Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tiền điện tử và những giải pháp nhằm phát triển thanh toán không dùng tiền mặt ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.97 KB, 33 trang )

Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Phần mở đầu
Năm 1996, chính phủ Hoa Kỳ bắt đầu một chiến dịch để tạo ra một vũ trụ, tất cả
các hệ thống thanh toán điện tử-để giảm gần 70 tỷ đồng người Mỹ viết giấy kiểm tra
mỗi nămNhững nỗ lực đã được instigated của Dịch vụ tài chính công nghệ tiêu
(FSTC), mà đã được các thành viên của các ngân hàng và các ngành công nghiệp công
nghệ thông tin. Trong năm 1998, Cục ngân khố Hoa Kỳ tài trợ một chương trình thí
điểm để kiểm tra workability thanh toán của nhà thầu tham gia liên bang với E-test.
Hơn $ 2,5 triệu đã được trả tiền ra trong khi giai đoạn thử nghiệm. Bởi năm 2000,
chương trình đã được chuyển giao cho CommerceNet, một của 500 công ty thương
mại điện tử phát triển và người dùng, mà dùng để khởi chạy nó trên toàn thế giới.
Các doanh nghiệp có thể tiết kiệm khoảng $ 18,3 tỷ đồng mỗi năm, hoặc khoảng 72
phần trăm chi phí liên quan, bằng cách phát triển hiệu quả và an toàn thanh toán trực
tuyến và thanh toán chiến lược.Nhưng nhiều người trong số các phiên bản đầu tiên của
e-money(bao gồm cả CyberCoins và CyberCash), mà xuất hiện từ đầu những năm
1990.Họ thường xuyên làm việc trực tuyến như cấp giấy chứng nhận quà tặng, mà
người tiêu dùng mua một số lượng tiền mặt kỹ thuật số và sau đó tham gia trực tuyến
tại nhà cung cấp. Những phiên bản không thành công để giành chiến thắng người tiêu
dùng chấp nhận vì lý do nghi ngờ về sự hiệu lực, giới hạn các địa điểm mà ở đó tiền
mặt có thể được chi tiêu, và cần phải cài đặt phần mềm đặc biệt chỉ để sử dụng các sản
phẩm.
Thế hệ thứ hai, e-TM xuất hiện vào cuối những năm 1990. Liên quan đến công
nghệ như: kiểm tra điện tử (e-test) và nhúng vào-chip thẻ thông minh, kỹ thuật số của
các hệ thống chuyển tiền tệ tiền mặt số tiền qua Internet trên mạng lưới mở và sử dụng
công cộng để bảo vệ nội dung của các bài viết được chuyển qua hệ thống. Sau đó phát
triển trong kỹ thuật số cho phép người sử dụng tiền mặt để chuyển tiền qua e-mail sau
khi thiết lập một tài khoản trực tuyến với một nhà cung cấp dịch vụ cho phép thanh
toán trực tuyến tại nhà cung cấp các trang web. Do vậy, các khách hàng tránh sử dụng


lệ phí và các thương gia tránh một-hai-phần trăm chi phí giao dịch liên quan đến thẻ
tín dụng-giao dịch.

NHÓM 2

1


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Từ sau những năm 1990, sự mở rộng và phổ biến của Internet đã tạo ra phương
thức mua hàng và bán hàng qua mạng (thương mại điện tử). Hầu hết mọi người đều
mong đợi một ngày nào đó tiền giấy sẽ không còn là phương thức thanh toán trong
những phiên giao dịch nữa.
Khi Internet thực sự bùng nổ vào năm 2000, một số chuyên gia tin rằng đây là
mốc quan trọng đánh dấu bước khởi đầu của tiền điện tử (e-money). Những dịch vụ
thanh toán trực tuyến rất thành công nhất như PayPal, cũng như sự phổ biến của tiền
điện tử ở Nhật Bản với 15 triệu người sử dụng... đã đưa tiền điện tử lên một tầm cao
mới.
Tuy nhiên, vào thời kì suy thoái năm 2000, rất nhiều công ty "dot-com" được
thành lập, nhưng đã nhanh chóng bị đổ vỡ và trở thành công ty "dot- bom". Do đó, tiền
điện tử còn là vấn đề cần phải cân nhắc và xem xét lại một cách kĩ lưỡng, cẩn thận hơn
Tiền điện tử được bắt đầu sử dụng từ những năm cuối của thập kỉ 90, dựa vào
những dự đoán về lượng khách hàng sử dụng thẻ tín dụng để mua hàng. Chuyển đổi
tiền giấy sang tiền điện tử (e-money) dường như là một giải pháp hấp dẫn. Trong thời
gian này, những hoạt động đầu tiên của tiền điện tử đã bắt đầu xâm chiếm Web.
Nhưng loại tiền này vẫn còn quá ít so với việc sử dụng thẻ tín dụng. Được sử dụng với
mục đích chính là giao dịch trực tuyến, các loại tiền này được phát hành bởi các công

ty như Beenz.com, Flooz.com và một số các công ty khác.
Trong quá trình tìm hiểu và trình bày chúng em không thể tránh khỏi những thiếu
xót và hạn chế, chúng em rất mong được sự góp ý của thầy và các bạn để bài tiểu luận
của chúng em được hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn !

Phần nội dung
NHÓM 2

2


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU TIỀN ĐIỆN TỬ

1.1.

Khái niệm về tiền điện tử:

Tiền điện tử (e – money hay còn gọi là digital - cash) là một hệ thống cho phép người
sử dụng có thể thanh toán khi mua hàng, hoặc sử dụng các dịch vụ nhờ truyền đi các
con số từ máy tính này đến máy tính khác.
Giống như serial trên tiền giấy, số serial của tiền điện tử là duy nhất. Mỗi tờ tiền điện
tử được phát hành bởi một ngân hàng và được đại diện cho một lượng tiền nào đó.
Tính đặt trưng của tiền điện tử cũng giống như tiền giấy thật, tức là người mua hàng
sẽ trả một số tiền nào đó cho người bán hàng, và sẽ không có bất cứ phương thức nào
để lấy thông tin về người mau hàng. Đó cũng là một điểm khác biệt giữa tiền điện tử
và hệ thống thanh toán thẻ tín dụng.
1.2.


Các hình thức giao dịch điện tử ngày nay

1.2.1. Một số loại thẻ thanh toán:


Thẻ tín dụng (Credit Card):

Là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất. Chủ thẻ được phép sử dụng một hạn mức tín
dụng không phải trả lãi để mua sắm hàng hoá, dịch vụ tại những cơ sở kinh doanh,
khách sạn, sân bay... chấp nhận loại thẻ này.
Nó được gọi là thẻ tín dụng vì chủ thẻ được ứng trước một hạn mức tiêu dùng mà
không phải trả tiền ngay, chỉ thanh toán sau một kỳ hạn nhất định. Cũng từ đặc điểm
trên mà người ta còn gọi thẻ tín dụng là thẻ ghi nợ hoãn hiệu (delayed debit card) hay
chậm trả.
Ở Việt Nam có các loại thẻ tín dụng do các tổ chức quốc tế phát hành, phổ biến nhất là
Master card và Visa card, và thẻ tín dụng do các ngân hàng trong nước phát hành: thẻ
của ngân hàng Đông Á, Navibank, ACB, Agribank, Sacombank.


Thẻ ghi nợ (Debit card):

NHÓM 2

3


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG


là loại thẻ có quan hệ trực tiếp và gắn liền với tài khoản tiền gửi. Loại thẻ này khi được
sử dụng để mua hàng hoá hay dịch vụ, giá trị những giao dịch sẽ được khấu trừ ngay
lập tức vào tài khoản của chủ thẻ thông qua những thiết bị điện tử đặt tại cửa hàng,
khách sạn... đồng thời chuyển ngân lập tức vào tài khoản của cửa hàng, khách sạn. Thẻ
ghi nợ còn được sử dụng để rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động.
Thẻ ghi nợ không có hạn mức tín dụng vì nó phụ thuôc vào số dư hiện hữu trên tài
khoản của chủ thẻ.


