Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

vận dụng kiến thức liên môn trong đoạn trích Đất Nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.14 KB, 11 trang )

A.MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại hiện đang được quan
tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế giới. Ở nước
ta, từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây, vấn đề xây dựng môn học tích hợp
với những mức độ khác nhau mới thực sự được tập trung nghiên cứu, thử
nghiệm và áp dụng vào nhà trường phổ thông, chủ yếu ở bậc Tiểu học và cấp
THCS. Trước đó, tinh thần giảng dạy tích hợp chỉ mới được thực hiện ở những
mức độ thấp như liên hệ, phối hợp các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học hay
phân môn khác nhau để giải quyết một vấn đề giảng dạy.
Hiện nay, xu hướng tích hợp vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, thử
nghiệm và áp dụng vào đổi mới chương trình và SGK THPT. Chương trình
THPT, môn Ngữ văn, năm 2002 do Bộ GD&ĐT dự thảo đã ghi rõ: “Lấy quan
điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương trình, biên
soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy.” (tr. 27) “Nguyên tắc tích
hợp phải được quán triệt trong toàn bộ môn học, từ Đọc văn, Tiếng Việt đến
Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học; quán triệt trong mọi
yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong chương trình; tích hợp trong SGK;
tích hợp trong phương pháp dạy học của GV và tích hợp trong hoạt động học tập
của HS; tích hợp trong các sách đọc thêm, tham khảo.” (tr. 40).
Dạy học Ngữ văn theo định hướng tích hợp vẫn theo đuổi quan điểm “lấy HS
làm trung tâm”, tích cực hoá hoạt động học tập của HS trong mọi mặt, mọi khâu
của quá trình dạy học; tìm mọi cách phát huy năng lực tự học, năng lực sáng tạo
của HS. Do vậy, việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp dạy học cần chú ý
bảo đảm các yêu cầu sau:
- Giúp HS tích hợp các kiến thức và kĩ năng đã lĩnh hội, xác lập mối liên hệ giữa
các tri thức và kĩ năng thuộc các phân môn đã học bằng cách tổ chức, thiết kế
các nội dung, tình huống tích hợp để HS vận dụng phối hợp các tri thức và kĩ
năng riêng rẽ của các phân môn vào giải quyết vấn đề đặt ra, qua đó lĩnh hội các
kiến thức và phát triển năng lực, kĩ năng tích hợp.
- Tổ chức, thiết kế các hoạt động phức hợp để HS học cách sử dụng phối hợp


những kiến thức và kĩ năng đã lĩnh hội trong “nội bộ các phân môn”.
- Đặt HS vào trung tâm của quá trình dạy học để HS trực tiếp tham gia vào giải
quyết các vấn đề, tình huống tích hợp; biến quá trình truyền thụ tri thức thành
quá trình HS tự ý thức về cách thức chiếm lĩnh tri thức và hình thành kĩ năng.
- Phát huy tính tích cực chủ động và sáng tạo của HS; chú trọng mối quan hệ
giữa HS với SGK; phải buộc HS chủ động tự đọc, tự làm việc độc lập theo
SGK, theo hướng dẫn của GV.
Như vậy, vấn đề không hẳn là mới. Ở nhiều mức độ khác nhau, GV đã thực hiện
tích hợp. Tôi vận dụng dạy học tích hợp vào dạy bài Chiều tối của Nguyễn Ái
Quốc nhằm hình thành và phát triển năng lực cho HS một cách có hiệu quả hơn,
góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và đào tạo của bộ môn.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
1. Đối tượng


