LỜI NÓI ĐẦU
Tổng kết lịch sử phát triển kinh tế của các nước trên thế giới trong thời kỳ
hiện đại ta thấy rằng một nền kinh tế không thể phát triển mạnh nếu hệ thống ngân
hàng của nó không phát triển. Sự lớn mạnh của các NHTM là điều kiện cần để một
nền kinh tế có thể phát triển một cách ổn định và bền vững. Một trong những chức
năng của NHTM đó là chức năng trung gian thanh toán. Chức năng này được thể
hiện thông qua công tác thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng. Lịch sử
cho thấy, nền kinh tế phát triển càng mạnh thì thanh toán dưới hình thức thanh toán
không dùng tiền mặt càng chiếm tỷ trọng lớn, càng được nhiều người ủng hộ bởi
những tiện ích tuyệt vời do nó mang lại và sự ưu việt của nó so với hình thức thanh
toán bằng tiền mặt. Trong tương lai, cùng với sự phát triển của xã hội ta thấy rằng
thanh toán không dùng tiền mặt có xu hướng phổ biến trên toàn thế giới và là một
hình thức thanh toán chủ yếu của các xã hội văn minh.
Từ năm 1989 trở lại đây, nền kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng với tốc
độ cao, được các chuyên gia kinh tế dự báo sẽ tiếp tục phát triển ổn định trong
khoảng thời gian sắp tới, với khối lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ được sản xuất
và tiêu thụ ngày càng lớn. Điều đó đồng nghĩa với sự phát triển mạnh của hoạt động
trao đổi giữa các chủ thể của nền kinh tế mà biểu hiện là sự gia tăng mạnh mẽ của
quy mô thanh toán trong nền kinh tế. Ở nước ta hiện nay việc thanh toán giá trị sản
phẩm chủ yếu vẫn bằng tiền mặt. Tuy nhiên, việc thanh toán bằng tiền mặt có rất
nhiều hạn chế như: chi phí thanh toán, chi phí chuyên trở, bảo quản, kiểm đếm rất
tốn kém cả về thời gian và tiền bạc. Bên cạnh đó, theo yêu cầu của sự phát triển và
xu hướng của thời đại mới thì nhu cầu về thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng
lớn. Do đó, các NHTM với vai trò trung gian thanh toán phải nắm bắt được xu
hướng phát triển đó và phải có các giải pháp hữu hiệu để mở rộng thanh toán không
dùng tiền mặt.
NHNo&PTNT Ba Đình ra đời năm 1996 là một chi nhánh trực thuộc
NHNo&PTNT Hà Nội, mang đầy đủ tính chất và đặc thù của một NHTM.
NHNo&PTNT Ba Đình kể từ khi ra đời đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển
của kinh tế Thủ đô nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, do một
Trang 1
số nguyên nhân chủ quan và khách quan hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt
của ngân hàng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có, thu nhập từ hoạt động
thanh toán không dùng tiền mặt chiếm tỷ trọng nhỏ so với thu nhập từ các hoạt động
khác.
Qua thời gian thực tập ở NHNo&PTNT Ba Đình, nghiên cứu các mặt hoạt
động đa dạng, đặc biệt là công tác thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng
này, kết hợp với phần lý thuyết đã được học tập tại trường đại học Kinh tế Quốc dân
Hà Nội em đã mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp mở rộng thanh toán không
dùng tiền mặt tại NHNo&PTNT Ba Đình” để giải đáp câu hỏi trên. Những giải
pháp và kiến nghị được nêu ra trong đề tài với mong muốn góp phần mở rộng thanh
toán không dùng tiền mặt tại NHNo&PTNT Ba Đình để đáp ứng nhu cầu thanh toán
nội địa. Từ đó sẽ tăng cường khả năng cạnh tranh của ngân hàng và tạo điều kiện
cho các hoạt động khác của ngân hàng phát triển.
Chuyên đề này được chia làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế
thị trường.
Chương 2: Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt tại NHNo&PTNT Ba
Đình.
Chương 3: Giải pháp nhằm mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt tại
NHNo&PTNT Ba Đình.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Thảo, trường Đại học
Kinh tế Quốc dân, NHNo&PTNT Ba Đình đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề
này.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1. Sự cần thiết của thanh toán không dùng tiền mặt và vai trò của nó trong
nền kinh tế thị trường .
1.1. Khái niệm thanh toán không dùng tiền mặt và các khái niệm khác liên quan.
Tiền mặt theo nghĩa hẹp, đó là tiền do Ngân hàng Trung ương phát hành ra
và nằm trong tay công chúng hay ngoài hệ thống ngân hàng. Còn theo nghĩa rộng
nhất, tiền mặt có thể được hiểu là những thứ có thể sử dụng trực tiếp để thanh toán
các giao dịch và bao gồm cả tiền gửi ngân hàng. Như vậy, trong trường hợp này
khái niệm tiền mặt được dùng để chỉ dạng có khả năng thanh toán cao nhất của tài
sản, bao gồm các đồng tiền do Ngân hàng Trung ương phát hành ra và được công
chúng giữ để chi tiêu, tiền gửi ở tài khoản vãng lai hay tài khoản tiền gửi không kỳ
hạn, có thể rút ra bất cứ lúc nào bằng cách viết séc. Đối với các NHTM khái niệm
tiền mặt bao gồm các đồng tiền cất trong két sắt và số dư của họ tại Ngân hàng
Trung ương. Do được dùng với nhiều nghĩa khác nhau như vậy, nên khi gặp khái
niệm này, chúng ta phải lưu ý xem nó được dùng theo nghĩa nào trong một khung
cảnh nhất định (Từ điển kinh tế học).
Tiền mặt- là hình thức tiền tệ, theo đó, trong thời gian giao dịch, chức
năng lưu thông và cất trữ giá trị được thực hiện mà không cần sự tham gia của các
định chế tài chính trung gian đặc thù.
Thanh toán, trong các mối quan hệ kinh tế, được hiểu một cách khái quát
nhất là việc thực hiện chi trả bằng tiền giữa các bên trong những quan hệ kinh tế
nhất định. Tiền ở đây được hiểu là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc
thanh toán để nhận hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc trong việc trả nợ.
Thanh toán không dùng tiền mặt là cách thức thanh toán trong đó không có
sự xuất hiện của tiền mặt mà việc thanh toán được thực hiện bằng cách trích chuyển
trên các tài khoản của các chủ thể liên quan đến số tiền phải thanh toán.
Thanh toán không dùng tiền mặt còn được định nghĩa là phương thức thanh
toán không trực tiếp dùng tiền mặt mà dựa vào các chứng từ hợp pháp như giấy nhờ
thu, giấy ủy nhiệm chi, séc… để trích chuyển vốn tiền tệ từ tài khoản của đợn vị này
sang tài khoản của đợn vị khác ở ngân hàng. Thanh toán không dùng tiền mặt gắn
với sự ra đời của đồng tiền ghi sổ.
1.2. Đặc điểm của thanh toán không dùng tiền mặt.
Sự ra đời của hình thức thanh toán không dùng tiền mặt gắn liền với sự ra
đời của đồng tiền ghi sổ và sự phát triển của nó gắn liền với sự phát triển của hệ
thống ngân hàng. Sự tồn tại và lớn mạnh của hệ thống này đã tạo điều kiện cho cá
nhân và các tổ chức kinh tế mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng và thực hiện việc
thanh toán thông qua việc chuyển khoản trong hệ thống ngân hàng. thanh toán
không dùng tiền mặt là một hình thức vận động tiền tệ mà ở đây tiền vừa là công cụ
để kế toán, vừa là công cụ để chuyển hóa hình thức giá trị của hàng hóa và dịch vụ.
