Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Nâng cao hiệu quả chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn cho sinh viên trong trường Đại học hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.04 KB, 46 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TÂM LÝ GIÁO DỤC
-------------- -------------
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ
Đề tài:
Nâng cao hiệu quả chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và
nhân văn cho sinh viên trong trường Đại học hiện nay
GVHD : TS Trần Thị Minh Ngọc
SV : Hồ Thị Hải Yến
Lớp : Giáo Dục Chính Trị K28
Hà Nội, tháng 6 năm 2011
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
II. Mục đích và nhiệm vụ
1. Mục đích
2. Nhiệm vụ
III. Đối tượng nghiên cứu
IV. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
1. Phạm vi nghiên cứu
2. Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
Chương 1. Lý luận chung về tự học và hoạt động tự học các môn khoa
học xã hội và nhân văn của sinh viên trong trường Đại học
1.1. Khái quát chung về hoạt động tự học
1.1.1. Một số quan điểm về tự học
1.1.2. Một số khái niệm về tự học
1.1.2.1. Khái niệm tự học
1.1.2.2. Các hình thức tự học
1.1.2.3. Tiêu chí đánh giá chất lượng tự học của sinh viên trong


trường Đại học
1.2. Vai trò của tự học đối với sinh viên và đặc điểm các môn khoa
học xã hội và nhân văn trong trường Đại học
1.2.1. Sinh viên và một số đặc điểm tâm lý của sinh viên ảnh hưởng
đến quá trình tự học
12.2. Tầm quan trọng của hoạt động tự học đối với sinh viên
1.2.3. Đặc điểm các môn khoa học xã hội và nhân văn trong trường
Đại học
Chương 2. Thực trạng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn
của sinh viên trong trường Đại học
2.1. Những kết quả đạt được trong quá trình tự học các môn khoa học
xã hội và nhân văn của sinh viên
2.1.1. Thực trạng nhận thức của sinh viên về việc tự học các môn
khoa học xã hội và nhân văn
2.1.2. Thực trạng về việc tiến hành hoạt động tự học các môn khoa
học xã hội và nhân văn của sinh viên
2.1.3. Thực trạng về kết quả tự học các môn khoa học xã hội và nhân
văn của sinh viên
2.2. Một số hạn chế của việc tự học các môn khoa học xã hội và
nhân văn
2.3. Nguyên nhân của thực trạng tự học các môn khoa học xã hội và
nhân văn của sinh viên
Chương 3. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả chất
lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn cho sinh viên
trong trường Đại học
3.1. Nâng cao nhận thức của sinh viên đối với việc tự học các môn
khoa học xã hội và nhân văn
3.2. Đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả chất
lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên
3.3. Phát huy vai trò tích cực của sinh viên trong việc nâng cao hiệu

quả chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn trong
trường Đại học
3.3.1. Nhận thức về vai trò tích cực của sinh viên trong việc tự học các
môn khoa học xã hội và nhân văn
3.3.2. Một số kỹ năng phục vụ hoạt động tự học các môn khoa học xã
hội và nhân văn
3.4. Đảm bảo tốt cơ sở vật chất kĩ thuật, trang thiết bị phục vụ cho
hoạt động tự học của sinh viên
KẾT LUẬN
CẤU TRÚC TIỂU LUẬN.
Đề tài: Nâng cao hiệu quả chất lượng tự học các môn khoa học xã
hội và nhân văn cho sinh viên trong trường Đại học hiện nay.
Gồm 3 phần:
Mở đầu
Nội dung
Kết luận
Trong đó, nội dung gồm 3 chương:
• Chương 1. Lý luận chung về tự học và hoạt động tự học các môn
khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên trong trường Đại học.
• Chương 2. Thực trạng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn
của sinh viên trong trường Đại học.
• Chương 3. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả chất
lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn cho sinh viên
trong trường Đại học.
MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Để đáp ứng xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, ngay từ
cuối thế kỷ XX, khoa học giáo dục đã chuyển từ quan điểm dạy học
“lấy người dạy làm trung tâm”, sang quan điểm “lấy người học làm

