Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và sự vận dụng của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.92 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
Đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan theo đúng quy luật tiến hoá của
lịch sử. Tuy nhiên, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước kinh tế kém phát triển như
nước ta là quá trình phấn đấu đầy khó khăn gian khổ, chưa có tiền lệ trong lịch sử, song
Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam vẫn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội trong suốt hơn 85 năm qua. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc
của Đảng lần thứ IX đã xác định: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”1.
Như vậy, Đảng ta một lần nữa khẳng định rằng, để đi lên chủ nghĩa xã hội nước ta
nhất định phải trải qua một thời kỳ quá độ. Điều đó hoàn toàn đúng với nguyên lý của chủ
nghĩa Mác- Lênin và phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam. Sự khẳng định này là hết sức cần
thiết, nhất là trong thời điểm hiện nay nước ta đang bước vào thời kỳ đổi mới đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến nhanh
chóng, phức tạp và khó lường với những tác động to lớn và sâu rộng. Vì vậy, việc nhận
thức đúng và vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận của Mác về hình thái kinh tế - xã hội trở
thành một nhiệm vụ chính trị cấp bách. Nhiều nhà khoa học đã và đang tích cực nghiên
cứu, hoạt động lý luận để chứng minh sức sống trường tồn, khoa học và cách mạng của
học thuyết nhằm bác bỏ các quan điểm nhận thức sai trái cũng như những tư tưởng tư sản
phản động phủ nhận chủ nghĩa Mác và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Cùng với việc trung thành, kiên định với chủ nghĩa Mác, việc vận dụng và phát triển
lý luận hình thái kinh tế - xã hội để xác định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
công cuộc đổi mới ở nước ta cũng đang nảy sinh nhiều vấn đề mới đòi hỏi chúng ta phải
biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và lý luận về hình thái kinh tế xã hội nói riêng trong những hoàn cảnh cụ thể để tiếp tục làm sáng tỏ con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với suy nghĩ đó, em lựa chọn chủ đề của tiểu luận là: “Học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội và sự vận dụng của Đảng ta về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.”

1

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, Tr 84.


1


NỘI DUNG
I. TÍNH QUY LUẬT CỦA VIỆC BỎ QUA MỘT VÀI HÌNH THÁI
KINH TẾ- XÃ HỘI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỊCH SỬ.
1. Tính quy luật chung của sự phát triển các hình thái kinh tế- xã hội là
một quá trình lịch sử tự nhiên.
Với sự ra đời của học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội, chủ nghĩa duy
vật lịch sử đã vạch ra thực chất sự tồn tại và phát triển của các xã hội trong kết
cấu khách quan của chúng. Học thuyết của Mác về hình thái kinh tế- xã hội
không chỉ xác định các yếu tố, kết cấu của chúng, mà còn xem xét xã hội trong
quá trình vận động biến đổi, phát triển không ngừng. Mác viết: “Tôi coi sự
phát triển của những hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên”2. Như vậy, sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội vừa mang tính
giai đoạn, vừa mang tính liên tục trong tổng thể quá trình phát triển lâu dài của
lịch sử xã hội, nó mang tính khách quan, vốn có, không ai có thể áp đặt được sự
phát triển đó. Mác đi nghiên cứu xã hội bằng chính nội tại của xã hội mà trước
hết từ nền sản xuất vật chất. Như chúng ta đều biết sự tồn tại của xã hội luôn
phụ thuộc vào sự phát triển của nền sản xuất vật chất. Mác khẳng định: “Tiền
đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề của mọi lịch
sử, đó là: người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”.
Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở,
quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản
xuất trong những tư liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản
thân đời sống vật chất. Hơn nữa, đó là một hành vi lịch sử, một điều kiện cơ
bản của mọi lịch sử mà hiện nay cũng như hàng nghìn năm về trước, người ta
phải thực hiện hàng ngày, hàng giờ, chỉ nhằm để duy trì đời sống con người.
Bằng tư duy biện chứng duy vật với khả năng trừu tượng hoá và khái quá
hoá cao, Mác và Ăngghen đã phát hiện ra các mối quan hệ xã hội và các quan

hệ vật chất làm cho xã hội phát triển đó là học thuyết hình thái kinh tế- xã hội.
2

C.Mác-Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1993, Tập 23, tr 21.

2


Nhận xét về vấn đề này Ăngghen viết: “Chủ nghĩa duy vật đã trải qua một loạt
các giai đoạn phát triển. Mỗi lần có một phát minh mang ý nghĩa thời đại ngay
cả trong lĩnh vực khoa học lịch sử- tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại không
tránh khỏi thay đổi hình thức của nó; và từ khi bản thân lịch sử cũng được giải
thích theo quan điểm duy vật chủ nghĩa thì ở đây, cũng mở ra một con đường
phát triển mới”3. Rõ ràng xuất phát từ điều kiện kinh tế- xã hội mà các ông đã
có những khái quát các luận thuyết triết học của mình và đưa ra học thuyết về
hình thái kinh tế- xã hội.
Bàn về vấn đề này Lênin đã giải thích rằng mối quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, do lực lượng sản xuất quyết định sự vận động,
phát triển của xã hội một cách tự nhiên. Ông viết: “Chỉ có đem quy những quan hệ
xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ
của lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm
sự phát triển của những hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”4.
Để hiểu được sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội một cách đúng
đắn, triết học Mác với quan niệm đúng đắn về xã hội đã chỉ ra rằng, quy luật của
đời sống xã hội có một đặc điểm khác với quy luật tự nhiên ở chỗ được tác động
thông qua hoạt động của con người, song điều đó không vì thế mà nó không
mang tính khách quan. Trái lại, quy luật vận động của xã hội không những
không phụ thuộc vào ý thức con người mà ngược lại xét đến cùng còn quyết định
cả ý chí, ý thức của con người. Chính con người hoạt động xã hội và hoạt động
sản xuất vật chất, với tư cách là lực lượng sản xuất đặc biệt, con người đã gián

tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình, đó là con người sống, hành
động, và sản xuất- con người xã hội, con người phải gắn với sản xuất vật chất và
hình thức giao tiếp, gắn liền với phương thức sản xuất và do chính phương thức
sản xuất ấy sản sinh ra. Bàn về vấn đề này, Mác viết: “Con người là sản phẩm
của những hoàn cảnh và của giáo dục, con người làm thay đổi hoàn cảnh” 5. Chỉ
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1995, Tập 21, tr 409.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1974, tập 1, tr 163.
5 C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập 3, tr10.
3
4