- Đối tượng trực tiếp của tôi là đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm,
trong sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1 (cơ bản) - Nhà xuất bản giáo dục.
- Để thử nghiệm đề tài tôi chọn học sinh lớp 12C trường Trung học phổ thông
Kẻ Sặt năm học 2013-2014 để thực hiện.
2. Mục tiêu
* Mục tiêu của dạy học tích hợp liên môn:
- Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa hơn: Hình thành ở người học, những
năng lực rõ ràng.
- Giúp học sinh phân biệt cái cốt yếu với cái ít quan trọng hơn: Do dự tính được
những điều cần thiết cho học sinh.
- Quan tâm đến việc sử dụng kiến thức trong tình huống cụ thể: Giúp học sinh
hòa nhập vào thực tiễn cuộc sống.
- Giúp người học xác lập mối quan hệ giữa các khái niệm đã học.
=> Dạy học tích hợp liên môn giúp học sinh trở thành người học tích cực, người
công dân có năng lực giải quyết tốt các tình huống có vấn đề mang tính tích hợp

trong thực tiễn cuộc sống. Dạy học tích hợp liên môn cho phép rút ngắn được
thời gian dạy học đồng thời vẫn tăng được khối lượng và chất lượng thông tin.
* Xác lập cách dạy đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đạt hiệu quả
* Góp thêm một vài kinh nghiệm trong giảng dạy Ngữ Văn THPT.
B. NỘI DUNG
I. Những vấn đề cơ bản
1. Dạy học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp không chỉ chú trọng nội dung
kiến thức tích hợp mà cần thiết phải xây dựng một hệ thống việc làm, thao tác
tương ứng nhằm tổ chức, dẫn dắt HS từng bước thực hiện để chiếm lĩnh đối
tượng học tập, nội dung môn học, đồng thời hình thành và phát triển năng lực, kĩ
năng tích hợp, tránh áp đặt một cách làm duy nhất. Giờ học Ngữ văn theo quan
điểm tích hợp phải là một giờ học hoạt động phức hợp đòi hỏi sự tích hợp các kĩ
năng, năng lực liên môn để giải quyết nội dung tích hợp, chứ không phải sự tác
động các hoạt động, kĩ năng riêng rẽ lên một nội dung riêng rẽ thuộc “nội bộ
phân môn”.
Dạy học liên môn trong môn Văn học là giúp người học nhận thức được tác
phẩm văn học trong môi trường văn hóa- lịch sử sản sinh ra nó hay trong môi
trường diễn xướng của nó; thấy được mối quan hệ mật thiết giữa văn học và lịch
sử phát sinh; văn học với các hình thái ý thức xã hội khác đồng thời khắc phục
được tính tản mạn trong kiến thức văn hóa của học sinh.
2. Dạy học tác phẩm văn chương theo quan điểm tích hợp đòi hỏi phải biến
giờ “giảng văn” thành giờ dạy kĩ năng đọc hiểu cho HS, hướng tới làm cho các
em có năng lực đọc hiểu bất kì văn bản nào.
- Đọc hiểu là một trong những năng lực tối thiểu cần hình thành và phát triển
cho HS. Đọc hiểu nói lên hoạt động của HS, phải được thiết kế và thực hiện theo
một trình tự qua các giai đoạn và ở những mức độ khác nhau: từ dễ đến khó, từ
thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ đọc tích luỹ đến đọc hiểu, từ đọc đánh giá đến
đọc sáng tạo..
- Dạy đọc hiểu tác phẩm văn chương theo quan điểm tích hợp đòi hỏi GV phải
thay đổi cách dạy học:



+ Chú ý đầy đủ về trình độ tiếng Việt của học sinh.
+ Chú trọng hình thành cho HS cách đọc có phương pháp, phát huy năng lực
cảm thụ thẩm mĩ trực tiếp, khêu gợi tưởng tượng tái hiện và tưởng tượng sáng
tạo, liên tưởng hình tượng và liên tưởng ý niệm, bồi dưỡng năng lực cảm thụ
tinh tế, nhanh nhạy, phát triển năng lực tư duy, cắt nghĩa, khái quát, tránh suy
diễn máy móc tuỳ tiện, xuyên tạc dung tục, mô phỏng sáo mòn hời hợt, thiếu
màu sắc chủ quan, cá tính sáng tạo.
+ Cần tích hợp tri thức, kĩ năng tiếng Việt và Làm văn; phải làm cho HS thực sự
cảm được cái hay, cái đẹp, sự tinh tế, độc đáo của tiếng mẹ đẻ, bồi dưỡng cho
HS năng lực sử dụng tiếng Việt đúng và hay; chú trọng rèn luyện cho HS cách
diễn đạt giản dị, trong sáng, chính xác, lập luận chặt chẽ, có suy nghĩ độc lập,
bộc lộ thái độ riêng trước những vấn đề về văn học và đời sống, tránh lối nói,
viết sáo rỗng, sao chép...
- Thiết kế giáo án giờ học theo quan điểm tích hợp
+ Giáo án giờ học không phải là một bản đề cương kiến thức để GV lên lớp
giảng giải, truyền thụ áp đặt cho HS, mà là một bản thiết kế các hoạt động, thao
tác nhằm tổ chức cho HS thực hiện trong giờ lên lớp để lĩnh hội tri thức, phát
triển năng lực và nhân cách theo mục đích giáo dục và giáo dưỡng của bộ môn.
+ Cấu trúc: Gồm hai phần hợp thành hữu cơ. Một là, hệ thống các tình huống
dạy học được đặt ra từ nội dung khách quan của bài văn, phù hợp với tính chất
và trình độ tiếp nhận của HS. Hai là, một hệ thống các hoạt động, thao tác tương
ứng với các tình huống trên do GV sắp xếp, tổ chức hợp lí nhằm hướng dẫn HS
từng bước tiếp cận, chiếm lĩnh bài văn một cách tích cực và sáng tạo.
+ Yêu cầu: Phải bám chặt vào những giá trị tư tưởng và nghệ thuật vốn có và ổn
định của TP trong đời sống văn hoá - lịch sử đầy biến động của nó, đồng thời
phải mở ra hướng thu nạp các nhu cầu, thị hiếu, cá tính và khả năng diễn dịch
của cá nhân HS; Phải bảo đảm nội dung và cấu trúc đặc thù nhưng không gò ép
vào một khuôn mẫu cứng nhắc mà cần tạo ra những chân trời mở cho sự tìm tòi

sáng tạo trong các phương án tiếp nhận của HS, trên cơ sở bảo đảm được chủ
đích, yêu cầu chung của giờ học; Phải làm rõ những tri thức và kĩ năng cần hình
thành, tích luỹ cho HS qua phân tích, chiếm lĩnh bài văn; mặt khác, phải chú
trọng nội dung tích hợp giữa tri thức lí thuyết và lịch sử văn học với Tiếng Việt,
Làm văn, với hiểu biết văn hoá và đời sống, v.v...Phải chú trọng thiết kế các tình
huống tích hợp và tương ứng là các hoạt động phức hợp để HS vận dụng phối
hợp các tri thức và kĩ năng của các phân môn vào xử lí các tình huống đặt ra,
qua đó chẳng những lĩnh hội được những tri thức và kĩ năng riêng rẽ của từng
phân môn mà còn chiếm lĩnh tri thức và phát triển năng lực tích hợp.
+ Nội dung tích hợp của thiết kế giáo án cần tập trung vào những điểm quy tụ,
liên kết nội dung ba bộ phận Văn - Tiếng Việt - Làm văn trong văn bản, kiến
thức các môn có liên quan và kiến thức đời sống để xây dựng các tình huống
tích hợp và các hoạt động phức hợp tương ứng nhằm giúp HS tích hợp tri thức
và kĩ năng trong khi xử lí tình huống. Đó có thể là những từ ngữ, câu thơ, đoạn
văn, những chi tiết, hình tượng, các sự kiện, quan hệ, tình huống mà muốn cảm
hiểu, cắt nghĩa, đánh giá đòi hỏi phải vận dụng tri thức liên văn bản, phải tổng
hợp hiểu biết nhiều mặt về lịch sử, xã hội, tâm lí, văn hoá, văn học, ngôn ngữ...