trung tâm” trong nhà trường từ tiểu học đến đại học. Đó là cả một
cuộc cách mạng về giáo dục. Thực chất của cuộc cách mạng đó là
chuyển từ chỗ lấy “việc dạy làm trung tâm” sang lấy “việc học làm
trung tâm”. Khi “lấy việc học làm trung tâm” thì phương pháp học tập
trở nên có vai trò đặc biệt quan trọng.
Tự học là hình thức học tập không thể thiếu của sinh viên trong
các trường Đại học. Tổ chức hoạt động tự học một cách hợp lý, khoa
học, có chất lượng không chỉ là trách nhiệm của sự nghiệp giáo dục –
đào tạo của các trường Đại học mà còn là trách nhiệm to lớn của cá
nhân toàn sinh viên. Trong quá trình học tập, việc xác định mục đích,
xây dựng động cơ, lựa chọn phương pháp, hình thức tự học hợp lý là
việc cần thiết. Song quan trọng là sinh viên phải có hệ thống kĩ năng
tự học bởi muốn có kĩ năng nghề nghiệp trước hết phải có kĩ năng làm
việc độc lập, trên cơ sở phát huy tính tích cực nhận thức để chiếm lĩnh
tri thức. Vì tri thức là sản phẩm của hoạt động nắm vững tri thức và có
tay nghề thì việc rèn luyện hệ thống kĩ năng tự học một cách thường
xuyên và nghiêm túc được chú trọng ngay từ khi còn ngồi trên ghế
nhà trường. Như vậy để hoạt động học tập của sinh viên có hiệu quả,
sinh viên phải có tri thức và kĩ năng tự học.
Trong chương trình Đại học có nhiều nội dung môn học khác
nhau, trong đó quá trình học tập các môn khoa học xã hội chiếm số
lượng không nhỏ. Việc học tốt các môn này giúp cho sinh viên thế
giới quan phương pháp luận duy vật biện chứng,rèn luyện bản lĩnh
chính trị dân chủ cách mạng cùng với việc rèn luyện kĩ năng hoạt
động thực tiễn đây là điều không thể thiếu đối với mỗi sinh viên. Để
học tốt môn học khoa học xã hội và nhân văn thì việc tự học đóng vai
trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay việc tự học của sinh viên
còn nhiều bất cập, đa số sinh viên khi tiếp xúc với các môn khoa học
khoa học xã hội và nhân văn còn khá lúng túng trong việc tìm ra
phương pháp học tập hợp lý.

Vì vậy với kiến thức nhỏ về vấn đề tự học của sinh viên em xin
mạnh dạn chọn đề tài: Nâng cao hiệu quả chất lượng tự học các môn
khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên trong trường Đại học.
Tiểu luận chắc chắn còn nhiều thiếu sót nên em mong được sự
góp ý của cô giúp em hoàn thành tiểu luận tốt hơn. Em xin chân thành
cảm ơn!
II. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Mục tiêu
Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực tiễn định hướng phương pháp
tự học cho sinh viên trong trường Đại học hiện nay, đề xuất các giải
pháp tự học cho sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo sinh
viên trong các trường Đại học.
2. Nhiệm vụ
- Làm rõ lý luận về chất lượng tự học của sinh viên trong
trường Đại học.
- Đánh giá thực trạng việc tự học các môn khoa học xã hội và
nhân văn của sinh viên trong các trường Đại học.
- Đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng tư học các
môn khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên trong các trường Đại
học.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu việc nâng cao chất lượng tự học các
môn khoa học xã hội và nhân văn cuả sinh viên trong các trường Đại
học.
IV. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Cơ sơ lí luận: dựa trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác
-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng
sản về giáo dục đào tạo, lí luận phương pháp giáo dục hiện đại.
- Phương pháp nghiên cứu: duy vật biên chứng, phân tích tổng
hợp, so sánh, kháo sát thực tế sinh viên một số trường …