Thẻ rút tiền mặt (Cash card):

là loại thẻ rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động hoặc ở ngân hàng. Với chức năng
chuyên biệt chỉ dùng để rút tiền, yêu cầu đặt ra đối với loại thẻ này là chủ thẻ phải ký
quỹ tiền gởi vào tài khoản ngân hàng hoặc chủ thẻ được cấp tín dụng thấu chi mới sử
dụng được.
1.2.1.1.

Xét theo phạm vi lãnh thổ, thẻ được phân chia thành:

Thẻ quốc tế: đây là loại thẻ được chấp nhận trên toàn thế giới, sử dụng các ngoại tệ
mạnh để thanh toán. Các loại thẻ này đều được chấp nhận thanh toán ở các website
thương mại điện tử có kết nối với cổng thanh toán OnePAY của Vietcombank.
Thẻ trong nước, thẻ nội địa: là thẻ được giới hạn trong phạm vi một quốc gia, do các
ngân hàng, tổ chức trong nước phát hành, đồng tiền giao dịch phải là đồng bản tệ của
nước đó. Hiện nay một số thẻ thanh toán nội địa đã có chức năng thanh toán trực
tuyến: thẻ đa năng Đông Á, thẻ Connect 24 của Vietcombank.
1.2.1.2.

Theo công nghệ sản xuất, thẻ được phân chia thành:


Thẻ khắc chữ nổi (EmbossingCard): dựa trên công nghệ khắc chữ nổi, tấm thẻ đầu
tiên được sản xuất theo công nghệ này. Hiện nay người ta không còn sử dụng loại thẻ
này nữa vì kỹ thuật quá thô sơ dễ bị giả mạo.

NHÓM 2

4


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Thẻ băng từ (Magnetic stripe): dựa trên kỹ thuật thư tín với hai băng từ chứa thông
tin đằng sau mặt thẻ. Thẻ này đã được sử dụng phổ biến trong 20 năm qua , nhưng đã
bộc lộ một số nhược điểm: do thông tin ghi trên thẻ không tự mã hoá được, thẻ chỉ
mang thông tin cố định, không gian chứa dữ liệu ít, không áp dụng được kỹ thuật mã
hoá, bảo mật thông tin.
Thẻ thông minh (Smart Card): đây là thế hệ mới nhất của thẻ thanh toán, thẻ có cấu
trúc như một máy vi tính.
1.2.1.3.

Phân loại theo chủ thể phát hành:

Thẻ do Ngân hàng phát hành (Bank Card): là loại thẻ do ngân hàng phát hành giúp
cho khách hàng sử dụng một số tiền do Ngân hàng cấp tín dụng.
Thẻ do tổ chức phi ngân hàng phát hành: là loại thẻ du lịch và giải trí của các tập
đoàn kinh doanh lớn hoặc các công ty xăng dầu lớn, các cửa hiệu lớn... phát hành như
Diner"s Club, Amex.

1.2.2. Tiền mặt điện tử:
1.2.2.1. Khái niệm: tiền điện tử (e-money hay còn gọi là digital-cash) là một hệ thống
cho phép người sử dụng có thể thanh toán khi mua hàng hoặc sử dụng các dịch vụ nhờ
truyền đi các con số từ máy tính này đến máy tính khác.
Giống như serial trên tiền giấy, số serial của tiền điện tử là duy nhất. Mỗi tờ tiền điện
tử được phát hành bởi một ngân hàng và được đại diện cho một lượng tiền thật nào đó.
1.2.2.2. Chức năng: tiền điện tử là phương tiện của thanh toán điện tử được bảo mật
bằng chữ ký điện tử, và cũng như tiền giấy nó có chức năng là phương tiện trao đổi và
tích lũy giá trị. Nếu như giá trị của tiền giấy được đảm bảo bởi chính phủ phát hành
thì đối với tiền điện tử, giá trị của nó được tổ chức phát hành đảm bảo bằng việc cam
kết sẽ chuyển đổi tiền điện tử sang tiền giấy theo yêu cầu của người sở hữu.

NHÓM 2

5


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

1.2.3. SEC điện tử:
1.2.3.1. Khái niệm: Séc là một lệnh vô điều kiện thể hiện dưới dạng chứng từ của
người chủ tài khoản, ra lệnh cho ngân hàng trích từ tài khoản của mình để trả cho
người có tên trong séc, hoặc trả theo lệnh của người ấy hoặc trả cho người cầm séc
một số tiền nhất định, bằng tiền mặt hay bằng chuyển khoản. Ngoài ra séc cũng có thể
được định nghĩa là một hối phiếu ký phát đòi tiền một ngân hàng, thanh toán ngay khi
có yêu cầu.
1.2.3.2. Phân loại:
• Theo cách xác định người thụ hưởng:



Séc lệnh: trả tiền cho cá nhân hoặc thực thể có tên ghi trên séc hoặc trả cho bên
được chuyển nhượng.



Séc vô danh: trả tiền cho người nắm giữ tờ séc.

• Theo các yêu cầu để đảm bảo an toàn trong thanh toán séc:


Séc trơn: mặt sau để trắng hoàn toàn, séc này có thể được ngân hàng trả tiền
mặt.



Séc gạch chéo: mặt sau được gạch hai đường chéo song song, séc này chỉ có thể
được trả tiền bằng hình thức ghi có vào tài khoản của người thụ hưởng tại ngân
hàng.



Séc gạch chéo đặc biệt: mặt trước hoặc mặt sau của tờ séc được gạch hai đường
chéo song song, giữa hai đường chéo là tên ngân hàng hoặc cả chi nhánh ngân
hàng. Séc này chỉ có thể được nộp vào ngân hàng hay chi nhánh ngân hàng ghi
trên đó. Ngoài ra séc gạch chéo đặc biệt cũng có thể ghi tên ngân hàng nhờ thu
để thuận tiện cho việc giải quyết khi séc bị ngân hàng thanh toán từ chối thanh
toán.


• Ngoài ra, theo mức độ đảm bảo sẽ nhân được tiền cho người thụ hưởng còn có:

NHÓM 2

6


Bài tiểu luận



THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Séc ngân hàng (hay séc tiền mặt): là séc do ngân hàng phát hành nên người thụ
hưởng sẽ được đảm bảo thanh toán trừ trường hợp phát hiện ra tờ séc đã bị gian
lận. Sở dĩ nó được gọi là séc tiền mặt vì có giá trị gần như tiền mặt do sẽ được
thanh toán ngay.



Séc bảo chi: là một tờ séc được ngân hàng của người phát hành đảm bảo rằng
tài khoản của người đó có đủ tiền để được trích ra khi thanh toán. Trong trường
hợp này, ngân hàng thường ghi hoặc đóng dấu bảo chi lên tờ séc.

1.2.3.3. Các bên liên quan đến séc:


Bên ký phát, (bên phát hành): là người ký tờ séc để ra lệnh cho ngân hàng.




Bên thanh toán: là ngân hàng có nghĩa vụ trả tiền theo lệnh của bên ký phát.



Bên thụ hưởng: bên nhận tiền từ ngân hàng.

Luật pháp của đa số các quốc gia cho phép séc có thể chuyển nhượng cho nhiều người
liên tiếp bằng thủ tục ký hậu trong thời hạn hiệu lực của séc.
1.2.3.4. Thanh toán séc:
• Xuất trình séc: người nắm giữ xuất trình séc tại:


Ngân hàng được chỉ định ghi trên séc.



Ngân hàng làm dịch vụ thanh toán (ngân hàng nhờ thu). Phương thức này phổ
biến hơn do thuận tiện cho người thụ hưởng.