Nó có một số đặc điểm sau:
+ Trong thanh toán không dùng tiền mặt sự vận động của tiền tệ độc lập với
sự vận động của hàng hóa cả về thời gian lẫn không gian và thường không có sự ăn
khớp nhau. Đây là đặc điểm quan trọng và nổi bật nhất của hình thức thanh toán
không dùng tiền mặt.
+ Trong thanh toán không dùng tiền mặt, vật trung gian trao đổi không xuất
hiện như trong hình thức thanh toán dùng tiền mặt theo kiểu H-T-H mà chỉ xuất hiện
dưới dạng tiền kế toán hay tiền ghi sổ và được ghi chép trên các chứng từ sổ sách kế
toán. đây là đặc điểm riêng của thanh toán không dùng tiền mặt.
+ Trong thanh toán không dùng tiền mặt, ngân hàng vừa là người tổ chức vừa
là người thực hiện các khoản thanh toán. Chỉ có ngân hàng, người quản lý tài khoản
tiền gửi của các khách hàng mới được quyền trích chuyển những tài khoản này theo
các nguyên tắc chuyên môn đặc thù như là một nghiệp vụ riêng của mình. Với
nghiệp vụ này, ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán đối với các khách hàng của
mình.
Với những đặc điểm nêu trên, thanh toán không dùng tiền mặt nếu được tổ
chức và thực hiện tốt sẽ phát huy được tác dụng tích cực của nó. Trong tương lai,
theo đà phát triển của xã hội và theo nhu cầu của thị trường, thanh toán không dùng
tiền mặt sẽ giữ một vị trí cực kỳ quan trọng trong việc lưu chuyển tiền tệ và trong
thanh toán giá trị của nền kinh tế.
1.3. Sự cần thiết của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường.
Trước hết, sự vận động của tiền tệ dưới hình thức thanh toán không dùng tiền
mặt đáp ứng tốt hơn nhu cầu chuyển hóa giá trị của hàng hóa và dịch vụ so với dưới
hình thức thanh toán bằng tiền mặt.
Thanh toán không dùng tiền mặt có tác động tích cực đến kinh tế tài chính
quốc gia.
Thanh toán không dùng tiền mặt là một hình thức vận động tiền tệ tiết kiệm
và hiệu quả.
Thanh toán không dùng tiền mặt còn giúp tăng cường sự kiểm tra lẫn nhau
giữa các cá nhân, các tổ chức kinh tế. Một trong những phương cách để thẩm định
uy tín của một cá nhân, một tổ chức kinh tế làm ăn trên thị trường là việc xem xét
tình hình thực hiện việc thanh toán của họ với các đối tác.
Thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho ngân hàng giảm bớt nguy cơ mất
khả năng thanh toán.
Thanh toán không dùng tiền mặt làm tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn cho
nền kinh tế.
Thanh toán không dùng tiền mặt an toàn, thuận lợi, nhanh chóng và chính
xác.
Nâng cao sức cạnh tranh cho ngân hàng qua việc nâng cao chất lượng dịch
vụ thanh toán cho ngân hàng.
Tạo điều kiện cho Ngân hàng Trung ương tính toán và kiểm soát lượng tiền
cung ứng cần thiết cho nền kinh tế.
Tạo nguồn thu nhập cho ngân hàng thông qua việc thu phí thanh toán.
Tạo nguồn vốn cho vay ngắn hạn.
Sự cần thiết của thanh toán không dùng tiền mặt còn thể hiện ở chỗ nó khắc
phục được các nhược điểm sau của thanh toán bằng tiền mặt:
+ Chi phí lớn trong việc in ấn, vận chuyển, kiểm đếm, bảo quản và thanh
toán.
+ Làm cho một phần vốn của nền kinh tế không vận động vì các chủ thể
thanh toán luôn phải giữ tiền bên mình.
+Làm cho Nhà nước gặp khó khăn trong việc kiểm soát tiền tệ dẫn đến các
hoạt động buôn lậu, rửa tiền, tham ô, tham nhũng khó bị kiểm soát tức là tạo điều
kiện cho sự phát triển của hoạt động kinh tế ngầm.
+ Không an toàn trong khi vận chuyển và bảo quản.
1.4. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường.
-Thanh toán không dùng tiền mặt được sử dụng rộng rãi trong mọi tầng lớp
dân cư ở nhiều quốc gia là một tất yếu khách quan do tính hiệu quả và thiết thực của
nó.
- Đối với khách hàng, thanh toán không dùng tiền mặt là một phương thức
thanh toán đơn giản, an toàn, tiết kiệm, thuận lợi cho sự trao đổi. Khi có tài khoản
giao dịch ở ngân hàng, khách hàng muốn rút tiền ra bất cứ lúc nào cũng được, chỉ
cần viết một yêu cầu gửi ngân hàng.
- Đối với ngân hàng, thanh toán không dùng tiền mặt là một công cụ thanh
toán bù trừ giữa các ngân hàng không phải dùng đến giấy bạc, giúp cho việc thanh
toán thuận lợi và việc lưu thông tiền tệ được nhanh hơn đồng thời dễ kiểm soát.
Thanh toán không dùng tiền mặt có vai trò quan trọng trong việc huy động tích tụ
các nguồn vốn tạm thời chưa sử dụng đến của khách hàng vào cơ quan tín dụng, tạo
nguồn cho tài khoản để thực hiện thanh toán. Loại tiền gửi này cũng là một nguồn
vốn cung cấp cho các nghiệp vụ sinh lời của ngân hàng thương mại, gửi và thanh
toán phải trả lãi, do vậy giảm giá đầu vào của “đi vay để cho vay”.
- Đối với nền kinh tế, thanh toán không dùng tiền mặt có ý nghĩa quan trọng
đến việc tiết kiệm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, từ đó giảm bớt những phí
tổn to lớn của xã hội có liên quan đến việc phát hành và lưu thông tiền. Trước hết đó
là tiết kiệm chi phí in tiền, sau đó là những chi phí cho việc kiểm đếm, chuyên chở,
bảo quản và huỷ bỏ tiền cũ, rách mà vấn đề bức xúc nhất hiện nay đó là việc chuyên
chở và bảo quản tiền mặt. Thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta được tổ chức
thành một hệ thống thống nhất. Trong hệ thống này ngân hàng là một trung tâm
thanh toán, mọi hoạt động trao đổi hàng hoá dịch vụ đều được kết thúc bằng thanh
toán cho nên quan hệ thanh toán liên quan tới tất cả mọi hoạt động trong xã hội,
trong toàn bộ nền kinh tế. Do đó việc tổ chức tốt công tác thanh toán nói chung và
thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng có một ý nghĩa và vai trò lớn trong nền
kinh tế. Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức sử dụng công cụ tiền tệ tiến bộ
nhất nó tạo ra tiền đề để áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mang lại những
lợi ích kinh tế to lớn. Thanh toán không dùng tiền mặt ra đời và phát triển trên cơ sở
của nền kinh tế thị trường. Song chính nó lại trở thành nhân tố thúc đẩy nền kinh tế
hàng hoá phát triển, do đó nó vừa được coi là “đứa con” sinh ra của kinh tế thị
trường lại được xem như “bà đỡ” của nền kinh tế hàng hoá, nó góp phần đẩy nhanh
tốc độ quá trình tái sản xuất xã hội, nó là khâu đầu và cũng là khâu kết thúc của quá
trình sản xuất, nó liên quan đến toàn bộ quá trình lưu thông hàng hoá, tiền tệ của các
tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội.
- Thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện dễ dàng cho việc kiểm soát
lạm phát. Thông qua việc khống chế tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ tái chiết khấu... ngân
hàng Trung ương gián tiếp điều hoà khối lượng tiền tệ cung ứng góp phần bảo đảm
cho nền kinh tế ở một mức độ ổn định. Căn cứ vào việc thanh toán luân chuyển tiền
tệ mà hoạch định các chính sách cần thiết. Với ý nghĩa to lớn đó, ở những quốc gia
có nền kinh tế phát triển người dân sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt như là
một thói quen văn hoá không thể thiếu được.
- Khi ngân hàng tăng được tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt cũng là
lúc ngân hàng thu hút được nhiều hơn nguồn vốn trong xã hội vào ngân hàng. Trên
cơ sở nguồn vốn tăng thêm đó ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng cho vay tăng vốn
cho nền kinh tế. Như vậy thanh toán không dùng tiền mặt vừa góp phần tăng nhanh
vòng quay vốn cho xã hội vừa góp phần tăng cường nhu cầu vốn cho xã hội. Nói
tóm lại nó đem lại lợi ích thiết thực cho xã hội tiết giảm chi phí lưu thông tạo điều
kiện cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả.
2. Trách nhiệm của các bên tham gia thanh toán không dùng tiền mặt.
* Ngân hàng:
+ Thực hiện cung cấp các hình thức thanh toán như séc, thẻ, ủy nhiệm thu, ủy
nhiệm chi, thư tín dụng…Để thực hiện công tác thanh toán không dùng tiền mặt, các
ngân hàng phải sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt được quy
định bởi pháp luật và được các trung tâm thanh toán chấp nhận. Một số hình thức
thanh toán không dùng tiền mặt mà ngân hàng thường dùng là: séc, thẻ thanh toán,
ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thư tín dụng… Khi sử dụng các hình thức thanh toán
này, các ngân hàng phải thực hiện đúng với các yêu cầu về thời gian, thủ tục thanh
toán… theo như quy định về thanh toán không dùng tiền mặt đã được các cơ quan
có thẩm quyền ban hành. Ngân hàng có trách nhiệm cung cấp các hình thức thanh
toán không dùng tiền mặt mà ngân hàng đã cam kết thực hiện theo yêu cầu của
khách hàng.
+ Thực hiện thanh toán nhanh chóng, chính xác, kịp thời.Khi đã thỏa thuận
xong một hợp đồng thanh toán không dùng tiền mặt của khách hàng đối với ngân
hàng, ngân hàng phải thực hiện việc thanh toán cho khách hàng một cách nhanh
chóng, kịp thời, an toàn và chính xác. Nếu có sai sót hay chậm trễ vì một lý do nào
đó, ngân hàng phải có thông báo bằng văn bản cho khách hàng nói rõ lý do sai sót,
chậm trễ đó và đưa ra hướng giải quyết sự chậm trễ và sai sót trên. Ngân hàng phải
hoàn toàn chịu trách nhiệm về những sai sót thuộc phạm vi trách nhiệm của mình
trong quá trình thực hiện nghiệp vụ thanh toán thanh toán không dùng tiền mặt.
* Khách hàng trả tiền:
+ Có đủ số dư trên tài khoản thanh toán, lập các chứng từ thanh toán (hình
thức thanh toán) hợp lệ, hợp pháp. Đối với khác hàng là người trả tiền khi tham gia
vào các hình thức thanh toán nói chung và thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng
thì trước hết khách hàng phải có tiền, khi thanh toán không dùng tiền mặt thì người
trả tiền phải có số dư trên tài khoản thanh toán của mình tại ngân hàng đảm bảo đủ
chi trả cho hợp đồng thanh toán đó. Bên cạnh đó, khách hàng phải lập các chứng từ
thanh toán một cách đầy đủ, chính xác, hợp lệ, hợp pháp. Trong chứng từ đó phải
ghi rõ phương thức thanh toán không dùng tiền mặt được sử dụng, khối lượng thanh
toán, thời gian thanh toán, đối tượng được thanh toán…
+ Thực hiện thanh toán sòng phẳng số tiền phải trả cho khách hàng, nếu làm
sai sẽ bị phạt theo chế độ hiện hành. Khi đến hạn thanh toán người trả tiền phải thực
hiện nghĩa vụ thanh toán của mình một cách đầy đủ kịp thời….mà không được
chậm trễ vì bất cứ lý do gì. Người trả tiền sẽ bị xử phạt tiền hoặc bị truy tố trước
pháp luật nếu chậm trễ trong việc thực hiện hợp đồng thanh toán đã đáo hạn.
* Khách hàng thụ hưởng:
+ Kiểm tra tính hợp lệ và hợp pháp của các hình thức thanh toán nhận được.
Để đảm bảo an toàn và để tránh các rắc rối có thể xảy ra, khách hàng thụ hưởng khi
nhận được các chứng từ thanh toán phải kiểm tra các yếu tố trên các chứng từ này
xem có hợp lệ và hợp pháp không. Nếu thấy những chứng từ này có dấu hiệu bất
thường thì phải báo ngay cho các ngân hàng liên quan để giải quyết.
+ Cung cấp đầy đủ và kịp thời lượng hàng hóa, dịch vụ cho người mua.
Khách hàng thụ hưởng đồng thời là người bán có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và
kịp thời lượng hàng hóa, dịch vụ cho người mua, người trả tiền theo đúng quy cách,
chất lượng đã thỏa thuận trong hợp đồng.
3. Những hình thức thanh toán không dùng tiền mặt hiện hành.
3.1. Hình thức thanh toán bằng séc.
Séc là một hình thức thanh toán quan trọng không thể thiếu được trong thanh
toán không dùng tiền mặt hiện nay. Mặc dù đã ra đời từ rất sớm và ngày càng có
nhiều công cụ thanh toán hiện đại nhưng thanh toán bằng séc vẫn giữ vị trí quan
trọng trong các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
Séc là môt tờ lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu đã quy định
sẵn, yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích tiền từ tài khoản tiền gửi của mình để trả
cho người thụ hưởng có tên trên tờ séc hay người cầm tờ séc đó.
Séc là loại chứng từ thanh toán được áp dụng rộng rãi ở tất cả các nước trên
thế giới, quy định sử dụng séc đã được chuẩn hoá trên Công ước quốc tế.
Séc được sử dụng để thanh toán tiền hàng, dịch vụ, nộp thuế, trả nợ… hoặc
được dùng để rút tiền mặt tại các chi nhánh ngân hàng. Tất cả các khách hàng mở tài
khoản tại ngân hàng đều có quyền sử dụng séc để thanh toán. Thời hạn hiệu lực của
séc, tùy theo quy định trước, thường là 15 ngày kể từ ngày chủ tài khoản phát hành
séc đến ngày người thụ hưởng nộp séc vào ngân hàng (gồm cả ngày chủ nhật và
ngày lễ). Trường hợp nếu ngày kết thúc thời hạn hiệu lực của tờ séc là ngày nghỉ,
ngày lễ thì thời hạn đó được lùi vào ngày làm việc kế tiếp.
Sau đây ta sẽ xem xét hai loại séc: Séc chuyển khoản và Séc bảo chi.
<1>. Séc chuyển khoản
Séc chuyển khoản là một tờ lệnh trả tiền của người phát hành séc đối với
ngân hàng phục vụ mình về việc trích một khoản tiền nhất định từ tài khoản của
mình để trả cho người được hưởng có tên trong tờ séc.