3


có quan điểm thực tiễn đúng đắn mới có thể giải thích được vì sao ý thức con
người phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan; vì sao ý thức lại có vai
trò to lớn trong cải tạo hiện thực khách quan, muốn nhận thức đúng bản chất con
người không có con đường nào khác là phải xuất phát từ quan điểm thực tiễn.
Điều quan trọng nhất, quan hệ của con người với tự nhiên diễn ra trong sản xuất
vật chất, trong hoạt động thực tiễn. Bản chất của con người không phải ở tính tự
nhiên mà cái tạo nên sự hình thành và phát triển của bản chất ấy chính là sự biến
đổi của các quan hệ xã hội: “Bản chất con người không phải là một cái trừu
tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà những quan hệ xã hội”6.
Chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra rằng, cần phân biệt sự khác nhau giữa quy
luật lịch sử với các quy luật tự nhiên, phải loại bỏ những mối liên hệ nhân tạo và
phải tìm ra những mối liên hệ hiện thực, nhất là phải phát hiện ra các quy luật
chung chi phối sự phát triển của lịch sử. Trong giới tự nhiên, các quy luật diễn ra
tự động, bên ngoài ý thức của con người trái lại các quy luật xã hội diễn ra thông
qua hoạt động có ý thức của con người. Nhưng cũng giống với các quy luật tự

nhiên, quy luật xã hội cũng bị chi phối bởi vô số những ngẫu nhiên. Thông qua vô
số ngẫu nhiên đó, chúng ta phát hiện ra quy luật nội tại bị che giấu. Khi bàn về
động lực của lịch sử Ăngghen phân tích sâu sắc động lực bên trong- nội tại của
lịch sử và ông kết luận: “Nếu như trong tất cả các thời kỳ trước, việc nghiên cứu
những nguyên nhân thúc đẩy ấy của lịch sử đã hầu như không thể làm được, vì
những mối liên hệ phức tạp và bị che lấp giữa những nguyên nhân ấy với những
hậu quả của chúng thì ngày nay, thời đại chúng ta đã đơn giản hoá những mối
liên hệ đó đến một mức mà cuối cùng điều bí ẩn đã có thể giải đáp được”7.
Như vậy, khi nghiên cứu lịch sử xã hội, chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra
quy luật vận động nội tại của xã hội do chính các yếu tố bên trong quy định. Mỗi
hình thái kinh tế- xã hội được coi như một cơ thể xã hội phát triển theo quy luật
vốn có của nó, bởi vì xã hội là một bộ phận của tự nhiên do đó cũng vận động
6
7

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập 3, tr 11.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 21, tr 438- tr 439.

4


theo quy luật tự nhiên. Như vậy, một cơ thể xã hội riêng biệt nó cũng sẽ có
những quy luật riêng về sự ra đời của nó, về hoạt động của nó, và bước chuyển
của nó lên hình thức cao hơn, tức là biến thành một cơ thể xã hội khác. Theo đó,
quá trình lịch sử tự nhiên được hiểu là: con người làm ra lịch sử của mình và họ
tạo ra những quan hệ xã hội của mình, đó chính là xã hội. Nhưng xã hội lại vận
động theo quy luật khách quan vốn có không phụ thuộc vào ý thức, hay ý muốn
của con người, nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của một cá nhân hay
một lực lượng chính trị xã hội nào. Mác viết: “Nhân loại bao giờ cũng chỉ đặt ra
cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết được, vì khi xét kỹ hơn, bao

giờ người ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi những điều
kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra cũng đang ở trong
quá trình hình thành”8.
Khi nghiên cứu các quy luật phát triển của xã hội nói chung và chủ nghĩa
tư bản nói riêng, Mác đã dự báo và đưa ra các kết luận khoa học là sẽ xuất hiện
một hình thái kinh tế xã hội mới- hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa- đó cũng
là hệ quả tất yếu của tiến trình chung của lịch sử nhân loại. Sự phát triển chung,
hay sự thay thế hình thái kinh tế- xã hội này bằng hình thái kinh tế- xã hội khác
cao hơn, thường được thông qua con đường cách mạng xã hội. Nguyên nhân sâu
xa của cuộc cách mạng đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất thống trị, khi quan hệ sản xuất thống trị trở thành “xiềng xích” của lực
lượng sản xuất thì cách mạng xã hội nổ ra. Mác viết: “Tới một giai đoạn phát
triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn
với những quan hệ sản xuất hiện có, hay- đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những
quan hệ sản xuất đó- mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước
đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát
triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của các
lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại, một cuộc cách mạng xã hội” 9.
Trong những thời kỳ cách mạng, khi cơ sở kinh tế thay đổi, thì sớm hay muộn
8
9

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 16.
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15.

5


toàn bộ kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng phải thay đổi theo. Mác kết luận rằng:
hình thái kinh tế- xã hội tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ được thay thế bằng hình

thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa. Từ đó, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác- Lênin đi đến kết luận: hình thái kinh tế- xã hội tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ được
thay thế bằng hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa, và sự thay thế này cũng là
quá trình lịch sử tự nhiên. Sự thay thế đó thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa mà hai
tiền đề vật chất quan trọng nhất của nó là sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự
trưởng thành của giai cấp vô sản, tác động vào quá trình đó, thúc đẩy quá trình đó sớm
thu được kết quả. Mác viết: “Các quan hệ sản xuất tư sản là hình thức đối kháng cuối
cùng của quá trình sản xuất xã hội, đối kháng không phải với ý nghĩa là đối kháng cá
nhân, mà với ý nghĩa là đối kháng nảy sinh từ những điều kiện sinh hoạt xã hội của các
cá nhân; nhưng những lực lượng sản xuất phát triển trong lòng xã hội tư sản đồng thời
cũng tạo ra những điều kiện vật chất để giải quyết đối kháng ấy. Cho nên với hình thái
xã hội tư sản, thời kỳ tiền sử của xã hội loài người đang kết thúc”10.
Như vậy, hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa là hình thái kinh tế- xã
hội cuối cùng trong lịch sử có quan hệ sản xuất với hình thức đối kháng, là hình
thái xã hội cuối cùng trong lịch sử có sự đối kháng trong quá trình sản xuất xã hội:
còn chiếm hữu tư nhân, còn áp bức bóc lột, và chính sự phát triển của lực lượng
sản xuất trong lòng xã hội tư bản sẽ tạo điều kiện vật chất để xoá bỏ quan hệ sản
xuất, thiết lập quan hệ sản xuất mới- quan hệ sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Nói
cách khác, Mác đã dự báo rằng hình thái kinh tế- xã hội tư bản chủ nghĩa nhất
định sẽ bị diệt vong do chính sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất ở
ngay trong lòng xã hội đó và sự diệt vong là không thể tránh khỏi. Mặt khác,
chính giai cấp tư sản đã tạo ra những cơ sở vật chất để tự thủ tiêu mình. Đó là phát
hiện thiên tài của Mác. Xã hội cũ chưa mất đi khi tiền đề vật chất của nó chưa mất
đi, xã hội mới chưa ra đời khi tiền đề vật chất của nó chưa xuất hiện. Mác viết:
“Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản
xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát
10

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 16.