• Thanh toán séc: trường hợp séc được xuất trình tại ngân hàng bị ký phát đến thì
ngân hàng thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng, nếu xuất trình tại ngân
hàng nhờ thu thì quy trình như sau:


Ngân hàng nhờ thu nhận séc và đóng dấu gạch chéo đặc biệt lên đó để khi séc
không được thanh toán ngân hàng bị ký phát đến có thể gửi trả lại séc. Tiếp
theo họ gửi séc đến ngân hàng bị ký phát, ngân hàng này sẽ kiểm tra tờ séc và
nếu séc hợp lệ, tài khoản của người ký phát còn đủ tiền thì tài khoản của người


NHÓM 2

7


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

ký phát sẽ bị ngân hàng ghi nợ. Việc thanh toán giữa ngân hàng nhờ thu và
ngân hàng bị ký phát được thực hiện thông qua hệ thống thanh toán bù trừ séc.
• Séc có thể sẽ không được thanh toán trong những trường hợp sau:


Người ký phát đình chỉ hoặc hủy bỏ việc thanh toán séc.



Tài khoản của người ký phát không đủ tiền.



Chữ ký trên séc không giống với mẫu chữ ký mà người ký phát đã đăng ký tại
ngân hàng.



Tờ séc bị khiếm khuyết, phổ biến là: trị giá của tờ séc bằng chữ và bằng số
không giống nhau; ngày tháng đề trên séc là một ngày trong tương lai; không có
tên của người hưởng lợi ghi trên séc; séc bị sửa đổi một cách không hợp lệ; séc

nhàu nát, bị rách mà không có xác nhận của ngân hàng là do tình cờ; séc được
hai ngân hàng gạch chéo nhưng không có đảm bảo của một trong hai ngân hàng
đó đối với ngân hàng thanh toán...



Trường hợp séc không được thanh toán do tài khoản của người ký phát không
đủ tiền gọi là séc không đủ khả năng thanh toán. Người ký phát sẽ được ngân
hàng mà người đó ký phát đến thông báo để thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho
người thụ hưởng. Nếu người ký phát không thực hiện người thụ hưởng có
quyền khởi kiện. Các quốc gia có thể có hệ thống theo dõi những người ký phát
séc không đủ khả năng thanh toán, ngoài việc phải chịu trách nhiệm pháp lý,
các đối tác thương mại thường sẽ không chấp nhận thanh toán bằng séc đối với
những người đã từng ký phát séc không đủ khả năng thanh toán. Theo luật của
Việt Nam, người ký phát séc không đủ khả năng thanh toán có thể bị đình chỉ
có thời hạn hoặc vĩnh viễn quyền ký phát séc.

1.2.3.5. Tình hình sử dụng séc ở việt nam:
Ở nước ta, thanh toán bằng séc đã ra đời từ những năm 1960 nhưng đến nay, phương
tiện thanh toán này ngày càng giảm. Mặc dù thanh toán bằng séc có nhiều thuận lợi và
nhanh chóng trong giao dịch mua bán, người mua hàng ký séc đưa cho người bán và

NHÓM 2

8


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG


người bán chỉ cần cầm séc và CMND ra ngân hàng là có thể nhận được tiền hoặc
chuyển vào tài khoản nhưng hiện nay, tỷ lệ thanh toán bằng séc mới chiếm khoảng 2%
trong tổng thanh toán phi tiền mặt; nguyên nhân thanh toán bằng séc bị hạn chế là do
chưa có quy định bắt buộc về hạn mức phải thanh toán bằng séc mà hiện chỉ “động
viên” dùng séc và một nguyên nhân khác là sự lo ngại của người bán hàng sợ tài khoản
của người mua không còn tiền, séc giả, dễ dẫn đến rủi ro. Việc thanh toán séc cũng
gặp không ít phiền phức nếu khách mua và khách bán không có tài khoản ở cùng một
ngân hàng, buộc các NHTM (ngân hàng thương mại) phải thông qua hệ thống thanh
toán bù trừ của NHNN (ngân hàng nhà nước) nhưng hiện tại, NHNN chưa có Trung
tâm thanh toán bù trừ séc.
1.3.

Ví điện tử:

Được sự khuyến khích của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, các hình thức thanh
toán không dùng tiền mặt đang trên đà phát triển, thay thế dần thanh toán theo cách
truyền thống, tạo điều kiện cho thanh toán trực tuyến và thương mại điện tử phát triển
theo.
Hiện nay, số người dùng ví điện tử tại Việt Nam đang ngày càng gia tăng, đặc biệt
tại các thành phố lớn. Có 2 lọai ví điện tử đang đươc sử dụng: thẻ ATM và tài khoản
điện tử. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi sẽ không nói về thẻ ATM, mà chỉ chú trọng vào
loại ví điện tử thứ 2.
Loại ví điện tử này đang được nhắc nhiều là một tài khoản điện tử, có chức năng
như "ví tiền trong thế giới số”, dùng trên internet và các mạng di động,... cho phép
người dùng có thể giao dịch, mua bán, trao đổi tại các website TMĐT, tiến hành thanh
toán trực tuyến mà không cần phải có tài khoản ngân hàng cũng như các loại thẻ tín
dụng quốc tế, trong điều kiện thẻ ghi nợ nội địa còn ít được chấp nhận tại các website
bán hàng. Khá nhiều dịch vụ ví điện tử phục vụ các hoạt động thanh toán nhanh gọn
đã xuất hiện tại VN. Tuy nhiên, người sử dụng đến giờ vẫn không mấy mặn mà với

loại ví công nghệ này. Vậy cụ thể,ví điện tử là gì???

1.3.1. Khái niệm về ví điện tử:

NHÓM 2

9


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Ví điện tử là một dịch vụ về thanh toán trực tuyến cho phép người dùng sử dụng số
tiền có trong Ví để mua hàng hoặc trả phí tại các website thương mại điện tử đồng thời
cho phép các giao dịch chuyển tiền, nạp tiền, rút tiền, theo dõi lịch sử giao dịch… Bên
cạnh đó, Ví điện tử Doanh nghiệp với các chức năng dành cho “người bán” sẽ hỗ trợ
doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động bán hàng trực tuyến và rút ngắn quy trình thanh
toán, giao nhận hàng hóa như quản lý đơn hàng, tích hợp website bán hàng, quản trị
các phương thức vận chuyển…
Ví điện tử là một loại tài khoản dùng để thanh toán trong các giao dịch nhưng tiền
trong ví chỉ là tiền ảo, khác với tài khoản trong ngân hàng là tiền thật. Nó giống như
một người giữ tiền trung gian đứng ra thay mặt ngân hàng thực hiện thanh toán cho
người sử dụng trong các hoạt động thương mại điện tử. Người dùng chỉ cần đăng ký
tài khoản ví điện tử qua website dịch vụ của nhà cung cấp, rồi tiến hành nạp tiền vào ví
từ tài khoản ngân hàng, tài khoản thẻ ATM, thẻ trả trước...
Sau đó có thể dùng ví điện tử để thanh toán các giao dịch áp dụng hình thức thanh
toán này. Đơn vị cung cấp ví điện tử có trách nhiệm đảm bảo qu yền lợi cân bằng giữa
các bên. Chẳng hạn khi mua hàng, người dùng thanh toán bằng ví điện tử thì tổ chức
phát hành ví điện tử có trách nhiệm thông báo với bên bán hàng là đã nhận được tiền

và yêu cầu bên bán giao hàng cho người dùng.
Người dùng nhận hàng nhưng nếu không vừa ý, không đúng như thỏa thuận khi
mua có thể thông báo lại với “người giữ tiền trung gian” và “người” này có trách
nhiệm không thanh toán lại cho nơi bán hàng hay đòi lại tiền nếu đã thanh toán. Chính
vì điều này làm ví điện tử trở nên an toàn hơn so với tài khoản ngân hàng khi dùng để
thanh toán.
1.3.2. Cách sử dụng:
Cách thức sử dụng các ví điện tử nhìn chung là tương tự nhau. Để sở hữu một chiếc
ví điện tử, người tiêu dùng chỉ cần vào website của nơi cung cấp dịch vụ và khai báo
thông tin chính xác, sau đó tiến hành nạp tiền vào ví. Có nhiều phương thức giúp
người dùng nạp tiền vào ví, như: chuyển khoản qua ngân hàng, nạp từ tài khoản thẻ
ATM, nạp bằng thẻ trả trước,… Hầu hết các ví điện tử được gắn kết với tài khoản tiền