Séc chuyển khoản chỉ được áp dụng trong phạm vi thanh toán giữa các khách
hàng có tài khoản ở cùng một chi nhánh nhưng các chi nhánh này có tham gia giao
nhận chứng từ trực tiếp cho nhau theo quy định từ trước, thời gian hiệu lực của tờ
séc tối đa là 10 ngày làm việc. Khác với séc lĩnh tiền mặt, khi phát hành séc thanh
toán chuyển khoản, chủ tài khoản phải gạch hai đường song song chéo góc hoặc viết
chữ "chuyển khoản " ở góc phía trên bên trái mặt trước tờ séc trước khi giao người
thụ hưởng.
Về nguyên tắc, séc chuyển khoản phải được phát hành trên cơ sở số dư tài
khoản tiền gửi hiện có tại ngân hàng. Nếu tài khoản tiền gửi không đủ để thanh toán,
séc sẽ bị ngân hàng từ chối thanh toán, chủ tài khoản phải chịu trách nhiệm thanh
toán tờ séc đó và những khoản tiền phạt chi phí phát sinh liên quan đến việc khiếu
nại và khởi kiện.
- Sơ đồ luân chuyển séc chuyển khoản:
+ Thanh toán giữa khách hàng mở tài khoản ở cùng một ngân hàng
Người trả tiền Người thụ hưởng
Ngân hàng phục vụ
1
2
3
4
(1): Người trả tiền phát hành séc và giao cho người thụ hưởng.
(2): Người thụ hưởng tiếp nhận séc, sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tờ
séc sẽ lập 3 liên bảng kê nộp séc cùng tờ séc nộp vào ngân hàng xin thanh toán.
(3): Ngân hàng kiểm tra tờ séc, nếu đủ điều kiện thì tiến hành trích tài khoản tiền
gửi của người trả tiền và báo Nợ cho họ.
(4): Ngân hàng ghi Có vào tài khoản của bên thụ hưởng và báo Có cho họ.
+ Thanh toán khác ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ trên địa bàn
(1): Người trả tiền phát hành séc
giao
cho
người thụ hưởng.
(2): Người thụ hưởng sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tờ séc sẽ lập 3 liên
bảng kê nộp séc cùng tờ séc nộp vào ngân hàng phục vụ mình xin thanh toán
( Người thụ hưởng cũng có thể nộp trực tiếp bảng kê nộp séc kèm theo tờ séc vào
ngân hàng phục vụ người trả tiền để đòi tiền).
(3): Ngân hàng sẽ tiến hành kiểm tra ( Nếu lập bảng kê có gì sai sót hoặc có các tờ
séc không hợp lệ, quá thời hạn hiệu lực thanh toán thì từ chối thanh toán) sau đó
chuyển các tờ séc và bảng kê nộp séc cho ngân hàng phục vụ người trả tiền.
(4): Ngân hàng phục vụ người trả tiền sau khi kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của tờ
séc và số dư tài khoản tiền gửi của chủ tài khoản sẽ tiến hành trích tài khoản của
người trả tiền và báo Nợ cho họ.
(5): Ngân hàng phục vụ người trả tiền dùng các liên bảng kê nộp séc lập chứng từ
thanh toán bù trừ và chuyển cho ngân hàng phục vụ người thụ hưởng để thanh toán
cho người thụ hưởng.
Người trả tiền Người thụ hưởng
Ngân hàng phục vụ
người trả tiền
Ngân hàng phục vụ người
thụ hưởng
2’
1
2
6
4
5
3
(6): Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng tiếp nhận các bảng kê nộp séc ( thông qua
thanh toán bù trừ ) sẽ ghi Có vào tài khoản cho người thụhưởng và báo cho họ.
<2>. Séc bảo chi
Séc bảo chi là một loại séc thanh toán được ngân hàng đảm bảo khả năng chi
trả bằng cách trích trước số tiền trên tờ séc từ tài khoản tiền gửi của người trả tiền
sang tài khoản " Đảm bảo thanh toán séc " nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của
tờ séc đó.
Séc bảo chi có phạm vi thanh toán rộng hơn séc chuyển khoản. Ngoài việc sử
dụng để thanh toán giữa các chủ thể mở tài khoản tại cùng một chi nhánh ngân hàng
hoặc hai ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ trên cùng địa bàn séc bảo chi còn
được sử dụng để thanh toán giữa khách hàng mở tài khoản tại các chi nhánh trong
cùng hệ thống trong phạm vi cả nước.
- Sơ đồ luân chuyển thanh toán toán séc bảo chi
+ Trường hợp hai chủ thể thanh toán mở tài khoản tại cùng một chi nhánh ngân
hàng
(1) : Người trả tiền làm thủ tục bảo chi séc ( lập hai liên giấy "Yêu cầu bảo chi séc"
kèm tờ séc đã ghi đủ các yếu tố nộp vào ngân hàng để xin bảo chi séc). Ngân hàng
đối chiếu giấy yêu cầu và tờ Séc, số dư tài khoản của người phát hành, nếu đủ điều
kiện thì tiến hành trích tiền từ tài khoản tiền gửi chuyển vào tài khoản " Đảm bảo
thanh toán Séc". Sau đó đóng dấu "Bảo chi" lên tờ séc và giao séc cho khách hàng.
(2): Người trả tiền giao Séc cho người thụ hưởng để nhận hàng hoá, dịch vụ.
Người trả tiền Người thụ hưởng
Ngân hàng phục vụ
1 3
2
5 4
(3): Người thụ hưởng lập bảng kê nộp Séc kèm các tờ Séc nộp vào ngân hàng xin
thanh toán.
(4): Ngân hàng kiểm tra ký hiệu mật trên tờ séc và các yếu tố cần thiết khác, tiến
hành ghi Có vào tài khoản của người thụ hưởng và báo Có cho họ.
(5): Ngân hàng tất toán tài khoản " Đảm bảo thanh toán Séc"
+ Trường hợp hai chủ thể thanh toán mở tài khoản khác ngân hàng có tham gia
thanh toán bù trừ
Về cơ bản, quy trình luân chuyển chứng từ trong trường hợp này giống như Séc
chuyển khoản, tuy nhiên có sự khác nhau về tài khoản hạch toán.
3.2. Hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi hoặc lệnh chi(UNC).
UNC ra đời từ khá sớm, cùng với tiến bộ khoa học kỹ thuật, nó được sử dụng
ngày một rộng rãi với các ưu thế nổi bật: an toàn, hiệu quả và đặc biệt thuận tiện
dưới sự trợ giúp của các thành tựu phát triển trong lĩnh vực công nghệ tin học
( UNC có thể được xử lý dưới dạng các chứng từ điện tử).
Đơn vị trả tiền sau khi nhận được hàng hoá, dịch vụ cung ứng, trong thời
gian nhất định phải lập các UNC gửi đến ngân hàng để trích tài khoản chuyển trả
cho đơn vị thụ hưởng. Tuỳ theo phạm vi và tổ chức thanh toán, đơn vị phải lập từ
3-4 liên với đâỳ đủ nội dung và các yếu tố cần thiết. Khi lập và nộp UNC vào ngân
hàng, đơn vị trả tiền phải đảm bảo đủ số dư trên tài khoản để đảm bảo chi trả. Nếu
chứng từ hợp lệ, tài khoản đủ tiền, trong phạm vi một ngày làm việc, ngân hàng phải
hoàn tất UNC đó. Nếu chứng từ không hợp lệ, hợp pháp, tài khoản không đủ số dư
thì ngân hàng không thanh toán.
