Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Vẽ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong thơ hồ xuân hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (50.08 KB, 4 trang )

Vẽ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Viết về người phụ nữ, Hồ Xuân Hương còn có những bài thơ bày tỏ niềm kiêu hãnh của mình
về vẻ đẹp hình thức, vẽ đẹp tâm hồn và vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ của người phụ nữ.
1. Vẽ đẹp hình thức
Người phụ nữ trong văn học giai đoạn này xuất hiện không còn cái khép nép trong cái mô
thức “tại gia tòng phụ, phu tử tòng phu” hay “công, dung, ngôn, hạnh”.
Trong cuộc tao ngộ các giai nhân của văn học giai đoạn này, người ta thấy thường là
những cô gái trẻ đẹp, thanh lịch, với nụ cười trên môi và chan chúa tình yêu đời, yêu người
trong lòng. Hồ Xuân Hương sáng tác trong bối cảnh ấy, với tính cách và cảnh ngộ riêng của
mình, nhà thơ viết rất nhiều về phụ nữ, nữ thi sĩ xứng đáng là nhà thơ của phụ nữ.
Điều này càng được làm rõ hơn qua bài thơ “Đề tranh tố nữ”:

Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình

Trách người thợ vẽ khéo vô tình
Với Hồ Xuân Hương thì công khai ca ngợi và khẳng định vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ.
Cách miêu tả của Xuân Hương thuộc vào loại độc đáo nhất của thời đại. Bà chú ý đến những
bộ phận thân thể thường được dấu kín của con người. Những bộ phận đó văn học thời đại
thường né tránh. Riêng Hồ Xuân Hương lại nhìn thấy đó chính là một trong những biểu hiện
của vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ. Cách miêu tả của bà cụ thể, không chung chung, mờ
nhạt:
Lược trúc chải dài trên mái tóc,
….
Một lạch Ðào nguyên suối chửa thông
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Đây là sự trinh trắng ngây thơ, là sự hồn nhiên trọn vẹn. Cách miêu tả của nhà thơ không có
một chút bỡn cợt, trái lại thể hiện một thái độ hết sức nâng niu, trân trọng. Trong thời buổi
suy tàn của xã hội phong kiến, con người bị chà đạp, bị giày xéo. Nhiều giá trị bị đảo lộn, bị
nghi ngờ. Nhà thơ giữ cho mình nguyên vẹn cặp mắt trong veo để nhìn người, nhìn đời, để
thấy hết mọi giá trị đẹp của con người. Cũng vì thế mà thơ Xuân Hương có giá trị nhân đạo
sâu sắc.



2.Vẽ đẹp tâm hồn
Trong xã hội cũ, có ai dám như Xuân Hương đứng ra bênh vực cho những người con gái dở
dang ấy, có ai dám ngang nhiên thừa nhận những quy tắc đi ngược lại khuôn mẫu của lễ giáo
phong kiến như bà. Những điều đó chỉ có ở bản lĩnh, một trái tim tha thiết, nồng ấm sự cảm
thông của một tâm hồn nghệ sĩ.
Từ những tiếng nói cảm thông ấy, Xuân Hương còn lên tiếng đề cao ca ngợi họ, tìm thấy vẻ
đẹp thực sự chân chính ở họ. Trong một loạt hình tượng nói về số phận bấp bênh, hẩm hiu của
người phụ nữ như “chiếc bánh trôi” “bảy nổi ba chìm”; hay quả mít “vỏ nó xù xì”; con ốc nhồi
“đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi”… nhà thơ luôn chú trọng nêu bật cái đẹp bên trong, cái đẹp tâm
hồn của họ. Quả mít tuy “vỏ nó xù xì” nhưng “múi nó dày”.
Trong bài Bánh trôi nước, nhà thơ đã ca ngợi, đề cao, trân trọng phẩm chất kiên trinh của
người phụ nữ. Dù sống trong hoàn cảnh nào họ cũng giữ được tấm lòng son.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà en vẫn giữ tấm lòng son
( Bánh trôi nước)
Mặc dù, số phận người phụ nữ không được định đoạt, lênh đênh giữa cuộc đời nhưng họ
đành cam chịu. Cái duy nhất họ làm chủ được là tấm lòng mình. Người phụ nữ vẫn giữ sự
thủy chung, son sắt, bất biến với mối tình. Một lời nói thể hiện niềm tự hào về phẩm chất, thủy
chung của người phụ nữ.
Trong bài thơ Ðề tranh tố nữ, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp bất diệt của tuổi xuân, sự trinh
trắng, ngồn ngộn sức sống của những cô gái đang xoan:
Ðôi lứa như in tờ giấy trắng
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh
Bài Mời trầu lại là cái nhìn về vẻ đẹp của khát vọng sống.
Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi
……
Ðừng xanh như lá, bạc như vôi.
(Mời trầu)
Giống như bao cô gái khác, Xuân Hương cũng khao khát có một tình yêu bền chặt, nồng

