Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Hình tượng người phụ nữ trong từ phẩm của lý thanh chiếu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.63 KB, 38 trang )

3

TÁC GIẢ: Bùi Thị Minh Châu (CN)
Phạm Minh Thư

Chương I
TỐNG TỪ, UYỂN ƯỚC TỪ VÀ LÝ THANH CHIẾU
1.1

KHẢI NIÊM Cơ BẢN VÈ TỪ

Trường Giang một dòng cuồn cuộn mấy ngàn dặm lý, băng qua năm nghìn năm của
Thần Châu đại lục. Lúc cuộn sóng ào ạt, hùng tráng, lúc yên bình mênh mông, hữu ý...
Dòng chảy của văn học Trung Hoa cũng là một đại giang ngàn dặm, song hành đại
giang lịch sử, mà tạo tác nên một nền văn học có một không hai của tò an Đông Á.
Hán Phú, Đường Thi, Tống Từ, Nguyên Khúc, Minh Thanh tiểu thuyết. Mỗi thời
đại thịnh một thể lọai. Nhưng nhắc đến văn học Trung Hoa người ta nhớ nhất chính là Đường
Thi và Tống Từ.
Bắt đầu từ thế kỷ thứ VII những Khúc Tử từ ở Đôn Hòang đã gieo vào lòng Văn
học Trung Hoa hạt giống của Từ. Bắt đầu từ những “Hoa phi hoa, vụ phi vụ ”, “Trường
đình cách đỏan đình" của Đại đường thi nhân, hạt giống đó đã đơm chồi nẩy lộc để đến Nam
Đường Hậu Chủ Lý Dực, Từ bắt đầu khai hoa nở nhụy mở ra một thời đại huy hòang của
văn học Trung Hoa.
Nói như vậy cũng có nghĩa là Từ không phải chỉ vào đời Tống mới có. Nhưng thực
ra trước Tống không phải từ điệu nào cũng đạt sự hòan thiện về thể thức cũng như cũng
chưa có những thành tựu đáng kể. Chỉ xét riêng về các điệu từ dài (mạn từ), ở các giai đoạn
trước, một số điệu từ đã định thể song các sáng tác từ trước thời Tống chủ yếu là các bài từ
ngắn (tiểu lệnh). “Suốt thời Đường, Ngũ đại, thế từ chủ yếu là các điệu từ ngắn, tong sổ các
bài từ dài không vượt qua con sổ hơn chục bài. Tới thời Tổng, sở trường và thói quen của
các nhà viết từ (từ nhân) vẫn là loại tiểu lệnhĐốn Liễu Vĩnh các bài mạn từ mới được sử
dụng phổ biến, dung lượng phản ánh của từ tăng lên, có bài dài đến 212 chữ. Bằng thao tác


“tự độ khúc” (tự viết bản nhạc mới rồi viết lời - điền từ - cho bản nhạc đó), Liễu Vĩnh đã
tạo tác nhiều điệu từ mới, và việc này tiếp tục diễn ra vào các giai đoạn sau đó.
Ket quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu Trung Quốc chỉ ra rằng: “Nửa thế kỷ
thuộc những năm đầu khi nhà Tong mới lập quốc, thể loại từ không hề hưng thịnh cùng sự
hưng thịnh của triều đại mới được kiến lập, về cơ bản vẫn nằm trong trạng thải đình trệ.
Vương Chước thời Nam Tổng từng không nguôi cảm khái rằng: “Buổi đầu bình định thiên
hạ, pháp độ lễ nhạc đều dần dần toàn thịnh, nhưng nhạc chương (chỉ thế từ) của sĩ đại phu
lại suy vi hơn cả thời trước’ (Bích 1

viên Hành Bái (chủ biên): Trung Quốc văn học sử, Quyển III. Cao đẳng giáo dục xuất
bản xã, 2001, tr. 39
1


4

kê mạn chí - Quyển II). Trưng bổn năm chục năm trời, tác giả từ không quá chục người,
tác phẩm từ chỉ còn 33 bài”2.
Bắt đầu từ Tống Triều trở đi do những biến cố về thời đại cũng như thay đổi về tâm
tình và mỹ cảm của con người, Từ mới bắt đầu bước vào thời đại hò an kim của nó.
Khác với những thể loại thơ khác, Từ là loại thơ rất giàu nhạc tính, do xuất phát từ
các điệu ca khúc thịnh hành, mỗi bài từ đều lấy tên của ca khúc đó là tựa đề. Từ không
quy định số chữ trong câu như các loại thơ khác, chỉ cốt sao hợp với vần điệu của ca khúc,
chính vì thế Từ về cô đọng súc tích thì kém hơn Thi, nhưng về âm vận phóng khoáng thì
lại vượt hẳn Thi.
Nói nôm na, từ chính là những bài ca.
Từ có quan hệ mật thiết với âm nhạc, thậm chí lệ thuộc vào âm nhạc. Viết từ là
điền lời theo khung nhạc có sẵn để hát, việc này đòi hỏi “tiếng tiếng phù hợp giọng loan
”, “chữ chữ hài hòa luật phượng” (lời tựa Hoa gian tập).
Từ những bài Khúc Tử từ của dân gian vùng Đôn Hò ang đã xuất hiện những dạng điền từ

dựa theo điệu hát sẵn có trong dân gian như Ngư ca tử của Trương Chí Hòa phỏng theo
điệu Ngư ca của dân gian, hay Trúc Chi Từ của Lưu Vũ Tích phỏng theo Vu ca của nhân
gian. Hay “Chương đài liễu! Chương đài liễu! Tích nhật thanh thanh kim tại phủ ” nổi
tiếng của Hàn Hoang lại chính là khúc ca Tiêu Tương Thần của dân gian.
Bắt đầu từ những ca khúc dân gian Đôn Hòang từ đã chia thành: Tiểu lệnh, trung
điệu, và mạn từ. Đen đời Đường, các thi nhân làm từ như Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Ôn Phi
Khanh, Vương Kiến, Trương Chí Hòa... lại chuộng tiểu lệnh.
Nhịp điệu, thanh điệu, âm tiết, ngắn dài là những yếu tố rất quan trọng trong từ. Vì
từ trọng tính nhạc.
Từ vốn bắt nguồn từ những bài ca, từ nhân làm từ xong thì phải đưa cho ca nữ hát.
Vì vậy nhạc điệu chính là một phần linh hồn không thể chia cách của từ. Trong từ học, các
sáng tác từ, phân theo phiến, gồm 4 toại sau:
- Loại phân làm một đoạn gọi là đơn phiến hay đơn điệu, như điệu Vọng giang mai,
Thập lục tự lệnh...
- Loại phân làm hai đoạn gọi là songphiến, hay song điệu, như các điệu Trường
tương tư, Bồ tát man, Tây giang nguyệt...
- Loại phân làm ba đoạn gọi là tam điệp, như điệu Lan Lãng vương.
- Loại phân làm bốn đoạn gọi là tứ điệp, như điệu Lương Châu lệnh điệp vận.
Các phân phiến trong sáng tác này cũng là một nét dư ba của âm nhạc ảnh
hưởng đến sáng tác từ phẩm.
Thực ra thông lệ phổ nhạc cho thơ đã có từ thời Đường. Nhưng thi vốn không phải
là ca khúc nên muốn phổ nhạc cho thơ các sọan giả bắt buộc phải thêm vào những tiếng
đệm gọi là “phiếm thanh”, “hòa thành.” “Trường đoản cú. Thiếp ý quân tâm thuỳ đoản
trường? ” cũng bắt đầu từ đó mà mở ra một thời đại hoàn kim cho Từ đàn.

2

Trung Quốc văn học sử, Sđd, ư. 33.



5

Nơi xuất thân của từ là văn học dân gian và cửa phòng của ca nữ. Vì vậy từ cũng là
thể tài của sự diễn tình.
Hoa Gian Phái có tới bốn phần năm các từ phẩm là nói về tình cảm lứa đôi, Dư
Truyền Bằng trong Đường Tổng từ lưu phái nghiên cứu do Vũ Hán đại học xuất bản xã xuất
bản,năm 2004, viết về Từ như sau: “Neu không phải niềm vui hội hợp thì cũng là nỗi sầu
chia phôi. ” Nhưng từ cổ đến kim ly biệt thì nhiều đòan viên thì ít, cho nên từ phẩm giai đọ
an đầu phủ đầy một nỗi buồn thương ai ó an.
“Dĩ bỉ vỉ mỹ”, “dĩ tình động nhân” chính là một quy ước cổ điển trong sáng tác văn
học cổ điển. Ly biệt và ái tình trắc trở từ lâu đã là một nguồn cảm hứng bất tận cho các sáng
tác văn học. Những tác phẩm đi theo chủ đề này diễm lệ, đẹp đẽ nhưng chưa ra đời đã mang
một nỗi buồn kim cổ. Riêng sáng tác của thời Nam Đường hiện nay còn lưu giữ được hơn
hai trăm mười bảy bài, phân ra làm thất tình: hỉ, nộ ái, ố, dục. Các bài mang tâm trang buồn
đau đã chiếu đến 204 bài, các bài hội hợp vui sướng chỉ chiếm 13 bài.
Cái duy tình của thể loại từ gắn với cái duy mĩ, thể hiện ra ở truy cầu sự đẽo gọt về
ngôn từ, sao cho ngôn từ thật hoa mĩ, kiểu “chuốt ngọc chạm châu, phỏng hóa công mà
vượt khéo; vun hoa tỉa lá, đoạt xuân sắc mà khoe tươi”3 để diễn đạt cái diễm tình, gọi chung
là “lẩy diễm ngữ để tả diễm tình” (dĩ diễm ngữ tả diễm tình)
Thơ thiên về ngôn chí, từ thiên về tả tình. Giữa hai thể loại đôi khi có phân chia
chức năng. Tô Thức đem các thủ pháp nghệ thuật của thơ để tác từ điền từ, bị coi là “dĩ thỉ
vỉ từ”, làm mất đi cái “bản sắc” của thể loại4.
Đây cũng là sự khác biệt giữa thơ và từ. Ta vẫn thường nghe các nhà từ luận nói
đến các mệnh đề như: “thỉ cương - từ nhu ”, “thi trang - từ mị”, “thi nhã - từ tục”... Hay
như Điền Đồng Chi trong Tây phố từ thuyết đã khái quát: “Thể từ như cô gái đẹp, còn thơ
thì như một tráng sĩ”
Cuối đường, đầu Tống, thi đã đến hồi thóai trào. Mùa xuân rực rỡ với Lý Trích Tiên
phóng khóang, tài hoa, Đỗ Công Bộ ưu thời mặc thế... đã qua đi. Những đóa hoa tuyệt đẹp
và phong khí canh tân của thi đàn đã đến hồi tàn rữa.
Neu điểm lại những Tiên, Thánh, Phật trong thi ca Đại Đường chúng ta có thể thấy

họ là một du tử, một là lãng tử, một là ẩn giả. Bọn họ nhìn chung một đời lận đận công danh
không thành cho nên tiếng nói của bọn họ không cần gắn với thị phi của triều đình, chính
trị. “Túy khởi ngôn tình” vì lẽ đó mà mới lưu danh thiên cổ.
Còn thơ Tống bấy giờ đã bắt đầu chuyển sang làm nhiệm vụ chính trị, phản ánh
những tâm tình nguyện vọng nhuốm màu sắc chính trị, quy phạm và lý trí.
“Thơ vốn là tình. ” Khi cái tình trong thơ đã cạn dần thì người ta bắt đầu đi tìm một
thể tài mới. Từ đã ra đời trong bối cảnh đó.
“Thi chết thì Từ thịnh ”, “tỷ hứng dựa vào đó. ” 5

Tựa Hoa Gian Tập
Đường - Tổng từ mĩ học, Sđd,ư. 338 5469
Nạp Lan Tính Đức
3
4


6

“Đủng là thơ Đường nhưng uyển chuyến, mỹ lệ và gần với tình người thì đây là từ
chứ không phải thơ". 6 Đó là lời của Ôn Phi Khanh, người đã khời xướng một dòng văn học
đẹp như nàng thiếu nữ xuân thì của năm mươi năm sau ông: Hoa Gian Phái.

