Tải bản đầy đủ (.pdf) (189 trang)

Kỹ năng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của học viên sĩ quan cấp phân đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 189 trang )

Header Page 1 of 89.

Lời cam đoan
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực
và có xuất xứ rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Tạ Quang Đàm

Footer Page 1 of 89.


Header Page 2 of 89.

MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU KỸ NĂNG TỰ HỌC
CÁC MÔN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN CỦA
HỌC VIÊN SĨ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI

1.1.
1.2.

1.3.

Các khái niệm cơ bản


Những thành tố tạo thành và các giai đoạn hình thành kỹ
năng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của học
viên sĩ quan cấp phân đội
Đặc điểm hoạt động tự học và các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ
năng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của học
viên sĩ quan cấp phân đội

Chương 2 TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1
Đơn vị, khách thể và nội dung nghiên cứu
2.2
2.3

Các giai đoạn nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu

2.4
Thang điểm và tiêu chí đánh giá
Chương 3 THỰC TRẠNG, BIỆN PHÁP VÀ KẾT QUẢ THỰC
NGHIỆM NÂNG CAO MỘT SỐ KỸ NĂNG TỰ HỌC CÁC
MÔN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN CỦA HỌC
VIÊN SĨ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI

3.1
3.2

3.3

3.4


Thực trạng kỹ năng tự học các môn khoa học xã hội và
nhân văn của học viên sĩ quan cấp phân đội
Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng tự học các
môn khoa học xã hội và nhân văn của học viên sĩ quan cấp
phân đội
Biện pháp tâm lý - sư phạm nâng cao kỹ năng tự học các
môn khoa học xã hội và nhân văn của học viên sĩ quan cấp
phân đội
Kết quả thực nghiệm nâng cao một số kỹ năng tự học các
môn khoa học xã hội và nhân văn của học viên sĩ quan cấp
phân đội

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Footer Page 2 of 89.

Trang

7
14
27
27

37

53

76
76
77
83
97

101
101

115

123

134
148
151
152
161


Header Page 3 of 89.

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT

Footer Page 3 of 89.

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

CHỮ VIẾT TẮT


1

Cán bộ quản lý

CBQL

2

Đại học quân sự

ĐHQS

3

Đơn vị thực nghiệm

ĐVTN

4

Đơn vị đối chứng

ĐVĐC

5

Điểm trung bình

ĐTB


6

Học viên sĩ quan

HVSQ

7

Học viện Hậu cần

HVHC

8

Học viện Kỹ thuật quân sự

HVKTQS

9

Khoa học xã hội và nhân văn

KHXH&NV

10

Khá - giỏi

K-G


11

Kỹ năng tự học

KNTH

12

Sĩ quan Lục quân

SQLQ

13

Sĩ quan Chính trị

SQCT

14

Nhà xuất bản

Nxb

15

Tâm lý học

TLH


16

Trung bình - Trung bình khá

TB-TBK


Header Page 4 of 89.

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số

Tên bảng biểu

thứ

Trang

tự

3.1

Mức độ thành thạo kỹ năng tự học các môn khoa học xã hội và
nhân văn ở nhóm kỹ năng 1 (tự đánh giá của học viên)

3.2

Mức độ thành thạo kỹ năng tự học các môn khoa học xã hội và
nhân văn ở nhóm kỹ năng 2 (tự đánh giá của học viên)


3.3

106

Mức độ thành thạo KNTH các môn KHXH&NV (Đánh giá của
cán bộ - giảng viên)

3.6

104

Tương quan giữa các nhóm kỹ năng với KNTH các môn
KHXH&NV của HVSQ

3.5

103

Mức độ thành thạo kỹ năng tự học các môn khoa học xã hội và
nhân văn ở nhóm kỹ năng 3 (tự đánh giá của học viên)

3.4

101

108

Mức độ thành thạo KNTH các môn KHXH&NV của HVSQ
cấp phân đội của các nhà trường quân sự


113

3.7

Mô tả thống kê các kỹ năng thực nghiệm tác động

135

3.8

Kỹ năng lập kế hoạch tự học của HVSQ thống kê theo tần suất

136

3.9

Mức chênh lệch giữa lần 1 và lần 3 kỹ năng lập kế hoạch tự
học của HVSQ ở ĐVTN và ĐVĐC

3.10 KN đọc và ghi chép thông tin của HVSQ thống kê theo tần suất

138
140

3.11 Mức chênh lệch giữa lần 1 và lần 3 kỹ năng đọc và ghi chép
thông tin khi đọc tài liệu của HVSQ ở ĐVTN và ĐVĐC
3.12 Kỹ năng làm bài thu hoạch của HVSQ thống kê theo tần suất

142

143

3.13 Mức chênh lệch giữa lần 1 và lần 3 kỹ năng làm thu hoạch
của HVSQ ở ĐVTN và ĐVĐC

Footer Page 4 of 89.

144


Header Page 5 of 89.

DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Số thứ tự

Tên đồ thị, sơ đồ, biểu đồ

Trang

1.1

Những thành tố tạo thành KNTH các môn KHXH&NV
của HVSQ cấp phân đội
Các giai đoạn hình thành KNTH các môn KHXH&NV
của học viên sĩ quan cấp phân đội
Mức độ thành thạo KNTH các môn KHXH&NV của
HVSQ ở nhóm KN1.
Mức độ thành thạo KNTH các môn KHXH&NV của
HVSQ ở nhóm KN2.
Mức độ thành thạo KNTH các môn KHXH&NV của

HVSQ ở nhóm KN3.
Tương quan giữa các nhóm kỹ năng với KNTH các môn
KHXH&NV của HVSQ cấp phân đội
Đánh giá của giảng viên, CBQL và HVSQ về mức độ
thành thạo KNTH các môn KHXH&NV
So sánh KNTH các môn KHXH&NV của HVSQ
có học lực khác nhau
Mức độ thành thạo KNTH các môn KHXH&NV của
HVSQ cấp phân đội của các nhà trường quân sự
Biểu đồ biểu diễn mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến
KNTH các môn KHXH&NV theo đánh giá của HVSQ
Đánh giá của học viên, giảng viên và CBQL về các yếu
tố ảnh hưởng tới KNTH các môn KHXH&NV của
HVSQ cấp phân đội
Mức chênh lệch kỹ năng lập kế hoạch tự học của
HVSQ ở ĐVTN và ĐVĐC sau đo nghiệm lần 3
Mức chênh lệch kỹ năng đọc và ghi chép thông tin
khi đọc tài liệu của HVSQ ở ĐVTN và ĐVĐC sau đo
nghiệm lần 3
Mức chênh lệch kỹ năng làm bài thu hoạch của
HVSQ ở ĐVTN và ĐVĐC sau đo nghiệm lần 3

43

1.2
3.1
3.2
3.3
3.4
3.5

3.6
3.7
3.8
3.9

3.10
3.11

3.12

Footer Page 5 of 89.

