2007
- Tác giả Phạm Hồng Quân với bài viết: Về chức năng, nhiệm vụ của
Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự đăng trên Tạp chí khoa
học, ĐH Quốc gia Hà Nội, Luật học số 28 năm 2012.
- Tác giả Trần Thị Minh Thư với bài viết: “Kỹ năng của Kiểm sát viên khi
thụ lý, giải quyết các vụ án do người chưa thành niên phạm tội” đăng trên Tạp
chí Kiểm sát, Hà Nội số 07, năm 2014.
Như vậy, nghiên cứu về chức năng của VKSND trong giai đoạn điều tra
cũng như thủ tục tố tụng đối với NCTN nói chung đã có rất nhiều người nghiên
cứu dưới các góc độ khác nhau. Riêng về vấn đề chức năng của Viện kiểm sát
nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là NCTN nói riêng còn chưa
được quan tâm nghiên cứu sâu sắc.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Chức năng của Viện Kiểm sát nhân
dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên" là một yêu
cầu cấp thiết hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về vấn đề "Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân
trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên" nhằm làm rõ
bản chất của hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn
4
điều tra vụ án hình sự có bị can là NCTN và những đặc trưng cơ bản của hoạt
động này trong vụ án có NCTN tham gia. Luận văn cũng nghiên cứu thực trạng
của hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là NCTN. Trên cơ sở đó
chỉ ra những hạn chế của hoạt động này và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án có
người chưa thành niên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm sáng tỏ lý luận bị can là người chưa thành niên; chức năng của
Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra; chức năng của Viện kiểm sát
nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên.
- Khảo sát thực tiễn thực hiện chức năng kiểm sát điều tra các vụ án hình
sự có bị can là người chưa thành niên từ đó thấy được những ưu điểm, tích cực
và mặt hạn chế để từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả của
việc thực hiện chức năng này.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận cơ bản chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên.
Về thời gian: Luận văn giới hạn việc khảo sát thực tiễn trong 05 năm (từ
năm 2010 đến năm 2015)
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nhận thức luận của chủ nghĩa Mác Lênin với phương pháp luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Đồng thời để phục vụ các nhiệm vụ khoa đặt ra từ đề tài luận văn, luận văn có
sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, so sánh và
khảo sát thực tế.
5. Ý nghĩa và điểm mới và đóng góp của luận văn
Các kết quả của luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt khoa học góp phần
xây dựng một cách nhìn toàn diện về hoạt động kiểm sát điều tra của VKS đối
với các vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên. Qua đó thấy được
vai trò to lớn của VKS trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm do
người chưa thành niên thực hiện. Luận văn có nêu ra một số giải pháp nâng
cao hiệu quả cho công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS trong
giải quyết vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên. Hơn nữa, các kết
quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ
nghiên cứu, học tập cũng như làm tài liệu cho các cán bộ Kiểm sát trong hoạt
động nghiệp vụ của mình.
5
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chức năng của Viện kiểm sát nhân
dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003
và năm 2015 về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án
hình sự mà bị can là người chưa thành niên và thực tiễn thi hành
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và
bảo đảm chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà
bị can là người chưa thành niên.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CAN LÀ
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CHỨC NĂNG CỦA VKSND TRONG
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CAN LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1.1. Khái niệm chức năng của VKSND trong điều tra vụ án hình sự
mà bị can là người chưa thành niên
Bị can là NCTN là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi bị khởi tố về
hình sự.
Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự là hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân để thực hiện việc buộc tội của
Nhà nước đối với người phạm tội và kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi,
quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp ngay từ khi
Cơ quan điều tra hoặc một số cơ quan khác có thẩm quyền điều tra ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi Cơ quan điều tra ra bản kết luận điều
tra đề nghị truy tố người phạm tội hoặc tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án.
Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị
can là NCTN là hoạt động thực hiện việc buộc tội của nhà nước đối với người
phạm tội và kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, người tiến hành tố
tụng và một số cơ quan có thẩm quyền điều tra khác trong quá trình điều tra
hình sự mà bị can là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi.
6
1.1.2. Đặc điểm chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra
vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên
1.1.2.1. Đặc điểm chức năng thực hành quyền công tố của VKSND
trong điều tra VAHS mà bị can là người chưa thành niên
Thứ nhất, Chủ thể tiến hành hoạt động thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự mà bị can là NCTN là Viện Kiểm sát.
Thứ hai, Đối tượng của thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự chính là việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội là người
chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi trong giai đoạn này.
Thứ ba, nội dung chức năng thực hành quyền công tố của VKSND trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên tuân theo
những quy định chung về chức năng thực hành quyền công tố của VKSND tại
Điều 165 BLTTHS năm 2015 và Điều 14 Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân
dân năm 2014.
Thứ tư, phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự có bị can là NCTN bắt đầu từ khi CQĐT hoặc một số cơ quan khác có
thẩm quyền điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi CQĐT
ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố người phạm tội hoặc tạm đình chỉ, đình
chỉ giải quyết vụ án.
1.1.2.2. Đặc điểm chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND
trong điều tra VAHS mà bị can là người chưa thành niên
Thứ nhất, chủ thể tiến hành kiểm sát hoạt động điều tra VAHS mà bị can
là NCTN là Viện Kiểm sát nhân dân. Đây là chức năng hiến định của VKSND
và được thực hiện trên cơ sở Hiến pháp và các văn bản pháp luật liên quan đã
xác định chức năng kiểm sát hoạt động điều tra VAHS cho VKSND.
Thứ hai, đối tượng của kiểm sát điều tra các VAHS mà bị can là NCTN là
các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng và các chủ thể khác có liên quan trong quá trình
điều tra VAHS có bị can từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi.
Thứ ba, nội dung của kiểm sát điều tra các VAHS mà bị can là NCTN của
VKSND là giám sát trực tiếp và điều chỉnh mọi hoạt động tố tụng của cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các chủ thể khác có liên quan
trong quá trình điều tra các VAHS.