6


triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện
trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi
trong lòng bản thân xã hội cũ”11.
Đáp ứng mong muốn xây dựng một xã hội mà ở đó không có người bóc
lột người, con người được giải phóng và được phát triển toàn diện đã trở thành
hiện thực khi cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra và giành thắng lợi. Chủ nghĩa xã
hội mở đầu là Cách mạng Tháng mười Nga (năm 1917) đã đánh dấu một bước
ngoặt lịch sử nó đã trở thành chủ nghĩa xã hội hiện thực- phong trào cách mạng
hiện thực, nó đã phát động được giai cấp công nhân và quần chúng cách mạng
dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản- đội tiền phong của giai cấp công nhân- lãnh
tụ của phong trào công nhân đứng lên làm cách mạng đã giành được thắng lợi và
trở thành một hệ thống xã hội chủ nghĩa đối trọng với chủ nghĩa tư bản, đó là sự
ra đời của hình thái kinh tế- xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Đây là bằng chứng đầy
sức thuyết phục cả về lý luận và thực tiễn- khẳng định tính chân lý, tính hiện
thực sức sống mãnh liệt và chủ nghĩa nhân đạo cao cả của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Thực tiễn lịch sử phát triển của xã hội loài người đã đang và sẽ trải qua
năm hình thái kinh tế- xã hội từ thấp đến cao, từ cộng sản nguyên thuỷ đến cộng
sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội, đó là một quá trình lịch sử
tự nhiên lâu dài, điều đó không phải do ý muốn chủ quan của bất cứ một ai, hay
một lực lượng chính trị, một lực lượng siêu nhiên nào, mà nó là quy luật khách
quan của sự vận động, phát triển của xã hội loài người. Cho tới nay hình thái
kinh tế- xã hội phát triển cao nhất là hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa,
mở đầu bằng cuộc cách mạng tháng mười Nga, nó đã mở ra một thời đại mới,
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản, xét đến cùng nó là một quá trình lịch sử tự nhiên, thể hiện tính quy luật chung
của sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao.
2. Tính quy luật đặc thù của việc bỏ qua một vài hình thái kinh tế- xã

hội trong sự phát triển của lịch sử.
11

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15- tr 16.

7


Như vậy, nếu xem xét ở phạm vi lịch sử toàn nhân loại thì lịch sử xã
hội loài người đã phát triển qua bốn hình thái kinh tế- xã hội một cách tuần
tự từ thấp đến cao. Song, do đặc điểm về lịch sử, về không gian và thời
gian, không phải quốc gia nào cũng phải trải qua tuần tự các hình thái kinh
tế- xã hội đó từ thấp đến cao theo lược đồ chung. Thực tế lịch sử xã hội loài
người đã chứng minh một số quốc gia trong quá trình phát triển đã bỏ qua
một vài hình thái kinh tế- xã hội để phát triển đến hình thái kinh tế- xã hội
cao hơn như: Nga, Ba Lan, Đức từ hình thái kinh tế- xã hội cộng sản
nguyên thuỷ tiến lên hình thái kinh tế- xã hội phong kiến bỏ qua hình thái
kinh tế- xã hội chiếm hữu nô lệ. Việt Nam trong tiến trình phát triển lịch sử
đã bỏ qua hình thái kinh tế- xã hội chiếm hữu nô lệ tiến lên hình thái kinh
tế- xã hội phong kiến v.v..
Mác và Ănghen cũng đã dự báo những vấn đề về quá độ của chủ nghĩa
xã hội. Mác viết: “Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một
trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải
khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực,
xoá bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do những
tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra” 12. Mác đã chỉ ra rằng, khả năng vận động của
cuộc cách mạng vô sản phải bằng chính sự vận động của hiện thực khách
quan, mà mỗi dân tộc phải năng động sáng tạo, không được trông chờ, không
máy móc. Chỉ có được kết quả khi chính chúng ta phải tự mình đấu tranh xoá
bỏ chủ nghĩa tư bản ngay tại dân tộc mình, tại quốc gia mình, đó là điều kiện

trước tiên, quyết định đến sự vận động phát triển của mỗi dân tộc sẽ góp phần
làm xã hội loài người vận động phát triển.
Kế thừa, bổ sung và phát triển lý luận Mác trong điều kiện lịch sử mới, khi
chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc. Bằng thiên tài của mình
Lênin đã khẳng định rằng chủ nghĩa xã hội không thể thắng lợi đồng thời ở tất cả
các nước mà chỉ có thể giành thắng lợi ở một số nước, thậm chí có thể giành thắng lợi
12

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 3, tr 51.

8


ở một nước thuộc mắt khâu yếu nhất trong dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc.
Dự báo thiên tài này của Lênin không mâu thuẫn với nhận định của Mác và
Ăngghen trước đây về khả năng giành thắng lợi của giai cấp vô sản. Trên thực
tế, nó đã trở thành hiện thực, Lênin đã lãnh đạo giai cấp vô sản Nga làm cách
mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười giành thắng lợi, mở đầu một thời đại mớithời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi
toàn thế giới, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Sau này, chủ tịch Hồ Chí
Minh tiếp tục bảo vệ và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và cho
rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra ở một vài, thậm chí ở một nước
thuộc địa mà ở đó tập trung những mâu thuẫn chủ yếu của thời đại, điều đó
cũng được chứng minh bằng thực tiễn cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam.
Như vậy, cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và thực tiễn lịch sử
phát triển của xã hội loài người đã chứng minh, sự phát triển của các hình
thái kinh tế- xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường tuần tự theo quy
luật chung phổ biến mà còn bao hàm cả sự bỏ qua trong những điều kiện lịch
sử nhất định, thể hiện tính đặc thù, tính đa dạng phong phú của sự phát triển
của xã hội loài người.
Trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chính nước ta cũng là một

quốc gia nằm trong tiến trình lịch sử tự nhiên của xã hội loài người. Vừa
mang tính quy luật chung, mà ở Việt Nam còn mang tính quy luật đặc thù,
đó là chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu,
kinh tế kém phát triển, chưa trải qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa.
Song (theo lôgích nội tại của sự phát triển của xã hội Việt Nam) đó là con
đường hiện thực, phù hợp với quy luật phát triển chung của tiến trình lịch
sử nhân loại. Bởi vậy, sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam là đúng đắn và
hợp quy luật khách quan.