53
102
104
105
107
109
112
114
121
123

139
142

145


Header Page 6 of 89.


7

MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Chúng ta đang sống trong thời đại bùng nổ thông tin mà ở đó khối lượng
tri thức của loài người tăng lên với tốc độ nhanh chóng. Đứng trước thực tế
này, giáo dục nhà trường đã có những thay đổi căn bản: từ quan niệm học tập
chỉ trong một thời gian nhất định bằng quan niệm: “học thường xuyên, học liên
tục, học suốt đời”. Để có thể học tập suốt đời đạt hiệu quả, đương nhiên mỗi
người phải lựa chọn cho mình một cách phù hợp nhất, lấy tự học làm nền tảng.
“Kỹ năng tự học các môn KHXH&NV của học viên sĩ quan cấp phân
đội” là vấn đề thuộc lĩnh vực Tâm lý học được nghiên cứu mang tính chất đặc
thù về hoạt động tự học trong môi trường quân sự. Trên cơ sở khái quát về lý
luận và thực tiễn các công trình nghiên cứu Tâm lý học, Giáo dục học trên thế
giới và trong nước, tác giả đã xây dựng khái niệm KNTH các môn
KHXH&NV của HVSQ cấp phân đội; những thành tố tạo thành; các giai
đoạn hình thành; các yếu tố ảnh hưởng; chỉ rõ thực trạng và đề xuất các biện
pháp tâm lý - sư phạm nâng cao KNTH các môn KHXH&NV của HVSQ cấp
phân đội ở trường đại học quân sự hiện nay.
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Trong quá trình dạy học cách dạy “thầy truyền thụ, trò tiếp thu” ngự trị
bao năm trong nền Giáo dục Việt Nam cho đến nay có thể nói vẫn chưa thực
sự thay đổi. Chính lối dạy và cách học thụ động như thế đã vô tình trở thành
rào cản khiến người học khó có thể tự mình lĩnh hội được kiến thức. Do vậy,
dạy học làm sao phải phát triển toàn diện phẩm chất năng lực cho người học,
để họ có thể tự mình học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Nền tảng của
việc học tập ấy chính là người học phải biết cách tự học.
Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành trung ương khoá XI chỉ rõ:


Footer Page 6 of 89.


Header Page 7 of 89.

8

“Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu chú trọng trang bị kiến
thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của người học, thực
hiện mục tiêu giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài với nguyên lý giáo dục: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với
lao động sản xuất, kinh doanh, lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục nhà
trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội” ... “Chuyển hệ
thống giáo dục cứng nhắc, thiếu tính liên thông hiện nay sang hệ thống
giáo dục mới, linh hoạt, bảo đảm liên thông giữa các trình độ và giữa các
phương thức đào tạo; tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập suốt đời; xây
dựng xã hội học tập” [20, tr. 99].
Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của quân đội có ý nghĩa chiến
lược trong sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần quyết định thành công của
công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trong tình hình mới. Để đáp ứng yêu cầu đó một trong những đòi hỏi đối với
người sĩ quan quân đội phải có phẩm chất, năng lực toàn diện đặc biệt là
phẩm chất nhân cách của họ.
Các môn KHXH&NV ở nhà trường quân đội là các môn học rất quan trọng
và cần thiết đối với người sĩ quan quân đội. Đây là các môn học có vai trò hàng
đầu trong xây dựng cho đội ngũ sĩ quan quân đội thế giới quan khoa học, quan
điểm chính trị rõ ràng khi xem xét các hiện tượng, các sự kiện của xã hội và hoạt
động quân sự; trong hình thành, phát triển các phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống của người quân nhân cách mạng, từ đó góp phần xây dựng quân

đội vững mạnh về chính trị. Tuy nhiên, thực tế phần lớn HVSQ khi mới vào học
trong nhà trường quân đội còn rất lúng túng trong phương pháp tự học, tự học
đối với họ chủ yếu là xem lại bài, cố nhớ theo kiểu học thuộc lòng những nội
dung chính để trả bài, trả bài xong là quên, trình độ vận dụng kiến thức được

Footer Page 7 of 89.


Header Page 8 of 89.

9

trang bị vào thực tiễn rất yếu. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng
trên là do HVSQ thiếu những KNTH cần thiết. Đã có nhiều công trình nghiên
cứu về tự học, các khía cạnh khác khai thác về tự học rất phong phú, nhưng
khoảng trống mà các công trình của các tác giả chưa đề cập sâu chính là
KNTH các môn KHXH&NV của HVSQ cấp phân đội đây là một đề tài khoa
học mới, có tính thời sự, cấp bách và chưa được làm rõ; nó rất cần được giải
quyết. Bởi vậy nâng cao KNTH các môn KHXH&NV là một trong những
nhiệm vụ quan trọng, không thể thiếu được trong quá trình học tập.
Về mặt lý luận, đã có không ít các công trình nghiên cứu về kỹ năng, tự
học, kỹ năng học, trong đó có đề cập đến những vấn đề thuộc kỹ năng tự học,
tuy nhiên vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập trực tiếp KNTH ở
góc độ Tâm lý học nhất là các thành tố tạo thành, các giai đoạn hình thành
KNTH các môn KHXH&NV của học viên sĩ quan cấp phân đội.
Với những lý do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài: “Kỹ năng tự học các
môn KHXH&NV của học viên sĩ quan cấp phân đội”để nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn về KNTH các môn

KHXH&NV của HVSQ cấp phân đội, luận án đề xuất các biện pháp tâm lý sư
phạm nhằm nâng cao KNTH, của học viên, đáp ứng mục tiêu yêu cầu đào tạo
trong tình hình hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu KNTH các môn KHXH&NV của
HVSQ cấp phân đội.
- Khảo sát đánh giá thực trạng KNTH và các yếu tố ảnh hưởng đến
KNTH các môn KHXH&NV của HVSQ cấp phân đội.
- Đề xuất biện pháp tâm lý - sư phạm nâng cao KNTH các môn
KHXH&NV cho HVSQ cấp phân đội ở các trường đại học quân sự hiện nay.

Footer Page 8 of 89.


Header Page 9 of 89.