NHÓM 2

10


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

gởi, hoặc tài khoản thẻ của người dùng, để có thể dễ dàng chuyển tiền giữa ví điện tử
và tài khoản tiền gửi.
Ví điện tử cũng cho phép chủ sở hữu nạp tiền từ tài khoản ngân hàng, rút tiền ra tài
khoản ngân hàng một cách rất dễ dàng trên internet. Người dùng ví điện tử có thể giao
dịch thanh toán với người dùng khác, hay các doanh nghiệp bán hàng hoá, dịch vụ có
ví điện tử, ở bất cứ ngân hàng nào trong hệ thống. Ngoài ra, người sử dụng có thể thực
hiện truy vấn, quản lý các giao dịch phát sinh trên ví điện tử, theo dõi số dư của ví,
kiểm soát việc chi tiêu, in sao kê, hay thực hiện thanh toán các đơn hàng của những

giao dịch chưa được thanh toán thành công trước đó,…Tất cả các hoạt động trên đều
có thể thực hiện thông qua mạng Internet.
1.3.3. Những lợi ích của ví điện tử:
• Độ an toàn cao:
Tài khoản giao dịch của khách hàng đăng ký trên cổng thanh toán trực tuyến đều
phải qua một quy trình xác thực thông tin về thể nhân, pháp nhân,… thông qua bên thứ
ba, sau đó mới được kích hoạt sử dụng. Tất cả các giao dịch liên quan đến khách hàng
đều sẽ được thông báo qua đường email hoặc điện thoại di động để họ tiện theo dõi,
tránh bị lợi dụng. Người dùng dịch vụ ví điện tử trực tuyến cũng có thể thực hiện các
giao dịch tương tự như ví điện tử ATM, như: kích hoạt các tài khoản trả trước, thanh
toán hoá đơn cho các nhà cung cấp dịch vụ, hay chuyển tiền cho bạn bè, người thân,
đối tác,..
Ví an toàn hơn thẻ thanh toán vì thẻ có thể bị hacker ăn cắp mật khẩu hoặc nếu làm
kinh doanh có thể bị người khác ăn cắp và sử dụng “chùa” để thanh toán. Đó là rủi ro
rất lớn của việc dùng thẻ. Còn khi dùng ví điện tử thì cao lắm chỉ bị mất số tiền đã
chuyển vào ví để thanh toán, còn tài khoản ngân hàng không bị ảnh hưởng gì. Nếu bị
mất tài khoản ví thì người dùng có thể tạo lại dễ dàng.
• Bảo đảm quyền lợi của cả hai bên mua và bán:
Để tham gia thanh toán trực tuyến, cả người mua và người bán đều phải đăng ký tài
khoản trên cổng thanh toán và có tài khoản ở ngân hàng. Khi người mua chuyển tiền,
tiền sẽ được giữ lại ở tài khoản lưu ký đặt tại ngân hàng; khi người bán chuyển hàng
NHÓM 2

11


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG


cho người mua (hoặc có xác nhận giao dịch mua bán đã hoàn tất) thì tiền từ tài khoản
lưu ký mới chính thức được chuyển vào tài khoản của người bán
Ví điện tử cung cấp giải pháp đảm bảo an toàn giữa người mua và người bán. Khi
hai người giao dịch chưa quen biết nhau thì có hai rủi ro: thứ nhất, người mua không
phải muốn mua thật, họ chỉ làm đơn hàng giả. Khi đó, rủi ro về phía người bán. Ví
điện tử sẽ giải quyết, giúp tránh đơn hàng giả là vì ngay lúc đó, tiền sẽ được rút ra khỏi
ví người mua. Rủi ro thứ hai là khi giao hàng, có thể gặp những trường hợp như mặt
hàng giao đến không đúng với cam kết trên mạng, cũ hơn hoặc trầy xước… Khi đó, rủi
ro về phía người mua. Ví điện tử sẽ giúp giải quyết việc nầy, vì sau thời gian giao
nhận còn có thời gian khiếu kiện. Trong thời gian khiếu kiện, người mua có thể khiếu
kiện đơn hàng và nhà cung cấp đóng vai trò trung gian sẽ đứng ra giải quyết. Sau thời
gian khiếu kiện, xem như giao dịch diễn ra tốt đẹp và tiền mới về ví người bán.
• Thanh toán nhanh chóng, tiện lợi:
Nếu như ATM cho phép người dùng thanh toán trực tiếp tại các quầy thanh toán khi
mua sắm offline thì ví điện tử trực tuyến giúp họ thanh toán khi mua hàng online một
cách nhanh chóng và thuận tiện, qua máy tính kết nối internet, với độ bảo mật cao hơn
nhiều, giảm thiểu được rủi ro sử dụng tiền mặt, hoặc lộ thông tin thẻ ATM, lại không
phải đi lại nhiều,... Hơn nữa, ví điện tử trực tuyến không chỉ phục vụ cho các cá nhân
mà còn cho các doanh nghiệp bán hàng qua mạng, giúp họ có được một phương thức
thanh toán trực tuyến an toàn và ít chi phí.
Người dùng hiện nay dùng ví điện tử để thanh toán chủ yếu trong thương mại điện
tử, thanh toán hóa đơn, mua vé tàu xe, máy bay... sắp tới sẽ áp dụng trong thanh toán
chính phủ điện tử. Trong tương lai sẽ có thể áp dụng để thanh toán ở ngoài đời như vé
xe buýt, quán ăn, cà phê... Ví điện tử đem lại rất nhiều lợi ích cho người tiêu dùng,
giúp họ thanh toán khi mua hàng online một cách nhanh chóng và thuận tiện qua máy
tính kết nối internet, sẽ xóa bỏ khá nhiều khâu trung gian như đi lại, ký giấy tờ, rút tiền
mặt... và tiết kiệm thời gian, đồng thời đảm bảo an toàn cho người dùng.
Ngoài ra, đối với những người dùng không có tài khoản ngân hàng như học sinh,
người chưa đủ tuổi để mở tài khoản thì cha mẹ có thể mở cho con mình một tài khoản


NHÓM 2

12


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

ví điện tử. Khi muốn cho con mặt hàng nào đó, cha mẹ chỉ việc chuyển số tiền cần
thiết từ tài khoản ngân hàng của mình sang ví điện tử của con để thanh toán. Các ví
điện tử còn có thể chuyển tiền giữa các tài khoản với nhau, giúp những người dùng có
thể tặng tiền, cho mượn tiền, thanh toán giúp... dễ dàng. Từ đó tạo nên một cộng đồng
thanh toán không tiền mặt.
Như vậy, thanh toán bằng ví điện tử tiện lợi, nhanh chóng hơn rất nhiều so với hình
thức thanh toán truyền thống. Tuy nhiên, việc sử dụng ví điện tử ở Việt Nam vẫn chưa
phát triển sâu rộng mặc dù nó đã ra đời trên thế giới từ 10 năm trước đây. Người dân
vẫn chưa thực sự măn mà với hình thức thanh toán mới mẻ này. Nguyên nhân là vì vẫn
còn tồn tại một số khó khăn nhất định.
1.3.4. Những khó khăn của việc phát triển ví điện tử:
Ta có thể thấy tổng quan những khó khăn qua biểu đồ sau:

• Người sử dụng thiếu thông tin:
Những người trẻ tuổi như sinh viên và nhân viên văn phòng là tầng lớp làm quen
nhanh nhất với hình thức thanh toán mới do thường xuyên tiếp xúc với Internet. Vẫn
còn một bộ phận lớn vẫn chưa quan tâm tới hình thức mua bán trực tuyến và thanh
toán bằng ví điện tử. Họ cũng không có nhiều thông tin về loại hình dịch vụ này như:
các loại ví, cách thức sử dụng và những tiện ích mà nó mang lại,... Đa phần người dân
vẫn còn thói quen sử dụng tiền mặt khi thanh toán. Điều này cũng khó tránh khỏi vì có
nhiều nguyên nhân khiến người dân cảm thấy giao dịch trực tuyến đầy rủi ro và dễ bị

lừa đảo.
NHÓM 2

13


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Một trong những điều khiến người tiêu dùng còn e dè trước khi chấp nhận hình
thức ví điện tử là họ không được cung cấp rõ thông tin phí phải trả cho nhà cung cấp
dịch vụ là bao nhiêu.Họ cũng không biết khi giao dịch mua bán thì ai là người phải
chịu phí. Một số người tiêu dùng cũng cảm thấy băn khoăn khi giữa các loại ví điện tử
cũng có cách tính biểu phí khác nhau. Trong khi đó thì hầu hết các nhà cung cấp dịch
vụ đều không công khai khoản phí sử dụng, lộ trình miễn phí, thu phí, mức thu bao
nhiêu,…càng gây nhiều lo lắng cho người dân.
• Chưa có sự đồng bộ và liên kết giữa các nhà cung cấp:
Các nhà cung cấp dịch vụ ví điện tử vẫn chưa có sự liên kết với nhau giống như
tình trạng thẻ ATM trước đây. Việc chuyển tiền từ ví của ngân hàng ngày tới ví của
ngân hàng khác rất khó khăn hoặc không thực hiện được.
• Tính bảo mật chưa cao:
Một lệnh giao dịch điện tử sẽ đi từ người mua - người bán – ngân hàng – cổng
thanh toán. Bất cứ nơi nào trên chặng đường dài này đều có thể gặp phải rủi ro. Vì thế,
cơ sở an toàn phải đi từ hệ thống hạ tầng, đường truyền cho đến các giải pháp quản lý
cơ sở dữ liệu và bảo mật thông tin cho người dùng, bằng cách nào để không thất thoát
thông tin của khách hàng. Tuy nhiên cơ sở hạ tầng kỹ thuật của nước ta vẫn chưa đủ
vững chắc với các cơ sở quản lý rõ ràng.
• Tiện ích chưa phong phú:
Mặc dù ví điện tử có khá nhiều công dụng như: thanh toán trực tuyến, nạp tiền điện

thoại, mua vé máy bay, thanh toán điện nước,… nhưng thực tế thì mỗi loại thẻ chỉ có
một hay vài những tính năng trên. Số lượng các nhà liên kết dịch vụ và hệ thống ngân
hàng liên kết của mỗi thẻ cũng không nhiều. Ví dụ khách hàng sử dụng loại ví điện tử
Mobivi muốn mua vé máy bay thì chỉ liên kết được với duy nhất trang web
www.tftravel.com. Một số tính năng nhiều người quan tâm như thanh toán hóa đơn
điện, điện thoại, internet... hằng tháng thì không phải loại ví nào cũng thực hiện được.
Do đó, khách hàng không có nhiều lựa chọn.
• Người sử dụng chưa tin tưởng vào dịch vụ:

NHÓM 2

14


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Đối tượng tiêu dùng gia đình cho rằng do họ không tin tưởng vào chất lượng hàng
hóa dịch vụ được giao dịch qua mạng. Ta có thể thấy rõ qua bảng số liệu sau:

Nguồn: />
CHƯƠNG II: CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN TIỀN ĐIỆN TỬ HIỆN NAY
Ở VIỆT NAM
2.1. Một số loại thẻ thông dụng
2.1.1. Thẻ ATM:
• Số lượng người sử Dụng:
NHÓM 2

15



Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Hiện nay, loại thẻ được dùng nhiều nhất ở VN là thẻ ATM do nhiều ngân hàng (NH)
phát hành. Cả nước hiện có trên 10.000 máy ATM, hơn 36.000 thiết bị chấp nhận thẻ
được lắp đặt và 22 triệu thẻ ngân hàng được phát hành...
Song trên thực tế, đa số người dân chỉ sử dụng thẻ ATM để rút tiền, còn việc thanh
toán điện tử là rất hạn chế. Bên cạnh việc sử dụng thẻ ngân hàng, giải pháp mà Vụ
Thanh toán đưa ra là cần đẩy mạnh sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng
tiền mặt hiện đại khác như Internet Banking, Mobile Banking, ghi nợ trực tiếp từ tài
khoản…
Để đẩy mạnh việc trả lương qua tài khoản cũng như thanh toán điện tử, Ngân hàng
Nhà nước vừa yêu cầu (ngày 9-6) các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phải báo
cáo tình hình triển khai trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ
ngân sách nhà nước. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán phải báo cáo việc phát triển mạng lưới ATM, công tác bảo đảm an toàn
và hoạt động thông suốt cho các máy ATM của ngân hàng; việc phát triển các dịch vụ
thanh toán không dùng tiền mặt đi kèm thẻ để tạo điều kiện cho chủ thẻ, trong đó có
các đối tượng nhận lương qua tài khoản áp dụng thanh toán không dùng tiền mặt.
• Xu hướng người sử dụng:
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, rào cản về pháp lý không còn, dịch vụ của
các ngân hàng gần tương đương nhau. Việc ứng dụng công nghệ tiên tiến hơn trở
thành yếu tố quyết định cuộc chạy đua giành niềm tin khách hàng. Và khái niệm tiền
điện tử ở Việt Nam trong những năm gần đây không còn là mới mẻ nữa trong những
số sử dụng đó có một số doanh nghiệp đã nghiên cứu và đưa ra thị trường loại thẻ
thanh toán đa mục đích để chơi game, sử dụng Internet hay mua hàng hóa trên website
của doanh nghiệp. Một vài ngân hàng cũng đã bắt đầu đẩy mạnh cung ứng các sản

phẩm, dịch vụ ngân hàng quan kênh điện tử như Internet banking, Mobile banking
Để nhanh chóng tiếp cận với khách hàng, ở Việt Nam sau yếu tố lãi suất, thời gian
qua, các ngân hàng thương mại cũng đã có những cuộc đua mở chi nhánh. Theo các
chuyên gia trong ngành, cuộc đua này xuất phát từ một lý do rất chính đáng. Bởi càng

NHÓM 2

16


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

nhiều chi nhánh ngân hàng sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho người dân có điều kiện tiếp cận
trực tiếp và sử dụng dịch vụ của ngân hàng.
Tuy nhiên, mở chi nhánh rồi đây sẽ chỉ là một trong rất nhiều cách để ngân hàng tiếp
cận với khách và có thể sẽ không còn là ưu tiên số 1. Với xu hướng phát triển chung
của ngành ngân hàng trên thế giới, đã xuất hiện những kênh khác giúp ngân hàng tiếp
cận với người tiêu dùng nhanh hơn như ATM, Internet, Mobile…
Cùng với xu hướng chung này, tại Việt Nam, có thể hàng triệu người tiêu dùng sẽ
không còn phải thanh toán tiền mua xăng, dầu bằng tiền mặt, thay vào đó có thể dùng
thẻ để thanh toán tiền mua xăng, dầu, cũng như thanh toán các dịch vụ khác.
Ví dụ: Thẻ Flexicard do Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) và Ngân
hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex (PG Bank) kết hợp đầy đủ hai tính năng trả trước
(Prepaid) và ghi nợ (Debit), cho phép khách hàng thanh toán tiền mua xăng, dầu tại
hơn 1.800 điểm phân phối xăng, dầu của Petrolimex trên toàn quốc. Ngoài ra, thẻ còn
có thể rút tiền mặt tại ATM của PG Bank và hệ thống Banknetvn trên toàn quốc; nhận
lương, chuyển khoản, thanh toán hàng hóa dịch vụ tại hàng nghìn đơn vị chấp nhận thẻ
tại các nhà hàng, khách sạn, siêu thị, các điểm vui chơi giải trí…