- Quy trình thanh toán:
+ Trường hợp hai chủ thể mở tài khoản ở hai ngân hàng khác nhau.
Người trả tiền Người thụ hưởng
Ngân hàng phục vụ người
trả tiền
Ngân hàng phục vụ người
thụ hưởng
21 3
2’
HH, DV
(1): Người trả tiền lập 4 liên UNC nộp vào ngân hàng phục vụ mình để trích tài
khoản của mình trả tiền cho người thụ hưởng.
(2): Ngân hàng kiểm tra thủ tục lập UNC, số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng,
nếu đủ điều kiện thanh toán thì tiến hành trích tài khoản tiền gửi của người trả tiền,
báo Nợ cho họ và chuyển tiền sang ngân hàng phục vụ người thụ hưởng để thanh
toán cho người thụ hưởng.
(3): Khi nhận được chứng từ thanh toán do ngân hàng phục vụ người trả tiền chuyển
đến, ngân hàng phục vụ người thụ hưởng dùng các liên UNC để ghi Có vào tài
khoản tiền gửi của người thụ hưởng và báo Có cho họ.
+ Trường hợp bên thụ hưởng không có tài khoản tiền gửi thì ngân hàng phục
vụ bên thụ hưởng ghi Có TK "Chuyển tiền phải trả" và báo cho bên thụ hưởng đến
nhận tiền.
3.3. Hình thức thanh toán ủy nhiệm thu hoặc nhờ thu(UNT).
UNT là giấy uỷ nhiệm đòi tiền do người thụ hưởng lập và gửi vào ngân hàng
phục vụ mình nhờ thu hộ tiền theo số lượng hàng hoá đã giao, dịch vụ đã cung ứng.
UNT được sử dụng rộng rãi trong việc thanh toán các hoá đơn định kỳ cho
người cung ứng dịch vụ công cộng như điện, nước, điện thoại … bởi nó thường
được dùng cho các giao dịch thanh toán có giá trị nhỏ nên các UNT chiếm tỷ lệ
không đáng kể trong tổng các giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt.
UNT được áp dụng thanh toán giữa các khách hàng mở tài khoản trong cùng
một chi nhánh ngân hàng hoặc các chi nhánh ngân hàng cùng hệ thống hoặc khác hệ
thống. Khách hàng mua và bán phải thống nhất thoả thuận dùng hình thức UNT đối
với những điều kiện cụ thể đã ghi trong hợp đồng kinh tế, đồng thời phải thông báo
bằng văn bản cho ngân hàng phục vụ người thụ hưởng biết làm căn cứ để thực hiện
các UNT. Sau khi giao hàng hoặc hoàn tất dịch vụ cung ứng, bên thụ hưởng lập giấy
UNT theo mẫu của ngân hàng, kèm theo hoá đơn gửi tới ngân hàng phục vụ mình
hoặc gửi trực tiếp đến ngân hàng phục vụ bên trả tiền yêu cầu thu hộ. Khi nhận
được giấy UNT trong vòng một ngày làm việc, ngân hàng bên trả tiền trích tài
khoản của khách hàng mình trả ngay cho bên thụ hưởng để hoàn tất việc thanh toán.
- Quy trình thanh toán UNT ( trường hợp các chủ thể thanh toán mở tài khoản tại 2
chi nhánh ngân hàng cùng hoặc khác hệ thống )
(1): Sau khi giao hàng hoăc cung ứng dịch vụ, người thụ hưởng lập 4 liên UNT kèm
chứng từ giao hàng nộp vào ngân hàng phục vụ mình nhờ thu hộ tiền ( Bên thụ
hưởng cũng có thể nộp trực tiếp UNT vào ngân hàng phục vụ bên trả tiền để đòi tiền
).
(2): Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng sau khi nhận được bộ chứng từ do người
thụ hưởng gửi đến sẽ tiến hành ký tên, đóng dấu ghi vào sổ theo dõi UNT và gửi bộ
chứng từ này cho ngân hàng phục vụ người trả tiền.
(3): Ngân hàng phục vụ người trả tiền sau khi nhận được bộ chứng từ sẽ kiểm tra
các yếu tố cần thiết và làm thủ tục trích tài khoản tiền gửi của bên trả tiền và báo Nợ
cho họ.
(4): Ngân hàng phục vụ người trả tiền chuyển tiền đến ngân hàng phục vụ người thụ
hưởng để thanh toán cho người thụ hưởng.
(5): Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng ghi Có vào tài khoản của người thụ hưởng
và báo Có cho họ.
Người trả tiền Người thụ hưởng
Ngân hàng phục vụ
người trả tiền
Ngân hàng phục vụ
người thụ hưởng
3
2
1 5
4
3.4. Hình thức thanh toán thư tín dụng(TTD)
TTD là hình thức thanh toán theo sự thoả thuận giữa hai bên bán và mua
trong điều kiện bên bán đòi hỏi bên mua phải có đủ tiền để chi trả phù hợp với giá
trị hàng hoá mà bên bán đã giao theo hợp đồng hay đơn đặt hàng đã ký.
TTD thường dùng để thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản ở hai ngân
hàng khác nhau, có thể cùng hoặc khác hệ thống ( trường hợp khác hệ thống thì nơi
ngân hàng bên bán đóng trụ sở phải có ngân hàng cùng hệ thống với ngân hàng mở
TTD và tham gia thanh toán bù trừ với ngân hàng bên bán). Mỗi TTD chỉ được
dùng để thanh toán cho một người thụ hưởng. Thời hạn hiệu lực của một TTD là 3
tháng kể từ ngày ngân hàng bên mua nhận mở TTD. Mức tiền tối thiểu cuả một
TTD là 10 triệu đồng.
- Sơ đồ luân chuyển chứng từ thanh toán TTD
(1):
Người trả tiền lập 5 liên giấy mở TTD yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích tài
khoản tiền gửi (hoặc vay ngân hàng ) một số tiền bằng tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ
đặt mua để lưu ký vào một tài khoản riêng gọi là tài khoản " Đảm bảo thanh toán
TTD "
(2): Ngân hàng phục vụ bên trả tiền mở TTD cho người trả tiền và chuyển ngay 2
liên TTD cho ngân hàng phục vụ người thụ hưởng để báo cho người thụ hưởng biết.
(3): Khi nhận được 2 liên giấy mở TTD do ngân hàng phục vụ bên trả tiền gửi đến,
ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng tiến hành kiểm tra thủ tục mở TTD như: ký hiệu
mật, chữ ký của ngân hàng mở TTD . Sau khi ghi ngày nhận, ký tên, đóng dấu đơn
Người trả tiền Người thụ hưởng
Ngân hàng mở thư tín dụng
Ngân hàng phục vụ người
thụ hưởng
2
1 7 3 4b
4a
5
6
vị lên các liên giấy mở TTD sẽ gửi 1 liên cho bên thụ hưởng để làm căn cứ giao
hàng ( còn một liên lưu lại và mở sổ theo dõi TTD đến).
(4a): Bên thụ hưởng phải đối chiếu với hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng, nếu đầy
đủ các yếu tố cần thiết thì giao hàng và yêu cầu người nhận hàng ký vào hoá đơn
giao hàng.
(4b): Căn cứ vào hoá đơn, chứng từ giao hàng, bên thụ hưởng lập 4 liên bảng kê hoá
đơn, chứng từ giao hàng nộp vào ngân hàng phục vụ mình để xin thanh toán.