- Tổ chức đọc hiểu tác phẩm văn chương trên lớp, GV phải chú trọng mối quan
hệ giữa HS và văn bản, buộc HS phải tự đọc, tự học để hình thành thói quen tự
đọc, tự học suốt đời, coi đó cũng là một hoạt động đọc hiểu trong suốt quá trình
học tập ở nhà trường. Tất nhiên là không coi nhẹ việc cung cấp tri thức cho HS.
Vấn đề là phải xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện
kĩ năng và hình thành, phát triển năng lực, tiềm lực cho HS.
II. Thể nghiệm: Tích hợp liên môn trong đọc hiểu đoạn trích Đất Nước của
Nguyễn Khoa Điềm.
A. Mục tiêu bài học
Giúp HS:
- KT: Thấy được nhận thức mới mẻ về Đất Nước của NKĐ : Đất nước của

nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại. Cảm nhận được những đặc sắc về
giọng thơ trữ tình và sự vận dụng các chất liệu của văn hóa, văn học dân gian.
- KN: đọc hiểu, pt tp trữ tình theo đặc trưng thể loại.
- TĐ: thêm yêu Đất Nước, yêu mến văn chương.
- NL: cảm thụ, sáng tạo văn học, trình bày suy nghĩ cá nhân, hợp tác nhóm..,
B. Phương tiện dạy học
Chuẩn KT, KN, SGK, GA, các Slide Power Point, bảng phụ; những hình ảnh về
Bác, ảnh minh họa cho văn bản, bài soạn của HS.
C. Phương pháp
Đọc sáng tạo, thảo luận, trả lời câu hỏi, tích hợp với Ngắm trăng, Đi đường,kiến
thức lịch sử, địa lí, hội họa, thực tế; thuyết trình, bình giảng.
D. Tiến trình dạy học
1. Kiểm tra bài cũ:
2. Bài mới:
Từ lâu, hình ảnh tổ quốc Việt Nam yêu quý ngàn đời đã lung linh trên những
trang thơ như một mối duyên thầm. Có một đất nước non xanh mỹ lệ “như tranh
họa đồ” trong thơ Thanh Tịnh. Có một tổ quốc đẹp vô cùng với “Rừng cọ đồi
chè, đồng xanh ngào ngạt” trong thơ Tố Hữu. Lại có một Việt Nam từ máu lửa
rũ bùn đứng dậy sáng lòa trong thơ Nguyễn Đình Thi. Và hôm nay chúng ta sẽ
đến với hình ảnh của một đất nước bình bị, thân thuộc qua sự cảm nhận mới mẻ
và đa chiều của Nguyễn Khoa Điềm.
Hoạt động của GV và HS
- GV: Gọi HS đọc phần tiểu
dẫn rồi nêu câu hỏi: Qua
phần tiểu dẫn SGk, em nắm
được những thông tin gì về
tác giả Nguyễn Khoa Điềm?
- GV: Gọi HS khác nhận
xét rồi bổ sung và chốt lại.


Nội dung cần đạt
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
- Nguyễn Khoa Điềm sinh 1943, tại Thừa
Thiên Huế.
- Ông xuất thân trong một gia đình trí thức cách
mạng giàu truyền thống văn chương.
- Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà
thơ tiêu biểu cho thế hệ trẻ những năm chống
Mỹ.
- Thơ Nguyễn Khoa Điềm mang phong cách
trữ tình- chính luận, giàu chất suy tư, cảm xúc


dồn nén, thể hiện tâm tư của người trí thức trẻ
tích cực tham gia vào cuộc chiến đấu của nhân
dân.
2. Tác phẩm:
- Trường ca “ Mặt đường khát vọng” được
Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở chiến khu
Trị-Thiên năm 1971 và in 1974.
- “ Mặt đường khát vọng” là bản trường ca viết
về sự thức tỉnh của tuổi trẻ vùng đô thị tạm
chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ
mệnh của thế hệ mình, kêu gọi mọi người
xuống đường đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm
lược.
- “Mặt đường khát vọng” gồm 9 chương, “Đất
nước” thuộc chương V, đứng ở vị trí trụ cột
trong kết cấu tác phẩm.