Thứ tư, phạm vi của hoạt động kiểm sát điều tra các VAHS mà bị can là
NCTN được xác định bắt đầu từ khi CQĐT hoặc một số cơ quan khác có thẩm
quyền điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi CQĐT ra bản
kết luận điều tra đề nghị truy tố người phạm tội hoặc tạm đình chỉ, đình chỉ giải
quyết vụ án.
7
1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC QUY ĐỊNH VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CAN
LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.2.1. Cơ sở lý luận
Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm tâm – sinh lý người chưa thành niên
Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh
thần nên khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi và kiểm soát hành vi
của họ còn hạn chế, dễ bị kích động và bị tác động bởi môi trường xã hội và
những điều kiện khách quan.
Thứ hai, xuất phát từ việc đảm bảo giải quyết vụ án một cách chính xác,
khách quan
Xét về mặt nhân thân người phạm tội, không thể coi NCTN phải chịu
trách nhiệm hình sự giống như người đã thành niên được. Chính vì thế, hình
phạt áp dụng đối với NCTN phạm tội phải nhẹ hơn so với người đã thành niên
phạm tội và không phải tất cả những NCTN phạm tội đều phải xử lý bằng hình
sự; Thủ tục tố tụng đối với các vụ án hình sự do NCTN thực hiện cũng phải đặc
biệt hơn so với thủ tục tố tụng đối với những vụ án thông thường. Phải vận
dụng một cách có căn cứ các nguyên tắc quy định tại Điều 91 BLHS năm 2015
nhằm đảm bảo việc giải quyết các VAHS do NCTN thực hiện một cách chính
xác, khách quan.
Thứ ba, xuất phát từ việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người
chưa thành niên
Bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên là nguyên tắc của luật
pháp quốc tế cũng là tư tưởng xuyên suốt trong quá trình xây dựng và thực thi
pháp luật ở nước ta. Trong đó, sự tham gia của Viện kiểm sát vào quá trình tố
tụng hình sự đối với những vụ án do NCTN phạm tội phải được tôn trọng và
bảo đảm. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên tham gia Công ước
của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em. Hiện nay, trong pháp luật hình sự, tố tụng
hình sự, hàng loạt các chế định pháp luật mang tính cá biệt nhằm bảo đảm
quyền của người chưa thành niên phạm tội. Đó là các quy định của pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của người chưa thành niên; nghĩa vụ của các cơ quan, người
tiến hành tố tụng… đối với người chưa thành niên phạm tội.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Thứ nhất, xuất phát từ thực trạng người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam
Thực trạng số lượng người chưa thành niên phạm tội ngày càng gia tăng
và trẻ hóa đang diễn ra ở nước ta hiện nay chính là cơ sở chứng minh cho sự
cần thiết của các quy định về hình sự và TTHS đối với đối tượng tội phạm này.
Đồng thời việc quy định thủ tục đặc biệt đối với người chưa thành niên nói
chung và chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong việc kiểm sát điều tra vụ
8
án mà bị can là người chưa thành niên phạm tội nói riêng là một trong những
biện pháp để hạn chế tình trạng gia tăng tội phạm do người chưa thành niên
thực hiện. Bởi lẽ bên cạnh tác dụng giáo dục người chưa thành niên, các biện
pháp cưỡng chế về mặt tố tụng còn có tác dụng nhất định đến việc ngăn chặn tội
phạm.
Thứ hai, xuất phát từ thực tiễn kiểm sát điều tra vụ án có bị can là người
chưa thành niên
Công tác kiểm sát điều tra vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành
niên những năm qua đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận như: mọi hành vi
phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không để người nào bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị
hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự
và nhân phẩm một cách trái pháp luật; tất cả bị can là người chưa thành niên
đều được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật, tình trạng bị can bỏ trốn
hoặc phạm tội mới đã giảm...Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế trong công tác
điều tra như các cơ quan tiến hành tố tụng lạm quyền, chưa thực sự tôn trọng
quyền lợi của bị can là người chưa thành niên, vẫn còn xảy ra một số trường
hợp bị oan, sai...
1.3. Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CAN
LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.3.1. Ý nghĩa chính trị
Quá trình thực hiện chức năng trên của VKSND không chỉ góp phần đảm
bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền con người đặc biệt
quyền của NCTN phạm tội trong TTHS mà còn góp phần đảm bảo cho quá trình
TTHS được thực hiện một cách đúng luật, đúng trình tự theo quy định.
1.3.2. Ý nghĩa pháp lý
Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự là một nguyên tắc cơ bản của BLTTHS (Điều 20 BLTTHS).
Quá trình VKS thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra vụ án hình sự mà bị can là NCTN có tác động tích cực đến chất lượng
hoạt động điều tra, truy tố của các cơ quan tiến hành tố tụng và bảo đảm cho
việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
1.3.3. Ý nghĩa xã hội
Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong vụ án
hình sự mà bị can là NCTN có một ý nghĩa xã hội hết sức sâu sắc và được thể
hiện trên các phương diện khác nhau.
Thứ nhất, việc thực hiện chức năng này của VKSND thể hiện tính nhân
đạo XHCN. hành tố tụng sửa chữa và tuân thủ đúng quy định của luật.
9
Thứ hai, việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên của VKSND thể hiện
tính dân chủ.