9


II. VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY.
1. Nhận thức về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng đã xác định: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” 13. Như vậy, Đảng ta khẳng
định đi lên chủ nghĩa xã hội, nước ta nhất định phải trải qua một thời kỳ quá độ.
Điều đó hoàn toàn đúng với nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin và phù hợp
với thực tiễn nước ta. Theo nguyên lý chung, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
thường có hai dạng cơ bản, đó là, từ chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội và
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Như vậy, nước
ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội thuộc hình thức thứ hai. Qua nghiên cứu
chúng ta thấy rằng nước ta tuy có những nét chung của hình thức quá độ bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng nước ta lại có những đặc điểm riêng do điều
kiện đặc thù của lịch sử cách mạng nước ta. Đó là, nước ta đi lên chủ nghĩa xã

hội từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ là phổ biến, trình độ lực lượng sản xuất
thấp, từ quan hệ sản xuất tiền tư bản. Điều đó chỉ ra cho chúng ta phải xây
dựng một phương thức sản xuất mới, có nền công nghiệp hiện đại, nền nông
nghiệp phát triển...đồng nghĩa là cả một quá trình rất lâu dài và cực kỳ khó
khăn. Cùng với kinh tế, thể chế chính trị còn rất nhiều bất cập bởi vì chúng ta
đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, chưa trải qua
nền dân chủ tư sản, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của chế độ phong kiến, giai cấp
công nhân còn ít về số lượng, chất lượng còn nhiều hạn chế. Xã hội nước ta trải
qua chiến tranh hết sức tàn khốc, để lại nhiều hậu quả nặng nề, các quan hệ xã
hội còn nhiều bất cập, phức tạp. Trong khi đó, nước ta lại chịu ảnh hưởng nặng
nề của hệ tư tưởng phong kiến, tư tưởng tiểu nông, văn minh nông nghiệp,
13

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, tr 84.

10


những tàn dư lạc hậu, của chế độ cũ để lại còn khá phổ biến, đời sống hưởng
thụ văn hoá của nhân dân còn nhiều hạn chế. Cùng với những khó khăn về
chính trị, kinh tế, xã hội, đó là sự chống phá của kẻ thù bên trong và bên ngoài,
tình hình quốc tế diễn biến phức tạp khó lường. Sự sụp đổ của các nước xã hội
chủ nghĩa ở Liên xô và Đông âu, đã mất đi sự giúp đỡ to lớn, khiến cho chúng
ta đi lên chủ nghĩa xã hội càng trở lên hết sức khó khăn.
Trong những điều kiện ấy, trong xã hội, mà thậm chí cả trong đội ngũ
đảng viên còn có nhiều biểu hiện mơ hồ, thiếu tin tưởng vào con đường quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Có những tư tưởng cho
rằng ta nên quay lại phát triển theo các bước tuần tự, có nghĩa là phát triển theo
con đường tư bản chủ nghĩa sau đó mới đi lên chủ nghĩa xã hội thì chắc chắn
hơn. Thực ra đó là quan điểm hết sức phản động, họ cố tình không hiểu tiến trình

lịch sử, không hiểu điều kiện khách quan và xu thế phát triển của thời đại; họ
không hiểu và nhận thức được tính khoa học, tính tất yếu của lịch sử. Cũng có
quan điểm cho rằng chúng ta quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong điều
kiện không còn sự giúp đỡ của Liên xô và của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa thì
khó có thể thành công. Thực ra, quan điểm này họ nhìn nhận một cách máy
móc, cứng nhắc, không thấy sự phát triển của thời đại, sự tác động mạnh mẽ
của khoa học công nghệ hiện đại đã làm cho xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá,
làm cho hợp tác quốc tế tăng lên. Tư tưởng đó biểu hiện của sự hoài nghi, thiếu
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân ta.
Trong khi đó, có quan điểm nhất trí với con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, song, lại hiểu việc bỏ qua là phải bỏ qua cả giai đoạn, bỏ qua tất cả
những gì của chủ nghĩa tư bản đem lại, họ không thấy rằng những thành quả
của chủ nghĩa tư bản đem lại về vốn, khoa học, công nghệ, trình độ quản lý, cơ
sở vật chất kỹ thuật...không chỉ phục vụ cho chính xã hội tư bản mà với ý nghĩa
nào đó nó đã đem lại cho sự phát triển của nền văn minh nhân loại; do vậy,
quan điểm này rơi vào chủ nghĩa siêu hình, phủ định sạch trơn, không có kế
thừa trong sự phát triển.

11


Tóm lại, tất cả các quan điểm trái ngược trên đây đều thể hiện điểm
chung đó là: thiếu tính khoa học, khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể, sự
nhận thức mới chỉ dừng lại ở trình độ nhận thức bên ngoài, chưa hiểu sâu
sắc bản chất bên trong của vấn đề; họ cố tình không nhận thức được những
vấn đề khách quan đó.
Với cách nhìn nhận một cách khoa học, Đảng ta đã xác định: bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng, phù
hợp với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, phù hợp với xu thế thời đại
ngày nay. Mặc dù đó là con đường khó khăn phức tạp, lâu dài, phải trải qua nhiều bước

trung gian quá độ, việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là quyết định đúng đắn, sáng tạo
của Đảng ta. Bởi vì, nước ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thực chất là một kiểu phát
triển rút ngắn, nhưng vẫn tôn trọng quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, không được chủ
quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn. Đó là sự quá độ gián tiếp đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó
là việc rút ngắn “những cơn đau đẻ kéo dài” nghĩa là rút ngắn giai đoạn và bước đi của
tiến trình lịch sử lên chủ nghĩa xã hội. Cho nên, chúng ta phải biết sử dụng, thậm chí tạo
điều kiện cho một số nhân tố tư bản đã có hoặc chưa có ở nước ta phát triển trong quỹ
đạo của chủ nghĩa xã hội, đó là sự bỏ qua có kế thừa, chọn lọc, đồng thời cũng là tôn
trọng quy luật vận động khách quan của xã hội nước ta. Chúng ta bỏ qua việc xác lập vị
trí thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, bỏ qua chế độ chính trị tư bản chủ
nghĩa...mặt khác chúng ta lại tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được
dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học công nghệ để phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật, đặt nền móng cho chủ nghĩa xã hội. Để bỏ qua cần phải thiết lập chuyên
chính vô sản, xây dựng nhà nước pháp quyền, nhưng bản chất phải là nhà nước của dân,
do dân và vì dân. Đồng thời phải mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác quốc tế, nhất là trao
đổi về khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, chống khép kín, bế quan toả
cảng...song phải giữ được bản sắc của dân tộc, hoà nhập nhưng không hoà tan. Đặc biệt
là về chính trị, phải giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chống đa
nguyên về chính trị, đa đảng đối lập...