- GV: Nêu kết cấu vị trí tác
phẩm?. GV thuật lại lời kể
của Nguyễn Khoa Điềm về
hoàn cảnh ra đời của tác
phẩm để tạo tâm thế và định
hướng tiếp nhận đoạn trích
cho HS: “ Tôi viết chương
này trong những ngày mưa
triền miên sau tết. Đó là
thời kỳ máy bay Mỹ đánh
phá dữ dội. B52 giội liên
tục, làm cho mọi thứ tối tăm
mù mịt. Chúng tôi ngồi
trong hầm viết, cảm xúc
được cộng hưởng bởi tiếng
bom nổ, tiếng khói bom và
mưa rừng. Tôi viết rất
nhanh như cảm xúc đã dồn
tụ một cách mãnh liệt.. Tôi
viết về những điều giản dị
của chính tôi về tuổi trẻ và
các bạn bè đang đấu tranh
trong thành phố. Chúng tôi
mỗi người một số phận
khác nhau nhưng đều gắn
kết trong một số phận
chung là số phận Đất nước.
Đất nước với các nhà thơ
khác là huyền thoại của

những người anh hùng,
nhưng với tôi là của những
con người vô danh, của
nhân dân”.
II. Đọc- hiểu:
- GV: Hướng dẫn HS đọc 1. Đọc:
với giọng tha thiết, trầm
lắng và trang nghiêm.
- GV định hướng về hình
thức đoạn trích có thể chia
thành mấy phần? Vấn đề tác
giả đặt ta ở mỗi phần là gì? * Bố cục:
- Phần 1: 42 câu đầu: Sự lí giải về đất nước của
- Những câu thơ mở đầu của tác giả ở nhiều phương diện: lịch sử, văn hóa,
đoạn trích cũng là những thời gian và không gian địa lý.


câu trả lời của Nguyễn
Khoa Điềm cho câu hỏi:
Đất nước có từ bao giờ?
Theo Anh ( chị) nhà thơ đã
trả lời câu hỏi đó như thế
nào?

- Phần 2: 47 câu còn lại: Tư tưởng đất nước của
nhân dân.
2. Tìm hiểu:
a. Đất nước được cảm nhận bằng chiều dài
của thời gian, chiều rộng của không gian và
chiều sâu của lịch sử văn hóa dân tộc.


- Trở về với cội nguồn, đất
nước được Nguyễn Khoa
Điềm cảm nhận từ những
phương diện nào?
* Cội nguồn của Đất nước:
- “ Khi ta lớn lên”: “ Đất nước đã có rồi”: Đất
nước có từ trong quá khứ lâu đời.
=> Giọng thơ nhẹ nhàng, tâm tình thủ thỉ đưa ta
về cội nguồn của đất nước vừa cụ thể, vừa
huyền ảo.
- Anh ( chị ) có hiểu biết gì * Sự cảm nhận về đất nước ở phương diện
về các phong tục của người lịch sử - văn hóa:
Việt như: ăn trầu, bới tóc?
- Đất nước được cảm nhận gắn liền với nền văn
- GV: Cho HS thảo luận, hóa lâu đời của dân tộc:
nêu ý kiến. Sau đó GV bổ + Đất nước có từ trong cổ tích, ca dao.
sung, giúp các em hiểu hơn + Phong tục của người Việt: ăn trầu, búi tóc.
về các phong tục được nhà . Ăn trầu là phong tục có từ thời Hùng Vương
thơ nhắc tới.
gắn liền với câu chuyện cảm động về tình anh
em, vợ chồng. Ăn trầu là một tục không thể
thiếu trong đời sống của người dân Việt Nam
“miếng trầu là đầu câu chuyện”
. Búi tóc cũng là tập tục lâu đời của người
Việt. Nó không chỉ nói lên tư cách, hình thức
con người mà còn mang đậm bản sắc dân tộc.
Vào thế kỷ XVIII quân Mãn Thanh xâm ỷ vào
sự cầu viện của Lê Chiêu Thống có ý xâm lược
nước ta, đồng hóa các tập tục, khuyến khích để

răng trắng và tết tóc đuôi sam. Nên trong hịch
đánh quân Mãn Thanh vua Quang Trung viết:
“ Đánh cho để răng đen, đánh cho để tóc dài”.
Từ đó tục búi tóc tiếp tục được dân ta duy trì.
Đặc biệt với người Thái tục búi tóc có sự quy
ước rất chặt chẽ, giữa phụ nữ chưa chồng và có
chồng.