10

- Tổ chức thực nghiệm tác động nâng cao KNTH các môn KHXH&NV
của HVSQ cấp phân đội trong quá trình học tập ở các trường đại học quân sự.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và giả thuyết khoa học
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Kỹ năng tự học các môn KHXH&NV
Khách thể nghiên cứu:
978 Học viên sĩ quan cấp phân đội và 100 giảng viên, cán bộ quản lý ở
các trường: Trường sĩ quan Lục quân 1, Trường sĩ quan Chính trị, Học viện
Hậu cần, Học viện Kỹ thuật quân sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về nội dung
Nghiên cứu KNTH các môn KHXH&NV của HVSQ cấp phân đội ở góc

độ tâm lý học sư phạm, đề tài đi sâu nghiên cứu thực trạng biểu hiện của mức
độ thành thạo KNTH và khảo sát kỹ thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến
KNTH các môn KHXH&NV của HVSQ cấp phân đội.
- Giới hạn về địa bàn nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu KNTH của HVSQ đại diện cho các loại
hình ngành nghề đào tạo của trường đại học quân sự ở Miền Bắc: Trường sĩ
quan Chính trị; Trường sĩ quan Lục quân 1; Học viện Hậu cần; Học viện Kỹ
thuật quân sự.
4.3. Giả thuyết khoa học
KNTH các môn KHXH&NV của HVSQ cấp phân đội còn thấp, ở ba
nhóm KNTH: kỹ năng lập kế hoạch tự học; kỹ năng triển khai thực hiện kế
hoạch tự học; kỹ năng tự kiểm tra, điều chỉnh.
Nếu làm rõ được 3 nhóm KNTH, những thành tố tạo thành, các giai đoạn
hình thành và những yếu tố ảnh hưởng tới KNTH của HVSQ, đồng thời tiến
hành những biện pháp tác động vào kỹ năng lập kế hoạch tự học; kỹ năng đọc và

Footer Page 9 of 89.


Header Page 10 of 89.

11

ghi chép thông tin khi đọc tài liệu một cách hợp lý; học viên biết cách làm bài
thu hoạch thì sẽ nâng cao được KNTH các môn KHXH&NV của HVSQ cấp
phân đội.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hổ
Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tự học làm cơ sở lý

luận. Đồng thời dựa trên quân điểm của tâm lý học hoạt động; hệ thống lý
luận về kỹ năng, tự học, KNTH của các nhà khoa học trên thế giới và trong
nước để giải quyết các vấn đề đặt ra..
Thực tiễn chất lượng tự học các môn KHXH&NV của HVSQ trong nhà
trường quân sự hiện nay, học viên chưa biết cách tự học các môn học này nên
kết quả học tập còn thấp chưa đáp ứng được mục tiêu yêu cầu đào tạo của nhà
trường quân sự. Các đề tài khoa học nghiên cứu về lĩnh vực này trên thực tiễn
có nhiều công trình đã nghiên cứu về tự học, KNTH nhưng chưa có công trình
nào nghiên cứu một cách hệ thống KNTH các môn KHXH&NV của HVSQ
cấp phân đội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án được xây dựng dựa trên cơ sở phương pháp nghiên cứu của
chủ nghĩa Mác - Lênin, các nguyên tắc phương pháp luận của Tâm lý học
như: nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng các hiện tượng tâm lý;
nguyên tắc thống nhất giữa tâm lý, ý thức và hoạt động; nguyên tắc phát triển
tâm lý với phương pháp tiếp cận: hoạt động - giá trị - nhân cách, hệ thống cấu trúc, lịch sử - lô gic, các luận điểm và sự phát triển tâm lý con người...
- Luận án sử dụng ba nhóm phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
Nhóm phương pháp phân tích tài liệu: đọc, phân tích, khái quát hoá các
công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, các văn kiện, sách, tài liệu, luận

Footer Page 10 of 89.


Header Page 11 of 89.

12

án … có liên quan đến đề tài để thu thập thông tin phục vụ xây dựng cơ sở lý
luận cho vấn đề nghiên cứu của mình.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: để đánh giá thực trạng và có

cơ sở đề xuất biện pháp tâm lý - sư phạm nâng cao KNTH các môn
KHXH&NV của HVSQ cấp phân đội, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp đàm thoại: Trao đổi với cán bộ giảng viên và học viên
sĩ quan có học lực khác nhau để thu thập thêm thông tin, tăng cơ sở cho nhận
định của luận án.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Sử dụng các bảng câu hỏi điều
tra ý kiến đánh giá của học viên, giảng viên, CBQL nhằm phát hiện thực trạng
của vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu một số học viên, giảng
viên, CBQL về KNTH các môn KHXH&NV của HVSQ cấp phân đội.
- Phương pháp chuyên gia: Trao đổi, tìm hiểu ý kiến của các chuyên
gia nhằm làm sáng tỏ hơn phần cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu, các
thành tố tạo thành, các giai đoạn hình thành KNTH của HVSQ.
- Phương pháp quan sát: Quan sát việc học tập của HVSQ trên lớp và
tự học ở nhà để làm rõ hơn phần thực trạng.
- Phương pháp thực nghiệm: Tổ chức thực nghiệm một số biện pháp
tác động nâng cao KNTH các môn KHXH&NV của HVSQ cấp phân đội.
- Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động: Phân tích các bài viết
thu hoạch, qua kết quả các buổi thảo luận và kết quả thi, kiểm tra.
Nhóm phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học: số liệu thu
được sau khảo sát thực tế được sử dụng một số công thức toán học thống kê
với sự trợ giúp của phần mềm SPSS dùng trong môi trường Window.

Footer Page 11 of 89.


Header Page 12 of 89.

13


6. Những đóng góp mới của luận án
Đóng góp mới về lý luận
- Luận án xác định những kỹ năng trong tự học các môn KHXH&NV
của HVSQ cấp phân đội.
- Xác định những thành tố tạo thành và các giai đoạn hình thành KNTH
các môn KHXH&NV của HVSQ cấp phân đội.
- Làm rõ đặc điểm hoạt động tự học, chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến
KNTH các môn KHXH&NV của HVSQ cấp phân đội.
Đóng góp mới về thực tiễn
- Luận án đánh giá đúng thực trạng KNTH các môn KHXH&NV của
HVSQ cấp phân đội.
- Đưa ra phương thức thực nghiệm tác động nâng cao một số KNTH
cho HVSQ nhà trường quân đội.
- Luận án đề xuất các biện pháp tâm lý - sư phạm nhằm nâng cao
KNTH các môn KHXH&NV của HVSQ cấp phân đội ở các trường đại học
quân sự.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án đã bổ sung, góp phần làm rõ một số khái niệm của Tâm lý học
quân sự như: KNTH, KNTH các môn KHXH&NV của HVSQ cấp phân đội.
- Luận án làm phong phú thêm hệ thống lý luận về KNTH các môn
KHXH&NV của HVSQ cấp phân đội.
- Luận án là tài liệu tham khảo cho người học nói chung, HVSQ ở các
trường đại học quân sự nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng đạo tạo sĩ
quan trong nhà trường quân đội.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan vấn đề nghiên cứu, kết luận, kiến nghị,
danh mục tài liệu tham khảo, luận án được trình bày thành ba chương, 11 tiết.