12


Tóm lại, việc nhận thức đúng đặc điểm về quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa là cơ sở trước tiên để chúng ta hành động đúng trong quá trình
cải tạo, xây dựng phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Như Lênin nhận xét: chủ nghĩa tư
bản như là sản vật tự nhiên của nền sản xuất và tiểu trao đổi, bởi vậy, chúng ta phải biết
lợi dụng chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ông viết: “Trong một nước
tiểu nông trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua

chủ nghĩa tư bản nhà nước tiến lên chủ nghĩa xã hội”14.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với thế giới quan, tư duy triết học duy vật biện
chứng, Người đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, đó là con
đường cách mạng vô sản. Người chỉ rõ: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ
nghĩa Mác- Lênin”15. Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam không những đánh giá
cao vai trò lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin mà còn khẳng định chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của Đảng và của toàn dân tộc Việt Nam và qua thực tiễn hơn 85 năm qua dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, dưới sự lãnh đạo tài tình của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đưa cách mạng Việt Nam giành thắng lợi hoàn toàn chấm dứt ách
đô hộ hàng nghìn năm của chế độ phong kiến, hàng trăm năm của các thế lực
thực dân cũ và mới, đưa đất nước thống nhất, giang sơn thu về một mối, cả nước
đi lên chủ nghĩa xã hội. Qua hơn 30 năm đổi mới chẳng những đất nước Việt
Nam đứng vững không bị sụp đổ (như kẻ thù tưởng) mà còn đưa nước ta thoát
khỏi khủng hoảng và phát triển đi lên. Công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đó đã góp thêm một bằng chứng hùng hồn
về sức sống và giá trị thời đại của chủ nghĩa Mác- Lênin khi mà Đảng Cộng sản
Việt Nam đã bám sát thực tiễn, không ngừng bổ sung lý luận phù hợp với thực
tiễn đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên, điều đó càng khẳng định bản chất cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

14
15

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 44, tr 189.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tập 2, tr 268.

13



Cách mạng cộng sản chủ nghĩa khác về chất đối với tất cả các cuộc cách
mạng trước đó: nó xoá bỏ tư hữu; xoá bỏ giai cấp. Mác viết: “Trong hết thảy các
cuộc cách mạng trước đây, tính chất hoạt động bao giờ cũng vẫn nguyên như
cũ,- và bao giờ vấn đề cũng vẫn chỉ là phân phối hoạt động ấy một cách khác,
chỉ là một sự phân phối lao động mới cho những người khác; trái lại, cách mạng
cộng sản chủ nghĩa là nhằm chống lại tính chất lao động trước đây, nó xoá bỏ
lao động và thủ tiêu sự thống trị của mọi giai cấp cùng với bản thân các giai
cấp”16. Cách mạng cộng sản chủ nghĩa không chỉ xoá bỏ những quan hệ kinh tế,
chính trị cũ, mà còn cải tạo đông đảo quần chúng...do đó cách mạng là cần thiết:
“Để ý thức cộng sản chủ nghĩa đó nảy sinh ra được trong đông đảo quần chúng,
cũng như để đạt được chính ngay mục đích ấy thì cần phải có một sự biến đổi
của đông đảo quần chúng, sự biến đổi này chỉ có thể thực hiện được trong một
phong trào thực tiễn, trong cách mạng; do đó, cách mạng là tất yếu... có năng
lực xây dựng cơ sở mới cho xã hội”17.
Như vậy, đây là cơ sở khoa học để khẳng định con đường và tính tất yếu đi lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta. Đi lên chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là hoàn toàn phù hợp với quy luật khách
quan và xu thế phát triển tất yếu của lịch sử. Việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở
nước ta vẫn nằm trong tiến trình lịch sử tự nhiên, vẫn nằm trong tiến trình phát triển
chung của thế giới. Mặt khác, đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
ở nước ta nó vẫn phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của thời đại ngày nay- thời đại
ngày nay là thời đại quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
2. Những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để nước ta bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế
toàn cầu hoá, quốc tế hoá lực lượng sản xuất. Vì thế ở đây đã chứa đựng
“dưới một hình thức ít nhiều phát triển” như Ăngghen đã phân tích đó như là
16
17


C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1995 Tập 3, tr 100.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1995 Tập 3, tr 100.

14


những phương tiện để xoá bỏ chủ nghĩa tư bản. Chính vì vậy, thông qua con
đường giao lưu hợp tác đa phương hoá, đa dạng hoá để các nước chậm phát
triển có thể đi vào con đường phát triển rút ngắn, ngay cả khi chủ nghĩa tư bản
vẫn còn tồn tại và phát triển.
Đây là một tính quy luật về sự giao lưu giữa các nền văn minh với nhau
mà trước hết là nền sản xuất vật chất, mối quan hệ kinh tế, tạo ra các hình thức
trao đổi sản phẩm do chính mình làm ra và dẫn đến sự giao lưu với các bộ phận
của kiến trúc thượng tầng. Nhà nước là sản phẩm của cơ sở sản xuất, xã hội, bao
gồm toàn bộ sự giao tiếp vật chất của các cá nhân trong một giai đoạn phát triển
nhất định của những lực lượng sản xuất, bao gồm toàn bộ đời sống thương
nghiệp và công nghiệp của một giai đoạn xã hội, trong bất cứ thời đại nào cũng
là cơ sở của nhà nước nó quyết định đến lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
nó giao lưu với nhau trong khu vực và ngoài khu vực.
Quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, không phải
cho đến bây giờ mới xuất hiện, mà nó là mục đích ngay từ khi Đảng cộng sản Việt
Nam ra đời năm 1930. Trong chính cương sách lược vắn tắt cho đến luận cương
chính trị năm 1930, Đảng ta đã khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là sự vận dụng đúng đắn sáng tạo nguyên lý chủ
nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam. Đó là Đường lối
chính trị đúng đắn, phù hợp với xu thế thời đại, phù hợp với nguyện vọng của giai
cấp và khát vọng cháy bỏng của toàn dân tộc Việt Nam.
Do tính chất, đặc điểm của thời đại, sự phát triển rất cao của lực lượng sản
xuất, tính chất quốc tế hoá của lực lượng sản xuất đã tạo nên một xu thế mới
trong quan hệ giữa các quốc gia dân tộc. Nước ta nằm trong quỹ đạo chung của

xu thế đó, với nhận thức nhạy bén, chủ động, Đảng ta đã nhanh chóng nắm bắt
thời cơ, khắc phục được những thách thức lớn của thời đại tác động đến nước ta.
Trước hết, thắng lợi trong thế kỷ XX, mà trực tiếp là thành tựu của ba mươi năm
đổi mới, làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh lên nhiều. đánh giá về thành
tựu sau ba mươi năm đổi mới, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện

15


nay, Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn Quốc của Đảng lần thứ XII đã khẳng
định: “Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở
thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định;
quốc phòng an ninh được tăng cường. Văn hóa – xã hội có bước phát triển; bộ mặt
đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được
phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng
cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống
chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và
chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu;
vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Những thành tựu đó
tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ
trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo;
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam
và xu thế phát triển của lịch sử ”18. Có thể thấy điều đó, trong tốc độ phát triển kinh
tế, tăng trưởng tương đối vững chắc, đời sống của nhân dân được cải thiện đáng
kể, một bộ phận nhân dân ta đã trở lên giàu có, văn hoá, khoa học kỹ thuật được

phát triển tốt, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được tăng cường, chúng ta đã
tham gia rất nhiều vào các tổ chức quốc tế với một vai trò hết sức quan trọng, như
tổ chức Liên hợp quốc, ASEAN, WTO...Trong quá trình hội nhập chúng ta đã tận
dụng được rất nhiều thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công
nghệ hiện đại để củng cố, xây dựng, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, xây dựng được các ngành công nghiệp mũi nhọn, các công trình, cơ
sở hạ tầng lớn quan trọng, với cách đặt vấn đề đi tắt, đón đầu, với nhiều hình thức,
Đảng cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng khoá XI tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng, Hà Nội 2016, tr 65- tr 66.
18

16


bước đi thích hợp ở nhiều trình độ phát triển, phù hợp với trình độ phát triển ở
nước ta. Phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
từng bước làm chuyển biến đưa nước ta từ một nước nông nghiệp, lạc hậu, trình độ
sản xuất thấp, dần dần trở thành một nước có nền công nghiệp với mục tiêu từ nay đến
năm 2020.
Thực tiễn đã chứng minh, từ một nước nông nghiệp thiếu lương thực trầm trọng
và kéo dài, đến nay chúng ta đã trở thành nước đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo,
đó là một điều kỳ diệu, mà thế giới phải ghi nhận, ở một nước đi lên từ một nền nông
nghiệp sản xuất nhỏ là phổ biến, trình độ canh tác còn thấp kém. Từ một nước có tỷ lệ
90% dân số mù chữ, nay nước ta đã phổ cập tiểu học, một số tỉnh, thành phố đã phổ
cập trung học cơ sở và trung học phổ thông, tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học và sau đại
học ngày càng tăng nhanh, nước ta có nhiều đoàn tham dự các cuộc thi thế giới đã
giành được kết quả cao. Khó khăn lớn nhất hiện nay, từ khi các nước xã hội chủ nghĩa
ở Đông âu và Liên xô sụp đổ, nước ta không còn có sự giúp đỡ như thời gian trước
đây, vốn, khoa học, kỹ thuật, công nghệ hiện đại... còn thiếu thốn nhiều. Chúng ta
tưởng chừng không thể đứng vững, nhưng với Đường lối tự chủ, độc lập dân tộc gắn

với chủ nghĩa xã hội, bằng chiến lược, sách lược khôn khéo, nhạy bén của Đảng cộng
sản Việt Nam, chẳng những nước ta đứng vững qua cơn bão táp của sự sụp đổ dây
truyền của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, mà nước ta còn phát triển đi lên như
một tấm gương mẫu mực về đường lối độc lập, tự chủ. Mặt khác, quan hệ giao lưu,
hợp tác với hầu hết các quốc gia, các tổ chức quốc tế, vị thế của nước ta trên trường
quốc tế tăng lên, thế giới đã khâm phục nước ta trong đấu tranh giải phóng dân tộc, nay
khâm phục chúng ta trên con đường đổi mới hội nhập quốc tế. Điều đó, tạo cho chúng
ta có điều kiện thuận lợi chuyển giao công nghệ hiện đại phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cùng với vốn đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau,
chúng ta có thể khẳng định rằng, nước ta tiếp tục có sự phát triển, kinh tế tiếp tục tăng
trưởng, đúng như Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn Quốc của Đảng lần thứ X
đã khẳng định. Đón nhận những tác động của điều kiện khách quan hết sức phức tạp
và nhạy cảm, với một đường lối độc lập, tự chủ, chúng ta có quan điểm hợp tác rõ

17


ràng, hội nhập một cách chủ động, hội nhập chứ không hoà tan, đổi mới chứ không đổi
màu, hợp tác bình đẳng các bên đều có lợi, chứ không phải hợp tác vô nguyên tắc, phát
triển kinh tế- xã hội và phát triển đất nước bằng mọi giá.
Sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hoá,
thành tựu các nước tư bản đưa lại cũng là điều kiện thuận lợi để chúng ta sử dụng như
những bước trung gian quá độ về kinh tế để đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là xu thế tất
yếu của tất cả các quốc gia trên thế giới nói chung và nước ta nói riêng. Chính sự
nghiệp đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam, mà trước hết là đổi mới tư duy chính trị
về đổi mới và phát triển kinh tế do Đại hội VI mở ra, đã giúp chúng ta đón nhận những
tác động của điều kiện khách quan như những luồng gió mới tốt lành thắp sáng soi
đường cho dân tộc ta. Đó là sự nhận thức đúng quy luật vận động một cách khoa học,
cách mạng, biện chứng, lịch sử, cụ thể. Điều đó đã nhấn chìm những tư tưởng bảo thủ
trì trệ muốn kìm hãm sự phát triển của đất nước, của dân tộc, những tư tưởng dập

khuôn máy móc siêu hình, hoài nghi, thiếu khoa học cũng chỉ là sự yếu kém về nhận
thức. Điều đó đã vượt lên trên tư tưởng bỏ qua phủ định sạch trơn, thiếu biện chứng.
Thực tiễn sau ba mươi năm đổi mới đã chứng minh điều đó, những điều kiện khách
quan, xu thế thời đại hiện nay đối với dân tộc ta là cơ hội thuận lợi giúp đất nước ta
hoàn toàn có khả năng bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội, trong điều kiện các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Chỉ có
điều, điều kiện khách quan thuận lợi đó muốn trở thành hiện thực, nó phụ thuộc rất lớn
vào sự tiếp nhận, kết hợp, chuyển hoá của những nhân tố chủ quan, đó là Đảng cộng
sản Việt Nam và toàn thể dân tộc Việt Nam chúng ta.
Công cuộc đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội do Đảng cộng sản
Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội lần thứ VI (tháng 12 năm 1986), đến nay
đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Đúng như Báo cáo Chính trị tại Đại
hội đại biểu toàn Quốc của Đảng lần thứ X đã khẳng định: “Công cuộc đổi mới ở
nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử” 19, đã đưa cách mạng
Đảng cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng khoá IX tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng,
Hà Nội 2006, tr 10- tr 11.
19