Đăng Lạc Du nguyên
(Tịch dương vổ hạn hảo, chỉ thị cận hoàng hôn)
Đó là lời của Lý Thường Ẩn. Cái đẹp vô cùng của buổi hò ang hôn, cái đẹp
tuyệt mỹ của lúc phai tàn, cái đẹp của ánh sáng trước khi tắt, phải chăng câu thơ
của thi nhân đã vận vào vận mệnh của Từ.
ỆBSm&i

ửc Tần Nga (iMMỈÊ)

Tày phong tàn chiếu
Hán gia lăng khuyết
Đó là lời của Trích Tiên Lý Bạch trong ức Tần Nga. Thi nhân có lẽ không bao giờ
biết được mình đã khơi nguồn cho “Hàm Dương cổ đạo ân trần tuyệt” hay “Kim tiêu tửu
tỉnh hà xứ, dương liễu ngạn hiếu phong tàn nguyệt” xao xác u hòai của bao nhiêu năm sau.
Hậu chủ rơi lệ, từ như tiếng khóc tận tuyệt nát tan, Trung chủ ở ngôi cao nhưng lòng
vẫn mang hòai tâm hồn ẩn giả. Vi Trang xao xác trong thế cuộc bãi bẻ nương dâu. Lộc Ỷ
Kiến mang nỗi hờn vong quốc, cố Quýnh vọng hò ai thời hòang kim không ngày trở lại...
những kẻ ở ngòai chính sự, ở ngòai quyền uy ấy mới chính là người đã làm cho từ phẩm
thăng hoa.
Biến cố Trần Kiều, đặt dấu chấm hết cho năm mươi năm hoang tàn chiến sự, mở ra
một thời đại mới hứa hẹn thịnh thế an bình... ai ngờ tạo tác trêu ngươi! Triệu Khuông Dan
đăng cơ đã mở đầu cho một thời thế buồn vui lẫn lộn, éo le trắc trở.
Lý Hậu Chủ, vị vua mất nước, ngươi đã điểm trang cho “từ” thóat thai khỏi hai chữ
“thi dư’’ trở thành thiếu nữ diễm lệ, nhưng cũng mang theo những tiếng buồn và trắc trở
của cuộc đời vị vua thất thế vận vào thân phận của nàng. Từ thuở an bình, đến Tĩnh Khang
đầy sóng gió, ai biết rằng cũng chính là thời của một thể tài diễm lệ, u hòai nhất lịch sử
Trung Hoa.
Khơi nguồn từ những điệu hát chốn thôn dã, dần dần phát triển theo sự giao thoa
của thơ ca âm nhạc, con đường của Từ Bắc Tống vốn khá quanh co. Những điệu từ có nhiều,
có đến trên dưới 1000 điệu chính và gần 1000 biến điệu, do vậy muốn những nhà “điền từ”
muốn đúng luật thì phải thông thuộc và thực hiện nghiêm túc các quy tắc riêng của mỗi điệu
từ. Điều này đã làm cho việc sáng tác Từ vô cùng phức tạp, đòi hỏi nhiều công phu, thậm
chí trở thành một thứ “tài nghệ vặt vãnh” mua vui ở chốn nhà tản vui đùa. Vì vậy sự chuyển
mình của từ là khá chậm so với dòng chảy của những thể tài khác trong đại giang Văn Học
Trung Hoa. Từ Vương An Thạch, đến Âu Dương Tu, Mai Nghiêu Thần, Tô Thuất Khâm

6

ôn Phi Khanh



7

từ óng ảnh những tâm tư rồi dần dần tinh tế đa dạng “thỏa mãn nhu cầu và dục vọng có tính
bản năng con người.” (Vương Tường, Hình thức nội tại và nội dung hàm chứartrong từ Tô
Thức, Thẩm Dương sư phạm học báo (Xã khoa bản), số 3 năm 1989, tr,10).Đó là lọai thừ
tuyệt đẹp và đậm mùi son phấn của Liễu Vĩnh.
Và rồi đến Tô Đông Pha, một trong bát đại thi hào đứng đầu Đường Tống làm từ.
Trong thư gửi Thái cảnh Phồn ông viết: «cần phải đưa ra một thể loại từ mới, chính là loại
thi ca có câu dài ngắn khác nhau của co nhân, cỏ được nó thực hết sức đáng mừng, nên thử
cổ gắng tiếp tục»
Như vậy Tô Đông Pha đã đi một con đường “ngược” từ Thơ đến từ chứ không chỉ
đơn thuần điền từ vào nhạc như những từ nhân trước vẫn làm. Chúng ta khoan hãy nói đến
đúng sai, hay dở của cách làm này, chỉ thấy từ quan niệm này họ Tô đã mong muốn đưa Từ
thành một thể tài riêng biệt và mong muốn tiếp cận thể tài này theo một cách khác.
Là một nhà học giả uyên thâm cả thơ lẫn từ, những sáng tác của Tô Đông Pha đã
thổi vào Từ một linh hồn mới mẻ.
Như Từ về đề tài của các đời Đường, Ngũ Đại và đầu Bắc Tống đều hơi hướng của
những chuyện tình thầm kín, ấp ủ nhiều phấn son, sầu lệ. Mãi đến Liễu Vĩnh, dư âm diễm
tình của từ mới được nối dài thành những cung bậc cảm xúc vừa mãnh liệt vừa thê thiết như
“ngày phong lưu, hân hưởng mau, thanh xuân một thóang” của Hạc Xung Thiên, hay “đa
tình tự cổ sầu ly biệt” của một ngày than thở “đêm nay tỉnh mộng nơi nào, bờ xanh dương
liễu gió lùa tan trăng” của Vũ Lâm Linh thê thiết, u hò ai. Nhưng dù sao đó vẫn chỉ là dư ba
của hoan ái si mê trần thế. “Khách đa tình” giữa chốn phong lưu Tô Đông Pha không chọn
con đường vương nhiều hương say và son phấn ấy, tình yêu của ông thỏ ang mùi dân dã
trong tiếng cười và tâm tình liễu dương. “Ló ang thóang trên cành tơ liễu, chân trời nào
thiếu hoa tươi, người ngòai tưởng trong chơi, người trong tưởng cười giễu, tiếng cười bổng
cứ lắng tan dần, Tình từ trên nhau thêm ảo não.” “Hoa thóai thàn hồng xanh hạnh thiểu” của
Điệp Luyến Hoa một phần nào đã thổi vào từ đàn một mùi hương thanh khiết giữa chốn

rượu nồng phấn thơm.
Hay vào một đêm tỉnh giấc “Ảt Mão chính nguyệt nhị thập nhật dạ ký mộng” (Ghi
lại giấc mộng đêm 20 tháng giêng năm Ất Mão” ông viết nên tuyệt tác Giang Thành Tử với
những câu:
Dạ lai u mộng hốt hoàn hương
Tiểu hiên song
Chính sơ trang
Tương cố vô ngôn
Duy hữu lệ thiên hàng
Liệu đắc niên niên trường đoạn xứ
Minh nguyệt dạ
Đoản tùng cương.
Dịch lục hát của Vi Nhất Tiếu:


8

Đêm mơ về lại cổ hương
Thấy em hiên vắng soi gương chải đầu
Nhìn nhau không nói một câu
Áo xanh ướt đẫm lệ sầu chứa chang.
Biết khi trăng chiếu thông ngàn
Đọan trường chon ẩy gặp nàng được chăng?
Văn tế trong văn học cổ Trung Quốc không hiếm, nhưng những lời khóc người
nương tử đã mất của Tô Đông Pha đã làm lay động sâu sắc tâm can người đọc. Đúng như
Hồ Diễn - Tửu biên từ sử viết Từ của họ Tô «rửa sạch mùi son phấn, giải phóng từ rcrkhỏi
giới hạn uyển chuyển, khiến người ta có thể lên cao nhìn xa, ngang đầu cao ca mà hạo
nhiên siêu thoát khỏi trốn bụi trần» hay Bích Khê Mạn Chí viết «làm cho tai mắt thiên hạ
được thấy điều mới mẻ, khiển kẻ cầm bút bắt đầu tự vươn lên». Chính nhờ hùng phong đó
mà phái Hào phóng khai sinh và phát triển mãi đến lúc nhà Tống rơi vào cảnh nước mất nhà

tan thì tiếp thêm những Đình Kiên, Tân Khí Tật, Lục Du, Trần Lượng, Lưu Quá, Văn Thiên
Tương... với tinh tần yêu nước xả thân tận hiếu với nước nhà.
Từ hào phóng đến uyển ước, hay nói cách khác từ Tô Đông Pha đến Lý Thanh
Chiếu. Đỉnh cao của Hào phóng từ là nhà thơ họ Tô, đỉnh cao của Uyển Ước là từ nhân họ
Lý.Từ của Tô Đông Pha phóng khóang bao nhiêu, từ của Lý Thanh Chiếu lại tuyệt đẹp và
nữ tính bấy nhiêu.
Khi từ của họ Tô quá hướng ngọai, trở về gần với thơ thì Lý Thanh Chiếu từ là một
thể tài riêng từ phải trọng tính khả ca, phải điển nhã, chỉnh chu. Từ của bà chỉnh mà không
khô, điển nhã mà không sáo rỗng nhàm chán. Bà chú trọng tâm tình chú trọng những tiểu
tiết trong sinh họat mà gợi lên những hình ảnh trong sáng nhưng cũng rất đỗi tình cảm. Bà
tuy trọng âm luật nhưng lại là từ nhân được xếp vào phái Cách Luật.

về phong cách và những điểm chính trong từ của Lý Thanh Chiếu chúng tôi sẽ nói
rõ hơn ở phần sau. Ở đây chỉ xin điểm qua “vận mệnh” của từ trong cuộc hành trình ngang
qua thời Lưỡng Tống.