Footer Page 12 of 89.



Header Page 13 of 89.

14

TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài về tự học và kỹ năng tự học
1.1. Nghiên cứu về tự học
Hoạt động học là phương thức để con người tiếp thu tri thức, hành vi
trong cuộc sống. Việc học giúp cá nhân lĩnh hội tri thức đã được tích luỹ
trong quá trình lao động sản xuất và sinh hoạt cộng đồng. Việc lĩnh hội tri
thức của mỗi người chỉ đạt được kết quả cao khi họ tự học. Do vậy, nghiên
cứu về tự học có giá trị nhất định trong việc thúc đẩy con người tích luỹ kinh
nghiệm, tri thức khoa học để nâng cao năng lực nhận thức thế giới khách
quan. Vấn đề tự học đã được nhiều tác giả nghiên cứu.
Dựa trên những thành tựu lý luận cơ bản của Tâm lý học hành vi và
tâm lý học trí tuệ, xem xét con người với tư cách là “con người cá thể”, mà sự
phát triển tâm lý của nó trước hết phải tuân theo các quy luật đặc biệt từng cá
thể. Dựa trên cơ sở tâm lý đó, các nhà khoa học đã tìm ra phương pháp dạy
học nhằm khai thác và phát huy tốt nhất “cái cá nhân” trong người học. Có
thể khái lược một số kết quả nghiên cứu theo các hướng sau:
Hướng nghiên cứu vai trò của tự học
Vào đầu thế kỷ XX H. Hippơ và M. Phorvec trong cuốn “Nhập môn
tâm lý học xã hội” [39], đã có các nghiên cứu và khẳng định vai trò của tự
học trong quá trình dạy học. Theo họ, trung tâm của nhà trường không phải là
người thầy mà là học trò, không phải chỉ có thầy giảng dạy mà trò phải tự
học, tự nâng cao tri thức cho bản thân với sự giúp đỡ của thầy giáo.
Ở Mỹ ngay từ năm 1920 các nghiên cứu đã đưa ra phương pháp giáo
dục dựa trên việc phát huy vai trò tự học của học sinh, nổi bật: C. Rose &

J.Malcolm Nicholl “Kỹ năng học tập siêu tốc thế kỷ XXI”[81]. Theo quan niệm
này toàn bộ hoạt động học của người học là do họ thực hiện theo những công
việc mà giáo viên giao. Với cách dạy như vậy người học được chủ động bộc lộ

Footer Page 13 of 89.


Header Page 14 of 89.

15

khả năng hoạt động của bản thân. Tuy nhiên quan niệm này cũng bị phê phán
là làm cho người học chỉ quan tâm cố gắng hoàn thành công việc được giao mà
hạn chế tính sáng tạo, không tạo được sự phát triển nhân cách người học.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, khoa học giáo dục có những tiến bộ
đáng kể, nghiên cứu về tự học tiếp tục được thực hiện ở mức độ cao hơn. Quá
trình dạy người học tự học được đề cao, bên cạnh đó vai trò của người thầy và
các điều kiện bảo đảm cho người học một môi trường sư phạm tối ưu cũng
được khẳng định. Tư tưởng này đã kích thích sự nỗ lực, tạo nên một loạt
phương pháp dạy học mới, làm phong phú lý luận thực tiễn của khoa học giáo
dục nhiều nước trên thế giới. Bên cạnh đó có sự tiến bộ rất nhanh của các
ngành khoa học cơ bản, một trong những tiến bộ đó là: sự xích lại gần nhau
hơn giữa dạy học truyền thống (Giáo viên là nơi phát động thông tin, học sinh
là nơi tiếp nhận thông qua diễn giảng trên lớp) và các quan điểm dạy học hiện
đại (học sinh là chủ thể tích cực, giáo viên là người tổ chức hướng dẫn). Theo
P. Buhle trong cuốn“Tự học kỹ năng quản lý trong 24 giờ” [7,tr.178]. Học
sinh là mặt trời, xung quanh nó quy tụ mọi phương tiện giáo dục”. Tư tưởng
“lấy học sinh làm trung tâm đã được cụ thể hoá thành nhiều phương pháp cụ
thể như: “phương pháp hợp tác”, “phương pháp tích cực”, “phương pháp cá
thể hoá”, “ phương pháp nêu vấn đề”, … trong đó “phương pháp dạy học tích

cực” được nghiên cứu triển khai rộng hơn cả. Theo phương pháp này, giáo
viên đóng vai trò gợi sự chú ý kích thích, thúc đẩy học sinh tự hoạt động. Vì
thế, người học đóng vai trò trung tâm của quá trình dạy học, còn người dạy là
chuyên gia của việc học. Nhìn chung tư tưởng “lấy học sinh là trung tâm
trong quá trình dạy học nói riêng và giáo dục nói chung đòi hỏi có sự phối
hợp của nhiều phương pháp, trong đó “phương pháp tích cực” là chủ đạo
mang tính nguyên tắc. Đây chính là cơ sở để đưa ra những biện pháp bồi
dưỡng KNTH cho học viên.

Footer Page 14 of 89.


Header Page 15 of 89.

16

N.A.Rubakin trong tác phẩm: “Tự học như thế nào” [82, tr.36], ông đã
nhấn mạnh vai trò của thái độ tích cực tự học trong việc chiếm lĩnh tri thức
của học sinh. Theo ông để tự học đạt kết quả thì: “Việc giáo dục động cơ
đúng đắn là điều kiện cơ bản để học sinh tích cực, chủ động trong tự học”.
Điều này chứng tỏ N.A.Rubakin đã thấy rõ vai trò của yếu tố động cơ trong
hoạt động tự học của học sinh. Như vậy, muốn học tập có kết quả đòi hỏi phải
giáo dục cho người học động cơ đúng trong tự học. Song thực tế có động cơ
đúng nhưng người học thiếu kỹ năng thực hiện thì hoạt động thì tự học vẫn
không đạt kết quả.
Hướng nghiên cứu theo các yếu tố của tự học
Theo hướng này, một số tác giả bàn về vấn đề học tập trong thời đại
khoa học kỹ thuật phát triển như: D.Goleman với với tác phẩm “ Trí tuệ cảm
xúc” [25] trong học tập, những biểu hiện và vai trò của trí tuệ cảm xúc, trí
tuệ cảm xúc là một trong những nhân tố quan trọng để học tập đạt hiệu quả;