“Theo thống kê, hiện nay, Việt Nam có khoảng 1.459.892 ô tô và 26.869.025 mô tô
đăng ký lưu hành. Cả nước hiện có khoảng 10 ngàn cửa hàng xăng dầu, trong đó
Petrolimex sở hữu khoảng 1.800 cửa hàng cùng hơn 3.000 địa lý. Phương thức thanh
toán bằng thẻ sẽ giảm được nhiều việc thanh toán bằng tiền mặt trong mua bán xăng,
dầu hiện nay.”
Bên cạnh đó Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Jetstar Pacific
cũng đã thành công trong việc ứng dụng tiện ích thanh toán tiền mua vé máy bay
thông qua hệ thống gần 1.000 máy ATM của BIDV tại Việt Nam. Với dịch vụ này,
khách hàng chỉ cần đăng ký đặt chỗ trực tuyến hoặc điện thoại, sau đó thanh toán tại
các điểm giao dịch BIDV hoặc gần 1.000 máy ATM của BIDV trên toàn quốc. Việc
thực hiện thanh toán qua các máy ATM phải được thực hiện trong vòng 48 giờ kể từ
khi đặt chỗ và trước 48 giờ so với giờ bay dự kiến.
Trước đó, VIB cùng với Công ty Mobivi và Công ty Du lịch Viettravel đã triển khai
hình thức thanh toán tua trực tuyến bằng Ví điện tử Mobivi.
NHÓM 2

17


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Ngoài Viettravel, VIB cũng đã ký với gần 20 doanh nghiệp khác để triển khai loại
hình này. Những cái “bắt tay” để đưa tiện ích của ATM đến gần hơn với cuộc sống
cũng đã được rất nhiều ngân hàng thương mại khác của Việt Nam triển khai.
Theo Ngân hàng Nhà nước, trong cuối tháng 6/2009, toàn thị trường có 8.800 máy
ATM; hơn 17 triệu thẻ ATM và có trên 1,132 triệu người nhận lương qua tài khoản.
Tuy vậy, tiền mặt vẫn là phương thức thanh toán chủ yếu, nhất là trong khu vực dân
cư.

Mặc dù số lượng cá nhân sử dụng thẻ ATM đã vượt mục tiêu đề ra cho năm 2010,
nhưng trên thực tế, người dân chỉ sử dụng thẻ ATM để… rút tiền mặt thanh toán hàng
hoá, dịch vụ. Nguyên nhân chính của vấn đề này là do chất lượng, tiện ích các dịch vụ
thanh toán trực tuyến như Mobile banking, Internet banking, Ví điện tử… mới chỉ
dừng ở quy mô nhỏ hẹp, chưa triển khai trên diện rộng để đáp ứng nhu cầu thanh toán
nhỏ lẻ của khách hàng.
Dù còn có những bất cập gây nên những trở ngại nhất định cho khách hàng, nhưng
ông Lê Đình Long, Tổng giám đốc Ngân hàng Hong Leong Việt Nam cho rằng, ATM
đang trở thành “một phần tất yếu của cuộc sống”, và kênh mở chi nhánh sẽ không còn
là kênh duy nhất để các ngân hàng thương mại tiếp cận khách hàng.
• Cước phí sử dụng ATM:
Phí sử dụng ATM được nhiều lệ phí ngân hàng và các mạng liên ngân hàng tính phí
cho việc sử dụng của họ Automated Teller Machines (ATM). Trong một số trường
hợp, các khoản phí này được đánh giá không chỉ duy nhất cho các thành viên của
Ngân hàng; trong các trường hợp khác, họ áp dụng cho tất cả người dùng. Nhiều
người phản đối các khoản phí này bởi vì các máy ATM đang thực sự ít tốn kém hơn
cho các ngân hàng rút tiền từ thầy của con người. Hai loại phí, người tiêu dùng tồn tại:
các phụ phí và lệ phí nước ngoài. Phí phụ thu có thể được áp đặt bởi các chủ sở hữu
ATM (deployer hoặc tổ chức bán hàng độc lập ) và sẽ phải trả cho người tiêu dùng
bằng cách sử dụng máy. Phí nước ngoài hoặc chi phí giao dịch là một khoản lệ phí
tính bởi công ty phát hành thẻ (tổ chức tài chính, lưu trữ nhà cung cấp giá trị) cho

NHÓM 2

18


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG


khách hàng để thực hiện một giao dịch ngoài hệ thống của họ về máy móc trong
trường hợp của một tổ chức tài chính.
Các ngân hàng đang có kế hoạch tính phí cho các báo cáo tài khoản khách hàng để
giảm chi phí duy trì máy rút tiền tự động (ATM) sau khi Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam bác bỏ đề xuất của họ để thu học phí sử dụng.
2.1.2. Thẻ Tín Dụng:
• Số lượng người sử Dụng:
Việc dùng thẻ tín dụng để thanh toán trong giao dịch mua bán hiện nay là chuyện
phổ biến thế nhưng ở Việt Nam số người dùng thẻ tín dụng chỉ trên dưới 1% dân số
cả nước, tức hơn khoảng 860000 người sử dụng mà thôi. Theo giới ngân hàng, số thẻ
tín dụng, thẻ ghi nợ và thẻ quốc tế phát hành ở Việt Nam đang tăng mạnh trong vài
năm gần đây, tuy nhiên số người dùng thẻ mới chỉ chiếm khoảng hơn 1% so với dân
số cả nước. Ngân hàng ACB đã phát hành 60.000 thẻ tín dụng quốc tế và 305.000 thẻ
ghi nợ quốc tế; các ngân hàng khác đang sử hữu từ 15.000 đến 400.000 thẻ các loại,
riêng thẻ quốc tế Visa phát hành tại Việt Nam khoảng hơn 1 triệu chiếc…Tiện ích của
việc dùng thẻ trong thanh toán là rõ ràng nhưng sự khiêm tốn trong việc sử dụng thẻ
vẫn còn thể hiện rõ.
• Xu hướng người sử dụng:
Việc sử dụng thẻ hiện nay đang là một vất đề khá nóng bỏng cũng vì lý do đó mà
việc tranh chấp nhau trong cộc đua phát hành thẻ tín dụng khiến khách hàng đang
đứng trước tình trạng bội thực. Việc chon loại thẻ nào để sử dụng đó đang là một vấn
đề khó khăn cho họ, bởi họ đang bị chững lại và bị loạn xạ trước một “Rừng” thẻ.
Trong khi một số nước trong khu vực như Singapore tỷ lệ người dùng thẻ tín dụng
chiếm 95%,Malaysia 55% và Thái Lan khoảng 46% thì Việt Nam hiện chỉ khoảng 6%
số người có tài khoản NH. Số thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ và thẻ quốc tế phát hành tăng
mạnh trong vài năm nay, nhưng số người dùng thẻ chỉ chiếm hơn 1% dân số cả nước.
ACB đã phát hành 60.000 thẻ tín dụng quốc tế và 305.000 thẻ ghi nợ quốc tế; Các NH
khác đang sở hữu từ 15.000- 400.000 thẻ các loại, riêng thẻ quốc tế Visa tại Việt Nam
khoảng hơn 1 triệu chiếc.


NHÓM 2

19


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

• Cước phí sử dụng thẻ tín dụng:
2.1.3. Thẻ ghi nợ: (Debit Card viết tắt là “DC”)
Tại VN hiện nay, Debit card có 2 loại là Debit card quốc tế và Debit card nội địa.
Debit card quốc tế có các thương hiệu như: Visa Debit card, Visa Electron card,
MasterCard Dynamic, MasterCard Electronic, Master MTV Debit Card, …Debit card
nội địa là tất cả các loại thẻ mà chúng ta thường gọi là thẻ ATM (thật ra do thói quen
chứ tên này không chính xác, như đã trình bày thì có nhiều loại thẻ có thể sử dụng tại
máy ATM) do các NH VN phát hành với chính thương hiệu của NH đó, ví dụ : VCB
Connect 24, Đông Á, Techcombank, Inconbank, BIDV, Agribank…
Lợi ích lớn nhất của loại thẻ này là nó mang tới sự thuận lợi và an toàn. Cùng với
việc giúp cho khách hàng có thể rút tiền vào bất cứ lúc nào, thẻ này còn giảm các thủ
tục có liên quan đến việc ký séc như phải xuất trình chứng minh thư hay là trả các loại
phí có liên quan. Thẻ ghi nợ cũng là một cách thanh toán an toàn hơn do tài khoản của
bạn bị mã khoá và chỉ có thể tiếp cận tài khoản này nếu nhập đúng mã số pin, trong
khi đó thì séc thì rất dễ bị mất. Ở nhiều quốc gia thì thẻ ghi nợ được sử dụng rất phổ
biến với nhiều mục đích khác nhau. Giống như thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ thường được
sử dụng vào mục đích mua hàng qua điện thoại hoặc qua mạng. Vào các dịp mua sắm
lớn như giáng sinh, vì khối lượng giao dịch rất lớn nên việc sử dụng thẻ ghi nợ là tối
ưu để tránh phải xếp hàng chờ quá lâu.
Về quy trình sử dụng thẻ như sau : Thẻ ghi nợ của khách hàng sẽ được đưa qua bộ