9

1.2.NỮTỪNHẲN LÝ THANH CHIỂU
1 2 .1

Tiểu sử Lý Thanh Chiếu

Lý Thanh Chiếu (1085- khoảng 1155) 7 hiệu là Dị An cư sĩ, sinh ở Liễu Như Tuyền,
đông nam Lịch Thành, Tế Nam Sơn Đông. Nữ sĩ lớn lên trong một gia đình quan lại trí thức
phong kiến ở Tố Nam, Sơn Đông. Phụ thân Lý Cách Phi là một học giả kiêm nhà viết tản
văn danh tiếng, mẹ bà cũng là một người am hiểu về thơ ca. Lớn lên trong một gia đình có
truyền thống ưa chuộng học thuật, văn nghệ, đồng thời được tạo điều kiện phát triển về học
tập, Lý thanh Chiếu sớm có một sự hiểu biết sâu sắc về văn chương, âm nhạc và nghệ thuật.

Năm 18 tuổi, bà lấy Triệu Minh Thành, con trai của tể tướng, khi ấy ông 21 tuổi là
một thái học sinh. Sau đó, Minh Thành đi làm thái thú ở Lai Châu, Tri Châu. Đây không
chỉ là sự kết hợp hài hòa là một cuộc hôn nhân mỹ mãn. Bởi không chỉ muôn đăng hổ đối,
được cha mẹ hai bên đồng thuận, mà Thanh Chiếu còn có được cái duyên may lấy được
một đức lang quân tâm đầu ý hợp. Hai vợ chồng ngoài việc yêu thơ từ, cùng nhau xướng
họa còn rất thích chơi các tranh sách kinh ngạch và thu thập được nhiều sách và tranh quý,
những tờ sao bản văn bia. Họ luôn kề cận cùng vui chung cái thú văn chương tao nhã, mà
có lần bà đã tự ví hai phu thê bà như “những người dân của cõi Đào Tiên ngày xưa ” .
Chính những hoàn cảnh đó đã bồi dưỡng Lý Thanh Chiếu thời niên trẻ thành một phụ nữ
tài hoa, có hoài bão, có lý tưởng, tính cách chân thật, hào hiệp.
Những ngày tháng tươi đẹp đó đã in dấu rất sâu đậm trong sáng tác của Lý Thanh
Chiếu. Nguyện ước sao ngày tháng êm đềm ấy là bất tận, những sóng gió lịch sử đã phá tan
cuộc sống mãn tình của Lý Thanh Chiếu. Năm 1127, tộc Nữ Chân sau khi xây dựng nước
Kim, liền đem đại binh tiến xuống phía Nam, chiếm lĩnh đô thành của Bắc Tống là Biện
Kinh. Nam bắc Hoàng Hà lần lượt rơi vào tay địch, vua Huy Tông và Khâm Tông đều bị
bắt sống giải về phương Bắc. Triều đình Bắc tống đến đây bị tiêu diệt. Tháng Năm, Khang
Vương Triệu cấu lên ngôi hoàng đế tại Nam Kinh ( nay là Thương Khưu, Hà Nam), đổi
niên hiệu là Kiếm Viêm xây dựng vương triều Nam Tống. Đấy chính là “ tĩnh khang chi
biến” nổi tiếng trong lịch sử. Từ đó trở đi, triều Nam Tống lại liên tục bị sức ép của quân
đội nhà Kim, phải lần lượt rút quân về phía Nam, cuối cùng trị tại Lâm An (nay là Hàn
Châu, Triết Giang). Gia đình Lý Thanh Chiếu cũng lưu lạc về Giang Nam, Giang

Theo sách Tống từ của Chế Lan Viên đề từ, Yến Lan dịch thơ, 1992, nxb thành phố Hồ Chí Minh, thì Lý
Thanh Chiếu “sinh 1081, năm 21 lấy chồng là thái học sinh Triệu Minh Thành’, năm bà 49 tuổi thì chồng bà qua
đời, tù năm 54 tuổi về sống ẩn dật, không rõ mất năm nào, chi biết năm 61 tuổi vẫn còn sống. Trong bài viết này
chúng tôi chọn mốc thời gian 1085- khoảng 1155 vì nó được nhiều tài liệu ghi chép. Hơn thế, dựa vào sự phân
tích có tính chủ quan, xã hội phong kiến lúc bấy giờ người con gái mà xuất giá ở tuổi 21 là quá muộn, thường
tuổi kết hôn là tù 15 đến 18, 19.
7



10

Ninh (phía nam Hoài Hà). Năm 1129, trong lúc loạn lạc, Minh Thành được lệnh làm thái
thú Hồ Châu, trên đường đi bị cảm, chết ở Kiến Khang (nay là Nam Kinh). Từ đó, một mình
Lý Thanh Chiếu lưu lạc ở Hàng Châu, Việt Châu (nay là Thiệu Hưng), Đài Châu, Kim Hoa,
sống cuộc đời một người chạy nạn. Bà lâm vào hoàn cảnh trượng phu tử biệt, không nơi
nương tựa, có lúc lại bị vu cáo tội “Ban Kim”, cuộc đời Lý Thanh Chiếu rơi vào tình cảnh
cực kỳ khổ sở, u uất. Đó chính là bước chuyển quan trọng có ảnh hưởng sâu sắc lên những
tác phẩm thời kì sau 1127 của Lý Thanh Chiếu, về già, Thanh Chiếu sống ẩn dật lánh đời
nên người ta không thể xác định rõ mà mất chính xác năm nào, chỉ biết tình cảnh của nữ sĩ
vãn niên càng thê lương, khốn đốn.

12 2 Lý Thanh Chiếu - Tài nữ, kỳ nữ
1.2.2.1

Tài nữ

Có rất nhiều phụ nữ Trung Hoa làm thơ, một vài người trong số họ thi văn còn lưu
lại được vài bài như Tạ Đạo uẩn, Chu Thục Chân v.v... nhưng từ phi tần, công chúa cho đến
ca nhi thôn nữ, không nữ thi nhân nào lại được nhắc đến nhiều như Lý Thanh Chiếu. "Nhân
tỷ hòang hoa sấu" của bà đã được Tào Tuyết cần mượn ý để Lâm Đại Ngọc đem huyết lệ
làm thơ, Thong trụ trầm hương hoa dĩ tận" hay "nhất chủng tương tư, lưỡng xứ nhàn sầu."
... bà đã được không biết bao nhiêu thế thể si mê thưởng thức...
Để khẳng định bà là một tài nữ có lẽ khó có cách nào thuyết phục hơn là mượn lời
nhận xét của các tác giả cùng thời hoặc hậu bối của bà. Họ đều là những nhà văn thơ hoặc
nhà phê bình văn học nam giới, vốn có cái nhìn khắc khe về người phụ nữ, cũng phải thốt
lên những lời khen ngợi vàng ngọc với bà.
Vương Chước trong Bích Kê Mạn chí có nói về bà như sau : “Ngay từ lúc còn nhỏ
đã nổi danh làm thơ hay, tài hoa bộc lộ sớm, không thua kém chi những bậc tiền bối.” Chu

Biền trong sách Phong Nguyệt Đường thi thoại cũng thường khen ngợi thơ ca của bà với
ngừơi xung quanh. Vương Sĩ Trinh thì nhận xét: Trương Nam Hồ cho từ gồm hai phái: một
là Uyển ước một là Hào phóng. Tôi cho rằng phái Uyển ước Dị An đứng đầu, phái Hào
phóng Duy Ấu An đứng nhất...”. Còn Chế Lan Viên thì nói rằng; “về từ bà là nhịp cầu nối
liền Bắc Tống và Nam Tống. Trên từ đàn chỉ một ngôi sao nữ chói lọi cơ đồ muốn lất át cả
một bầy đèn đuốc của nam giới”. Từ của Lý Thanh Chiểu đựoc khen tặng là “Dị An Thể”
một ngọn cờ riêng độc nhất của thời Lưỡng Tống. Từ của bà chỉ còn sót lại hơn 20 bài,
song đều là những châu ngọc. Các sáng tác của bà như: "Dị An cư sĩ văn tập", 'Di An từ "
đã thất truyền, người đời sau thu thập lại soạn thành cuốn “Sấu Ngọc từ". Tới nay có cuốn
"Lý Thanh Chiếu tập hiệu chú”. Tácphấm của bà tuy không nhiều nhưng trong nền văn học
sử Trung quốc, Lý Thanh Chiếu chẳng


11

những là một tác giả vĩ đại trung nữ thi nhân mà còn là tác giả vĩ đại trong Tổng từ.

Bên cạnh từ, thì các sáng tác văn thơ của vị tài nữ này cũng khá tài tình, tuy nhiên
sáng tác về thể loại này không nhiều, chủ yếu hướng vào đề tài vịnh sử, lời lẽ khẳng khái,
không giống phong cách trong từ của bà. Thi phẩm của bà cũng có những bài hào phóng
như Tân Khí Tật, phong cách khẳng khái sôi sục, bày tỏ khí phách như bài:
Hạ Nhật Tuyệt Cú - Lý Thanh Chiếu Sinh đương tác nhân kiệt,
Tử điệt vi quỷ hùng.
Chí kim tư Hạng Vũ,
Bất khắng quá Đông Giang.
Dịch nghĩa:
Hạ Nhật Tuyệt Cú
Khi sổng làm hào kiệt Lúc chết
làm ma hùng Ngày nay nhớ Hạng
Vũ Giang Đông chang chịu qua.