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM
2003 VÀ NĂM 2015 VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CAN LÀ
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
2.1. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
NĂM 2003 VÀ NĂM 2015 VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CAN LÀ NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN
2.1.1. Chức năng thực hành quyền công tố
Về chức năng thực hành quyền công tố của VKSND trong điều tra vụ án
hình sự mà bị can là NCTN trên cơ sở tuân theo quy định chung giống như các
vụ án hình sự thông thường còn tuân theo các quy định riêng biệt như sau:
2.1.1.1. Chức năng thực hành quyền công tố trong việc Khởi tố vụ án,
khởi tố bị can
Khi thực hành quyền công tố trong việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can là
NCTN, VKS cần yêu cầu cơ quan điều tra xác định ngay “tuổi, trình độ phát
triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người
chưa thành niên; điều kiện sinh sống và giáo dục; có hay không có người lớn
xúi giục; nguyên nhân và điều kiện phạm tội? ”. Yêu cầu điều tra này của Viện
Kiểm sát không chỉ đảm bảo cho việc không để lọt tội phạm mà còn giúp cơ
quan tiến hành tố tụng hiểu rõ hơn về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm,
tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Việc xác định rõ có hay
không có những người khác cùng tham gia phạm tội sẽ phản ánh mức độ ý chí
phạm tội, mức độ lỗi và vai trò của từng người làm cơ sở áp dụng biện pháp xử
lý với hành vi phạm tội.
* Yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự,
khởi tố bị can
Tại Điều 161 BLTTHS năm 2015 quy định: Khi thực hành quyền công tố
trong việc khởi tố vụ án hình sự, VKS có quyền: yêu cầu CQĐT, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ
sung quyết định khởi tố VAHS; hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi
10
hoặc bổ sung quyết định khởi tố VAHS; Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định
khởi tố vụ án hình sự. VKSND yêu cầu CQĐT khởi tố VAHS khi nhận được
kiến nghị khởi tố hình sự của cơ quan nhà nước và khi vụ án đang được điều
tra. VKSND yêu cầu CQĐT thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố VAHS
nếu trong quá trình tiến hành điều tra hoặc khi đã kết thúc điều tra, có căn cứ
xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn
có tội phạm khác. Nếu CQĐT không thực hiện thì VKSND trực tiếp ra quyết
định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố VAHS theo quy định tại Điều
156 BLTTHS năm 2015.
Trong trường hợp phát hiện có người đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình
sự quy định là tội phạm chưa bị khởi tố thì Viện Kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều
tra ra quyết định khởi tố bị can hoặc trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can nếu đã
yêu cầu nhưng CQĐT không thực hiện. Sau khi nhận hồ sơ và kết luận điều tra
mà VKS phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy
định là tội phạm trong vụ án chưa bị khởi tố thì VKS ra quyết định khởi tố bị can
và trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung (Điều 179, BLTTHS năm 2015)
* Phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố bị can không có căn cứ và trái pháp luật
Khi thấy quyết định khởi tố vụ án hình sự của các các cơ quan có thẩm
quyền không có căn cứ theo quy định tại điều 143 BLTTHS năm 2015 thì Viện
kiểm sát ra quyết định hủy quyết định khởi tố đó. Riêng quyết định khởi tố vụ án
hình sự của Hội đồng xét xử thì Viện kiểm sát không có quyền hủy, nhưng nếu
xác định không có căn cứ thì VKSND kháng nghị lên Tòa án cấp trên trực tiếp của
Tòa đã khởi tố vụ án. Khi xác định quyết định không khởi tố vụ án của CQĐT, cơ
quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có căn
cứ quy định tại Điều 157 BL TTHS thì VKSND hủy bỏ quyết định đó. “Việc
quyết định phê chuẩn (hoặc không phê chuẩn) phải trên cơ sở nguồn tài liệu
chứng cứ đã được thu thập, tránh tư tưởng chủ quan phiến diện khi thực hiện
các quyền năng tố tụng”.
* Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can
Thủ tục khởi tố bị can đối với người chưa thành niên tiến hành như thủ
tục đối với vụ án thông thường. Tuy nhiên, trước khi phê chuẩn quyết định khởi
tố bị can, VKS cần thiết phải yêu cầu CQĐT tiến hành xác minh tuổi của người
bị khởi tố. Điều này sẽ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can là NCTN
trong trường hợp họ thuộc độ tuổi chưa thành niên. Đồng thời, qua quá trình
này tất cả các biện pháp tiếp theo như áp dụng biện pháp ngăn chặn, điều tra,
truy tố, xét xử đối với họ được tiến hành theo quy định của BLTTHS năm 2015
và Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP11
BLĐTBXH đối với NCTN phạm tội.
Đồng thời Kiểm sát viên cần chú ý một số điểm cơ bản như sau: Khi xem
xét đề nghị phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, chú ý kiểm tra các điều kiện để
NCTN có thể là chủ thể của tội phạm: tuổi, trình độ nhận thức về tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi đó; tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm. Sau khi báo cáo lãnh đạo Viện phê chuẩn quyết định khởi tố bị can,
Kiểm sát viên cần vào sổ theo dõi riêng về tội phạm chưa thành niên để lưu ý
quá trình kiểm sát sau đó.
2.1.1.2. Chức năng thực hành quyền công tố trong việc áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế khác
Việc bảo đảm áp dụng biện pháp ngăn chặn đúng pháp luật là trách nhiệm
của VKS. Vì "... Ở đâu có việc bắt giam, giữ trái pháp luật thì VKS ở đó phải
chịu trách nhiệm”.
Các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế là các biện pháp TTHS
tác động mạnh mẽ đến các quyền con người đặc biệt là các biện pháp bắt, tạm
giữ, tạm giam. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi cho các bị can là NCTN và để hạn
chế đến mức thấp nhất tình trạng oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam,
BLTTHS năm 2015 đã quy định rút ngắn thời hạn tạm giam và bổ sung các căn
cứ về việc áp dụng các biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm
giữ, tạm giam… đối với NCTN đồng thời vẫn giữ nguyên quy định về vai trò
của VKS trong việc quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn
chặn, biện pháp cưỡng chế trong giai đoạn điều tra nhằm đảm bảo đảm việc bắt,
giữ, giam người có căn cứ, đúng pháp luật, góp phần phục vụ tốt công tác điều
tra, khám phá các VAHS và bảo vệ quyền lợi cho các bị can là NCTN.