NỘI DUNG
Chương 1. Lý luận chung về tự học và hoạt động tự học các môn
khoa học xã hội và nhân văn của sinh viên trong trường Đại học
1.1. Khái quát chung về hoạt động tự học
1.1.1. Một số quan điểm về tự học
Trong giáo dục - đào tạo, dạy và học có mối quan hệ biện
chứng, tác động qua lại với nhau, trong đó người dạy giữ vai trò chỉ
đạo, tổ chức, điều khiển quá trình dạy học. Dưới tác động sư phạm
của người dạy, người học là khách thể tiếp thu một cách có ý thức
những tác động đó để tiến hành hoạt động nhận thức của mình. Song
đồng thời người học cũng là chủ thể nhận thức, tự giác, tích cực, độc
lập tiến hành các hoạt động nhận thức của mình nhằm hoàn thành tốt
nhiệm vụ học tập.
Học là quá trình tự biến đổi mình và làm phong phú mình bằng
cách chọn lọc và xử lý thông tin từ môi trường xung quanh. Dạy là
việc giúp cho người học tự mình chiếm lĩnh những kiến thức, kỹ năng,
kỹ xảo và hình thành hoặc biến đổi những tình cảm hoặc thái độ. Đó
là quan niệm tổng quát về dạy và học và theo cách tiếp cận thông tin.
Và trong lịch sử cũng đã có nhiều quan điểm khác nhau về tự học.
Lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác–Lênin cho rằng: việc
lĩnh hội các kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo được xem là quá trình phản ánh
thế giới khách quan vào trong ý thức của người học. Đó là một quá
trình vận động của tư duy, là sự giải quyết mâu thuẫn nội tại, từ chỗ
chưa hiểu biết gì đến chỗ hiểu biết, từ chỗ hiểu biết chưa đầy đủ và
chính xác đến chỗ hiểu biết đầy đủ và chính xác hơn, từ chỗ chưa có
kỹ năng đến chỗ có kỹ năng giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Về cơ bản, hoạt động học tập diễn ra theo quy luật nhận thức chung
“từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn”, trong đó tự học nằm trong quá trình học tập.
Lênin với câu nói nổi tiếng : “ Học! Học nữa!Học mãi” đã

khẳng định ý chí và nghị lực quyết tâm học tập suốt đời. Để làm được
điều đó đòi hỏi bản thân người học phải có ý thức tự học, học tập phải
là nhiệm vụ thường xuyên, được tiến hành bền bỉ, lâu dài, có củng cố,
rèn luyện mới đạt hiệu quả cao.
Trong lịch sử Trung Quốc, Khổng Tử cũng là người hết sức đề
cao việc học tập. Theo ông làm người cũng phải học làm quan chính
trị cũng phải học. Khổng Tử cho rằng mọi người đều cần phải học, có
học mới có thể biết được thế nào là: Nhân, Trí, Tín, Trực, Dũng,
Cương. Ông chủ trương dạy điều gì cũng phải để học trò có sức suy
nghĩ tìm tòi. Theo ông, học phải gắn với tập và hành. Học mà có tập
thì nhớ lâu, thạo việc. Sau học là hành nghề, khi đã hành cần phải tiếp
tục học nữa. Như vậy, có thể nói phương châm chính của Khổng Tử là
“học không biết chốn, dạy không biết nơi”.
1.1.2. Một số khái niệm cơ bản về tự học
1.1.2.1. Khái niệm tự học
Trong một số giáo trình, tài liệu đã có nhiều tác giả đưa ra các
định nghĩa khác nhau về tự học, sau đây là một số định nghĩa cơ bản:
Nhà tâm lý học N.RUBAKIN coi: tự tìm lấy kiến thức - có
nghĩa là tự học. Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã
hội, lịch sử trong thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các
mối quan hệ cảỉ tiến kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình
phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến tri thức của loài người thành vốn tri
thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo của chúng ta.
Theo Giáo sư Đặng Vũ Hoạt và Phó Giáo sư Hà Thị Đức trong
cuốn “Lý luận dạy học Đại học” thì “ tự học là một hình thức tổ chức
dạy học cơ bản ở Đại học. Đó là một hình thức nhận thức của cá nhân,
nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính người học tự
tiến hành ở trên lớp hay ở ngoài lớp, theo hoặc không theo chương
trình và sách giáo khoa đã được quy định”.
Theo Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Cảnh Toàn: “ tự học – là tự