- Để hoàn thiện hơn hình
ảnh đất nước, ngoài phương
diện văn hóa với những
phong tục độc đáo, Nguyễn
Khoa Điềm còn cảm nhận
đất nước ở những khía cạnh
nào?
- Đất nước lớn lên trong đau thương vất vả
cùng với cuộc trường chinh không nghỉ ngơi
của con người.


+ Cuộc kháng chiến chống ngoại xâm gắn với
hình ảnh cây tre - biểu tượng cho sức sống bất
diệt của dân tộc.
+ Đất nước gắn với nền văn minh lúa nước, lao
động vất vả.
- Đất nước gắn với những con người ân tình
thủy chung.

- Từ những cảm nhận trên
của tác giả, hình ảnh đất

nước hiện lên như thế nào?
Cảm nhận về đất nước của
Nguyễn Khoa Điềm có gì
khác so với những nhà thơ
như Nguyễn Đình Thi trong
Quê hương Việt Nam:
“ Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu
trời đẹp hơn.
Cánh cò bay lả dập dờn.
Mây mù che đỉnh trường
sơn sớm chiều”
Chế Lan Viên trong Tổ
quốc bao giờ đẹp thế này
chăng?:
“ Hỡi sông Hồng tiếng hát
bốn nghìn năm.
Tổ quốc bao giờ đẹp thế => Đất nước không trừu tượng mà ở ngay
này chăng?”
trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Nếu một số
nhà thơ như Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên
tự tạo một khoảng nhất định để chiêm nghiệm
về đất nước thì Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn đất
nước ở tầm gần. Nhờ xác định được một cự ly
như thế mà tác giả đã phát hiện ra một khuôn
mặt mới của đất nước dung dị, đời thường thậm
chí có phần lam lũ nhưng cũng không kém
- Tiếp tục hành trình lý giải, phần cao cả.
ở chiều sâu của không gian,
chiều dài của thời gian, tác

giả có phát hiện gì thú vị?
* Sự cảm nhận đất nước ở phương diện chiều
sâu không gian:
- Là không gian hò hẹn của tình yêu đôi lứa.
- Đất nước là nơi sinh tồn của cộng đồng qua
bao thế hệ.
- Đất nước là không gian hùng vĩ tráng lệ với
núi cao, biển cả.
- Ở phương diện này tác giả => Đất nước là sự thống nhất giữa cá nhân và
đã khái quát lên điều gì?
cộng đồng vừa gần gũi thân quen vừa mênh
mông rộng lớn.
* Sự cảm nhận đất nước ở phương diện chiều
dài thời gian:


- Nhìn về quá khứ, theo
chiều dài của thời gian đất
nước được cảm nhận như
thế nào?
- Việc nhắc đến truyền
thuyết Lạc Long Quân và
Âu Cơ gợi cho ta những suy - Đất nước được cảm nhận từ quá khứ với
nghĩ, liên tưởng gì về đất huyền thoại “Lạc Long Quân và Âu Cơ”
nước?
. Lạc Long Quân và Âu Cơ là truyền thuyết về
nguồn gốc của người Việt con Rồng cháu Tiên,
đồng thời giải thích mối quan hệ đồng bào gần
gũi giữa các dân tộc Việt Nam. Nhắc đến
huyền sử này tác giả đã khơi dậy lòng tự hào về