(Người Dịch nghĩa: Ngọc Tuyết)
Thi ca hùng tráng khí phách hào hùng, mà được một phụ nữ của xã hội thời
phong kiến mượn lịch sử và sử dụng ngôn ngử thi ca để thể hiện nỗi buồn đau về việc
Tống triều chạy về phương Nam không kháng chiến chống giặc, quả là hiếm có và đáng
quý biết bao.
Một phụ nữ đa tài, không chỉ sáng tác từ mà còn thơ văn và cả phê bình văn học.
Bà từ viết một bài Từ luận, đề xuất sự phê bình những sáng tác từ chủ yếu từ đời Đường
cho tới Bắc Tống, qua đó nói rõ những chủ trương của phái uyển ước. Nội dung bài luận
như sau:
“Ngũ đại chiến tranh, bốn bể khắp nơi ly tán, văn nhã điêu tàn. Duy chỉ có vùng
Giang Nam, quần thần triều Lý vẫn còn sùng thượng văn nhã, cho nên mới có những lời từ:
“Tiểu lâu xuy triệt ngọc sinh hàn” “suy hựu nhất trì xuân thuỷ” , ngôn ngữ tinh diệu, nói
được nỗi niềm ai oán của cảnh ngộ vong quốc. Từ thời lục triều đến nay, lễ nhạc văn vũ rất
đầy đủ, đã được chuẩn bị hơn trăm năm, đầu tiên có Liễu Vĩnh, biến cựu thanh thành tân
thanh , làm ra “Nhạc chương tập”, đạt được tiếng vang lớn ở đời. Tuy từ của Liễu Vĩnh hợp
âm luật mà trần hạ, thấp kém. Cũng có Trương Tử Dã, anh em Tống Tử Kinh, Phẩm Đường,
Nguyên Giáng, Tiểu Tứ Ưng liên tục xuất hiện. Tuy lúc nào cũng có vần từ hay nhưng bọn
họ chưa đủ tầm vóc để xứng đáng trở thành danh gia. Đến Án Thù, Âu Dương Tu, Tô Đông
Pha... lời ca chẳng hề trau chuốt, lại cũng thường không hợp âm luật. Vì sao vậy? Đó là lời
ca chỉ phân làm bằng trắc, mà ca từ phân làm ngũ âm, cũng phân ngũ thanh, cũng phân lục
luật, cũng phân ra trong, đục, nặng, nhẹ. Những


12

điệu từ gần đây như “Thanh thanh mạn”, “Vũ trung hoa”, “Hỷ thiên oanh” đã gieo vần ở
thanh bằng lại còn gieo vần ở thanh nhập. Điệu “Ngọc xuân lâu” vốn gốc là gieo vần thanh
bằng, lại còn gieo vần cả thanh thượng, khứ, lại tiếp gieo vần ở thanh nhập.Trong các điệu
từ phải có một quy định nghiêm ngặt.Chẳng hạn điệu từ vốn gieo vần ở thanh trắc, nhưng
gieo ở thanh thượng thì hiệp luật mà gieo ở thanh nhập thì không thể ca lên được. Vương

Giới Phủ, Tăng Tử cố, văn chương của họ giống như Tây Hán, giá họ có làm một bài ca từ
nhỏ thì rồi cũng khiến cho mọi người cười ngất, không thể đọc được. Từ phải là một thể tài
riêng. Sau này Án Cơ Đạo thì thiếu sự miêu tả một cách tỷ mỹ. Sáng tác của Từ Chú thì
thiếu sự điển nhã, sang trọng. Sáng tác từ của Tần Quán thì chú trọng tình cảm nhưng lại
thiếu vận dụng chuyện cũ có thể làm gương- giống như một mỹ nữ nhà nghèo không trang
điểm vì thế mà cuối cùng kém đi sắc điệu phú quý. Hoàng Đình Kiên thì lại sùng tượng
việc vận dụng chuyện cũ làm gương mà khiến cho từ của ông ta có nhiều tỳ vết-giống như
ngọc đẹp có tỳ vết thì giá trị của nó cũng tự nhiên bị giảm mất một nửa vậy.”
Bài luận đã nêu rõ quan điểm nghệ thuật của Lý Thanh Chiếu về Uyển ước từ, đồng
thời cũng thể hiện tài năng văn chương và sự am sâu rộng của nữ sĩ về từ qua các thời đại.
Không thể chối bỏ có phần thể hiện sự tự tin thái quá, chủ quan cao độ của nữ sĩ, tuy nhiên
độc giả nhiều thế hệ lại lấy đó làm một điều thú vị. Bởi bà đã dám làm điều mà chưa có
người phụ nữ Trung Hoa nào trước đó dám làm. Đó là dùng những hình ảnh gợi tả, lời lẽ
thẳng thắng, mạnh mẽ phê bình các bậc tác giả tiền bối làm từ không ra từ, làm mất đi cái
tinh túy vốn có của thể loại này, mà không ít trong số họ là những tên tuổi vang dội như Âu
Dương Tu, Tô Đông Pha. Là một khuê nữ danh giá, Lý Thanh Chiếu vốn dịu dàng đằm
thắm, nhưng dường như đối với việc làm lưu mờ Uyển ước từ là không có chỗ cho sự
nhượng bộ. Chính sự mạnh mẽ đến kỳ lạ ấy đã làm cho bà không chỉ đơn thuần là một tài
nữ, mà còn là một kỳ nữ.

1.2.22

Kỳ nữ

Sỡ dĩ gọi bà là 1 kỳ nữ, vì Lý Thanh Chiếu không phải là một phụ nữ bình thường
như bao người phụ khác phong kiến khác, cuộc đời bà đầy những giai thoại mà thông qua
đó càng làm nâng cao khí chất cao quý và tài năng của nữ sĩ. Phải chăng ngoài thơ ca, những
giai thoại thuật lại về bà cũng làm độc giả không kém phần hứng thú.
Từ lúc còn là thiếu nữ bà đã làm thơ, từ có tiếng, từ của bà phần lớn viết về cuộc
sống rất bình dị, hoạt bát lý thú, điệu vần trong sáng, tình cảm tự nhiên trong phong cảnh

xinh tươi, hữu tình. Một hôm Lý Thanh Chiếu cảm thấy đầu hơi nằng nặng, bà nhớ lại đêm
qua mưa thưa gió lớn, một mình độc ẩm vài ly, hơi ngà ngà say, nằm xuống là không còn
biết gì nữa. Phải rồi, cây hải đường ngoài sân sau một đêm mưa gió, giờ đã ra sao rồi? “
Chẳng sao cả, như hôm qua” - Người thị nữ


13

trả lời. Bà đến bên cửa sổ nghiêng mình ra xem và tự vấn: “Làm sao như hôm qua đựơc”.
Bà hơi suy tư rồi lấy bút ra viết nên bài từ:
Như Mộng Lệnh Nhị- Lý Thanh Chiếu
“Tạc dạ vũ sơ phong tụ,
Nồng thụy bất tiêu tàn tửu.
Thí vẩn quyển liêm nhân,
Khước đạo hải đường y cựu.
Tri phủ? Tri phủ?
Ưng thị lục phì hồng sấu. ”
Như mộng lệnh Toi qua mưa
nhẹ giỏ to Ngủ say chưa tiêu
men rượu Hỏi thử người treo
rèm Lại bảo hải đường như cũ
Nào phải? Nào phải?
Chừng hắn xanh mập đỏ gầy.
(Người dịch - Ngọc Tuyết)
Như một chút phong vị buồn vu vơ, lơ đễnh của một thiếu nữ, tức cảnh sinh tình,
nỗi buồn ấy dường như không tên, không rõ từ đâu đến, nhưng kỳ thực nỗi sầu muộn ấy là
có nguyên cớ. Thông qua từ của Lý Thanh Chiếu, chúng ta mới thấy được một số khía cạnh
khác về đời sống tinh thần của bà. vốn lớn lên trong một gia đình ưa chuộng học thuật, văn
nghệ và đường chồng con cũng mĩ mãn. Hoàn cảnh đó đã bồi dưỡng Lý Thanh Chiếu thời
trẻ thành một phụ nữ tài hoa, có hoài bão, có lí tưởng, tính cách chân thật, hào hiệp. Nhưng

trong xã hội phong kiến, bà lại không có tí quyền gì về chính trị, kinh tế, bị tước mất cơ hội
tham dự xã hội rộng rãi. Hơn nữa, thời đại của bà đúng là thời đại các nhà lí học đời Tống
hết sức đề xướng lễ giáo phong kiến để khống chế phụ nữ, cho nên tài năng xuất chúng,
tính cách lành mạnh và hoài bão, lí tưởng hào hiệp của bà, do một gia đình có văn hoá luyện
nên, chẳng những không được phát huy đầy đủ mà còn bị các lực lượng trong xã hội áp chế,
bó buộc. Cho nên mặc dù không yên lòng với cái cảnh chật hẹp tù túng, “thâm khuê tịch
mịch”, bà đòi hỏi một cuộc sống rộng rãi, được hoạt động tinh thần, nhưng cũng không thể
thực hiện được, đành gửi gắm tình cảm ấy vào thiên nhiên cảnh vật.

Chính vì vậy, các bài từ ở thời kì đầu viết về cảnh vật tự nhiên đều sáng tạo được
hình ảnh mới mẻ, sinh động, lột tả được những cái đẹp ẩn giấu trong đó và bà đã tỏ rõ lòng
yêu mến cái đẹp thiên nhiên của mình bằng một hứng thú dồi dào. Từ trong hình tượng
những bài từ của bà đã biểu hiện rõ được Lý Thanh Chiếu không những ngây thơ, lanh lợi,
phóng khoáng đáng yêu mà còn là một thiếu nữ nồng nàn, chính chuyên trong tình yêu, lại
dũng cảm biểu lộ và đòi hỏi tình yêu


14

một cách mãnh liệt. Bà ngắm trăng vịnh gió là vì tình yêu; hoa xuân, tràng thu gây cho bà
nỗi nhớ nhung. Không một phụ nữ nào xuất thân trong gia đình sĩ phu phong kiến lớp trên
lại nhiệt tình, mạnh bạo ca ngợi tình yêu trong thơ ca như kỳ nữ Lý Thanh Chiếu:
Chiếu lạnh hơi thu sen thắm tàn,
Nhẹ cởi xiêm là,
Bước lên thuyền lan.
Ây ai chữ gấm gửi tờ mây ?
Hàng nhạn bay về,
Trăng lầu xế ngang.
Dòng nước vô tình hoa lạt hương,
Một mối tương tư,

Đôi ngã sầu vương,
Tinh kia muốn dứt vẫn đa mang.
Vừa chớm mày ngài Đã lọt gan
vàng.
Sự lãng mạn quá đỗi văn chương ấy còn gây nên cả những cơn ghen. Người đời kể
lại rằng: chồng bà là một nhà khảo chứng kim thạch học nổi tiếng. Lúc đầu, bà cùng chồng
chuyên tâm vào nghiên cứu, sưu tập, chỉnh lý Thư hoạ, kim thạch, tâm đầu ý hợp yêu thương
nhau. Khi Triệu Minh Thành đi làm quan nơi xa và sống trong hoàn cảnh đó, Lý Thanh
Chiếu cảm thấy cô đơn, buồn tẻ đã viết rất nhiều những bài từ miêu tả cảnh ly biệt, nhớ
thương, ao ước có cuộc sống tình cảm yêu thương bất tận. Những bài ấy cũng làm cho
chồng bà ghen vì quá giàu tình cảm.