mình đổi mới suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh,
phân tích tổng hợp..) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ)
cùng các phẩm chất của mình rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh
quan, thế giới quan (như tính trung thực, khách quan, có chí tiến thủ,
không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý
muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận lợi…) để chiếm lĩnh một lĩnh
vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của
mình”.
Từ những quan điểm về tự học nêu trên. Có thể đi đến định
nghĩa chung về tự học như sau: Tự học là quá trình cá nhân người học
tự giác, tích cực, độc lập chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó
trong cuộc sống bằng hành động của chính mình nhằm đạt được nội
dung nhất định.
Như vậy, tự học là hình thức học tập độc lập của người học
nhằm lĩnh hội, củng cố, vận dụng các kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo. Hoạt
động tự học có một số đặc điểm cơ bản sau: là một hình thức tổ chức
dạy học mang tính chất cá nhân; người học tự tổ chức quá trình nhận
thức của mình, thể hiện tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của
bản thân; người dạy giữ vai trò chỉ đạo, định hướng, song không trực
tiếp can thiệp vào quá trình tự lĩnh hội của người học; tự học giúp
người học củng cố, mở rộng, đào sâu, hệ thống hóa, khái quát hóa
kiến thức, rèn luyện kỹ xảo, tư duy độc lập, sáng tạo, vận dụng vào
giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn.
1.1.2.2. Các hình thức tự học
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác
nhau, song có thể xét dưới một số hình thức tự học cơ bản sau:
Hình thức thứ nhất là cá nhân tự mày mò theo sở thích và hứng
thú độc lập không có sách và sự hướng dẫn của giáo viên. Hình thức
này gọi là tự nghiên cứu. Hình thức tự học này phải dựa trên nền tảng
tư tưởng một niềm khát khao say mê, khám phá tri thức mới, đồng

thời phải có vốn tri thức vô cùng sâu rộng. Với hình thức này, người
học không tiếp xúc với thầy và sách giáo khoa mà chỉ cọ sát thực tiễn.
Hình thức thứ hai là tự học với sách nhưng không có giáo viên
bên cạnh. Ở hình thức này, tự học có thể diễn ra ở 2 mức sau: thứ
nhất, tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của thầy, người học
tự học để hiểu, để thấm các kiến thức trong sách. Qua đó sẽ phát triển
tư duy tư duy tự học với sách. Thứ hai, tự học có thầy từ xa hướng
dẫn: trao đổi thông tin giữa thầy và trò thông qua các phương tiện
thông tin thô sơ hay hiện đại dưới dạng phản ánh và giải đáp các thắc
mắc, làm bài tập, kiểm tra,…
Hình thức thứ 3 là tự học có sách, có thầy trong một số tiết học
sau đó sinh viên tự học ở nhà dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo
viên. Trong quá trình học tập trên lớp, người thầy có vai trò chỉ đạo,
tổ chức, điều khiển và tạo điều kiện để trò tự chiếm lĩnh tri thức. Trò
tự giác, tích cực, say mê, sáng tạo tham gia vào quá trình học tập.
Trong quá trình tự học ở nhà, dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ của thầy,
người học phải phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động tự sắp xếp kế
hoạch học tập, huy động mọi tri thức, kĩ năng để hoàn thành những
nhiệm vụ giáo viên đề ra.
1.1.2.3. Tiêu chí đánh giá chất lượng tự học
Tiêu chí là những quy định dùng làm tiêu chuẩn để phân loại,
đánh giá được thể hiện ở các chỉ số, thông số, chỉ tiêu dùng làm thước
đo để dựa vào đó so sánh, đánh giá kết quả tự học của sinh viên. Với
cách tiếp cận trên, khi đánh giá chất lượng tự học các môn khoa học
xã hội và nhân văn của sinh viên trong trường Đại học cần dựa trên
các nhóm tiêu chí sau:
Một là, kết quả nhận thức về nội dung các môn khoa học xã hội
và nhân văn của sinh viên thông qua việc sinh viên đã xác định được
tầm quan trọng các môn học khoa học xã hội và nhân văn hay chưa,
đã nắm vững, bản chất, nội dung vấn đề, nội dung bài học đến đâu,