phận đọc thẻ và chủ thẻ thường phải nhập số lượng giao dịch trước khi nhập mã số
pin. Thường thì sẽ phải chờ để dịch vụ chuyển tiền điện tử tại điểm bán hàng
(Electronic Funds Transfer at Point of Sale) kết nối với hệ thống máy tính ( thường
qua đường điện thoại hoặc mobile) để chứng nhận và cho phép thực hiện giao dịch.
Phí phát hành DC quốc tế từ 100K – 200K và có thể có thêm phí thường niên (tuỳ
thương hiệu và NH phát hành). Tất nhiên thẻ DC quốc tế có thể dùng để thanh toán và
rút tiền ở những điểm chấp nhận thẻ và máy ATM khắp nơi trên thế giới, kể cả trên

NHÓM 2

20


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

mạng Internet, còn DC nội địa chỉ sử dụng trên lãnh thổ VN. Phí phát hành DC nội địa
từ 0 – 100K/thẻ.
Hiện nay ở VN, đa số các nơi chấp nhận thanh toán thẻ DC đều không charge thêm
phí như Credit card ( viết tắt là “CC”) và rút tiền TM, CK bằng DC qua máy ATM
cũng miễn phí, do đa số các NH cũng không thu phí trên các DV này (có một số ít NH
thu với 1 tỷ lệ nhỏ, tuỳ theo loại thẻ). Nguyên nhân mà NH VN không thu phí là do
đây là DV mới cần phát triển để khuyến khích không dùng TM theo chủ trương của
Nhà nước (Nhà nước sẽ giải quyết được rất nhiều vấn đề và sẽ quản lý XH chặt chẽ
hơn nếu đa số thanh toán qua NH), và 1 lí do quan trọng nữa là tổng số dư tiền gửi của
các chủ thẻ ATM luôn lên đến con số vài ngàn tỷ VNĐ, NH tha hồ mà sử dụng nguồn
vốn này với chi phí rất rẻ (vì chỉ trả lãi tiền gửi không kỳ hạn cho người gửi, mà lãi
suất này cực kỳ thấp). Trong tương lai, các NH VN có thể sẽ thu phí DV trên các tiện
ích của DC. Ở NN, NH cũng thu phí khá cao (nhưng không bằng CC) đối với các DV

trên DC. Riêng các DC quốc tế, có 1 số thu phí khoảng 1 – 2% khi rút TM bằng ATM
tại máy không phải của NH phát hành (chẳng hạn Master MTV Debit card do VCB
phát hành sẽ không bị charge phí khi rút TM tại các máy ATM của VCB, nhưng sẽ bị
charge phí khi rút tiền tại máy ATM của NH khác hoặc ở NN).
Hiện nay, VCB là NH dẫn đầu trong lĩnh vực phát hành thẻ ATM và số lượng máy
ATM lắp đặt trên cả nước (khoảng hơn 600 máy). Nếu bạn phát hành thẻ VCB
Connect và Master MTV thì bạn chỉ cần mở 1 TK tiền gửi tại VCB thôi, cả 2 thẻ có
thẻ ghi nợ vào 1 TK của bạn, riêng Master MTV có thể sử dụng khi đi nước ngoài.
Ngoài ra, Thẻ Thanh toán còn có 1 số loại khác đặc thù, không phổ biến. Ở VN, một
số thẻ ATM như Thẻ đa năng của NH Đông Á có thêm nhiều tiện ích, nó chủ yếu là
DC nhưng cũng có thể kiêm thêm tín năng như CC nếu bạn được cấp hạn mức thấu
chi.
2.2. Những tiện ích khi sử dụng tiền điện tử ở VN:
Theo Tạp chí Tài chính Điện tử số 74 ngày 15/8/2009 - Thanh toán không dùng tiền
mặt đã và đang trở thành phương tiện thanh toán phổ biến, được nhiều quốc gia

NHÓM 2

21


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

khuyến khích sử dụng, đặc biệt là đối với các giao dịch thương mại, các giao dịch có
giá trị và khối lượng lớn.
Nắm bắt xu thế đó, ngày 29/12/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 291/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn
2006-2010 và định hướng đến năm 2020 (Quyết định 291). Đồng thời, Chính phủ cũng

đã ban hành Nghị định số 161/NĐ-CP ngày 28/12/2006 quy định về thanh toán bằng
tiền mặt (Nghị định 161), trong đó bao gồm các quy định về hạn mức thanh toán bằng
tiền mặt, phí giao dịch tiền mặt và việc rút tiền mặt với số lượng lớn bằng Đồng Việt
Nam trong giao dịch, thanh toán tại Việt Nam. Đây là các cơ sở pháp lý quan trọng để
thúc đẩy hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt. Và một trong những giải pháp
nhằm nhanh chóng hiện thực hoá Đề án thanh toán không dùng tiền mặt vừa nêu trên
chính là phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực công.
Theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, tính đến đầu tháng 6-2010, số lượng thẻ phát
hành trên phạm vi cả nước đã đạt trên 24 triệu thẻ với 48 tổ chức phát hành thẻ và hơn
190 thương hiệu thẻ cùng với gần 11.000 máy ATM và khoảng 37.000 thiết bị chấp
nhận thẻ POS (Points of Sales). Thanh toán dùng tiền mặt tại Việt Nam thời gian gần
đây có xu hướng giảm dần, tỷ trọng tiền mặt so với tổng phương tiện thanh toán theo
thống kê năm 2008 là 14,6% (năm 2007 là 16,36%, năm 2001 là 23,7% và năm 1997
là 32,2%). Điều này cho thấy thanh toán không dùng tiền mặt đang được hệ thống
ngân hàng mở rộng và phát triển, góp phần giảm đáng kể lượng tiền mặt trong thanh
toán.
Có thể nói, trong bối cảnh nhập kinh tế khu vực và thế giới hiện nay, thanh toán
không dùng tiền mặt trong khu vực công thực sự là một giải pháp có hiệu quả, đi tiên
phong, mở đường, làm hình mẫu để triển khai thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt
Nam. Nguyên nhân là vì khách hàng đã nhận thấy những tiện ích của tiền điện tử như:
2.2.1. Sử dụng tiền điện tử là một phương thức thanh toán đơn giản, an toàn và
tiện lợi :
Tài khoản và thẻ giúp cho người có tiền tránh được rủi ro mất mát hay hư hỏng tiền
mặt. Mặt khác khi thanh toán các khoản lớn như mua xe, mua nhà chỉ cần một lệnh
NHÓM 2