Ông không chỉ ghen vì cái tình ấy, mà còn ghen vì cái tài của vợ. Bậc nhi nữ phong
kiến dù quyền quý cao sang, hay bình thường dân dã đều đứng sau cái bóng của chồng, nào
dám thể hiện mình giỏi hơn chồng. Ấy vậy mà qua những sáng tác, bà đã thể hiện tài năng
từ vượt cả chồng, khiến ông phải tâm phục khẩu phục. Truyện kể lại rằng Lý Thanh Chiếu
làm bài Túy Hoa Âm trong ngày Trùng Cửu (ngày 9 tháng 9) gởi cho chồng là Triệu Minh
Thành. Nhận được bài từ tuyệt diệu ông tuy ca ngợi nhưng trong lòng lại không phục, nghĩ
rằng mình có thể làm hay hơn vợ. Vì muốn chứng minh điều ấy, họ Triệu bỏ ra ba ngày
đêm làm 15 bài từ, rồi sao chép lại từ của vợ thành một tập đưa cho bạn bè xem để phẩm
bình. Sau kho bạn bè đọc xong ai cũng đều khen Túy hoa âm là bài hay nhất trong số 16
bài. Từ đó Triệu Minh Thành mới bái phục là từ của bà hay hơn ông. Sau đây là bài Túy
Hoa Âm:
Tuý Hoa Âm - Lý Thanh Chiếu
Bạc vụ nùng vân sầu vĩnh trú,
Thuỵ não tiêu kim thú Giai
tiết hựu trùng dương,
Ngọc chẩm sa trù,
Bán dạ lương sơ thấu.



15

Đông ly bả tửu hoàng hôn hậu, Hữu
ám hương doanh tụ.
Mạc đạo bất tiêu hồn,
Liêm quyến tây phong,
Nhân tỷ hoàng hoa sau.
Dịch

nghĩa:
Tuý Hoa Âm
Khói nhạt mây dày ngày ủ rũ Hương
ở lò kim thú Tiếtrtrời dịp trùng
dương Màn the gối ngọc Đêm khuya
lạnh len vào
Bờ đông nâng chén sau hoàng hôn
Tay áo ủ đầy hương
Đừng nói cảnh chẳng tiêu hồn
Rèm cuốn gió tây
Người so hoa vàng võ.

(Người Dịch nghĩa: Ngọc Tuyết)
Lấy hoa vàng ví với người gầy, về hình ảnh, như thế là có tính sáng tạo, lấy gầy để
nói tới gian tương tư khổ dằng dặc, như thế là không nói rõ mối tình, nhưng mối tình càng
sâu. Nhờ tính sáng tạo và sự sâu sắc mà bài thơ được truyền tụng rộng rãi.
Lý Thanh Chiếu nhiệt tình biểu hiện và ca ngợi tình yêu như thế, về chủ quan, tất
nhiên bà không nghĩ rằng đó là đả phá lễ giáo phong kiến, nhưng về tác dụng xã hội khách
quan, lại có ý nghĩa chống đối những ràng buộc của lễ giáo phong kiến. Vương Chước,
người cùng thời với bà, trong cuốn Bích kê mạn chí đã mạt sát từ của bà là “những lời hoang

dâm ở nơi thôn dã, hạ bút nột cách tuỳ tiện, xưa nay con gái nhà quyền quý biết làm văn,
chưa thấy có ai phóng túng như vậy”. Đó chính là một phản chứng tốt nhất về ý nghĩa tích
cực của những bài từ nói đến tình yêu của kỳ nữ.
Kỳ lạ thay, Lý Thanh Chiếu là một con người có thật, sống động nhưng chính yếu
tố chân thận ấy lại làm cuộc đời bà như một câu chuyện lạ. Bởi một phụ nữ có cuộc đời éo
le trắc trở. Trải qua nhiều biến cố, cuộc đời của bà được lưu truyền, nhưng không phải nhờ
vào văn nhân khác ghi lại như một "Đọan trường tân thanh.", hay như một truyền kỳ đẹp.
Cũng giống như Tiểu Thanh cuộc đời, bi kịch của bà đã được chính bà kí thác trong thi từ
của mình. Nhưng phần dư cảo của Tiểu Thanh là một truyền thuyết đẹp nhiều hơn là tính
xác thực, còn sấu Ngọc Từ của kỳ nữ, tài nữ Lý Thanh Chiếu là một áng văn chương có sức
lay động lòng người suốt nhiều thế kỷ.


16

1 3 UYỂN ƯỚC TỪ
Trương Diên đời Minh bình về từ có nói: “Từ của Tần Quán phần nhiều Uyển ước,
tứ của Tô Thức phần nhiều hào phỏng.” Từ câu nói đó mới chia từ thành hai phái Hào
Phóng và uyển Ước.
Uyển ước chính là cái đẹp diễm lệ, thanh tao, chính là tính trữ tình mượt mà, chính
vì vậy mà Uyển Ước cũng chính là một thuộc tính căn bản của từ. Từ “Tây phong tàn chiếu,
Hán gia ỉăng khuyết” của Thanh Liên, đến “Hoa phi hoa, vụ phi vụ, bán dạ lai, thiên minh
khứ” của Lạc Thiên hay “Hoa lạc tử quy đề, lục song tàn mộng mê” của Phi Khanh, đã
mang một linh hồn tao nhã, tuyệt vời của tính Uyển Ước. Rồi đến cả Vi ứng Vật trên lưng
Hồ mã giữa muôn trùng biên tái ca vang: “mê lộ, mê lộ biên thảo vô cùng nhật mộ” (mê lộ,
mê lộ, cỏ vút chiều tà man mác)... ai dám nói trong những lời hào sảng bi hùng đó không
thấm đẫm một tinh thần Uyển ước mênh mông?
Đến Tô Đông Pha, sự hào sảng phóng khóang của ông mới làm Từ chia thành hai
trường phái Hào phóng và Uyển ước. Tô Đông Pha đã có ý đưa từ thành một thể tài tách
bạch với âm nhạc, xa rời âm luật cho nên những bài từ của ông thường rất khó hát. Cũng

chính vì vậy mà Trần Sư Đạo đã viết trong Hậu Sơn thi thọai: “Lấy thơ làm từ, cũng như
điệu múa Lôi Đại Sứ của giáo phường tuy rẩt hay nhưng không phải bản sắc của nó. ” Và
đại diện xuất sắc của Uyển Ước từ, Lý Thanh Chiếu đã bình phẩm như sau: “Đó chỉ là
những câu thơ đọc lên không trùng điệp và thường không phù hợp với âm luật. ” Nói cách
khác từ theo lối Hào Phóng của họ Tô đã bị chê là “mất bản sắc” của nó.
Lại nói đến bản chất “Uyển ước” của từ phẩm, vốn dĩ từ được sáng tác ra không
phải để đọc, mà là để phối hợp với âm nhạc, với hát xướng, nó là sản phẩm “trước chén”,
“trong hoa”, dành cho nơi “đài ca vũ tạ”, nơi chốn đồ thành phàn hoa nhung lụa.
Thưởng thức một bài từ phải gồm cả: thanh, sắc và lời. Trước chén rượu dưới trăng
thanh, sướng ca nhã nhạc, mỹ nữ yêu kiều múa, lời từ cất lên. Trong cái thanh nhã của thú
vui tao khách còn có cái trần tục của sắc đẹp giai nhân, bên cạnh điệu du dương của nhạc
tính còn có uyển chuyển và đậm mùi son phấn của vũ điệu, tất cả những điều đó hiệp lại
mới trở thành cách thức để thưởng từ. Trong cái bối cảnh đó ca từ thốt lên mới truyền tải
hết những xao động của nó đến người nghe.
Từ tác giả các sáng tác từ phải đi qua ca nhân (chủ yếu là ca nữ) để hát lên, hòa cùng
tiếng nhạc, thông qua lời ca tiếng nhạc truyền tới người nghe. Tác phẩm khi đến ca nữ thể
hiện, đối với tác giả đã có khoảng cách nhất định, khi ca nữ hát, họ không chỉ đơn thuần là
lập lại những âm tiết mà là một cách sáng tạo. Trong lời


17

từ của họ có hoan lạc có bi ai, có tâm tình của cá nhân họ, nói cách khác họ lại một lần nữa
sáng tác lại các bài từ. Các từ nhân khi sáng tác rất lưu ý đến yếu tố này, vì vậy thủ pháp
“đại ngôn” (nói thay) là một trong những thủ pháp được sử dụng rộng rãi trong từ, biểu
hiện dưới hai khía cạnh: thứ nhất, từ nhân nhập thân vào đời sống, tâm trạng ca kĩ, thay ca
kĩ viết lên nỗi niềm của mình; thứ hai, ca kĩ “nói thay” cho từ nhân. Khi ca kĩ “nói thay”
cho từ nhân, tác phẩm sẽ có hiện tượng chuyển giọng, sẽ có xu hướng nữ tính hóa.
Đặc điểm này được nhà từ luận Điền Đồng Chi gọi là “Nam tử Hán nhi tác khuê
âm” (Điền Đồng Chi: Tây Phổ từ thuyết). “Nam tử Hán lại nói lời của người trong phòng

khuê” không chỉ ở từ mới có. Chẳng phải lời những nàng óan phụ thở than “Đản kiến tân
nhân tiếu, ná văn cựu nhân khốc”, chẳng phải “Hối giao phu tế mịch phong hầu” của nàn
“Thiếu phụ bất tri sầu” lầu nhớ chinh phu, xưa nay tuy là tâm tình của nữ nhân nhưng đều
là lời của Nam Tử hay sao?
Đốn Tống Từ ta mới được nghe chính những người “nữ tử” nói lên chính tiếng lòng
của họ. Chu Thục Chân, Tạ Đạo uẩn và nổi bật nhất trong số họ chính là Lý Thanh Chiếu.
Vương Sĩ Trinh có nhận xét như sau: “Trương Nam Hồ cho từ gồm hai phái: một là Uyến
ước, một là hào phóng. Tôi cho rằng phái uyển ước Dị An đứng đầu, phái hào phóng Duy
Ẩu An đứng nhất... ”
Uyển ước là đặc điểm nghiêng về tính nữ. Lý Thanh Chiếu là một người phụ nữ
viết về tính nữ, bà đã đưa Uyển ước lên đến độ chín mùi rực rỡ, cũng là người đã truyền tải
cho thi văn thiên cổ những tâm tình của một người phụ nữ viết về tính nữ và cuộc đời của
mình.