biết liên hệ, vận dụng lí luận vào thực tiễn như thế nào…
Hai là, chất lượng tự học các môn khoa học xã hội và nhân văn
được đánh giá bằng kết quả học tập thông qua các bài kiểm tra học
trình, kiểm tra giữa kỳ, kiểm tra cuối kỳ.
Ba là, thể hiện qua chất lượng tham gia phát biểu ý kiến xây
dựng bài, chất lượng thảo luận, xêmina. Trong các giờ thảo luận,
xêmina, việc sinh viên tham gia đóng góp ý kiến xây dựng bài như thế
nào, có sôi nổi hay không, có giải quyết được vấn đề hay không…
điều đó đánh giá được việc chuẩn bị bài của sinh viên và chất lượng tự
học của sinh viên trong trường Đại học.
Bốn là, thông qua hoạt động thực tiễn công tác đoàn thể trong
lớp, trong nhà trường. Đây là một tiêu chí quan trọng, thông qua hoạt
động này có thể đánh giá được việc vận dụng những kiến thức khoa
học xã hội và nhân văn trong thực tiễn hoạt động công tác đoàn của
sinh viên đến đâu, từ đó đánh giá được chất lượng tự học của sinh
viên.
1.2. Vai trò của tự học đối với sinh viên và đặc điểm các môn khoa
học xã hội và nhân văn của sinh viên trong trường Đại học
1.2.1. Sinh viên và một số đặc điểm tâm lý của sinh viên ảnh
hưởng đến quá trình tự học
Sinh viên là nhóm người đã tốt nghiệp phổ thông trung học nằm
trong độ tuổi từ 18-25 tuổi, được đào tạo trong các trường Đại học,
Cao đẳng nhằm xây dựng đội ngũ trí thức có trình độ và năng lực cho
xã hội.
Sinh viên mang một số đặc điểm tâm lý cơ bản sau:
Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa tuổi
sinh viên là sự phát triển tự ý thức. Nhờ có tự ý thức phát triển, sinh
viên có những hiểu biết, thái độ, có khả năng đánh giá bản thân để chủ
động điều chỉnh sự phát triển bản thân theo hướng phù hợp với xu thế
xã hội. Chẳng hạn sinh viên đang học ở các trường Cao đẳng, Đại học

sư phạm, họ nhận thức rõ ràng về những năng lực, phẩm chất của
mình, mức độ phù hợp của những đặc điểm đó với yêu cầu của nghề
nghiệp, qua đó họ sẽ xác định rõ ràng mục tiêu học tập, rèn luyện và
thể hiện bằng hành động học tập hàng ngày trong giờ lên lớp, thực tập
nghề hay nghiên cứu khoa học. Nhờ khả năng tự đánh giá phát triển
mà sinh viên có thể nhìn nhận, xem xét năng lực học tập của mình, kết
quả học tập cao hay thấp phụ thuộc vào ý thức, thái độ, vào phương
pháp học tập của họ.
Ở sinh viên đã bước đầu hình thành thế giới quan để nhìn nhận,
đánh giá vấn đề cuộc sống, học tập, sinh hoạt hàng ngày. Sinh viên là
trí thức tương lai, ở họ sớm nảy sinh nhu cầu, khát vọng thành đạt.
Học tập ở đại học là cơ hội tốt để sinh viên được trải nghiệm bản thân,
vì thế, họ rất thích khám phá, tìm tòi cái mới, đồng thời, họ thích bộc
lộ những thế mạnh của bản thân, thích học hỏi, trau dồi, trang bị vốn
sống, hiểu biết cho mình, dám đối mặt với thử thách để khẳng định
mình.
Một đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở lứa tuổi này là tình cảm ổn
định của sinh viên, trong đó phải đề cập đến tình cảm nghề nghiệp-
một động lực giúp họ học tập một cách chăm chỉ, sáng tạo, khi họ thự
sự yêu thích và đam mê với nghề đã lựa chọn. Sinh viên là lứa tuổi đạt
đến độ phát triển sung mãn của đời người. Họ là lớp người giàu nghị
lực, giàu ước mơ và hoài bão. Tuy nhiên, do quy luật phát triển không
đồng đều về mặt tâm lý, do những điều kiện, hoàn cảnh sống và cách
thức giáo dục khác nhau, không phải bất cứ sinh viên nào cũng được
phát triển tối ưu, độ chín muồi trong suy nghĩ và hành động còn hạn
chế. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào tính tích cực hoạt động của bản
thân mỗi sinh viên. Bên cạnh đó, sự quan tâm đúng mực của gia đình,
phương pháp giáo dục phù hợp từ nhà trường sẽ góp phần phát huy ưu
điểm và khắc phục những hạn chế về mặt tâm lý của sinh viên. Tuy
nhiên, điều quan trọng và quyết định chính là ở sự nỗ lực và tinh thần