giống nòi, gợi lên sự thiêng liêng huyền ảo cho
hình tượng đất nước.
- Đất nước được cảm nhận từ những con người
bình thường trong hiện tại không quên ngày giỗ
tổ.
- GV: Giới thiệu lại với các
em về ngày giỗ tổ. Hùng
Vương là con trai cả của
Lạc Long Quân, sau này các
đời khác nối ngôi đều lấy
hiệu là Hùng Vương. Các
vua Hùng đã có công dựng
nước. Vì vậy ngày 10/3
hàng năm được lấy làm
ngày giỗ tổ tổ chức tại Đền
Hùng, Việt Trì, Phú Thọ là
dịp để nhân dân tưởng nhớ
đến cội nguồn và tổ tiên của
dân tộc.
- Từ những vẻ đẹp của đất
nước , tác giả có suy ngẫm
gì về ý thức và trách nhiệm
của thế hệ mình?
- Ở phần hai, tác giả tập
trung trả lời câu hỏi Ai đã
làm ra đất nước?. Nhà thơ
đã trả lời câu hỏi này như
thế nào?
- Nguyễn Khoa Điềm đã
chứng minh tư tưởng đất


* Suy ngẫm của tác giả về trách nhiệm của thế
hệ mình với đất nước: Đất nước là máu xương
hóa thân trong mỗi con người phải biết gắn bó,
san sẻ và hi sinh để bảo vệ đất nước.
b.Tư tưởng cốt lõi: Đất nước của nhân dân.
- Tác giả soi ngắm, cảm nhận đất nước ở tầng
sâu địa lý, lịch sử và văn hóa của đất nước.


nước của nhân dân bằng
cách nào?
- Ở phương diện địa lý
Nguyễn Khoa Điềm nhắc
tới những danh thắng nào?
- GV: cho HS trình bày
những hiểu biết và thảo luận
về những danh thắng mà HS
biết.

+ Về địa lý: Nhà thơ ngắm đất nước qua những
danh thắng từ Bắc chí Nam: Núi Vọng phu,
hòn Trống Mái, núi Bút, non Nghiên, Ông Đốc,
Ông Trang, bà Đen, Bà Điểm.
. Những người vợ nhớ chồng - Hòn Vọng Phu
nằm trong quần thể di tích động Tam Thanh,
Lạng Sơn có núi Vọng Phu. Trên sườn núi cao
có hình người đàn bà ôm con mãi nhìn về
phương xa. Khối đá này gắn với truyền thuyết
về một người thiếu phụ bồng con lên núi chờ

chồng, chờ mãi không về cả hai mẹ con cùng
hóa đá.
=> Thể hiện ý thức đáng quý về tình yêu thủy
chung trước sau không thay đổi.
. Cặp vợ chồng yêu nhau - Hòn Trống Mái
nằm ở phía Nam Vịnh Hạ Long gần hòn Đỉnh
Hương. In hình một con gà trống và một con gà
- GV: Trong con mắt của mại hiện lên nghạo nghễ, gợi lên huyền thoại
nhà thơ, mỗi danh thắng là về tình yêu thủy chung, sống chết bên nhau của
một nét vẽ ẩn chứa những đôi vợ chồng trẻ sau nạn đại hồng thủy.
nét đẹp của tâm hồn nhân
dân qua mấy ngàn năm lịch
sử: sự thủy chung, tình . Những người học trò nghèo – Núi Bút, non
nghĩa vợ chồng, tinh thần Nghiên: Là núi có hình cây bút và nghiên mực
yêu nước, ý thức hướng về ở Quảng Ngãi.
tổ tông, tinh thần xả thân vì
cộng đồng.
. Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm là
tên những người có công với dân với nước gắn
liền với địa danh, sơn danh ở Nam Bộ.
.Bà Đen: Tên ngọn núi ở Tây Ninh.
. Bà Điểm: Tên một đại danh ở Hooc- Môn
thành phố Hồ Chí Minh.
+ Về lịch sử:
. Đất nước được tạo nên những con người vô
danh âm thầm cống hiến và hi sinh, truyền lại
- Khi nhìn vào bốn nghìn những giá trị vật chất và tinh thần.
Đất nước, Nguyễn Khoa
Điềm nhấn mạnh điều gì?
+ Về văn hóa:

- Văn hóa là mảng không . Đất nước là nơi quy tụ những giá trị dân gian
thể thiếu trong bức vẽ về đất cao quý, đậm bản sắc tâm hồn Việt: say đắm


nước. Ở mảng này, tác giả trong tình yêu, quý trọng tình nghĩa và kiên trì
có phát hiện gì?
trong đấu tranh.
- Trong những thể hiện tư
tưởng Đất nước của nhân
dân của Nguyễn Khoa
Điềm, theo Anh ( chị) đâu
là những phát hiện riêng
mới mẻ, độc đáo?