(5): Khi nhận được bộ chứng từ do bên thụ hưởng nộp vào, ngân hàng kiểm tra thủ
tục lập bảng kê hoá đơn, chứng từ giao hàng , thời hạn hiệu lực của TTD, số tiền
bên thụ hưởng đề nghị thanh toán, sau đó, tiến hành ghi Có cho tài khoản tiền gửi
người thụ hưởng và báo Có cho họ.
(6): Căn cứ vào bảng kê hoá đơn, chứng từ giao hàng, ngân hàng bên thụ hưởng lập
giấy báo Nợ liên hàng để ghi Nợ TK Liên hàng đi và gửi cho ngân hàng phục vụ
bên trả tiền để xin thanh toán.
(7): Ngân hàng phục vụ bên trả tiền tất toán tài khoản " Đảm bảo thanh toán TTD "
3.5. Hình thức thanh toán thẻ ngân hàng .
Thẻ thanh toán là một công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành và bán cho
khách hàng của mình để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, thanh toán công nợ hay
lĩnh tiền mặt tại các ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền mặt tự động.
Ở một số nước, các hãng hay các công ty kinh doanh lớn cũng phát hành thẻ thanh
toán để thu tiền bán hàng của mình. Thẻ thanh toán có nhiều loại nhưng có một số
loại thẻ sau được sử dụng phổ biến:
- Thẻ ghi Nợ: Người sử dụng loại thẻ này không phải lưu ký tiền vào tài khoản "
Đảm bảo thanh toán thẻ". Căn cứ để thanh toán thẻ là số dư tài khoản tiền gửi của
chủ sở hữu thẻ tại ngân hàng và hạn mức thanh toán tối đa do ngân hàng phát hành
thẻ quy định. Hạn mức của thẻ được ghi vào bộ nhớ của thẻ nếu là thẻ điện tử hoặc
được ghi vào dải băng từ nếu là thẻ từ.
Loại thẻ này áp dụng cho những khách hàng có quan hệ tốt, thường xuyên và
có tín nhiệm với ngân hàng.
- Thẻ ký quỹ thanh toán(thẻ loại B) : là loại thẻ mà để được sử dụng thẻ, khách hàng
phải lưu ký một số tiền nhất định vào tài khoản " Đảm bảo thanh toán thẻ" thông
qua việc tính tiền gửi hoặc nộp tiền mặt. Số tiền ký quỹ là hạn mức của thẻ và được
ghi vào bộ nhớ của thẻ. Thẻ này áp dụng rộng rãi cho mọi khách hàng.
- Thẻ tín dụng(thẻ loại C): áp dụng với những khách hàng có đủ điều kiện được
ngân hàng đồng ý cho vay tiền để mua thẻ. Mức tiền cho vay được coi như hạn mức
tín dụng và được ghi vào bộ nhớ của thẻ, khách hàng chỉ được thanh toán số tiền
trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được ngân hàng chấp thuận.
Thẻ thanh toán dù dưới hình thức nào cũng phải có đầy đủ các yếu tố: Tên chủ thẻ,
tên ngân hàng phát hành thẻ, số thẻ, nhãn hiệu thương mại và thời hạn sử dụng thẻ.
Trong thanh toán thẻ bao gồm các chủ thể sau:
- Ngân hàng phát hành thẻ: là ngân hàng bán thẻ cho khách hàng và chịu trách
nhiệm thanh toán số tiền do người sử dụng trả cho người thụ hưởng. Ngân hàng phát
hành thẻ có thể uỷ nhiệm cho một số chi nhánh ngân hàng phát hành và quản lý thẻ.
- Người sử dụng thẻ: là người trực tiếp mua thẻ tại ngân hàng và dùng thẻ để mua
hàng hoá, dịch vụ.
- Người tiếp nhận thẻ thanh toán bằng thẻ: là các doanh nghiệp cung ứng hàng hoá,
dịch vụ cho người sử dụng thẻ.
- Ngân hàng đại lý thanh toán : là các chi nhánh ngân hàng do ngân hàng phát hành
thẻ quy định, ngân hàng đại lý thanh toán có trách nhiệm thanh toán cho người tiếp
nhận thanh toán bằng thẻ khi nhận được biên lai thanh toán.
Quy trình thanh toán thẻ:
4 5
Chủ sở hữu thẻ Cơ sở tiếp nhận thẻ
Ngân hàng phát hành thẻ
Ngân hàng đại lý thanh toán
thẻ
1b 1a
2
3
(1a): Khách hàng lập và gửi đến ngân hàng phát hành thẻ giấy đề nghị phát hành thẻ
thanh toán ( Nếu là thẻ ký quỹ thanh toán, khách hàng phải nộp thêm UNC trích tài
khoản của mình hoặc nộp tiền mặt để lưu ký tiền vào tài khoản thẻ thanh toán tại
ngân hàng phát hành thẻ).
(1b): Căn cứ với đề nghị phát hành thẻ của khách hàng, sau khi kiểm tra thủ tục lập
chứng từ và các điều kiện sử dụng thẻ của khách hàng, nếu thấy đủ điều kiện, ngân
hàng sẽ phát hành thẻ để cấp cho khách hàng và hướng dẫn khách hàng sử dụng thẻ
khi thanh toán. Ngân hàng phát hành thẻ phải quản lý và giữ bí mật tuyệt đối mật
mã sử dụng thẻ của khách hàng.
(2): Chủ sở hữu thẻ giao thẻ cho cơ sở tiếp nhận thẻ để kiểm tra, đưa thẻ vào máy
thanh toán thẻ, máy tự động ghi số tiền thanh toán và in biên lai thanh toán .
(3): Cơ sở tiếp nhận thẻ giao thẻ và một biên lai thanh toán cho chủ sở hữu thẻ.
(4): Cơ sở tiếp nhận thanh toán thẻ lập bảng kê biên lai thanh toán và gửi cho ngân
hàng đại lý thanh toán để thanh toán.
(5): Ngân hàng đại lý thanh toán thẻ với ngân hàng phát hành thẻ qua thủ tục thanh
toán giữa các ngân hàng.
Người sử dụng thẻ có thể rút tiền mặt nhưng mỗi lần không quá 5 triệu đồng
và mỗi ngày thẻ chỉ rút một lần. Nếu mất thẻ, người sử dụng phải thông báo ngay
bằng văn bản cho ngân hàng phát hành thẻ biết để thông báo cho ngân hàng đại lý
thanh toán thẻ báo cho cơ sở tiếp nhận thẻ biết. Khi sử dụng hết hạn mức hoặc hết
thời hạn sử dụng của thẻ, nếu có nhu cầu, người sử dụng thẻ phải đến ngân hàng
phát hành thẻ làm thủ tục sử dụng tiếp. Trong phạm vi 10 ngày làm việc, kể từ ngày
viết hoá đơn cung ứng hàng hoá, dịch vụ, người tiếp nhận thẻ phải nộp biên lai vào
ngân hàng đại lý để đòi tiền, nếu quá thời hạn trên, ngân hàng không chấp nhận
thanh toán. Trong phạm vi 1 ngày làm việc, kể từ khi nhận được biên lai thanh toán,
ngân hàng đại lý phải thanh toán cho người tiếp nhận thanh toán thẻ.
Như vậy, ta thấy rằng thanh toán không dùng tiền mặtvới rất nhiều hình thức,
có vị trí và vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế thị trường. Vấn đề đặt ra là
trong công tác thanh toán còn một số tồn tại đòi hỏi ta phải xem xét tuỳ từng ngân
hàng cụ thể để có thể đưa ra những biện pháp hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả của
công tác thanh toán không dùng tiền mặt.
4. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác thanh toán không dùng tiền mặt của
các ngân hàng thương mại.
4.1. Môi trường kinh tế vĩ mô.
Ngân hàng hoạt động trong nền kinh tế nên rất nhạy cảm với các yếu tố từ
môi trường kinh tế. Những biến động lớn của nền kinh tế có thể dẫn tới sự sụp đổ
của nhiều ngân hàng và ảnh hưởng thường mang tính hệ thống. Khi môi trường kinh
tế vĩ mô không ổn định, một mặt tác động trực tiếp tới thanh toán không dùng tiền
mặt, mặt khác ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh chung của ngân hàng từ đó lại
tác động gián tiếp tới thanh toán không dùng tiền mặt.
Một nền kinh tế phát triển ổn định sẽ là môi trường thuận lợi cho sự phát
triển của thanh toán không dùng tiền mặt. Nền kinh tế phát triển mạnh, hàng hóa
được sản xuất ra và tiêu thụ với khối lượng lớn mọi người sẽ có khuynh hướng ưa
chuộng việc sử dụng ngân hàng như là một người trung gian thanh toán bởi vì ngân
hàng cung cấp các tiện ích cho phép các khách hàng tham gia thanh toán có thể giảm
được các chi phí vận chuyển, bảo quản, kiểm đếm khi sử dụng hình thức thanh toán
bằng tiền mặt, đồng thời làm cho quá trình thanh toán được nhanh chóng, chính xác
và an toàn hơn.
4.2. Môi trường pháp lý.
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, có vai trò cực kỳ
quan trọng trong nền kinh tế được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao từ Chính phủ nên
ảnh hưởng trực tiếp của pháp luật. Trong điều kiện hiện nay ngành ngân hàng đã có
các luật riêng như luật Ngân hàng Nhà nước, luật tổ chức tín dụng, … do đó đã tạo
hành lang pháp lý cơ bản cho hệ thống ngân hàng hoạt động và phát triển.
Hiện nay mọi hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng đều bị chi phối
của pháp luật, một sự thay đổi nhỏ của pháp luật sẽ tạo cơ hội và thách thức mới cho
các ngân hàng. Thanh toán không dùng tiền mặt là một trong những nghiệp vụ cơ
bản của ngân hàng nên cũng phải chịu ảnh hưởng lớn của pháp luật. Trong một nền
kinh tế phát triển, mọi giao dịch thanh toán của các tổ chức kinh tế và dân cư đều
được thực hiện qua ngân hàng, khi đó mọi trục trặc sẽ ảnh hưởng tới toàn hệ thống.
Do đó một sự thay về pháp luật sẽ làm cho ngân hàng phải có thời gian để thích
ứng và chi phí để thích ứng nhiều khi rất lớn, nếu không giải quyết tốt ngân hàng dễ
mất uy tín với khách hàng, hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng
và kém hiệu quả.
Trong điều kiện tình hình chính trị, pháp luật ổn định các tổ chức kinh tế
và dân cư có điều kiện phát triển kinh tế do đó tiền gửi thanh toán tại ngân hàng và
tỷ trọng thanh toán qua ngân hàng tăng lên tạo điều kiện cho ngân hàng thu hút được
lượng tiền mặt ngoài xã hội . Từ đó, ngân hàng có thêm một nguồn vốn để đầu tư
vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế và mở rộng các sản phẩm
dịch vụ của ngân hàng , đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng.
4.3. Khoa học công nghệ.
Công nghệ ngân hàng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn tới hoạt động
kinh doanh nói chung và thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng của các ngân
hàng hiện nay. Công nghệ ngân hàng tiên tiến sẽ góp phần thúc đẩy nhanh quá trình
chu chuyển vốn xã hội , thu hút được nhiều hơn vốn nhàn rỗi trong dân cư phục vụ
cho việc đầu tư phát triển kinh tế, để đất nước tiến nhanh trên con đường công
nghiệp hoá hiện đại hoá .
Việc ứng dụng các thành tựu công nghệ tin học và tự động hóa vào thanh
toán sẽ đáp ứng được yêu cầu nhanh chóng, chính xác, an toàn và tiết kiệm được
chi phí trong thanh toán. Các hoạt động huy động, chi trả tiền gửi cho khách hàng và
thanh toán có thể được thực hiện trên các máy vi tính, vừa chính xác, an toàn lại vừa
nhanh chóng, tiện lợi. Các ngân hàng cũng có thể mở rộng các dịch vụ của mình qua
các mạng máy vi tính, đây là một cách tiếp cận, quảng bá và cung cấp các dịch vụ
ngân hàng tới hàng triệu người với chi phí rất thấp. Để mở rộng thanh toán không
dùng tiền mặt, các ngân hàng có thể đưa vào sử dụng hệ thống máy rút tiền tự động,
tham gia hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, …
Công nghệ hiện đại cho phép các ngân hàng vươn xa hơn ngoài trụ sở ngân
hàng, liên kết với nhau để cùng sử dụng mạng công nghệ,… Điều này tạo cơ hội
cho các ngân hàng mở rộng phạm vi hoạt động của mình và ảnh hưởng lẫn nhau
nhiều hơn trong thanh toán không dùng tiền mặt và cả trong những mặt hoạt động
khác của ngân hàng.
Theo xu thế phát triển hiện nay, các thành tựu khoa học kỹ thuật mới nhất
luôn được ưu tiên ứng dụng vào lĩnh vực ngân hàng để sáng chế và đưa vào sử dụng
các phương tiện thanh toán hiện đại nhất , vừa đảm bảo thanh toán tức thì, vừa đảm
bảo chính xác, an toàn và bí mật.
Hiện nay, công nghệ ngân hàng đang được xem là một thứ vũ khí cực mạnh
trong cạnh tranh. Với chức năng trung gian thanh toán của mình các ngân hàng luôn
coi trọng cải tiến đổi mới công nghệ để hoàn thiện hệ thống thanh toán của mình,
bởi vì ai cũng ý thức được rằng, trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay,
công nghệ lạc hậu sẽ dẫn tới chỗ diệt vong.
4.4. Yếu tố con người.
Các ngân hàng với xu hướng ứng dụng khoa học kỹ thuật cao vào lĩnh vực
hoạt động của mình thì yếu tố con người không mất đi vai trò của mình mà ngược
lại ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn. Công nghệ cao cho phép giảm số lượng
cán bộ hoạt động trong hệ thống ngân hàng, nhưng đòi hỏi rất cao về trình độ
nghiệp vụ và kỹ năng công tác của mỗi cán bộ. Bởi vì, một công nghệ có hiện đại
nhất cũng không thể thay thế con người trong tất cả các hoạt động, đặc biệt là trong
những vấn đề cần tới tư duy sáng tạo của con người mà không máy móc nào có
được. Ứng dụng công nghệ cao thì các vấn đề nảy sinh trong quá trình hoạt động
càng phức tạp và hậu quả của những sai sót càng lớn đòi hỏi phải có sự can thiệp
một cách sáng tạo và linh hoạt của con người. Sự kết hợp tốt giữa con người và máy
móc là điều kiện tiên quyết để một ngân hàng hoạt động mạnh và có hiệu quả. Yếu
tố con người là điều kiện để các máy móc phát huy hết hiệu quả hoạt động của
mình.
Thanh toán không dùng tiền mặt là một mặt hoạt động của ngân hàng trong
đó ứng dụng các công nghệ cao nhất trong các công nghệ ngân hàng do đó yếu tố
con người tỏ ra vô cùng quan trọng.