D.Pam với đề tài“Social Work a Profession For Many Face” [123]. Nghiên
cứu hoạt động học tập của sinh viên trong trường học ảo, trường học mạng
trong thời đại công nghệ thông tin toàn cầu thì tự học là yếu tố quan trọng
nhất trong việc tiếp thu tri thức; E.Dyson trong tác phẩm“A Desing For
Living in the Digital Age” [115]. Nghiên cứu việc thiết kế cho cuộc sống, vấn
đề chủ yếu cho việc học tập trong thời đại kỹ thuật số là sinh viên phải biết
cách tự học, trong đó yếu tố tích cực tự giác của người học là nền tảng cho
quá trình tự học; L. Porelman với tác phẩm“School’s out” [125], nghiên cứu
về những siêu liên kết ngoài nhà trường, dựa vào một số kỹ thuật công nghệ
mới, báo động sự kết thúc của một nền giáo dục cổ điển, người học ngoài tiếp
thu tri thức từ thầy còn tự tìm kiếm tri thức thông qua các phương tiện hiện
đại khác. Do vậy, yếu tố phương tiện kỹ thuật hiện đại là không thể thiếu
được trong học tập hiện đại.

Footer Page 15 of 89.


Header Page 16 of 89.

17

Lý thuyết sư phạm học tương tác được J.M. Denommé và M.Roy trong
cuốn “Tiến tới một phương pháp sư phạm tương tác” [17, tr.124], được giới
thiệu lần đầu tiên ở Việt Nam vào năm 2000. Lý thuyết sư phạm học tương tác
đã có ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũ khi bàn về quan hệ tương tác
giữa dạy và học. Nhóm tác giả thuộc Viện Đại học đào tạo Giáo viên (IUFM) ở
Greonoble (Pháp) như Guy Brousseau, Claude Comiti, M.Artigue ... đã đặt cơ
sở khoa học cho những tác động sư phạm, thúc đẩy khả năng tự học của học
sinh lên cao mà vẫn không làm lu mờ, hạ thấp vai trò của người thầy giáo với
tư cách là người “khởi xướng” và là người “kết thúc” một tình huống dạy học.

Lý thuyết sư phạm học tương tác đặc biệt quan tâm nghiên cứu đến ba yếu tố:
người dạy, người học, môi trường trong quá trình đào tạo.
Với cách khai thác của tác giả N.Đ. Levitov trong cuốn“Tâm lý học trẻ
em và tâm lý học sư phạm” [51, tr.140], đã chỉ ra một số thành phần tâm lý cơ
bản của sự lĩnh hội, các thành phần này có mối quan hệ qua lại với nhau trong
tâm lý của người học, nếu thiếu sự tự giác, tích cực thì học tập của học sinh sẽ
không đạt yêu cầu đào tạo. Tức là trong học tập người học phải tự học, tự
giác, tích cực chiếm lĩnh tri thức cho bản thân. Những thành phần tâm lý của
sự lĩnh hội bao gồm: Thái độ tích cực của học sinh đối với công việc tự học;
các quá trình tìm hiểu tài liệu một cách trực tiếp và cảm tính; quá trình tư duy
với tư cách là quá trình cải biến tài liệu; quá trình ghi nhớ, bảo tồn thông tin.
Vấn đề tự học còn được R. Retxke người Đức bàn đến trong cuốn sách
“Học tập hợp lý” [ dẫn theo 4]. Tác giả cho rằng: Học tập ở đại học là một
quá trình phát triển của con người, quá trình này phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Trong các yếu tố đó thì yếu tố bên trong đóng vai trò quyết định đến kết quả
tự học. Việc hoàn thành có kết quả những nhiệm vụ tự học đặt ra đòi hỏi

Footer Page 16 of 89.


Header Page 17 of 89.

18

người học phải đấu tranh với bản thân một cách có phê phán và phải sáng tạo
trong quá trình tự học.
Hướng nghiên cứu về phương pháp tự học
L.P. Đôblaev “Những khía cạnh tâm lý của việc đọc sách” [21,
tr.11], đã phân tích những cơ sở khoa học tâm lý, những điều kiện ảnh
hưởng tối ưu đến quá trình đọc sách. Các tác giả đã phân tích được một số

yếu tố tâm lý cơ bản đảm bảo cho quá trình đọc sách đạt kết quả cao. Theo
tác giả phương pháp đọc sách là một trong những yếu tố quan trọng của tự
học ở người học.
P.V. Êxipôv trong tác phẩm “Công tác tự học của học sinh ngoài giờ
lên lớp” [22], cho rằng: Tự học là việc học của học sinh tiến hành khi không
có sự tham gia hướng dẫn trực tiếp của giáo viên. Trong đó người học phải
vươn tới mục đích đã đề ra. Trong nghiên cứu của mình tác giả cũng đưa ra
phương hướng để kích thích hoạt động tự học cho học sinh đó là: Trong quá
trình dạy học giáo viên có thể nêu lên hàng loạt vấn đề và yêu cầu học sinh
hoàn thành trong một thời gian xác định. Nhưng cách thức hướng dẫn người
học tự học thì tác giả chưa đề cập tới.
Tác giả B.Jean trong tác phẩm “Để tự học được tốt hơn” [43], tác giả đề
cập nhiều đến việc tổ chức hoạt động tự học của người học. Để học sinh tự học
tốt hơn đòi hỏi giáo viên phải hướng dẫn phương pháp tự học phù hợp với bậc
học, đặc thù từng môn học cho họ. Do vậy, vấn đề đặt ra là sinh viên cần được
trang bị phương pháp tự học ngay từ khi bắt đầu học môn học nhất là phương
pháp làm việc với sách, phương pháp khái quát, hệ thống nội dung của tài liệu
đã đọc.
Kết quả nghiên cứu của các tác giả trên cho thấy các nhà khoa học nước
ngoài đã xem xét tự học một cách toàn diện như: khẳng định vai trò quan trọng
của tự học, những thành tố, những phương pháp giúp cho người học tự học đạt

Footer Page 17 of 89.


Header Page 18 of 89.