Việc tạm giam bị can là NCTN chỉ được áp dụng trong trường hợp không
có biện pháp ngăn chặn nào khác vì khi áp dụng biện pháp này có thể dẫn gây ra
những tổn hại lâu dài đối với người chưa thành niên do tách họ ra khỏi gia đình,
cộng đồng, đưa họ vào trạng thái có suy nghĩ bị xâm hại về thể chất và cũng dễ
nhiễm các thói xấu của những người cùng phòng tạm giam, bị cách ly khỏi đời
sống xã hội, môi trường học tập, bạn bè... Vì vậy, VKSND cần cân nhắc kỹ lưỡng
trước khi quyết định biện pháp ngăn chặn này đối với bị can chưa thành niên.
Về việc giám sát đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi
(BLTTHS năm 2003 quy định là NCTN phạm tội), BLTTHS năm 2015 đã quy
định rõ hơn trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người
đại diện của người chưa thành niên trong việc giao và thực hiện giám sát đối
với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi tại Điều 418.
Về kiểm sát việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế: BLTTHS năm 2015
chỉ quy định về bốn biện pháp cưỡng chế là áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản và
12
phong tỏa tài khoản (Điều 126). Trong đó phong tỏa tài khoản là biện pháp
cưỡng chế mới còn 3 biện pháp còn lại đã được quy định tại BLTTHS năm
2003 nay được tập hợp lại và có những bổ sung nhất định (các biện pháp như
khám xét, thu giữ, tạm giữ, khám xét dấu vết trên thân thể tuy cũng có tính
cưỡng chế nhưng Bộ luật mới vẫn kế thừa kỹ thuật lập pháp của BLTTHS năm
2003 quy định tại các chương về hoạt động điều tra là phù hợp).
2.1.1.3. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành điều tra để làm rõ tội
phạm, người phạm tội
Đối với các vụ án có bị can là người chưa thành niên, Kiểm sát viên khi
đề ra bản yêu cầu điều tra cần chú ý các nội dung sau:
Một là, Việc thu thập chứng cứ phải đảm bảo đúng thủ tục tố tụng là một
yêu cầu bắt buộc để đảm bảo giá trị pháp lý, giá trị chứng minh của chứng cứ
trong vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên.
Hai là, việc ban hành và thực hiện các quyết định tố tụng để giải quyết vụ
án hoặc định hướng giải quyết vụ án như: Quyết định khởi tố vụ án hình sự,
quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định nhập,
tách, chuyển vụ án hình sự, các quyết định tạm đình chỉ...phải tuân thủ chặt chẽ
quy định của pháp luật. Bởi lẽ các lệnh, quyết định này có liên quan trực tiếp
đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân.
Ba là, yêu cầu thực hiện đầy đủ các vẫn đề liên quan đến việc giải quyết
vụ án như xác minh lý lịch bị can, giấy khai sinh, sổ hộ khẩu của bị can, trích
lục tiền án, tiền sự, biên bản giao nhận các quyết định tố tụng, các quyết định
tạm giữ, xử lý vật chứng...trong giai đoạn điều tra. Đây là các căn cứ quan trọng
để giải quyết vụ án mà bị can là người chưa thành niên.
2.1.1.4. Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra
Nhằm đảm bảo cho Kiểm sát viên nắm chắc chứng cứ, tài liệu trong giai
đoạn điều tra và để phù hợp với Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014
BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể những trường hợp Viện kiểm sát trực
tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra thay cho quy định có tính chất định tính
“xét thấy cần thiết” như trong BLTTHS năm 2003.
Bên cạnh các quy định chung về hỏi cung bị can thì đối với bị can là
người chưa thành niên cần phải tuân theo quy định tại Điều 421 BLTTHS.
2.1.1.5. Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam;
quyết định chuyển vụ án
Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam
Việc gia hạn thời hạn điều tra vụ án phải tuân thủ đúng theo quy định tại
Điều172 BLTHS năm 2015. Tuy nhiên, đối với các vụ án hình sự mà bị can là
13
NCTN thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải đảm bảo nguyên tắc giải quyết
nhanh chóng, kịp thời, hạn chế tối đa việc gia hạn điều tra theo quy định tại
khoản 7 Điều 414 BLTTHS năm 2015. Quy định này của BLTTHS năm 2015
nhằm bảo đảm thực hiện đúng tinh thần Công ước quốc tế về quyền trẻ em,
đồng thời phụ hợp với những quy định mới của BLHS năm 2015 về xử lý tội
phạm người chưa thành niên.
Tương tự như trên, đối với thời hạn tạm giam bị can, Điều 419 BLTTHS
năm 2015 quy định “thời hạn tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới
18 tuổi bằng hai phần ba thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên...
Khi không còn căn cứ để tạm giam thì cơ quan, người có thẩm quyền phải kịp
thời hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác”.
Quyết định chuyển vụ án
Nhằm bảo đảm việc điều tra đúng thẩm quyền, Điều 169 BLTTHS năm
2015 đã bổ sung đầy đủ các trường hợp VKS quyết định chuyển vụ án gồm:
Khi có đề nghị của CQĐT cùng cấp; khi CQĐT cấp trên rút vụ án để điều tra;
khi Điều tra viên bị thay đổi là Thủ trưởng CQĐT; khi VKS đã yêu cầu chuyển
vụ án nhưng CQĐT không thực hiện.
2.1.1.6. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành
quyền công tố
Ngoài các nhiệm vụ quyền hạn nêu trên, trong khi thực hành quyền công tố
đối với VAHS mà bị can là NCTN thì VKS còn có chức năng quyết định việc áp
dụng các biện pháp giám sát, giáo dục đối với NCTN phạm tội được miễn trách
nhiệm hình sự; quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân
có trách nhiệm giám sát; quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi
phạm tội (các Điều 426, 427, 428, 429, 430 BLTTH năm 2015).