tự giác, tích cực, chủ động trong học tập của bản thân mỗi sinh viên.
Tất cả những đặc điểm trên có ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình
tự học của sinh viên về cả nhận thức, tình cảm và hành động.
Bên cạnh những mặt tích cực trên đây, sinh viên còn có những
hạn chế nhất định: do tác động của nền kinh tế thị trường nên một số
sinh viên không xác định được động cơ và mục đích học tập của bản
thân, việc chọn ngành học không phải do lựa chọn của bản thân mà
chỉ vì ý muốn của bố mẹ hay theo “mốt” mà thôi; trong quá trình học
tập, tuy là những người có tri thức song nhận thức ở một số sinh viên
còn kém về ý thức học tập và rèn luyện bản thân, nhiều sinh viên chưa
thích nghi với môi trường mới nên dễ sa vào các tệ nạn xã hội, chất
lượng học tập kém hiệu quả.
1.2.2. Tầm quan trọng của hoạt động tự học đối với sinh viên.
Trong tiến trình phát triển chung của nhân loại, sự phát triển
kinh tế xã hội của mỗi quốc gia đều dựa trên nền tảng tri thức, muốn
có tri thức phải phát triển giáo dục. Như Bác Hồ từng nói: “Non sông
Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, có sánh vai với các cường
quốc năm châu được hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học
tập của các cháu”. Ý thức được tầm quan trọng đó, nước ta coi giáo
dục và đào tạo là quốc sách, Đảng và Nhà nước ta đang nỗ lực xây
dựng một xã hội học tập với phương hướng, con đường thực hiện là
kết hợp đến trường, giáo dục từ xa và tự học. Trong đó, tự học để
trưởng thành là vô cùng quan trọng.
Tri thức nhân loại là vô tận do đó muốn hiểu được kho tàng tri
thức đó trước tiên con người phải biết tự mình đào sâu suy nghĩ, tự
tìm tòi học hỏi, tức là phải có khả năng tự học. Tự học là nói đến nội
lực của người học, chất lượng của học tùy thuộc chủ yếu vào nội lực,
đòi hỏi ý chí của bản thân sinh viên.
Hiện nay, việc đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình đào
tạo và phương pháp dạy học trong giáo dục Đại học và Cao đẳng là