19

hiệu quả. Vấn đề tự học được các tác giả xem xét trong mối quan hệ với hoạt động

dạy của quá trình dạy học. Việc tự học của học sinh được tổ chức dưới sự điều
khiển của giáo viên thông qua hệ thống các bài tập nhận thức nhằm thực hiện các
nhiệm vụ học tập. Tuy nhiên, nhìn chung các tác giả còn chưa nghiên cứu một
cách hệ thống và chỉ ra mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến KNTH, các yếu tố
tạo thành, các giai đoạn hình thành và giải pháp nâng cao KNTH cho người học...
1.2. Nghiên cứu về kỹ năng tự học
Khai thác KNTH của các nhà Tâm lý học nước ngoài có thể khái quát
thành ba hướng nghiên cứu sau:
- Hướng nghiên cứu huấn luyện để hình thành kỹ năng tự học
Trong những nghiên cứu ở hướng này khai thác vấn đề hình thành
KNTH cho người học dưới góc độ hoạt động sư phạm, một số nhà TLH quan
tâm nghiên cứu sự hình thành KNTH trong dạy học như: D.C. Fuller, I. Shah,
N.Đ. Levitov, C. Kyriacou, Shuell, Brow, Weinert, Helmke, N.J.Richard.
Tác giả D.C. Fuller “Teaching for learning at university” [117], trong
công trình nghiên cứu của mình đã đưa ra kết luận là việc học tập, nhận thức của
con người là một quá trình chủ động, tạo lập và tích luỹ. Ông cho rằng ngay ở
giai đoạn đầu của việc học tập, người học đã phải đối mặt với một số lớn các sự
kiện và thông tin riêng lẻ quan trọng. Do vậy, ngay từ đầu để tự học tốt, người
học đã phải chủ động cố gắng làm những gì có thể làm được: Học, giải thích
thông tin mới, khảo sát và “có những sai lầm bổ ích”. D.C. Fuller xác định: ở
giai đoạn trung gian, người học có thể sử dụng những thông tin mới tiếp nhận để
tự giải quyết những vấn đề đơn giản. Nghĩa là, người học có thể “học qua làm”.
Ở giai đoạn cuối, D.C. Fuller cho đó là giai đoạn học tập tích luỹ. Giai đoạn này
kiến thức thu nhận được của người học đã có tính chất hệ thống. Do đó, các kỹ
năng thu được qua tự động hoá và luyện tập thay đổi đã nâng cao khả năng hoạt
động, còn các thành phần siêu nhận thức tới lúc đó không chỉ tồn tại mà còn có
thể sử dụng được.

Footer Page 18 of 89.



Header Page 19 of 89.

20

Khai thác một khía cạnh khác của KNTH, I. Shah trong cuốn
sách“Learning how to learn”[127], cho rằng: để học tập có hiệu quả nó phụ
thuộc vào người học và sự khác biệt cá nhân của họ. Theo tác giả, việc học tập
rèn luyện của người học bị phụ thuộc vào những điều kiện như: Nguồn tri thức
vốn có; tạo tình huống học tập để người học tự học; làm xuất hiện, phát huy
yếu tố chủ động, tự giác, tích cực trong học tập, rèn luyện kết hợp với tính nêu
vấn đề trong dạy học của giáo viên, những yếu tố này chỉ phát huy tốt khi
người học có được kỹ năng tự học tập.
Nghiên cứu kỹ năng cụ thể các chuyên ngành tâm lý học khác nhau.
Các tác giả: N.Đ. Levitov nêu khái niệm và sự hình thành KN. A.V. Petrovxki
chỉ rõ cách dạy để hình thành kỹ năng; Tsebưseva kết luận là khi huấn luyện
kỹ năng nếu rút dần vai trò của nhà giáo dục để người học tự làm lấy thì kỹ
năng sẽ hình thành nhanh chóng và ổn định hơn.
Hướng nghiên cứu về các KNTH cụ thể
Tiêu biểu cho hướng này có một số nhà tâm lý học sau:
K. Barry và L. King trong cuốn“Beginning teaching second edition”
[112], các tác giả coi kỹ năng là năng lực thực hành của giảng viên, họ sắp
xếp hệ thống kỹ năng dạy học thành ba nhóm tương ứng với ba giai đoạn của
quá trình tự học. Đó là nhóm kỹ năng xây dựng chương trình giảng dạy, nhóm
kỹ năng giảng dạy và nhóm kỹ năng đánh giá. Các nhóm kỹ năng này của
giảng viên khi tương tác với học sinh sẽ giúp cho học sinh phát triển các
nhóm KNTH tương tự.
R. Gross trong cuốn“Học tập đỉnh cao” [26], nghiên cứu về xây dựng sự
tự tin trong học tập, cải thiện các kỹ năng đọc và nhớ, thiết kế môi trường học tập
tối ưu trong không gian ảo, cách thức tạo ra kế hoạch học tập suốt đời nhằm đạt

được thành công trong học tập và sự nghiệp. Colin Rose và Malcolm Nicholl “Kỹ
năng học tập siêu tốc trong thế kỷ XXI” [81] bàn khá sâu về các về các kỹ năng
ghi nhớ, các bước để làm chủ kiến thức, cách kích hoạt trí nhớ, tư duy phân tích,

Footer Page 19 of 89.


Header Page 20 of 89.

21

tư duy sáng tạo trong quá trình tự học. R. Sternberg “Hoàn thiện kỹ năng dạy học
cho trợ giảng ở đại học quân sự hiện nay” [dẫn theo 79, tr.11], nghiên cứu về
hoạt động học qua việc ứng dụng tâm lý học nhận thức để nâng cao các kỹ năng
trí tuệ. Ông xây dựng các chương trình rèn luyện kỹ năng trí tuệ cho học sinh qua
hoạt động dạy của giảng viên và hoạt động học của học sinh. R. Sternberg và J.
Robart còn phân tích sâu các kỹ năng tư duy để có được cách thức giảng dạy và
cách học phù hợp, có hiệu quả như việc chọn chương trình, thời gian tối thiểu cho
việc tự học, cách truyền đạt làm sao cho học sinh phải tích cực nghiên cứu, mục
đích cao nhất của việc dạy là để người học biết cách tự tìm kiếm tri thức trên cơ sở
đó sẽ có được các KNTH tốt nhất.
Tác giả A.N. Lêônchiev với tác phẩm“Hoạt động-ý thức-nhân cách”
[52], trong công trình nghiên cứu của mình ông chỉ ra các KNTH cần thiết
để bảo đảm cho người học đạt kết quả cao. Trong các KNTH đó, tác giả
nhấn mạnh đặc biệt đến kỹ năng đọc sách. Theo ông kỹ năng đọc sách là kỹ
năng cơ bản, quyết định đến kết quả hoạt động tự học của người học.
Kết quả nghiên cứu của tác giả V. Ô.Kôn về “Những cơ sở của việc dạy
học nêu vấn đề” [73], đã đưa ra các kỹ năng cơ bản của tự học để bảo đảm cho
người học đạt kết quả. Trong các KNTH đó thì kỹ năng đọc sách được tác giả coi
là kỹ năng quan trọng nhất trong hoạt động tự học. Bên cạnh đó tác giả còn cho

rằng: để tự học có hiệu quả thì người học phải biết kế hoạch hoá hoạt động tự học,
tức là phải có kế hoạch tự học. Theo ông có kế hoạch tự học sẽ giúp người học
chủ động trong hoạt động và thể hiện tác phong khoa học của bản thân.
Hướng nghiên cứu về các giai đoạn hình thành kỹ năng
Trong nghiên cứu của mình tác giả C. Kyriacou “Essential Teaching
Skills” [122]. đã phân biệt ba giai đoạn hình thành KNTH cho người học là:
Nhận thức, liên tưởng và tự lập. Tác giả cho rằng: ở giai đoạn nhận thức, con
người phải “hiểu thật rõ nhiệm vụ” xác định được nội dung cần đạt được làm cơ
sở để thu nhận và sử lý thông tin; ở giai đoạn liên tưởng diễn ra sự hình thành