2.1.2. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
Về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND trong điều tra vụ án
hình sự mà bị can là NCTN cũng tuân theo những quy định chung tại Điều 166
BLTTHS năm 2015 và Điều 15 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
2.1.2.1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố bị can
Theo quy định tại Điều 179 BLTTHS năm 2015: Trong thời hạn 24 giờ,
kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định khởi
tố và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can đó cho Viện kiểm sát cùng cấp để
xét phê chuẩn việc khởi tố. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết
định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định
hủy bỏ quyết định khởi tố bị can và gửi ngay cho CQĐT...
VKS phải yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra xác minh tuổi của người bị khởi tố để đảm bảo quyền và lợi
14
ích hợp pháp của bị can là NCTN trong trường hợp họ thuộc độ tuổi chưa thành
niên. Đồng thời, qua quá trình này tất cả các biện pháp tiếp theo như áp dụng
biện pháp ngăn chặn, điều tra, truy tố, xét xử đối với họ được tiến hành theo quy
định của BLTTHS năm 2015 Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTCTANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên.
Thêm vào đó, Kiểm sát viên khi kiểm sát việc khởi tố bị can cần lưu ý
quyết định đó có ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định (tránh trường hợp
quyết định khi khởi tố bị can lại có trước ngày khởi tố vụ án hình sự…); họ tên,
chức vụ người ra quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, hoàn
cảnh gia đình bị can; bị can bị khởi tố về tội gì, theo điều khoản nào của BLHS;
thời gian, địa điểm phạm tội và những tình tiết khác của tội phạm. Nếu bị can bị
khởi tố về nhiều tội khác nhau, thì trong quyết định khởi tố bị can, phải ghi rõ
từng tội danh và điều khoản của BLHS được áp dụng. Điều này để tránh nhầm
lẫn đáng tiếc, đồng thời để bị can biết được mình bị khởi tố về tội gì để thực
hiện quyền bào chữa.
Ngoài ra, Kiểm sát viên phải yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra cung cấp đầy đủ các tài liệu để làm rõ xem
việc khởi tố bị can có đúng tội danh, điều khoản của BLHS hay không.
2.1.2.2. Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của những người tham gia
tố tụng, yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm
minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; yêu cầu CQĐT, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện các hoạt
động tố tụng khi phát hiện việc điều tra không đầy đủ, vi phạm pháp luật
Thực hiện nhiệm vụ này, Viện Kiểm sát một mặt kiểm sát việc chấp hành
pháp luật của những người tham gia tố tụng, mặt khác kiểm sát việc bảo đảm các
quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng.
Song song với việc kiểm sát việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố
tụng trong quá trình kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là NCTN, VKS còn
kiểm sát việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng.
Nhằm mục đích đảm bảo cho những người bị tạm giữ có quyền được biết lý do
mình bị tạm giữ, có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, có quyền
được giải thích về quyền và nghĩa vụ... Bị can có quyền được biết mình bị khởi tố
về tội gì, quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, quyền được nhận quyết
định khởi tố bị can… Người bị hại có quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật, yêu cầu, có
quyền được thông báo về kết quả điều tra… Trong quá trình điều tra, CQĐT và
VKS có trách nhiệm giải thích cho những người tham gia tố tụng rõ về quyền và
15
nghĩa vụ của họ, đảm bảo các quyền và lợi ích của họ và phải tạo điều kiện cho họ
thực hiện nghĩa vụ của mình. Nếu ĐTV có vi phạm pháp luật thì tuỳ từng trường
hợp VKS có biện pháp xử lý thích hợp.
Trong quá trình điều tra VAHS mà bị can là NCTN, nếu phát hiện việc
điều tra không đầy đủ, vi phạm pháp luật thì VKS yêu cầu CQĐT, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện các hoạt
động sau đây:
- Tiến hành hoạt động điều tra đúng pháp luật;
- Kiểm tra việc điều tra và thông báo kết quả cho VKS;
- Cung cấp tài liệu liên quan đến hành vi, quyết định tố tụng có vi phạm
pháp luật trong việc điều tra.
2.2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CAN LÀ
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
2.2.1. Những kết quả đạt được
Trong giai đoạn từ năm 2011 – 31/05/2016, VKSND đã thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra việc khởi tố 616187 bị can là NCTN
Bảng 2.1: Tỉ lệ NCTN phạm tội từ năm 2011 – 2016
Tổng số bị
Tổng số bị can
Tỷ lệ bị can Tỷ lệ % so
Năm
can mới
chưa thành niên chưa thành
với năm
khởi tố
mới khởi tố
niên
2011
2011
114.112
6601
5.78
100
2012
120.401
7913
6.57
120
2013
107.873
6500
6.03
98,5
2014
110.290
5824
5.28
88,2
2015
109.093
5428
4.98
82,2
Quý I,II 2016
55.187
2294
4,2
Tổng số
616.956
34560
5,6%
(Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Cục thống kê và công nghệ thông
tin)
Hằng năm VKSND đã trực tiếp khởi tố hoặc yêu cầu CQĐT khởi tố
nhiều VAHS do NCTN thực hiện;VKSND các cấp đã hủy nhiều quyết định
khởi tố không có căn cứ pháp luật của CQĐT hoặc yêu cầu CQĐT rút quyết
định khởi tố để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN; huỷ bỏ các
quyết định không khởi tố và yêu cầu CQĐT phục hồi điều tra nhiều vụ án để xử
lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội và người phạm tội, không để lọt tội
phạm; Trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình
sự mà bị can là NCTN, VKSND thường xuyên đề ra các yêu cầu điều tra, yêu
16
cầu cơ quan có thẩm quyền điều tra thực hiện.
Trong giai đoạn từ năm 2011 – 2015, VKSND đã phê chuẩn 10799 lệnh
tạm giam đối với bị can là NCTN. Tất cả các lệnh tạm giam trên đều có căn cứ
và đúng pháp luật; VKSND cũng đã chủ động hủy bỏ nhiều biện pháp tạm giam
để thay thế bằng các biện pháp ngăn chặn khác.