một trong những yêu cầu cần thiết. Một trong những đòi hỏi nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường Đại học là
giúp cho sinh viên có khả năng tự hoc, tự nghiên cứu. Nghị quyết
Trung ương 2 khóa VIII khẳng định: “đổi mới phương pháp giáo dục
đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư
duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp dạy
học tiên tiến và phương tiện dạy học hiện đại vào quá trình dạy học,
bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên,
nhất là sinh viên Đại học”.
Có thể nói, tự học là nhân tố trực tiếp trong việc nâng cao chất
lượng đào tạo ở các trường Đại học. Khi một học sinh trở thành một
sinh viên Đại học, họ bắt đầu làm quen với phương thức học tập hoàn
toàn mới. Ở phổ thông trung học, học sinh chỉ cần nắm vững những
kiến thức được cô giáo truyền giảng ở trên lớp và giáo viên liên tục
kiểm tra, đánh giá học sinh và có giao bài tập cụ thể. Song ở đại hoc
thì khác hẳn, tự học là phương pháp, cách thức cơ bản của mỗi sinh
viên phải quán triệt. Bởi vì, phương hướng chủ yếu của trường Cao
đẳng, Đại học trong giai đoạn này là nhanh chóng biến quá trình đào
tạo thành quá trình tự đào tạo mà thực chất là làm cho sinh viên tự
hoàn thiện và làm phong phú thêm vốn tri thức bằng sự nỗ lực tự học,
tự nghiên cứu. Sinh viên đại học, học phương pháp là chủ yếu. Giờ
đây, thầy cô giáo đóng vai trò là những người hướng dẫn học tập, và
các giờ lên lớp chỉ cung cấp được những kiến thức cơ bản nhất, những
tài liệu cơ bản, còn việc học tập của sinh viên là sắp xếp trình tự, thời
gian để nghiên cứu nắm tài liệu cơ sở và cả tài liệu tham khảo mở
rộng. Thêm vào đó, không còn sự kiểm tra sát sao của giáo viên, kết
quả học tập dồn hết vào kỳ thi hết học phần, hết môn. Kết quả này phụ
thuộc vào bản thân sinh viên là chủ yếu. Công tác tự học của sinh viên
ngày càng tăng lên, ngày càng đòi hỏi nhiều cố gắng nỗ lực vì chỉ có
việc tự học mới trang bị cho mình kiến thức mới nhất, khoa học nhất

và thu được nhiều kinh nghiệm cho thực tiễn hoạt động và đạt kết quả
như mong muốn.
Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng tự học còn góp phần nâng
cao thành tích, hoạt động trí tuệ của sinh viên trong việc hiểu và tiếp
thu tri thức mới. Tự học với sự nỗ lực và tư duy sáng tạo đã tạo điều
kiện cho việc tìm hiểu tri thức một cách sâu sắc, hiểu rõ bản chất của
vấn đề. Trong quá trình tự học, sinh viên sẽ gặp phải nhiều vấn đề mới
và việc đi tìm lời giải đáp cho những vấn đề ấy là cách tố nhất để kích
thích hoạt động trí tuệ cho sinh viên. Nếu thiếu đi sự nỗ lực tự học của
bản thân sinh viên thì kết quả không thể cao cho dù điều kiện ngoại
cảnh có thuận lợi đến mấy (giáo viên giỏi, tài liệu hay và đầy đủ…).
Tự học được tổ chức tốt không những cung cấp cho sinh viên
những kiến thức mới mà còn giúp họ rất nhiều trong công việc sau
này. Họ có năng lực hoạt động thực tiễn hay không? Chất lượng công
tác như thế nào? Phụ thuộc lớn vào chất lượng tự học. Xã hội ngày
càng phát triển và ngày càng có nhiều phát kiến vĩ đại thì cần phải có
những con người toàn diện. Do đó, sinh viên cần trang bị cho mình
những tri thức toàn diện. muốn có tri thức toàn diện con đường tốt
nhất là tự học.
Không chỉ có vậy, tự học còn có vai trò to lớn trong việc giáo
dục và hình thành nhân cách cho sinh viên. Việc tự học rèn luyện cho
sinh viên thói quen độc lập suy nghĩ, độc lập giải quyết vấn đề khó
khăn trong học tập, trong cuộc sống giúp cho họ tự tin hơn trong việc
lựa chọn cuộc sống của mình. Hơn thế, tự học thúc đẩy sinh viên lòng
ham học hỏi, ham hiểu biết, khát khao vươn tới đỉnh cao của khoa
học, sống có hoài bão ước mơ. Do đó, mỗi sinh viên hãy xây dựng
cho mình một thói quen, một phương pháp để nâng cao chất lượng tự
học một cách tốt nhất.

×