- Tư tưởng Đất nước của nhân dân:
+ Nguyễn Khoa Điềm không đi vào ngợi ca sự
trù phú, giàu đẹp của đất nước mà chú ý đến
những miền đất, những địa danh, những con
người bình dị, nhìn sâu hơn về những trầm tích
bên trong, cảm nhận được sự hóa thân của nhân
dân cho dáng hình xứ sở.
+ Tác giả đưa ra một định nghĩa giản dị:
Đất nước này là đất nước của nhân dân, Đất
nước của ca dao thần thoại.
c. Nghệ thuật:
- Thể thơ tự do, phóng túng.
- Sử dụng nhiều chất liệu dân gian: ngôn từ,
hình ảnh.
- Giọng thơ trữ tình- chính luận.
- Nhận xét về nghệ thuật thơ * Ý nghĩa VB:

trong đoạn trích?
- Đóng góp một thêm một cảm nhận mới mẻ,
- Ý nghĩa văn bản?
sâu sắc về đất nước.

3. Củng cố
* Bài tập: NKĐ nói “ Tôi cố gắng thể hiện một hình ảnh Đất Nước giản dị, gần
gũi nhất. Đó là cách để đi vào lòng người, đồng thời là cách để tôi đi con đường
của riêng tôi không lặp lại người khác”. Làm sáng tỏ câu nói trên qua đoạn trích
Đất Nước?
* GV gợi ý:
- Đất Nước giản dị, gần gũi thể hiện:
+ Sự cảm nhận Đất Nước trên các bình diện không gian, thời gian, lịch sử, văn
hóa, phong tục.
+ Tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
- Con đường riêng không lặp lại:
+ So sánh với một số bài thơ cùng đề tài.
+ Đặc sắc về nghệ thuật.
4. Dặn dò
- Hoàn thành bài tập.
- Chuẩn bị; Thực hành một số biện pháp tu từ ngữ âm.


C. KẾT LUẬN
- Có thể nói, tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học nói chung và dạy Văn
học nói riêng là cần thiết. Mục đích tích hợp trước tiên để học sinh hiểu đúng,
hiểu sâu kiến thức trong bài học đồng thời mở rộng vốn hiểu biết những lĩnh vực
khác liên quan đến bài học.
- Tích hợp phải tuân thủ nguyên tắc: Chọn lọc, phù hợp, vừa đủ; Chọn lọc
những kiến thức thật cần thiết để tích hợp nhằm giúp học sinh lấy đó làm

phương tiện khám phá, lĩnh hội kiến thức mới trong bài; Phù hợp trình độ nhận
thức, tâm sinh lí của học sinh; Giáo viên tránh biến giờ học thành phô diễn sự
uyên bác của mình; Không vì tích hợp mà làm bài học nặng nề kiến thức, quá tải
cho học sinh hoặc giáo viên tham tích hợp nên bỏ qua kiến thức cơ bản học sinh
cần đạt trong chính tiết học đó.
- GV cần: Xác định đúng nội dung kiến thức nào trong bài cần tích hợp, tích hợp
với kiến thức thuộc môn học hay lĩnh vực nào, tích hợp ở mức độ nào; Chọn
hình thức tích hợp: giáo viên diễn giảng bằng lời, cung cấp trên giáo cụ trực
quan hay đưa ra nhiệm vụ học sinh thu thập, tìm hiểu ở nhà trước hoặc sau bài
học.
- Qua quá trình thực hiện chyên đề, tôi xin trân trọng cảm ơn quí thầy cô và bạn
bè đồng nghiệp đã đọc và đóng góp những ý kiến quý báu để chuyên đề của tôi
được hoàn thiện hơn.
Phê duyệt của tổ chuyên môn
Ngày 10 tháng 10 năm 2013
Tổ trưởng
Người thực hiện
Lê Văn Đại

Trương Thị Hằng



×