Trong quá trình thực hiện chức năng của mình, VKSND đã chủ động tiến
hành các hoạt động điều tra khi cần thiết. Tuy nhiên, các biện pháp điều tra mà
Kiểm sát viên tiến hành vẫn chủ yếu là hỏi cung bị can và lấy lời khai các đương
sự. Nhìn chung, việc trực tiếp tiến hành các biện pháp điều tra của Kiểm sát viên
vẫn còn hạn chế.
Bảng 2.2: Tỷ lệ NCTN bị VKS truy tố so với NCTN bị đề nghị truy tố
Quý I, II
Năm
2011
2012
2013
2014
2015
2016
Số bị can CQĐT đề
nghị truy tố (1)
4573
5388
4700
4351
4865
2001
Số bị can VKS đã
truy tố (2)
4198
5219
4516
4189
4669
1953
Tỉ lệ % (2): (1)
91, 8
96,9
96,1
96,3
96
97,6
(Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Cục thống kê và công nghệ thông
tin)
Qua bảng số liệu trên có thể thấy, tỷ lệ bị can mà VKSND truy tố so
với số bị can CQĐT đề nghị truy tố từ năm 2011 – 2015 luôn đạt tỷ lệ cao
(trên 90%). Điều này phản ánh chất lượng hoạt động thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên luôn
được đảm bảo.
- Kiểm sát việc áp dụng, thay đổi các biện pháp ngăn chặn:
Hàng năm, VKSND các cấp đã ban hành hàng trăm nghìn kết luận kiểm
sát nhà tạm giữ, kết luận kiểm sát trại tạm giam; kiến nghị, kháng nghị trong
tạm giữ trong đó có rất nhiều nội dung liên quan đến người bị tạm giữ, tạm
giam là NCTN, tỷ lệ người bị bắt tạm giữ sau đó phải xử lý hành chính hoặc trả
tự do giảm rõ rệt. VKSND đã phát hiện và kiến nghị CQĐT khắc phục những vi
phạm trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam như lạm dụng bắt khẩn cấp, tạm giữ,
tạm giam không có căn cứ, quá thời hạn luật định.
- Kiểm sát các hoạt động khác trong điều tra: Trong 5 năm qua, VKSND
các cấp đã kiểm sát chặt chẽ việc ra quyết định tạm đình chỉ điều tra hoặc đình
chỉ điều tra thiếu căn cứ như tạm đình chỉ điều tra khi chưa hết thời hạn điều
tra, đình chỉ điều tra vì lý do bị can mắc bệnh tâm thần nhưng lại không có kết
17
luận giám định hoặc miễn truy cứu TNHS theo yêu cầu của người bị hại trong
vụ án tai nạn giao thông gây hậu quả rất nghiêm trọng…
- Ban hành nhiều kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các
biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
2.2.2.1. Những tồn tại hạn chế
Một là, Hoạt động kiểm sát việc khởi tố bị can cũng còn nhiều hạn chế,
vẫn còn để xảy ra tình trạng CQĐT để lọt người phạm tội hoặc khởi tố bị can
sau đó phải đình chỉ vì bị can không thực hiện tội phạm dẫn đến làm oan
người vô tội.
Hai là, Trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ
án mà bị can là là NCTN vẫn còn có KSV chưa bám sát quá trình điều tra vụ án
dẫn đến vẫn còn có vụ, có việc Điều tra viên mớm cung, bức cung, dùng nhục
hình với bị can làm cho việc điều tra thiếu khách quan; Việc điều tra thu thập
đánh giá chứng cứ của CQĐT chưa kịp thời, chưa đầy đủ dẫn đến vật chứng bị
mất, hư hỏng không thể phục hồi...
Ba là, về công tác kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn và kiểm sát
giam giữ: vẫn còn một số VKSND ở các cấp chưa thực hiện tốt việc xét phê
chuẩn các biện pháp ngăn chặn, còn để xảy ra không ít trường hợp CQĐT lạm
dụng việc bắt khẩn cấp đối với NCTN nhưng VKS vẫn phê chuẩn, sau đó phải
chuyển xử lý hành chính; hoặc có trường hợp cần phải áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam nhưng CQĐT không áp dụng dẫn đến bị can trốn, phải tạm đình
chỉ điều tra vụ án; Còn nhiều nơi để xảy ra tình trạng lạm dụng bắt khẩn cấp, vi
phạm các căn cứ của việc bắt khẩn cấp được quy định tại Điều 81 BLTTHS
năm 2003…
Bốn là, mặc dù tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung đã từng bước được
hạn chế xong hàng năm vẫn còn số lượng đáng kể các vụ phải trả hồ sơ để điều
tra bổ sung.
Năm là, Vẫn còn một số vụ án có bị can là NCTN phải đình chỉ điều tra.
2.2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Thứ nhất, nguyên nhân từ những quy định của pháp luật
Một là, thiếu văn bản hướng dẫn
BLHS và BLTTHS năm 2015 đã có sự thay đổi lớn so với BLHS và
BLTTHS cũ song đến nay mới chỉ có Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày
27/11/2015 của Quốc Hội khóa XIII về việc thi hành Bộ luật hình sự ngoài ra
chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng nào khác.
Hai là, Chưa có sự thống nhất giữa BLTTHS năm 2015 và các văn bản
pháp luật khác có liên quan
18
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được Quốc hội thông qua ngày
27/11/2015 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2016 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm
khắc phục những tồn tại, hạn chế trong BLTTHS năm 2003, trong đó có rất
nhiều quy định liên quan đến việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm là NCTN. Sự
ra đời của BLTTHS năm 2015 đã “đẩy” rất nhiều luật, thông tư có liên quan rơi
vào tình trạng “lạc hậu”.
Ba là, còn nhiều quy định chưa phù hợp
- BLTTHS năm 2015 tuy đã sửa đổi bổ sung song vẫn còn những quy
định về thủ tục rườm rà khi thực hành quyền công tố như thủ tục xét phê
chuẩn các quyết định của CQĐT, thời hạn giao nhận các quyết định tố tụng;
thời hạn tố tụng chưa phù hợp với thực tế như một số tội ít nghiêm trọng
nhưng tính phức tạp của nó lại cao đòi hỏi thời hạn điều tra dài nhưng Bộ
luật lại quy định quá ngắn.