18


nước ta bước sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Có thể khẳng định rằng, vai trò to lớn của Đảng cộng sản Việt Nam
trong sự nghiệp đổi mới, trong nhận thức và nắm bắt điều kiện khách quan
thuận lợi để chuyển hoá, phù hợp với điều kiện thực tiễn phát triển của Việt
Nam, phù hợp với xu thế rõ rệt của thời đại, nó phù hợp với tâm tư nguyện
vọng cháy bỏng của toàn dân tộc ta. Đó là nhân tố chủ quan- nhân tố chính
trị hết sức quan trọng có tính chất quyết định con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta hiện nay. Bàn về nhân tố chính trị, Lênin viết: “Chính trị là

sự biểu hiện tập trung của kinh tế, song, chính trị không thể không chiếm
địa vị hàng đầu so với kinh tế” 20.
Đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là
nguyện vọng, quyết tâm và ý chí của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Đây là sự lựa chọn chính trị tự nguyện của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta, không có sự lựa chọn nào khác, không có con đường nào khác,
chỉ có con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Những cơ sở kinh tế kỹ thuật và tài nguyên quốc gia cũng như thành quả
to lớn của sự nghiệp cách mạng là những tiền đề kinh tế kỹ thuật để chúng
ta đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đặc biệt, trong
Đại hội XI, vấn đề mô hình phát triển xã hội - mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã
được Đảng ta trình bày một cách vừa cụ thể vừa hết sức sâu sắc, toàn diện. Đảng ta
khẳng định “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã
hội: Dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
20

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1976, tập 42, tr 349- tr 350.

19


dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên
thế giới”21.
Những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước hơn ba mươi năm
qua đã khẳng định tính đúng đắn của việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng

lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Như Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu
toàn Quốc của Đảng lần thứ XII đã khẳng định những thành tựu trong công cuộc đổi
mới đất nước sau ba mươi năm qua.
Thực tiễn lịch sử nhân loại đã chứng minh, do những điều kiện không gian, thời
gian khác nhau, có một số nước trong quá trình phát triển không đi theo tuần tự tất cả
các hình thái kinh tế- xã hội theo lược đồ từ thấp đến cao (như đã chứng minh ở trên).
Nhưng xét về toàn diện quá trình phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội là quá
trình lịch sử tự nhiên, là cơ sở khoa học để khẳng định chúng ta có đủ điều kiện để đi
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Mặc dù, hiện nay chúng ta có cả
những thuận lợi và khó khăn, có cả cả thời cơ và thách thức.
Trước hết về những thuận lợi đó là: Đảng ta là đảng Mácxít chân chính có
bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng và giàu kinh nghiệm trong quá trình lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng- đây là một yếu tố chính trị có ý nghĩa quyết định trong
việc chuyển hoá nhân tố của thời đại thành sức mạnh bên trong của dân tộc; nhân
dân ta có truyền thống yêu nước nồng nàn, luôn gắn bó với chế độ, và tin tưởng vào
sự nghiệp cách mạng của Đảng, tạo ra những động lực to lớn của cách mạng Việt
Nam. Những cơ sở kinh tế chính trị- xã hội của chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày
càng được củng cố. Mặt khác, với nguồn nhân lực dồi dào, tài nguyên đất nước
phong phú là những điều kiện thuận lợi để chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước đã tạo ra cho chúng ta có
thế và lực mới. Nước ta nằm ở khu vực kinh tế phát triển năng động, xu thế hội
nhập mở cửa sẽ tiếp thu trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến tạo ra những
thuận lợi cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng khoá X tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng, Hà Nội 2011, tr 70.
21

20



Bên cạnh đó, chúng ta còn gặp phải những khó khăn thách thức, cản trở quá
trình đi lên chủ nghĩa xã hội đó là: Do có sự tác động của điều kiện quốc tế đưa đến
như sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực, chủ nghĩa đế quốc tập trung
chống phá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, xu hướng toàn cầu hoá tạo ra sự cạnh
tranh gay gắt; hậu quả của chế độ đô hộ phong kiến hàng nghìn năm, chiến tranh tàn
khốc kéo dài ròng rã, tàn dư tư tưởng, tâm lý, tập quán cũ...đó là những trở lực chưa
thể khắc phục ngày một, ngày hai. Mặt khác, trong quá trình đổi mới đất nước còn nảy
sinh các nguy cơ như chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tụt hậu về kinh tế, diễn biến hoà
bình, tệ quan liêu tham nhũng...Từ những khó khăn trên đây chúng ta thấy thời kỳ quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng hết sức khó khăn và phức tạp.
Bằng hệ thống lý luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin
chúng ta có thể khẳng định rằng trong điều kiện hiện nay Việt Nam có đủ điều
kiện và khả năng đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, đó là con đường hợp quy luật
và có khả năng hiện thực.
Thực tiễn đã chứng minh, không phải bất cứ một lực lượng nào trong xã hội
cũng có thể làm được, mà chỉ có Đảng cộng sản Việt Nam mới có đủ khả năng
gánh vác- chính lịch sử đã đặt lên vai những người cộng sản chân chính Việt Nam
trọng trách đó. Từ khi có Đảng lãnh đạo, giành được chính quyền và Đảng trở
thành Đảng cầm quyền, với lý luận sắc bén cách mạng và khoa học, với bản lĩnh
chính trị vững vàng Đảng đã vận dụng sáng tạo vào cách mạng Việt Nam, mới
mười năm tuổi Đảng lãnh đạo cách mạng giành được chính quyền về tay nhân dân
bằng cách mạng Tháng Tám năm 1945; tiếp tục lãnh đạo cách mạng đấu tranh
giành và giữ chính quyền trong điều kiện “ngàn cân treo sợi tóc”, song cách mạng
vẫn vượt qua. Đảng tiếp tục lãnh đạo chín năm trường kỳ kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược và giành được thắng lợi Tháng 5 năm 1954, đưa Miền Bắc
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cùng với cả dân tộc Đảng tiếp tục lãnh đạo cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam, đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân kiểu
mới của tên đế quốc đầu sỏ nhất thế giới đó là đế quốc Mỹ xâm lược; sau 30 năm