cháy. Nàng cũng muốn mở lòng mình ra để đón lấy tình yêu nồng thắm từ người bạn đời tri
âm tri kỉ, đón những hương sắc của cuộc đời. Xuân Hương hồi hộp chờ đợi. Nhưng rồi năm
tháng trôi qua, những mùa xuân đi không trở lại, nhà thơ dần dần nhận ra cái bạc bẽo của
con người và cuộc đời, cái hẩm hiu của số phận. “Câu thơ nhân hậu của hờn dỗi, duyên dáng
mà có cái gì như đanh đá, thách thức”

3. Vẽ đẹp của tài năng, trí tuệ
Trong các nhà thơ phụ nữ ở nước ta, Hồ Xuân Hương và thơ ca của bà là một hiện tượng khá
đặc biệt được rất nhiều người đàm luận từ xưa đến nay.
Tục truyền hồi Xuân Hương còn đi học; một hôm gặp phải trời mưa, đến sân nhà trường, đất
trơn, cô nữ sinh trượt chân ngã oạch một ái, các bạn học thấy thế đều cười ầm lên. Nhưng
Xuân Hương đã đứng ngay dậy, ung dung đọc hai câu thơ rằng:

Giơ tay với thử trờ cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài

Rồi bình thản đi vào. Còn mấy chàng trai thấy thế cũng phục tài. Lại có chuyện, một hôm Xuân
Hương đi thăm chùa Trấn Quốc Về, nàng đang lững thững trên bờ Hồ Tây, bổng thấy có mấy
thầy khóa bước rảo lên theo sát ở đằng sau. Rồi trêu ghẹo nàng có người lại mang cả văn
chương chữ nghĩa ra nữa, nàng đọc cho một bài thơ rằng:

Khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ

Có thể nói rằng, trong cái xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ”như vậy mà Xuân Hương
vẫn dám khẳng định tài năng, trí tuệ hơn người của mình.
Hay trong bài Ðề đền Sầm Nghi Ðống, tác giả đã thể hiện được sự tự ý thức về mình, thể
hiện được tài năng của người phụ nữ.
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
….

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.
Ði qua ngôi đền thờ tên tướng bại trận, nhà thơ phụ nữ này đã không chịu cất nón, cúi
đầu chào kính cẩn, trái lại còn buông lời chê cười, mỉa mai: ghé mắt tức là nhìn liếc, nhìn
bằng nửa con mắt. Kìa là chỉ, trỏ, không đáng chú ý. Ðứng cheo leo: Thế đứng buồn tẻ, không
có gì là vững chãi. Ðặc biệt ở hai câu kết nhà thơ đã dám nói một điều táo bạo: Nếu được làm
trai thì sự nghiệp anh hùng của ta sẽ không xoàng, không tồi tệ như sự anh hùng của nhà
ngươi đâu.
Qua đây, ta cũng hiểu thêm ít nhiều về người phụ nữ xưa, không chỉ đẹp về hình thể mà họ còn
là những con người mang đầy tài năng.

Có thể nói, ngoài văn học dân gian, Hồ Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn
học dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nói của những người phụ nữ ấy, những tiếng than
và những tiếng thét, những tiếng căm hờn và những tiếng châm biếm sâu cay.

Đặc điểm của thơ Xuân Hương là không bao giở dửng dưng, lạnh nhạt. Nhà thơ luôn luôn có
một trái tim cháy bỏng, nói đến cái gì là nói đến với tất cả sự xúc động chân thành của mình,
Khi giận dữ thì thét lên, mắng chửi; khi yêu thương thì đằm thắm, ngọt ngào. Nếu bài Cảnh
chồng chung là tiếng nói phẫn uất chua xót đối với chế độ đa thê bất công mà người phụ nữ
phải chịu đựng, thì bài Không chồng mà chửa lại là một bời nói rất mực khoan dung, độ
lượng đối với cảnh ngộ không may của họ.
Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ chửa hoang là một tai họa tầy đình, Thời Hổ Xuân
Hương sống và sáng tác, bộ luật Gia Long ghi rõ: ”Nam nữ đã đính hôn với nhau, nhưng chưa
cưới mà dã thông gian thì phải phạt một trăm trượng”. Và chú thêm: ”người đàn bà phạm tội
gian dâm thì hết cả liêm sỉ, nên bắt cởi áo cánh, cho để mặc váy mà gia hình; còn tội khác, khi
phạt cũng được mặc cả áo”.

×