- Theo quy định của BLTTHS năm 2015, các thẩm quyền tố tụng vẫn tập
trung chủ yếu vào Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó
viện trưởng VKSND các cấp trong khi Điều tra viên và Kiểm sát viên là những
người trực tiếp tiến hành tố tụng thì quyền năng hạn chế, khiến họ bị thụ động và có
tâm lý ỷ lại cấp trên, không chủ động tiến hành các hoạt động tố tụng theo yêu cầu.
- Mặc dù BLHS năm 2015 ra đời chưa lâu song những vướng mắc trong
việc áp dụng BLHS năm 2015 là nguyên nhân gián tiếp ảnh hưởng đến chất
lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các VAHS mà bị
can là NCTN.
+ Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật để khởi
tố, điều tra.
+ Theo thống kê BLHS năm 2015 tồn tại 90 lỗi kỹ thuật
Thứ hai, chất lượng của một bộ phận KSV, ĐTV còn hạn chế
Hiện nay ngành Kiểm sát và Công an vẫn tồn tại 1 bộ phận KSV, Điều tra
viên có năng lực hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ
theo yêu cầu của cải cách tư pháp. Năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát
các hoạt động tư pháp trong điều tra VAHS mà bị can là NCTN còn yếu dẫn
đến việc thực hiện chức năng của ngành KSND còn hạn chế.
Thứ ba, quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng còn hạn
chế
Việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết loại án do
NCTN thực hiện còn hạn chế và vẫn tuân theo thủ tục tố tụng chung mà chưa
chú ý đúng mức đến những thủ tục đặc biệt giành cho họ.
Thứ tư, cơ sở vật chất, chế độ, chính sách trong ngành Kiểm sát còn chưa
đáp ứng được yêu cầu
Thứ năm, công tác chỉ đạo điều hành có lúc, có nơi còn chưa kịp thời,
19
chưa chính xác.
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VÀ BẢO ĐẢM CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CAN LÀ NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN
3.1. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CAN LÀ NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN
3.1.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
3.1.1.1. Sửa đổi một số quy định chưa phù hợp
Thứ nhất, về phạm vi áp dụng các thủ tục tố tụng đối với NCTN. Theo
chúng tôi, BLTTHS nên bổ sung quy định: “Đối với trường hợp NCTN phạm
tội, người bị hại, người làm chứng trước khi đủ 18 tuổi nhưng khi bị khởi tố,
điều tra, xét xử họ đã đủ 18 tuổi thì vẫn áp dụng thủ tục tố tụng như Chương
này” để giải quyết những vướng mắc thực tiễn trong quá trình điều tra VAHS
mà bị can là NCTN.
Thứ hai, cần sửa đổi quy định của BLTTHS năm 2015 theo hướng tăng
thẩm quyền và trách nhiệm hơn nữa cho Kiểm sát viên, Kiểm tra viên trong
quá trình điều tra VAHS mà bị can là NCTN.
Thứ ba, cần phải kiểm tra, rà soát lại Bộ luật hình sự năm 2015 một cách
toàn diện nhằm phát hiện và khắc phục kịp thời các điểm lỗi trong bộ luật này.
Đối với những quy định đang tồn tại mâu thuẫn, trùng lặp tình tiết định khung
hình phạt và các lỗi kỹ thuật trong BLHS năm 2015 cần phải được nhanh chóng
sửa đổi ngay cho phù hợp tránh tình trạng áp dụng “tùy nghi” trên cả nước
trước khi bộ luật này có hiệu lực. Trong trường hợp không thể sửa đổi bộ luật
hình sự năm 2015 trước ngày 01/7/2015 thì theo chúng tôi cần lùi hiệu lực thi
hành của bộ luật hình sự, bộ luật tố tụng hình sự cho đến khi nào bộ luật hình sự
năm 2015 được sửa đổi một cách hoàn thiện.
3.1.1.2. Thống nhất các quy định của pháp luật về chức năng của
Viện Kiếm sát trong điều tra VAHS mà bị can là NCTN
Để tạo ra tính thống nhất trong các văn bản pháp luật điều chỉnh chức
năng của VKSND trong điều tra VAHS mà bị can là NCTN thì phải nhanh
chóng sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế kịp thời đối với các Luật và văn bản
dưới luật có liên quan có mâu thuẫn với BLTTHS 2015 như đã nêu ở trên.
20
3.1.2. Ban hành các văn bản hướng dẫn
3.1.2.1. Kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện BLHS
và BLTTHS năm 2015
Trong thời gian trước mắt, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần
ban hành các Nghị quyết để triển khi thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015, Bộ luật hình sự năm 2015, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014. VKSND tối cao cũng cần ban hành các văn bản chỉ đạo các VKS cấp
dưới có cơ sở triển khai thực hiện các Bộ luật này. Đặc biệt là nghiên cứu
ban hành ngay các biểu mẫu tố tụng hình sự theo quy định của BLTTHS năm
2015 để thực hiện ngay từ 01/7/2016 nhằm tránh những sai sót, nhầm lẫn
không đáng có và tạo ra sự thống nhất trong toàn Ngành.