21


ròng rã chúng ta đã giành được thắng lợi bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy của
cả dân tộc vào mùa xuân 1975, đánh dấu bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đại
thắng. Chiến thắng đế quốc Mỹ năm 1975, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, từng
bước xây dựng và thực hiện nhà nước kiểu mới- nhà nước của dân, do dân và vì
dân. Xây dựng hệ thống chính trị đủ mạnh để đưa nền kinh tế và đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Những kết quả đạt được đó, nó đã minh chứng cho sự kiên
định vững vàng của Đảng và nhân dân ta quyết tâm đi lên chủ nghĩa xã hội, kiên quyết
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ngay từ đầu mới giành được quyền lãnh đạo, đó là sự
nhất quán rất cao độ, không có gì lay chuyển được- đó là nguyên tắc bất di, bất dịch
của Đảng và của cả dân tộc Việt Nam ta. Đồng thời nó cũng chứng tỏ vai trò to lớn của
Đảng cộng sản Việt Nam, chứng tỏ sự lãnh đạo tài tình của Đảng trong việc sáng tạo,
kiên định chủ nghĩa Mác- Lênin vận dụng vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
Qua phân tích, mổ xẻ những điều kiện khách quan, nhân tố chủ quan trong
nước và quốc tế, xu thế thời đại...chúng ta một lần nữa khẳng định con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là hợp với quy luật vận động
khách quan của tiến trình lịch sử, là cơ sở khoa học và cách mạng, đó là con
đường hợp quy luật và ngày càng trở thành hiện thực. Sự nhận thức đúng đắn và
nhất quán trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đúng. Thông qua đó Đảng ta
và nhân dân ta đã không đi vào con đường tư bản chủ nghĩa- con đường tiếp tục bị
áp bức bóc lột bất công- để đi vào kỷ nguyên mới kỷ nguyên độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước ta độc lập tự do, nhân dân ta được hưởng
cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành, đó là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

22



KẾT LUẬN
Chúng ta khẳng định rằng, Đảng ta và nhân dân ta lựa chọn con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn đúng đắn, sáng
tạo. Con đường đi như vậy là hoàn toàn có cơ sở khoa học cả về lý luận và thực
tiễn, là con đường hiện thực phù hợp với tiến trình lịch sử tự nhiên. Song để thực
hiện thắng lợi, đòi hỏi Đảng và nhân dân ta phải biết chủ động tiếp nhận tối đa
những điều kiện khách quan thuận lợi để chuyển hoá thành nội lực tạo nên sức
mạnh tổng hợp phát triển kinh tế, đồng thời phát huy tính năng động của nhân tố
chủ quan trong việc nắm bắt thời cơ định ra đường lối chiến lược, sách lược một
cách đúng đắn, đặc biệt là vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Phát huy
vai trò to lớn của toàn dân tộc trong quá trình xây dựng đất nước, đồng thời phải
trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, không ngừng bổ sung, phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn trong điều
kiện lịch sử mới. Chúng ta thấy rằng triết học Mác là học thuyết phản ánh thế giới
vật chất luôn luôn vận động phát triển, luôn là hệ thống mở và được bổ sung hoàn
thiện, coi triết học của Mác chỉ là kim chỉ nam cho nhận thức và hành động, cần
phải vận dụng một cách sáng tạo trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Bàn về
vấn đề này, Mác và Ăngghen viết: “Lý luận của chúng tôi không phải là một giáo
điều, mà là sự giải thích quá trình phát triển, quá trình này bao hàm trong bản
thân nó một loạt những giai đoạn kế tiếp nhau”22. Lênin đã chỉ ra rằng: “Chúng
ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả
xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa
học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt,
nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”23. Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết tiếp: “Nói cách khác chủ nghĩa Mác sẽ còn đúng cả ở đó. Dù sao thì cũng
22
23

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1999, tập 36, tr 785.

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 4, tr 232.

23


không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm
vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”24.
Trong quân đội, đội ngũ các nhà khoa học đặc biệt là khoa học xã hội và
nhân văn quân sự phải triển khai các đề tài nghiên cứu nhằm cung cấp nhiều luận
cứ khoa học góp phần bổ sung, phát triển Đường lối quan điểm của Đảng, nhất là
trong lĩnh vực quốc phòng an ninh. Xây dựng và nâng cao bản lĩnh chính trị cho
cán bộ chiến sĩ và trực tiếp đấu tranh chống các quan điểm thù địch sai trái một
cách có cơ sở khoa học. Như Mác đã dạy: người đi giáo dục cũng phải được giáo
dục. Tích cực chủ động tạo ra các giá trị văn hoá mới, giữ vững nền tảng tinh
thần của quân đội và xã hội, nhằm xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ và từng bước hiện đại. Đề xuất những giải pháp cần thiết, phù hợp để tiếp
tục xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, nâng cao hiệu quả CTĐ, CTCT
trong mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao cho các lực lượng vũ trang nhân
dân. Các nhà khoa học xã hội và nhân văn quân sự hơn lúc nào hết phải có lập
trường, quan điểm vững vàng, thế giới quan khoa học, có kiến thức sâu rộng, có
năng lực, có phương pháp tư duy khoa học, sắc bén về lý luận, nhạy cảm trong
thực tiễn, cảnh giác cách mạng cao, dũng cảm ..để tiến công địch trên mặt trận
đấu tranh lý luận tư tưởng hiện nay. Đồng thời phải bám sát định hướng lớn trong
công tác đấu tranh trên mặt trận lý luận tư tưởng của Đảng, của quân đội, bám sát
cuộc sống của xã hội, quân đội, của cán bộ chiến sỹ, đổi mới nội dung, hình thức,
phương pháp đấu tranh; chủ động đoàn kết phối hợp chặt chẽ với các lực lượng
tham gia có hiệu quả vào cuộc đấu tranh chống chiến lược “diễn biến hoà bình”
đập tan mọi âm mưu phá hoại và gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch nhất
là trên lĩnh vực tư tưởng lý luận hiện nay. Vì vậy hơn bao giờ hết các nhà khoa
học phải chiếm lĩnh khoa học và phải có tư duy lý luận sắc bén, như Mác đã chỉ

huấn: một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học, thì không thể
không có tư duy về lý luận sắc bén./.

24

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, Tập 1, tr 466.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, tập 3, tập 21. Nxb CTQG. H.1995.
2. C.Mác và Ph. Ănghen. Toàn tập, tập 13, tập 23. Nxb CTQG. H.1993.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.
Nxb CTQG, Hà Nội 2001.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.
Nxb CTQG. H.2006.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.
Nxb CTQG. H.2011.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
Nxb. Văn phòng Trung ương Đảng. H.2016.
7. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001.
8. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001.
9. V.I.Lênin.Toàn tập, tập 1. Nxb Tiến bộ. Matxcova.1974.
10. V.I.Lênin.Toàn tập, tập 42. Nxb Tiến bộ. Matxcova.1976.
11. V.I.Lênin.Toàn tập, tập 4, tập 44. Nxb Tiến bộ. Matxcova.1978.
12. Giáo trình triết học Mác - Lênin - lý luận và vận dụng. Nxb QĐND.
H.2006.

25



×