1.4 ĐÃC TRƯNG PHONG CẢCH TỪ CỦA LỶ THANH CHTỂIJ

1.4.1 Khái quát
Cuộc đời Lý Thanh Chiếu trải qua hai giai đọan lớn: Thanh bình và ly lọan. Sáng
tác của bà cũng theo hai giai đọan đó mà có nhiều thay đổi.
Người ta nói thơ chính là người. Thơ của Dị An đã có những đặc điểm: hiệp luật,
điển nhã và tình trí (ngụ tình hết mức). Bà phản đối việc đưa phép làm thơ vào làm từ, phân
định rõ sự khác biệt giữa thơ và từ (biệt thị nhất gia) và chủ trương phải xếp riêng người
sánh tác từ thành một phái tác giả. Bóng dáng nữ lưu trong các sáng tác của bà cũng mang
theo những đặc điểm kể trên.
Lý Thanh Chiếu được mọi người công nhận là nhà làm từ chính tông của phái Uyển
ước, những bài từ của bà luôn mang màu sắc phong cách của từ phái này, phái Uyển ước
cùng với phái hào phóng do Tô Thức khởi xướng, đại biểu cho hai phong cách từ khác nhau
vượt qua, nếu như phái hào phóng vượt ra khỏi vi phạm của từ truyền thống, thì phái Uyển
ước lại ra sức bảo vệ những qui phạm truyền thống này. Uyển ước từ phái quy định: Từ, về
hình thức thì phải được làm theo đúng khuôn mẫu, đúng quy phạm và phải làm theo đúng

điệu từ, còn trong nội dung thì không được mang những chuyện thô thiển, tầm thường dung
tục vào, không được đem cái “tôi”, cũng như bà không được đem điển cố vào trong từ, từ


18

là chỉ nói đến những chuyện nhỏ như: chia ly, tình yêu..., những quy định này được Lý
Thanh Chiếu kế thừa một cách sáng tạo. Từ của bà vừa hào phóng vừa uyển chuyển, bà có
sở trường miêu tả chân thực, sành dùng khẩu ngữ, có tài luyện chữ, luyện câu, luyện ý,
luyện cách, hình thành “Dị An thể”. Sau khi di cư về nam, phong cách từ của bà biến chuyển,
từ thanh tân phóng dật biến thành kín đáo thâm trầm, thê lương trầm uất, thề hiện nỗi niềm
đau thương vì quốc nạn.

1.42 Sư tuân thủ niên luât và sư sáng tao của Lý Thanh Chiếu
Sự tuân thủ của Lý Thanh Chiếu về niên luật thể hiện ngay trong trường phái
sáng tác bà chọn: phái Uyển Ước. Bà quan niệm, làm đúng luật mới gọi là từ, có thể nói: về
mặt nghệ thuật trong sáng tác từ, thì Lý Thanh Chiếu là một từ nhân có cái nhìn tương đối
hoàn chỉnh và nghiêm khắc nhất. Bà từng viết một bài “từ luận”, đề xuất sự phê bình những
nhà sáng tác từ chủ yếu đời Đường cho tới Bắc Tống. Qua đó chúng ta thấy được mục tiêu
vươn lên của bà. Thí dụ như bà cho sáng tác của Liễu Vĩnh là “tuy hợp âm luật nhưng lời
từ quá thấp kém”, chứng tỏ bà phản đối khuynh hướng thông tục hoá cũng như chạy theo
thị hiếu của thị dân. Bà cho rằng sáng tác của Án Thù, Âu Dương Tu, Tô Thức “đều là
những câu thơ không trau chuốt, lại thường không hợp âm luật”, chứng tỏ bà phản đối sáng
tác từ tiếp cận với thi ca và đòi hỏi phải giữ âm luật một cách nghiêm khắc. Bà cho sáng tác
từ của Án Đạo Cơ là “thiếu sự miêu tả một cách tỷ mỹ”, sáng tác của Hạ Chú thì “thiếu sự
điển nhã trang trọng”; sáng tác từ của Tần Quán thì “chú trọng tình cảm nhưng lại thiếu vận
dụng những câu chuyện cổ có thể làm gương”, chứng tỏ bà chủ trương từ cần phải có sự tỷ
mỹ, phải có tình cảm tinh tế, và phải có nội dung văn hoá tương đối sâu.
Nói một cách khái quát, thì quan điểm Từ học của Lý Thanh Chiếu là đặc biệt nhấn
mạnh về mặt nghệ thuật trong sáng tác từ phải mang tính độc đáo của nó, tức từ phải “là

một thể loại riêng biệt”, cần phân biệt với thi ca và phải đặc biệt chú trọng hình thức thanh
luật của từ, về mặt ngôn ngữ đòi hỏi phải điển nhã, hồn nhiên. Với quan niên này cho ta
thấy Lý Thanh Chiếu bị quan niên truyền thống trong sáng tác từ trói buộc rất chặt. Tuy
vậy, bà vẫn có sự sáng tạo cho riêng mình. Bà đã khoát cho những niêm luật nghiêm ngặt
ấy một sự uyển chuyển, mềm mại. Vì vậy, khi đọc từ của bà, người đọc sẽ luôn cảm thấy:
niêm luật thì vẫn đúng mà sao không hề khô khan, cứng nhắc, lại rất nhẹ nhàng, thanh thoát.
Đó chính là sự tài tình của bà khi sáng tác từ, được thể hiện ở chỗ:
1) Bà tỏ ra rất tài tình trong việc tạo cảnh trữ tình, bà thường dung hoà tình cảm mạnh
mẽ của mình trong hình tượng nghệ thuật đạt cảnh giới nghệ thuật hài ho à giữ tình
và cảnh. Bà còn có sở trường việc thể hiện ý chí, cảnh đi vào lòng người chỉ bằng
một đoạn miêu tả chi tiết, một ý tưởng quanh co khúc chiết.
2) Câu chữ trong bài từ của bà dễ hiểu mà mới lạ, ngôn ngữ trong các bài từ của bà
vừa mới mẽ vừa rất tự nhiên, hoa lệ, giàu sức biểu hiện. Bà không vận dụng điển
cố nhiều trong các sáng tác từ của mình mà vận dụng thành


19

nhiều khẩu ngữ và ngôn ngữ phố phương nên sáng tác của bà rất dễ hiểu, mạch lạc
và gần gũi, sự kết hợp các âm tiết trong các bài từ của tác giả cũng rất hài ho à.

1.43 Tính nhạc điệu trong sáng tác từ của Lý Thanh Chiếu
Từ là thể loại thịnh hành vào đời Tống, nhưng không phải đến đời nhà Tống người
ta mới bắt đầu làm từ. Từ phẩm bắt nguồn từ các điệu dân ca của Trung Quốc, là sự giao
thoa của giữa văn ho á Trung Hoa bấy giờ và âm nhạc của Tây Vực, nhưng qua quá trình
phát triển, nó dần tách khỏi tính nhạc, chỉ giữ lại phần nào, cho nên từ được coi là nằm giữa
thơ và ca, nó có thể được đọc như thơ, nhưng cũng có thể phổ nhạc hát thành lời. Đặc điểm
của từ là được sáng tác chỉ theo luật bằng trắc của điệu, câu chữ dài, ngắn khác nhau, mỗi
điệu từ là một cách hát khác nhau. Vào đời Tống, từ có tất cà 870 điệu và nhiều biến thể
như : điệu Cán Kê Sa, điệu Niệm Nô Kiều, điệu Điệp Luyến Hoa, điệu Bồ Tát Man...như

vậy chúng ta thấy rằng : từ khi ra đời, từ- bản thân nó đã mang tính nhạc, nhưng cái tình
của Lý Thanh Chiếu là ở chỗ bà thể hiện tính nhạc trong sang tác từ như thế nào, là điều mà
ta nên làm rõ. Những từ phẩm của bà luôn mang nhạc điệu êm nhẹ và du dương, với khả
năng vận dụng từ ngữ của mình, Lý Thanh Chiếu đã mang lại sự thanh thoát, êm đềm cho
các nhạc điệu trong bài từ của bà. Chẳng hạn như trong bài Thanh Thanh Mạn, bà viết:
‘Tầm tầm mịch mịch lãnh lãnh thê thê thảm thảm thiết thiết”
(Thanh Thanh Mạn)
Với bút pháp sử dụng liên tiếp bảy nhóm điệp từ trong câu mở đầu, lợi dụng tối đa
hiệu quả của của song thanh, bà đã tạo ra tính nhạc êm đềm cho bài từ. Hay trong bài
Lãng Đào Sa, bà viết :
‘Tố đắc tiểu yêu than Bất nại thương xuân
Sơ mai ảnh hạ vãn trang tân Niểu niểu
đình đình hà dạng tự”
Bài từ thể hiện sự tiếc nuối, khắc khoải của bà, nhưng khi đọc lên ta lại như cảm
thấy có một điệu nhạ rất mực nhẹ nhàng lướt qua.
Còn trong bài Thiêm Tự Thái Tang Tử thì bà lại dung nghệ thuật điệp câu và những
từ láy chỉ âm thanh, tạo ra bài từ sự du dương, thanh thoát :
“Thương tâm chẩm thương tam canh vũ
Điểm chích thê thanh Điểm chích thê
thanh”
Hay trong bài Vũ Lăng Xuân, bà viết :
“Văn thuyết Song Khê xuân thượng hảo
Dã nghĩ phiếm khinh châu Chỉ khủng
Song Khê trách mãnh châu Tái bất động,
hứa đa sầu”


20

Thể hiện nỗi buồn đau, xót xa của bà, với cách điệp một cách nhẹ nhàng hai lần địa

danh Song Khê, khiến nhạc điệu của bài từ không cay đắng mà êm đềm như lời giải bày
tâm sự.
Còn trong bài từ theo điệu Hoán Khê Sa, ta lại bắt gặp một làn điệu khác : ‘Tiểu
viện nhàn song xuân sắc thâm Trùng liêm vị quyển ảnh trầm trầm
Viễn tụ xuât sơn thôi bạc mộ Tế
phong xuy vũ lộng khinh âm Lê
hoa dục tạ khủng nan cầm”
Đó là nhạc điệu gấp gáp, như thúc dục, như vội vã.
Cứ như vậy, trong những từ phẩm của bà nhạc điệu vẫn cứ ngân lên, ngân lên những
khúc nhạc nhẹ nhàng, thanh thoát.
Nói chung, lý thanh chiếu là một nữ từ nhân đặc biệt không bị ảnh hưởng ai, bà rất
giỏi âm luật, không trách bà quá tự cao, không tiếc lời phê bình, vạch rõ ra những yếu diêm
chô thiêu của những bậc tiên nhân, hoặc các tác giả đông đại với mình, thông qua đó nhằm
nói rõ phong cách và quan điểm nghệ thuật của mình đối với từ và từ uyển ước. Bà là nhị)
cầu nối bắc tống và nam tống về thể bại từ. Không quá lời khi nói “Trên từ đàn chỉ một ngôi
sao nữ chói lọi cơ đồ muốn Ển át cả một bầy đèn đuốc của nam giới” (Tống Từ của Chế
Lan Viên đề từ, Yen Lan dịch thơ, 1992, nxb thành phố Hồ Chí Minh).