3.1.2.2. Ban hành quy định, quy chế hướng dẫn nghiệp vụ
Ban hành quy định, quy chế hướng dẫn về các hoạt động thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra VAHS mà bị can là NCTN là một nhiệm vụ cấp
bách hiện nay không chỉ của Ngành Kiểm sát. Bởi lẽ, số vụ án hình sự có bị can
là NTCN ngày càng gia tăng với tính chất mức độ ngày càng phức tạp, nghiêm
trọng hơn, đòi hỏi kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của
KSV phải được chú trọng nâng cao hơn.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHÁC BẢO ĐẢM CHỨC NĂNG CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
MÀ BỊ CAN LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
3.2.1. Nâng cao chất lượng cán bộ của Ngành Kiểm sát
Đổi mới công tác tổ chức và cán bộ của ngành kiểm sát là một trong
những biện pháp quan trọng để VKSND tập trung làm tốt chức năng công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra án hình sự nói chung và trong
điều tra vụ án hình sự mà bị can là NCTN nói riêng. Để làm được điều này đòi
hỏi ngành Kiểm sát cần xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ chuyên
môn, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, được đào tạo bài bản, thường
xuyên học tập rèn luyện nâng cao trình độ về chính trị, kiến thức chuyên môn
và đặc biệt là phải có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối
với NCTN theo yêu cầu của Điều 415 BLTTHS năm 2015.
3.2.2. Tăng cường về cơ sở vật chất cho Ngành Kiểm sát
Để thực hiện tốt được chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong điều tra các vụ án hình sự mà bị can là NCTN đòi
hỏi KSV phải được tăng cường trang bị phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ cho
công tác. Bên cạnh đó Ngành Kiểm sát cần cần cải thiện hơn chế độ chính sách
đãi ngộ đối để cán bộ làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp an tâm công tác, yêu ngành, yêu nghề và thu hút những
người có tài, có đức có tâm huyết tham gia lực lượng kiểm sát.
21
3.2.3. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng
Để đạt được hiệu quả cao trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
do NCTN thực hiện nói chung cũng như công tác điều tra vụ án hình sự mà bị
can là NCTN nói riêng thì không thể chỉ có sự nỗ lực, cố gắng của riêng một
ngành nào mà đòi hỏi phải có sự chung tay, góp sức của toàn bộ các cơ quan
tiến hành tố tụng như: CQĐT, Viện Kiểm sát, Tòa án. Việc phối hợp liên ngành
trong hoạt động TTHS có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc giải quyết
các vụ án hình sự do NCTN thực hiện bởi có làm tốt công tác này thì việc áp
dụng pháp luật mới được thống nhất, mỗi ngành thực hiện tốt hơn chức năng,
nhiệm vụ do pháp luật quy định, khắc phục kịp thời những vướng mắc, khó
khăn trong quá trình giải quyết vụ án.
3.2.4. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự mà bị can là
người chưa thành niên
Từ thực tiễn cho thấy công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành có ý nghĩa rất
quan trọng đối với việc thúc đẩy hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra các VAHS nói chung cũng như các VAHS mà bị can là NCTN nói riêng.
3.2.5. Xây dựng hệ thống tư pháp thân thiện với người chưa thành niên
Chúng tôi cho rằng, việc xây dựng một hệ thống tư pháp thân thiện với
NCTN là một việc hết sức cần thiết hiện nay. Chúng tôi cho rằng, việc xây
dựng một hệ thống tư pháp thân thiện với NCTN không phải là chúng ta phủ
định hệ thống hiện có của chúng ta, mà là kế thừa chủ trương bảo vệ, chăm sóc
đặc biệt đối với NCTN phạm tội và trẻ em là nạn nhân của tội phạm trong hệ
thống pháp luật hiện hành và tiếp tục hoàn thiện, nâng cấp những quy định này
sao cho bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền của trẻ em, đáp ứng chủ trương của
Đảng và Nhà nước ta về bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
KẾT LUẬN
Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi, chưa phát triển đầy đủ
về thể chất, tâm sinh lý, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như
người đã thành niên. Bị can là người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi bị khởi tố về hình sự. Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân
trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là NCTN là hoạt động thực hiện việc
buộc tội của nhà nước đối với người phạm tội và kiểm tra, giám sát hoạt động
của các cơ quan, người tiến hành tố tụng và một số cơ quan có thẩm quyền điều
22
tra khác trong quá trình điều tra hình sự mà bị can là người chưa thành niên từ
đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi. Thực hiện chức năng này của Ngành Kiểm sát
nhân dân, đòi hỏi Kiểm sát viên phải là người có kiến thức về tâm lý cũng như
vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ nhằm thực hiện tốt công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Để từ đó có thể thực hiện
mục tiêu đấu tranh phòng chống tội phạm, truy tố đúng người đúng tội đúng
pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội đặc biệt là đối với
NCTN vi phạm pháp luật hình sự.
Nhằm thể chế hóa các chủ trương, định hướng của Đảng, tăng cường hơn
nữa trách nhiệm của VKS và tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn thời
gian qua, BLTTHS năm 2015 đã có nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung quan
trọng. Trong đó có những sửa đổi, bổ sung đối với các quy định liên quan đến
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự của
VKSND, đặc biệt là đối với các vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành
niên (dưới 18 tuổi).
Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự mà
bị can là NCTN trong giai đoạn từ năm 2011 – 2015 mặc dù đã đạt được những
kết quả nhất định, nhưng do các nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau
nên vẫn còn nhiều hạn chế. Trong quan hệ phối hợp giải quyết án hình sự với
CQĐT, các Kiểm sát viên vẫn còn biểu hiện của tư tưởng ngại va chạm, xuôi
chiều, để mặc cho CQĐT thực hiện các hoạt động điều tra, nên không sâu
sát, kịp thời phát hiện ra các vi phạm pháp luật, hoặc ỷ lại vào sự chỉ đạo của
cấp trên hay của liên ngành mà các Kiểm sát viên chưa chủ động đề ra các
yêu cầu điều tra, yêu cầu CQĐT khắc phục vi phạm. Hơn nữa, công tác kiến
nghị đối với các vi phạm pháp luật của CQĐT chưa được các Viện kiểm sát
làm thường xuyên.
Trên cơ sở nghiên cứu hệ thống lí luận và thực tiễn thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự mà NCTN trên toàn quốc, với
những dự báo các vấn đề tác động ảnh hưởng đến các hoạt động này, tác giả
đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự mà bị can là NCTN của Viện
kiểm sát nhân dân.
23