Footer Page 20 of 89.


Header Page 21 of 89.

22

các “thành phần kỹ năng riêng lẻ”; ở giai đoạn tự lập, kỹ năng ngày càng được tự
động hoá nhiều hơn. Để người học có được KNTH, người dạy cần tuân thủ theo
các giai đoạn này.
Theo N.J. Richard trong cuốn“Basic counseling Skills” [126] tác giả đưa
ra ba giai đoạn để hình thành KNTH. Giai đoạn đầu tiên để có được KNTH đó
là giai đoạn nhận thức. Ở giai đoạn này người học phải tiếp thu các tri thức cơ
sở chuyên môn và tri thức về cách học chuyên môn đó. Giai đoạn thứ hai là
giai đoạn kết hợp, giai đoạn này người học kết hợp tri thức đã có với kinh
nghiệm học tập của bản thân để học tập. Tuy nhiên ở giai đoạn này người học
còn vướng nhiều sai sót. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn kỹ năng kiểm soát
được, ở giai đoạn này người học tương đối thuần thục các thao tác trong tự
học sai sót ít dần. Ở cuối giai đoạn này người học làm chủ được nội dung
cũng như cách thức học tập đạt hiệu quả. Ba giai đoạn để có được kỹ năng

trên mà N.J. Richard đề xuất nó tương đối giống với các giai đoạn hình thành
kỹ xảo, tập trung chủ yếu ở góc độ kỹ thuật.
Như vậy, quan điểm của các nhà tâm lý học nước ngoài đã đề cập khá
toàn diện đến KNTH ở các khía cạnh khác nhau như cách thức để có được
KNTH cho người học, những KNTH cần thiết và các điều kiện hình thành
KNTH. Tuy nhiên, các tác giả chưa đề cập một cách sâu sắc và toàn diện đến
các yếu tố ảnh hưởng, các thành tố tạo thành KNTH. Các giai đoạn hình thành
KNTH mà các tác giả đề cập đến chưa thật triệt để, nó phù hợp với các thao tác
kỹ thuật đơn thuần trong một hệ thống ổn định.
2. Các công trình nghiên cứu trong nước về tự học và kỹ năng tự học
Vấn đề tự học, KNTH cũng được nhiều nhà khoa học trong nước quan
tâm nghiên cứu:
Từ thời Phong kiến do ảnh hưởng của nền văn hoá Trung Hoa, việc học
của người học được hiểu và thực hiện một cách máy móc. Trong tự học kỹ

Footer Page 21 of 89.


Header Page 22 of 89.

23

năng chủ yếu nhất là ghi nhớ bài học theo kiểu “Thầy bảo thế”. Roger Gal
trong cuốn“Lịch sử giáo dục học” [23, tr.44], đã khái quát nền giáo dục Việt
Nam thời bấy giờ “Người ta tìm thấy sự bắt chước đúng mà không cần độc
đáo, người ta học thuộc lòng, làm theo và bắt chước thầy như một cái máy”.
Vấn đề tự học thực sự được phát động nghiên cứu nghiêm túc, rộng rãi
từ khi nền giáo dục cách mạng ra đời (1945), mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa
là người khởi xướng vừa nêu tấm gương về tinh thần tự học. Người từng nói:
“còn sống thì còn phải học”, và cho rằng: “về cách học phải lấy tự học làm

cốt” .... “ Không phải: có thầy thì mới học, thầy không đến thì đùa. Phải biết
tự động học tập”, “Không phải chỉ ở tại nhà trường, có lên lớp mới học tập tu
dưỡng, rèn luyện và tự cải tạo được” [63]. Có thể nói tự học là một tư tưởng
lớn của Hồ Chí Minh, về phương pháp học tập. Những lời chỉ dẫn quý báu và
những bài học kinh nghiệm sâu sắc rút ra từ chính tấm gương tự học bền bỉ và
thành công của Người cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Tác giả Đỗ Thị Châu với đề tài “Kỹ năng đọc hiểu tiếng Anh của học
sinh lớp 6” [12], tác giả cho rằng: Kỹ năng đọc hiểu tiếng nước ngoài là khả
năng vận dụng những tri thức và các kỹ xảo đã có vào hoạt động đọc hiểu
tiếng nước ngoài. kỹ năng này thể hiện ở khả năng tri giác, tái tạo lại lời nói
và thông hiểu, cụ thể là ở kỹ năng nhận biết từ, kỹ năng liên kết ngữ nghĩa, kỹ
năng dự đoán, kỹ năng thông hiểu nội dung, kỹ năng tạo lời nói.
Tác giả Trần Thị Minh Hằng trong đề tài luận án tiến sĩ “Một số yếu tố
tâm lý trong tự học của sinh viên cao đẳng sư phạm” [ tr.111], đã đưa ra kết
luận về KNTH. Theo tác giả KNTH là những phương thức thể hiện hành động
tự học thích hợp tương ứng với mục đích và những điều kiện hoạt động, hình
thành kỹ xảo đúng trong hoạt động tự học đảm bảo cho hoạt động tự học của
sinh viên đạt kết quả. Bên cạnh đó tác giả còn chỉ ra một số yếu tố tâm lý trong
tự học bao gồm: kiến thức tự học; kỹ xảo tự học; KNTH. Đây là ba yếu tố tác
giả khai thác kỹ trong quá trình tự học của sinh viên cao đẳng sư phạm. Trong

Footer Page 22 of 89.


Header Page 23 of 89.