21

Chương n
LÝ THANH CHIẾU VÀ HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ
TRUNG HOA
2.1 NHÁP ĐÈ
Trăm năm góp lại rồi ngàn năm, khi nói đến hai từ “cổ điển” người ta ai cũng cảm
thấy phảng phất một ấn tượng vàng kim ổ cổ. Thời của hai chữ “cổ điển” đã bắt đầu từ ngàn
năm trước, nhưng kết thúc cũng chưa quá vài trăm năm. Chưa quá trăm năm trước chúng
ta còn có vua và hòang hậu, thậm chí những hòang tử công chúa của họ vẫn còn sống đến
nay.

Thời của chế độ phong kiến, chính là thời của những “người phụ nữ Trung Hoa cổ
điển” mà chúng tôi nhắc đến đây.
Thời của những trâm vàng, ngọc bối, xiêm áo thướt tha, “yểu điệu thục nữ, quân tử
hảo cầu” đối với những người đương thời dường như rất đẹp. Những tài tử giai nhân cầm
kì thi tưởu, những du tử xa nhà hát ca “nhân sinh bất xứng ý, minh triêu tấn phát lộng thiên
chu ”, đều tóat lên một cái gì đó xa xăm, say đắm và ngay cả những bi kịch của thân phận
cũng gợi lên nhiều mỹ cảm. Mỹ cảm đó, đương nhiên không nơi nào lại được khắc hoa tinh
tế và sâu đậm như trong thi ca.
Tần La Phu trong Mạch Thượng Tang, Lưu thị trong Khổng Tước Đông Nam Phi,
Đậu Nga trong Đậu Nga Oan v.v... họ đều là những phụ nữ Trung Hoa cổ điển. Nét đẹp và
truyền kỳ về họ lưu truyền trong văn học và dân gian. Nhưng họ là một nét đẹp khác, không
phải nét đẹp của người phụ nữ trong tác phẩm của Lý Thanh Chiếu.
Đình viện thâm thâm, những nàng kiều mỹ múa trên tay vua, những nàng quốc sắc
“phù dung như diện liễu như my” vì nhan sắc mà phải chết ở gò Mã Ngôi để Minh Hòang
xót xa, lưu truyền thành điệu Vũ Lâm Linh v.v... cái đẹp diễm lệ sa hoa và nhuốm màu bạc
mệnh trong chốn thâm cung cũng không phải cái đẹp của từ phẩm Lý Thanh Chiếu.
^ êlăl,

Bất thị ái phongtrần,
Tự bị tiền duyên ngộ.
Hoa lạc hoa khai tự hữu thì,
Tổng lại đông quân chủ.
Chẳng phải muốn phong trần,
Tựa bị lầm tiền kiếp.


22

Hoa nở hoa rơi tự có thì,
Bởi chúa xuân sắp xếp.8

(Nguyễn Thị Bích Hải dịch)
Cái u uẩn và cay đắng, cái đẹp mong manh như “bán dạ lai, thiên minh khứ, lai như
xuân mộng bất đa thì, khứ tự triều vân vô mịch xứ” xưa nay vẫn làm nao lòng khách văn
chương, cũng không phải là nét đẹp của người phụ nữ trong từ Lý Thanh Chiếu.
Tôi nhớ trong Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết cần, có một đọan Giả Bảo Ngọc sau
khi xem thơ của các chị em thấy thích liền chép lên quạt mang ra ngòai cho mọi người hân
hưởng thì liền bị chính các chị em chê trách.
“Chôn hoa người bảo ngấn ngơ, sau này ta chết ai là người chôn” Tuy là những
lời thơ xúc động lòng người nhưng đó cũng chỉ là những lời của nữ lưu trong nhà không
nên tùy tiện mang ra ngòai. Còn có bao nhiêu lời của nữ tử như thế đã không được người
đời biết đến? Những nữ tử đó chính là nữ tử trong từ của Lý Thanh Chiếu.
Gabrielle M. Vassal, một học giả Phương tây đã viết về cuộc sống của những người
phụ nữ Trung Hoa như sau: “Phụ nữ đi thăm viếng lẫn nhau, nhưng không bao giờ đón tiếp
một cuộc thăm viếng của một người đàn ông. Mặc dù họ không bị gạt ra ngoài các buổi lễ
công cộng, họ không đổng một vai trò quá nổi bật trung các buổi lễ đó.
Người vợ không được phép ngồi ăn cùng lúc với người chong, ngay dù trong ngày
đám cưới, hay trong bất kỳ thời điểm tương lai nào. Chính vì thế, điều đương nhiên là người
đàn bà sẽ không bao giờ tham dự cùng với các người đàn ông khác trong bất kỳ bữa ăn
công khai nào. (...)

Bài thơ theo điệu Bốc toán tử này của một kỹ nữ tên Nghiêm Nhụy sáng tác ưong một
hoàn cảnh đặc biệt. Bấy giờ Nghiêm Nhụy đang làm doanh kỹ ở Thai Châu, viên quan tri
châu ở đó là Đường Dữ Chính ra lệnh cho Nghiêm Nhụy làm một bài từ vịnh hoa bạch đào.
Nghiêm Nhụy đâu dám chống lệnh. Nàng lập tức viết xong và ca một bài từ theo điệu Như
mộng lệnh. Đường Dữ Chính rất tán thưởng, ban tặng cho nàng rất nhiều. Đen đêm Thất
tịch (07-07) Đường Dữ Chính Mở tiệc ưong phủ chiêu đãi bạn bè tân khách. Trong tiệc có
một vị hào sĩ tên là Tạ Nguyên Khanh hâm mộ danh tiêng Nghiêm Nhụy lập tức làm một
bài từ theo điệu Thước kiêu tiên, rât hợp với đêm hoan hội của Ngưu Lang, Chức Nữ, thể
hiện rõ thông minh tài ưí của nàng. Tạ Nguyên Khanh say mê nàng, liền giữ nàng ở nhà nửa
năm, không tiếc tiền của tặng nàng. Nào ngờ sau đó nhà "đạo học" nổi tiếng của đời Tống

là Chu Hy, làm quan khâm sai đến Thai Châu, muốn trai tìm tội lỗi của Đường Dữ Chính,
chỉ ưích họ Đường có quan hệ bất chính với doanh kỹ Nghiêm Nhụy và bắt Nghiêm Nhụy
tống giam hai tháng. Nàng bị tra khảo chết đi sống lại nhưng không hề nói một điều gì tổn
hại đến Đường Dữ Chính. ít lâu sau, Chu Hy được đổi đi làm quan nơi khác, Nhạc Lâm kế
nhiệm. Ông này thông cảm với cảnh ngộ của Nghiêm Nhụy, nhân một buổi lễ, Nhạc Lâm
ra lệnh cho Nghiêm Nhụy làm một bài từ bày tỏ noi oan khuất của mình. Nghiêm Nhụy ứng
khẩu ca luôn bài từ Bốc toán tử này. Nhạc Lâm lập tức ra lệnh cho nàng hoàn lương.
8


23

Người phụ nữ được phép đi xem hát, là sinh hoạt mà họ biểu lộ một sự thích thú
nồng nhiệt nhất; tuy nhiên, ghế ngồi của họ luôn luân được tách biệt khỏi cho ngồi của đàn
ông.(...)
Trong thời kỳ sinh nở, phụ nữ được chăm sóc bởi các cô đỡ (cô mụ). Một bác sĩ sẽ
đến thăm các khách hàng vì các sự om đau khác, nhưng không bao giờ vì việc này. Ông ta
không làm gì nhiều hơn là xem mạch, và ngay khỉ đó ông cũng cẩn thận lót mảnh vải nằm
giữa các ngón tay của ông với làn da của nữ bệnh nhân. “9

Bài viết của Gabrielle M. Vassal được xuất bản vào năm 1910, sau thời đại của Lý
Thanh Chiếu một khỏ ang thời gian rất dài, chứng tỏ sự trói buộc của quan niệm Tam Tòng
Tức Đức của Khổng giáo ảnh hưởng lên xã hội Trung Hoa cổ điển là vô cùng nặng nề.
Qua những sáng tác văn học của thời đại trước để lại, những hình ảnh kiểu mẫu
được người đời ca tụng như nàng Đậu Nga cũng là những đại diện cho đạo đức kiểu mẫu
của đạo Khổng. Bên cạnh đó những tiểu thuyết như Hồng Lâu Mộng, Tây Sương Ký lại bị
phản đối kịch liệt. Điều đó trở thành một rào cản lớn cho tinh thần tự do và trí óc sáng tạo.
Điều này thể hiện rất rõ trong suốt nền văn học vĩ đại của Trung Quốc, non xanh thì nhiều,
hoa thơm thì ít. Chẳng có mấy bậc nữ lưu để lại tên tuổi cho đời sau. Thi thỏang là một vài
bài. Tên tuổi rực rỡ nhất thuộc về Lý Thanh Chiếu. Cùng thời với bà còn có Chu Thục Chân.

Thi từ của u Thê cư sĩ về nhiều mặt tuy khó có thể so sánh với Dị An, nhưng rất thấm thìa.
Bà là người tài tình, đã chọn được người yêu thương nhưng gia đình phản đối, gả bà cho
một thương nhân. Thương nhân thì lo chuyện tiền bạc buôn bán, tài nữ thì yêu thích thi họa.
Cuộc đời của Chu Thục Chân bình bình lặng lặng, sầu sầu muộn muộn mà luyến tiếc một
mối tình dở dang.
Vào đêm rằm tháng giêng ‘Lửa dăng bạc điểm rực đèn hoa”1 bà viết:
Thưởng đăng na đắc công phu tuý,
Vị tất minh niên thử hội đồng.
Còn mãi thưởng đèn hoa, rượu chẳng uống, năm nay như thế, sang năm biết thế nào.
Đọc những lời này bỗng nhớ đến mấy câu trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của Nguyễn Gia
Thiều tiên sinh.
Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau

9

Gabrielle M. Vassal, On & Oý/Duty in Annam,London: Wi11iam
Heinemann, 1910, các ưang 132-147


24

Thiếp xin chàng chớ bạc đầu Thiếp thì giữ
mãi lấy màu trẻ trung.
Bởi vì kiếp sau không ai biết có hay không, bởi vì đời người đáng trọng nên mới
“theo kiếp này hơn thấy kiếp sau.”
Chu Thục Chân một mặt yêu mến đời sống tươi đẹp, một mặt chán chường với cuộc
sống của mình. Trong Nguyên Dạ bà đã tả đêm rằng tháng giêng đẹp vô cùng.
Hoả thụ ngân hoa xúc mục hồng,
Yết thiên cổ xuý náo xuân phong.