4.5. Hoạt động kinh doanh chung của ngân hàng.
Hoạt động kinh doanh của các NHTM trong những năm gần đây thường
xuyên đổi mới nhằm thích ứng với những điều kiện kinh tế năng động và sự điều
chỉnh của pháp luật. Xét về mặt hình thức, tuy vẫn là các nghiệp vụ cơ bản như:
nhận tiền gửi, cho vay, chi trả hộ nhưng các ngân hàng đã mở rộng cả quy mô,
phương thức hoạt động, đặc biệt là công nghệ. Cho nên các NHTM ngày càng
khẳng định được vị thế của mình đối với sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
NHTM có ba chức năng trung gian tài chính, trung gian thanh toán và chức
năng tạo tiền những chức năng này có mối quan hệ chặt chẽ và tương hỗ với nhau.
Khi NHTM là trung gian tài chính thì NHTM sẽ huy động vốn bằng nhiều cách thức
khác nhau, có thể huy động từ các tổ chức kinh tế, huy động vốn từ dân cư qua hình
thức tiết kiệm, kỳ phiếu, hay qua phát hành trái phiếu với các kỳ hạn khác nhau.
Qua đó ngân hàng sẽ tập trung một lượng vốn nhàn rỗi tù các thành phần kinh tế
khác nhau và khi họ chưa có nhu cầu sử dụng hoặc chưa đến thời hạn thanh toán thì
ngân hàng sẽ sử dụng chúng để cho vay đối với những người có nhu cầu vay vốn.
Khi các bên có nhu cầu thanh toán, chi trả ngân hàng sẽ đứng ra làm trung gian
thanh toán. Như vậy, giữa các chức năng của NHTM có mối liên hệ mật thiết với
nhau. Khi vai trò trung gian thanh toán làm tốt, khách hàng sẽ tin tưởng ngân hàng
và gửi tiền vào ngân hàng ngày càng nhiều nhờ thanh toán hộ, như thế, vốn ngân
hàng huy động được lại tăng lên, ngân hàng có thêm vốn để đáp ứng nhu cầu đi vay
và chức năng trung gian tài chính của ngân hàng lại càng được phát huy. Với chức
năng trung gian thanh toán và trung gian tài chính trong nền kinh tế quốc dân hệ
thống các NHTM đã tăng khối lượng tiền tệ lên gấp bội thông qua cơ chế thanh toán
chuyển khoản. Điều này đã làm cho các chức năng của NHTM ngày càng liên hệ
chặt chẽ với nhau. Sự phát triển của mỗi chức năng sẽ thúc đẩy các chức năng khác
phát triển theo. Do đó, hoạt động kinh doanh chung của ngân hàng sẽ ảnh hưởng lớn tới
thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng.
4.6 Yếu tố tâm lý.
Tâm lý cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới thanh toán không dùng
tiền mặt. Con người là những sinh vật có ý thức. Hoạt động ý thức diễn ra trong bộ
não người, một dạng tổ chức đặc biệt của vật chất. Tâm lý là toàn bộ nói chung sự
phản ánh của hiện thực khách quan vào ý thức con người, bao gồm nhận thức, tình
cảm, ý chí... biểu hiện trong hoạt động và cử chỉ của mỗi người. Tâm lý cũng chính
là nguyện vọng, ý thích, thị hiếu,... của mỗi người. Tâm lý hình thành nên thói quen,
tập quán,... Như vậy, mỗi hành vi ứng xử của con người, trong đó có việc thanh toán,
đều chịu tác động của yếu tố tâm lý.
Tâm lý lại chịu tác động rất lớn từ môi trường con người sống và làm việc:
- Trong một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu con người của nó có xu hướng thích
tiền mặt, do đó thanh toán không dùng tiền mặt là không phổ biến, từ đó hạn chế tới
thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng. Ngược lại, trong một nền sản
xuất lớn, hiện đại, nhận thức được lợi ích và tầm quan trọng của việc thanh toán
bằng không dùng tiền mặt, do đó thanh toán không dùng tiền mặt ở trong trường
hợp này rất phát triển.
- Một nền kinh tế ngầm sôi động sẽ khuyến khích con người sử dụng tiền mặt
nhiều hơn trong thanh toán vì lý do bí mật và an toàn cá nhân.
- Thuế đánh quá cao sẽ dẫn tới con người có hành vi trốn thuế, từ đó sinh ra
tâm lý thích tiền mặt.
- Trình độ dân trí thấp sẽ sinh ra tâm lý “ngại“ khi sử dụng các phương tiện
hiện đại có độ phức tạp cao, do đó thanh toán không dùng tiền mặt không
phát triển.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
TẠI NHNO&PTNT BA ĐÌNH.
1. Tổng quan về NHNo&PTNT Ba Đình.
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình.
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội (NHNo&PTNT Hà
Nội) ra đời năm 1988, là thành viên của NHNo&PTNT Việt Nam. Trụ sở chính tại
77 Lạc Trung - Quận Hai Bà Trưng – Hà Nội. Thời gian đầu, NHNo&PTNT Hà
Nội hoạt động chủ yếu trên địa bàn các huyện ngoại thành. Đến năm 1992 tách các
NHNo ngoại thành Hà Nội, lúc này NHNo&PTNT Hà Nội hoạt động chủ yếu phục
vụ khách hàng trên địa giới hành chính thuộc khu vực nội thành. Sau một thời gian
hoạt động với sự phát triển của kinh tế Thủ đô, xuất phát từ nhu cầu mở rộng mạng
lưới hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và để phục vụ mọi tầng lớp
nhân dân và các doanh nghiệp trên địa bàn Thủ đô, tiền thân của NHNo&PTNT
quận Ba Đình bây giờ là NHNo khu vực Giảng Võ được thành lập và đi vào hoạt
động từ tháng 7 năm 1996 theo quyết định số 18/QĐ-NHNo ngày 1/4/1996 của
Tổng giám đốc NHNo Việt Nam. Sau một thời gian hoạt động kinh doanh thử
nghiệm có kết quả, để có thể đứng vững và phát triển NHNo&PTNT khu vực Giảng
Võ đã được nâng cấp thành NHNo&PTNT quận Ba Đình theo quyết định số
340/QĐ-NHNo- 02 ngày 19/06/1998 của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam,
địa chỉ giao dịch tại 191 Giảng Võ – Ba Đình- Hà Nội.
Từ ngày ngân hàng khai trương và chính thức đi vào hoạt động với tư cách là
một ngân hàng cấp VI thì hiện nay đã được nâng lên thành chi nhánh cấp II loại 4,
trực thuộc NHNo&PTNT chi nhánh Thành phố Hà Nội.
1.2. Đặc điểm tình hình kinh tế xã hội quận Ba Đình có ảnh hưởng đến hoạt động
của NHNo&PTNT Ba Đình.
Năm 2003 là năm thứ 3 thực hiện nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX, Đảng bộ quận Ba Đình lần thứ XXII, năm bản lề thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội 5 năm (2001 - 2005). Từ đầu năm 2003, Đảng bộ chính quyền thành
phố nói chung, Quận Ba Đình nói riêng đã xác định nhiệm vụ trong năm là rất nặng
nề, trong điều kiện còn nhiều khó khăn, tình hình trong nước và quốc tế diễn biến
hết sức phức tạp: Chiến tranh IRắc, dịch bệnh SARS…. , Quận Ba Đình được lựa
chọn thực hiện nhiều chương trình của thành phố. Song với nỗ lực của Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân trong quận, sự hợp tác giúp đỡ chặt chẽ của các cấp, các