22


Bài tiểu luận


THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

chuyển khoản qua ngân hàng thay vì phải mang theo một khối lượng tiền mặt lớn và
mất nhiều thời gian để đếm tiền. Việc sử dụng tiền điện tử giúp hạn chế việc lưu thông
tiền mặt trên thị trường, tránh các rủi ro khi sử dụng tiền mặt như: mất tiền, thiếu tiền,
tiền giả, trộm cướp v.v…
Tài khoản còn có thêm tiền lãi nhưng khoản tiền lãi này rất nhỏ, không đáng kể.
Giả sử khách hàng có số dư trong tài khoản là 3 triệu đồng, ngân hàng trả lãi suất
0,5%/tháng thì hàng tháng khách hàng chỉ được hưởng lãi có 15.000 đồng. Hay như
thẻ tín dụng còn được ưu đãi miễn lãi.
Hiện nay, Vietcombank đang cho phép khách hàng trả tiền điện, nước trên máy
ATM cũng như cung cấp sản phẩm dịch vụ thanh toán điện tử đa dạng trên các kênh
như POS, điện thoại di động, Internet để khách hàng được hưởng các tiện ích từ các
dịch vụ như thanh toán vé máy bay điện tử, nạp tiền, trả cước viễn thông...của
Vietnam Airlines, Viettel, MobiFone, VinaPhone, VinaGame, VDC, FPT…
Còn theo bà Lý Thị Ngọc, Giám đốc Trung tâm thẻ Ngân hàng Đông Á, thì sau
khi ngân hàng đưa ra những tiện ích thanh toán qua ngân hàng như trả tiền điện, nước,
điện thoại qua các kênh giao dịch như Internet Banking, Mobile Banking thì rất nhiều
khách hàng đăng ký sử dụng dịch vụ, vì nó thoả mãn được nhu cầu của những khách
hàng bận rộn trong thời đại hiện nay.
Hay như Thẻ tín dụng có tính năng “chi tiêu trước, trả tiền sau”, tức là chủ thẻ được
chậm trả những khoản tiền dùng để mua sắm. Ngân hàng sẽ cấp hạn mức tín dụng để
chủ thẻ thực hiện thanh toán trong một tháng, và sau đó chủ thẻ có từ 15 đến 45 ngày
để thanh toán những khoản tiền đã chi tiêu mà không bị tính lãi.
Chủ thẻ có thể sử dụng thẻ tín dụng để thanh toán mua hàng hóa dịch vụ tại tại đơn
vị chấp nhận thẻ qua các phương thức như cà thẻ tại quầy giao dịch của đơn vị, đặt
hàng qua thư hoặc điện thoại, thanh toán trực tuyến qua Internet, và cũng có thể dùng
để rút tiền mặt từ máy ATM mang thương hiệu của tổ chức thẻ. Tại Việt Nam và hơn
230 quốc gia trên thế giới có hàng triệu đơn vị chấp nhận thẻ như siêu thị, cửa hàng,

nhà hàng, khách sạn, đại lý du lịch, đại lý vé máy bay…
Thẻ tín dụng rất thích hợp với những người hay đi công tác nước ngoài. Chủ thẻ sẽ
sử dụng hiệu quả tính năng chuyển đổi ngoại tệ của thẻ tín dụng và tránh được rủi ro
NHÓM 2

23


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

khi mang quá nhiều tiền mặt theo người. Nếu mất thẻ, chủ thẻ thông báo kịp thời với
ngân hàng phát hành sẽ không bị lợi dụng thẻ.
2.2.2 Giao dịch đơn giản, ít khâu, ít chứng từ:
Khách hàng có thể mở tài khoản một nơi của ngân hàng giao dịch nhưng có thể
giao dịch chuyển tiền tại bất kì chi nhánh nào của ngân hàng đó, với thủ tục vô cùng
đơn giản. Ví dụ để có thể sở hữu một thẻ ATM, bạn cần phải điền vào một form đăng
ký làm thẻ của ngân hàng phát hành, kèm theo một bản sao giấy chứng minh nhân dân
là đủ.
Khách hàng luôn được cung cấp đầy đủ ngoại tệ để thanh toán nếu có nhu cầu
Thời gian phát hành và xử lý chứng từ thanh toán quốc tế ngắn, thông thường tối
đa là một ngày. Phát hành trực tiếp đến các ngân hàng tại các quốc gia trên thế giới mà
ngân hàng giao dịch.
Tùy theo uy tín của các ngân hàng trong thanh toán quốc tế. Được các ngân hàng
toàn cầu như Citibank (Mỹ), HSBC (Hồng Kông- Thượng Hải), ABN (Hà Lan),
SMBC (Nhật), Ing BHF (Hà Lan), Standard Chartered Bank (Anh), Fortis Bank (Hà
Lan), Natexis Banque Populaire (Pháp), Credit Suisse (Thụy Sĩ)… thông báo và xác
nhận.
Với tỷ lệ điện chuẩn gần như tuyệt đối cho toàn bộ điện thanh toán quốc tế, ngân

hàng đảm bảo cho mọi giao dịch của khách hàng được thực hiện nhanh chóng nhất với
chi phí cạnh tranh qua mạng thanh toán liên ngân hàng toàn cầu – SWIFT.
2.2.3. Chi phí giao dịch thấp:
Việc thanh toán phải căn cứ theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam cho
mức thu phí dịch vụ thanh toán đối với khách hàng là các tổ chức tín dụng. Kho bạc
nhà nước khi thực hiện chuyển tiền qua Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng,
nhằm khuyến khích các ngân hàng tham gia thanh toán qua hệ thống này. Khi cung
cấp dịch vụ, Tổng giám đốc hoặc giám đốc các tổ chức tín dụng, Kho bạc nhà nước
được ấn định mức thu phí của từng dịch vụ thanh toán cụ thể - ao gồm cả dịch vụ
chuyển tiền qua hệ thống và qua hệ thống chuyển tiền điện tử liên ngân hàng – phù
hợp với nội dung, điều kiện và phương thức dịch vụ của tổ chức mình theo đúng qui
định, nhằm hạn chế thanh toán bằng tiền mặt.
2.2.4. Tăng cường tính công khai minh bạch, hạn chế tham nhũng:
NHÓM 2

24


Bài tiểu luận

THS. LÊ THỊ HẢI ĐƯỜNG

Ngày nay do yêu cầu của hội nhập kinh tế nên việc dùng tiền điện tử góp phần làm
cho hệ thống thanh toán được minh bạch hơn. Đây cũng là một yêu cầu của quốc tế
trong quá trình hội nhập. Hiệu quả kinh tế của phương thức thanh toán chuyển tiền qua
mạng đã dần dần thay thế tập quán sử dụng tiền mặt gây lãng phí xã hội, đồng tiền
nhanh chóng được dùng vào lưu thông và sinh lãi. Trong lưu thông, do dòng tiền chảy
ngược dòng hàng hóa nên dòng chảy thủ công của tiền mặt không thể nhanh chóng
hiệu quả bằng hệ thống điện tử. Do đó, việc giảm tỷ lệ dùng tiền mặt là cần thiết và có
lợi cho toàn xã hội.

2.3.

Những hạn chế của việc thanh toán không dùng tiền mặt tại VN:
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, rào cản về pháp lý không còn, dịch vụ

của các ngân hàng gần tương đương nhau. Việc ứng dụng công nghệ tiên tiến hơn trở
thành yếu tố quyết định cuộc chạy đua giành niềm tin khách hàng.
Hiện tại, khái niệm tiền điện tử vẫn là một khái niệm khá mới mẻ tại Việt Nam. Một
số doanh nghiệp đã nghiên cứu và đưa ra thị trường loại thẻ thanh toán đa mục đích để
chơi game, sử dụng Internet hay mua hàng hóa trên website của doanh nghiệp. Một vài
ngân hàng cũng đã bắt đầu đẩy mạnh cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng quan
kênh điện tử như Internet banking, Mobile banking.
Khó khăn khi dịch vụ còn chưa thực sự phát triển khiến người dùng lo lắng. Nhiều
người luôn rút hết tiền trong tài khoản mỗi khi có lương. Và những hạn chế cơ bản của
việc thanh toán không dùng tiền mặt là:
Nhìn chung, thanh toán bằng tiền điện tử vẫn còn khá mới mẻ, thanh toán bằng tiền
mặt cón rất phổ biến trong nền kinh tế. Tiền mặt vẫn là phương tiện thanh toán chiếm
tỷ trọng lớn trong khu vực doanh nghiệp và chiếm đại đa số trong các giao dịch thanh
toán của khu vực dân cư.
Số người sử dụng dịch vụ ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, lao động ở
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, nhân viên công sở có thu nhập cao và ổn định. Đại
đa số dân cư công chức, viên chức thuộc khu vực chính phủ, lao động thuộc các doanh
nghiệp vừa và nhỏ chưa tiếp cận với các phương tiện và dịch vụ thanh toán .

NHÓM 2

25



×