Lửa dăng bạc điểm rực đèn hoa Trống dậy
trời xuân rộn gió đưa
Có còn yêu mến cuộc sống mới thấy được những tươi đẹp trong cuộc sống. Nhưng
Nguyên Dạ cũng viết:
Tân hoan nhập thủ sầu mang lý,
Cựu sự kinh tâm ức mộng trung.
Dịch nghĩa:
Vui đến giữa khi sầu rối ruột Việc còn để
rợn nhớ trong mơ.
Man man là buồn.
Vì còn luyến tiếc cuộc đời này, vẫn còn là giống hữu tình nên mới còn nỗi buồn đứt
ruột vẫn còn nhớ việc trong mơ...
Nhưng câu kết của Nguyên Dạ như một tiếng thở dài, muốn cuốn trôi hết mọi yêu
thương luyến tiếc: “Vị tất minh niên thử hội đồng.” Năm sau chưa chắc như bây giờ. Sang
năm sẽ có gì thay đổi? Khó khăn hơn, phú quý hơn, hay nước nhà thay đổi? Có lẽ hơn ai
hết bà mong có một đổi thay nào đó, nhưng bà cũng biết, sang năm cũng như bây giờ. Dẩu
có phú quý hơn, hay bần hàn hơn, mãi mãi “việc còn để rợn nhớ trong mơ.” Giấc mộng thì
không thể hóa thành thực, thực tại thì không thể thóat ra.
Trong một bài khác, từ khúc Hóan Khê Sa, Chu Thục Chân viết mấy câu rất
hay:
Tiểu viện tương liêm nhàn bất quyển,
Khúc phòng chu hộ muộn trường quynh,
Não nhân quang cảnh hựu thanh minh.
Dịch nghĩa:
Viện nhỏ rèm tương sầu biếng cuộn Khóa
son buồng trống thấm buồn sâu Não người
phong cảnh lại thanh minh.
Không phải rèm tương lười chẳng cuộn, không phải cửa son buồng lạnh làm cho
mấy câu thơ buồn sâu nặng mà chỉ có ba tiếng “hựu thanh minh”. Thời gian thấm thóat trôi
trong ba từ đó, vạn vật không đổi dời, nặng nề, không thể dứt cũng chỉ trong ba từ đó.



25

Vì “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” nên thi từ của u Thê thường đầy những
buồn thương. Trong Cung sầu là nỗi buồn mãnh liệt, ai óan không thể giải tỏa “Câu động
trường thiên viễn thủy sầu”, trong Tra Sinh Tử lại là nỗi buồn tiều tụy nhưng sâu sắc vô
cùng “bệnh khiếp la y bạc, bất nhẫn quyển liêm khan, tịch mịch lê hoa bạc.” Thiết tưởng
“sầu nhân” như cánh hoa đã lìa cành, lúc nào cũng có thể tan đi. Những nỗi sầu đó gộp lại
thành ‘Đọan trường tập.”
Giữa những nỗi sầu bất tận, lâu lâu óng ánh một giấc mộng không trọng
vẹn:
Xuân nhật trì trì lộng khinh nhu Hoa kính
ám hương lưu Thanh minh quá liễu Bất
kham hồi thủ Vân to ả chu lâu
Ngọ song thuỵ khởi oanh thanh xảo Hà
xứ hoán xuân sầu?
Lục dương ảnh lý Dịch nghĩa:
Chầm chậm ngày xuân khéo khinh nhu
Hương thoảng ngõ hoa sầu
Thanh minh đã quá
Chẳng kham ngoảnh lại
Mây phủ chu lầu
Ngọ song tỉnh giấc oanh vàng hót Đâu
chỗ gợi xuân sầu ?
Lục dương dưới bóng...
Tuy là cảnh vật mông lung, nhưng cũng thấy thấp thóang những tháng ngày tươi trẻ
trong tiếng oanh vàng hót, và thấp thóang “Lục Dương dưới bóng...” một bóng hình gì mà
không thể thốt ra.
Những giấc mộng thóang qua giữa nội tâm chất chứa nhiều bi kịch không thể tỏ bày

của Chu Thục Chân chính là những tác phẩm khiến người ta cảm động sâu sắc nhất.
Bi kịch mộng ước không thành, và sực bất lực của nhân sinh trong thi từ của u Thê
cũng chính là một bi kịch chung của giới nữ lưu thời bấy giờ.
Cùng thời với Chu Thục Chân, Lý Thanh Chiếu còn có Đường Uyển, em gái của Lục Du,
nổi tiếng với bài Thoa Đầu Phượng.
Thế tình bạc,
Nhân tình ác,
Vũ tống hoàng hôn hoa dị lạc.
Hiểu phong càn,
Lệ ngân tàn.
Dục tiên tâm sự,
Độc ngữ tà lan.
Nan! Nan! Nan!


26

Nhân thành các,
Kim phi tạc,
Bệnh hồn tằng tự thu thiên tác.
Giác thanh hàn,
Dạ lan san.
Phạ nhân tầm vấn,
Yết lệ trang hoan.
Man! Man! Man!
Tình đời bạc,
Tình người ác
Mưa tiễn hoàng hôn hoa tán tác Gió ail an,
Lệ hoen tàn Muốn thư tâm sự,
Rặt ý lan man Nan! Nan! Nan!

Người đơn bạc,
Nay mai khác
Bệnh lòng như thể ngàn thu tạc Tiếng tù vang,
Bóng đêm tím Sợ người tra hỏi,
Nuốt lệ tân trang Gian! Gian! Gian!
“Dục tiên tâm sự, độc ngữ tà lan”, hay “bệnh hồn tằng tự thu thiên tác, giác thanh
hàn, dạ lan san, phạ nhân tầm vấn, yết lệ trang hoan”, những câu từ khẩn cấp hỗn loan. Lòng
rối bời, tình thế loan, có thể tả hết được những nôn nao bức bách tuy tả tình thế nhiều nhưng
cảm xúc cũng rất tinh tế. Tuy Thoa Đầu Phượng là một bài từ hay, nhưng tác phẩm lưu
truyền phổ biến của Đường Uyển dường như cũng chỉ có bao nhiêu đó. Một hoặc vài bài từ
tuy có thể khắc họa tài hoa của từ nhân nhưng không thể có cái nhìn về cuộc đời, tâm trạng
của từ nhân.
Đường Uyển là em gái của thi nhân, từ nhân vĩ đại nhất nhì đời Tống, Lục Du mà
thi từ lưu truyền còn ít ỏi đến thế thì những nữ tác giả khác càng rải rác hơn. Có khi vì danh
tiếng, tài sắc của người xưa mà không ít người sau đặt thêm thi từ gán cho người xưa để
thêu dệt thêm huyền thọai.
Tình trạng này không chỉ có ở đời Tống mà đời nào cũng vậy.
Ngay cả khi thi văn cực thịnh ở đời Đường thì thi tử của những nữ từ nhân cũng rất
rải rác. Tiết Đào được gọi là “Nữ Hiệu Thư” tương truyền xướng họa với thi nhân nổi danh
đương thời là Nguyên Chẩn không hề thua kém. Thế nhưng tác phẩm lưu truyền của nàng
lại là một bài Ngô Đồng Thi được làm khi nữ sĩ đã được tuổi.


27

Đời Tấn thì lưu truyền Tạ Đạo uẩn với câu chuyện về tuyết và bông liễu bay, đời
Hán thì có bài thơ trên quạt của Ban Tiệp Dư, Tây Hán có Trác Văn Quân v.v... ngòai ra
còn có thi phú rải rác một vài bài được cho là của các danh kĩ nổi tiếng tài sắc lưu lại.
Tụ chung ngọai trừ Lý Thanh Chiếu và Chu Thục Chân không có nữ tác gia nào có
đầy đủ tác phẩm xuất sắc để hình dung trọng vẹn về tâm tình và đời sống của mình.

Thời đại của Lý Thanh Chiếu là một thời đại hào hoa, nhưng là một nữ nhân trong
xã hội phong kiến, xuất thân từ một gia đình quyền quý, đương nhiên Lý Thanh Chiếu cũng
đã thấm nhuần những đạo đức và khuôn khổ của nho gia. Điều đáng nói ở đây là Lý Thanh
Chiếu vượt qua khỏi những khuôn khổ cứng nhắc đó và đi ngược lại với những tư tưởng
chuộng lý học của Chu Di vốn đã ăn sâu vào tâm tưởng của xã hội Trung Hoa.
Vào thời của bà, tình yêu được viết ra đa số là dưới ngòi bút của nam tử, nữ tử. Còn
lại đề tài tình yêu được chính nữ tử viết ra chỉ còn lại một vài bài tràn ngập nỗi óan hờn của
cung tần trong hậu cung như Ban Tiệp Dư hay Chân Thị hòang hậu... hay là nỗi sầu muộn
vì bị chia cách của các ca nữ. Nhưng phần nhiều những sáng tác này đều có nhiều tranh cãi
về nguồn gốc xuất xứ, trong số đó không ít bài được cho là những bản dân ca. Trong các
sáng tác của các phụ nữ thuộc tầng lớp quý tộc còn lưu truyền lại tình yêu đều được nói đến
rất kín đáo, ý nhị, hoặc giả trong thơ của họ không hề nói đến tình yêu mà chỉ nói về non
xanh thủy tú.
Trong Từ của Lý Thanh Chiếu tình yêu chiếm một vị trí quan trọng. Tình cảm trong
từ của bà không phải là thứ tình cảm nhất nhất phụng thờ chồng như đạo đức Khổng giáo,
mà là một thứ tình yêu có cho có nhận, tự nhiên thuần chất. Vì thế từ của bà chính là đã nói
thay lời cho rất nhiều người phụ nữ Trung Hoa.

2.2 HÌNH ẢNH NGƯỜI PHU NỮ TRUNG HOA TRONG NHỮNG
SẮNG TẮC Ở GIAI ĐOAN ĐẦU CỦA LỶ THANH CHIỂU

2.2.1 Phong tư
Thơ cũng chính là người. Lý Thanh Chiếu trọng âm luật, trọng điển nhã, trong tình
ý cô đọng, từ của bà cũng giống như một bức tranh thủy mặc vẽ bằng thủ pháp Bạch Mao.
Những người trong thơ của bà không bao giờ tả rõ, chỉ là vài nét phác qua, vài cử
nét động nhưng lại vô cùng tinh tế. Tả người phụ nữ, không bao giờ lại thấy rõ hoa dung
của nàng, chỉ thấy vài cử chỉ, chỉ thấy vài tâm tình, giống như một mùi hương phảng phất...
không rõ người mà chỉ thấy phong vận của người
Giống như nét tinh tế, ý nhị trong bài Giản Tự Mộc Lan Hoa:



×