24

đó yếu tố KNTH được tác giả khai thác tương đối kỹ về các loại kỹ năng cần
có cho người học đạt hiệu quả bao gồm: kỹ năng lập kế hoạch tự học; kỹ năng

đọc sách; kỹ năng tự kiểm tra, tự đánh giá; kỹ năng ghi chép thông tin. Đồng
thời, tác giả đề cập đến hai yếu tố ảnh hưởng đến hình thành kỹ năng tự học
của sinh viên đó là những yếu tố chủ quan và những yếu tố khách quan. Trong
hai yếu tố này tác giả khẳng định yếu tố chủ quan giữ vai trò quan trọng mang
tính quyết định đến chất lượng tự học của sinh viên.
Tác giả Lê Nam Hải Khi nghiên cứu về “ Kỹ năng học của sinh viên
đại học đào tạo theo hình thức từ xa” [33], đã làm sáng tỏ cơ sở lý luận tâm
lý học về kỹ năng học đại học đào tạo theo hình thức từ xa. Tác giả đã đưa ra
được các nhóm kỹ năng tự học cần thiết để học từ xa có hiệu quả như: nhóm
kỹ năng lập kế hoạch tự học, nhóm kỹ năng tổ chức việc học, nhóm kỹ năng
đánh giá, phân tích. Trên cơ sở những nghiên cứu này tác giả đề xuất được
các biện pháp huấn luyện, bồi dưỡng kỹ năng học cho sinh viên bằng cách lấy
nội dung dạy học các học phần trong chương trình đào tạo làm bài tập thực
hành nhằm củng cố, nâng cao dần mức độ cho kỹ năng đọc hiểu và kỹ năng
làm bài thi cho sinh viên đào tạo từ xa.
Tác giả Nguyễn Văn Phương trong luận án tiến sĩ “ Kỹ năng học tập
các môn lý luận chính trị của học viên cao cấp lý luận chính trị hệ tập trung
tại học viện chính trị khu vực II” [76], đã hệ thống hóa lý luận về kỹ năng học
tập, tác giả chỉ ra ba nhóm kỹ năng cơ bản trong học tập các môn lý luận
chính trị bao gồm: nhóm kỹ năng học tập trên lớp, nhóm kỹ năng đọc tài liệu
học tập, nhóm kỹ năng xemina.
Tác giả: Lê Minh Vụ khi nghiên cứu đề tài “Các giải pháp nâng
cao chất lượng tự học của học viên sĩ quan trong các nhà trường quân
đội” [109, tr. 10-11], đã khái quát sâu sắc cơ sở lý luận và thực tiễn của
các giải pháp nâng cao chất lượng tự học của học viên trong nhà trường
quân đội; đặc điểm hoạt động tự học của HVSQ. Đặc biệt, các tác giả đã

Footer Page 23 of 89.



Header Page 24 of 89.

25

chỉ rõ cấu trúc các nhân tố của quá trình tự học bao gồm: mục tiêu tự
học, nội dung tự học, kế hoạch tự học, phương pháp tự học, tự điều
chỉnh yếu tố bảo đảm. Đồng thời các tác giả cũng khẳng định các nhân tố
trên có mối quan hệ tác động lẫn nhau, muốn nâng cao chất lượng tự học
đòi hỏi phải nâng cao chất lượng từng nhân tố ấy, trong đó phương pháp
tự học đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
Ở một góc độ khác, trong luận án tiến sĩ của mình tác giả Trịnh Quang
Từ đề cập tới “Những phương hướng tổ chức hoạt động tự học của sinh viên
các trường quân sự” [98], cũng nhấn mạnh tới sự thúc đẩy bởi hệ thống động
cơ tự học, vai trò của cách thức tự học. Tác giả cho rằng, quá trình tự học học
viên không tiếp nhận tri thức một cách có sẵn mà phải tự nghiên cứu, tự khám
phá. Bởi vậy, ngoài hệ thống động cơ tự học học viên còn phải có cách học
trong đó KNTH là thành phần cơ bản. KNTH là điều kiện vật chất bên trong
để học viên biến động cơ tự học thành kết quả cụ thể, làm cho họ tin hơn, tích
cực chủ động hơn trong tự học.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trong nước đã luận giải phần lớn
những vấn đề KNTH của người học ở những khía cạnh như: Các giai đoạn
hình thành kỹ năng; các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tự học; vấn đề phân
phối thời gian tự học, các phương pháp tổ chức hoạt động tự học; cách thức
sử dụng thời gian tự học của sinh viên, các hình thức và điều kiện phục vụ
ảnh hưởng đến tự học của sinh viên; phương pháp tự học của học viên; các
giải pháp nâng cao chất lượng tự học của học viên. Đây là những thành tựu lý
luận quan trọng để nghiên cứu KNTH các môn KHXH&NV của HVSQ cấp
phân đội.
3. Đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa
học đã công bố và những vấn đề luận án tập trung giải quyết


Footer Page 24 of 89.


Header Page 25 of 89.

26

Những nghiên cứu của các công trình khoa học của các tác giả đã công
bố ở trên cho thấy:
Về lý luận: Các công trình khoa học của các tác giả nghiên cứu đã có
những đóng góp quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động nói
chung, hoạt động học tập nói riêng, đã hệ thống được các kỹ năng dưới các
góc độ khai thác khác nhau, khẳng định được tầm quan trọng của tự học, cho
rằng KNTH là yếu tố bên trong quyết định chất lượng học tập của người học.
Bản chất của tự học là quá trình tự tổ chức, tự điều khiển, tự điều chỉnh để
chiếm lĩnh tri thức và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, trên cơ sở đó nhân cách của
người học được hoàn thiện và phát triển. Cốt lõi của tự học là cần hình thành
ở người học các KNTH.
Về thực tiễn: Các công trình nghiên cứu tập trung phân tích thực trạng
các kỹ năng; hoạt động tự học của người học, chỉ ra một số KNTH cần hình
thành, đưa ra các yếu tố tạo thành kỹ năng; cấu trúc các nhân tố của quá trình
tự học và một số biện pháp nhằm hình thành KNTH; nâng cao hiệu quả hoạt
động tự học. Tuy nhiên, nghiên cứu về KNTH các môn KHXH&NV của
HVSQ cấp phân đội chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống, nên cần
được đặt ra và tiếp tục nghiên cứu sâu sắc, đầy đủ hơn.
Những vấn đề luận án tập trung giải quyết
Luận án cần nghiên cứu làm rõ khái niệm, những thành tố tạo thành,
các giai đoạn hình thành, các yếu tố ảnh hưởng đến KNTH các môn
KHXH&NV của HVSQ cấp phân đội, trên cơ sở đó xác định biện pháp tâm lý

- sư phạm nâng cao KNTH các môn KHXH&NV cho đối tượng này ở các
trường đại học quân sự hiện nay.

Footer Page 25 of 89.


×