Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Tiểu luận quản lý công nghệ trong xây dựng giới thiệu phương pháp thi công NATM trong xây dựng công trình ngầm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 55 trang )

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI
KHOA CÔNG TRÌNH

======  ======

TIỂU LUẬN
QUẢN LÝ CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
ĐỀ TÀI:
GIỚ THIỆU PHƯƠNG PHÁP THI CÔNG NATM TRONG
XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH NGẦM

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : PGS.TS. ĐINH TUẤN HẢI
PGS.TS. DƯƠNG ĐỨC TIẾN
HỌC VIÊN THỰC HIỆN

: ĐOÀN VĂN LINH

LỚP

: 23QLXD.21

MÃ HỌC VIÊN

: 1582850302080

HÀ NỘI, 2016


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng


GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải

MỤC LỤC
NỘI DUNG.................................................................................................................. 3
1. GIỚI HIỆU VỀ PHƯƠNG PHÁP THI CÔNG NATM........................................3
1.1. Tổng quan về phương pháp NATM......................................................................3
1.2. Mô tả phương pháp NATM.................................................................................12
1.3. Phương pháp đào hầm.........................................................................................18
1.4. Các công tác liên quan.........................................................................................25
2. ĐÁNH GIÁ VỀ PHƯƠNG PHÁP NATM...........................................................47
2.1. Đánh giá về kỹ thuật............................................................................................47
2.2. Đánh giá về mặt kinh tế.......................................................................................49
2.3. Ưu nhược điểm của phương pháp NATM..........................................................49
2.4. Khả năng ứng dụng và cạnh tranh.......................................................................50
3. LỰA CHỌN VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ..............................................51
3.1. Nguyên nhân lựa chọn phương pháp NATM......................................................51
3.2. Khả năng chuyển giao công nghệ........................................................................51
3.3. Quản lý công nghệ...............................................................................................51
KẾT LUẬN...............................................................................................................52
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................53

HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21

1


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến

PGS.TS. Đinh Tuấn Hải

LỜI NÓI ĐẦU
Từ xa xưa trên thế giới con người đã biết đào các hầm ngầm để phục phụ cho
khai thác quặng mỏ và than đá, thủy lợi... Đến thế ký thứ XIX đặc biệt là thế kỷ XX,
do yêu cầu về giao thông nên đã có rất nhiều đường hầm hiện đại được xây dựng nhất
là đường hầm bộ, đường sắt, tàu điện ngầm…Đường hầm trên cao được xây dựng sớm
nhất và dài nhất trên thế giới được xây dựng đó là hầm đường bộ Simplon qua dãy núi
Alpes – Pennis nằm giữa Valacs (Thụy sỹ) và Piemonte (Ý) dài 19.730m ở độ cao
2.009m. Ở Trung Quốc, sau năm 1949 đến nay đã xây dựng hơn 4000Km hầm đường
sắt vào loại dài nhất thế giới.
Vào cuối thế kỷ XX, kỹ thuật xây dựng đường hầm ngầm qua sông, qua eo biển
đạt bước phát triển mới. Năm 1984, Nhật Bản đã xây dựng đường hầm Thanh Hàm
xuyên qua eo biển Tân Hải Hiệp dài 53,85 Km. Năm 1991, Anh và Pháp đã hợp tác
xây dựng đường hầm qua eo biển Manche nối liền nước Anh và nước Pháp dài 50km
(trong đó có 37,5Km nằm sâu dưới mặt nước biển khoảng 100m).
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và nhiều lĩnh
vực như giao thông, thủy lợi, thủy điện.v.v… Nhu cầu sử dụng công trình ngầm nói
chung và đường hầm nói riêng ngày càng phổ biến. Cùng với đó, công nghệ xây dựng
đường hầm phát triển rất mạnh mẽ trên thế giới với rất nhiều công trình giao thông,
thủy lợi được xây dựng có quy mô lớn và áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật
mang lại hiệu quả cao về kinh tế, kỹ thuật. Đến nay, rất nhiều máy móc hiện đại đang
được sử dụng như khiên tự hành, máy khoan hầm tunnel-boring machine (TBM),
phương pháp thi công hầm của Áo (NATM).
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, với nhu cầu phát triển về mạnh mẽ về
giao thông, thủy điện. Cùng với các công nghệ mới, tiên tiến được ứng dụng, nhiều
đường hầm lớn được xây dựng như hầm bộ qua đèo Hải Vân 6,3 km, hầm Thủ Thiêm
qua sông Sài Gòn với 6 làn xe, các hầm dẫn nước của các thủy điện lớn…
Được sự giảng dậy hướng dẫn của thầy giáo PGS.TS. Đinh Tuấn Hải và thầy
giáo PGS.TS. Dương Đức Tiến, Học viên xin trình bày nội dung “Giới thiệu

phương pháp thi công NATM trong xây dựng công trình ngầm”.

HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21

2


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải

NỘI DUNG
1. GIỚI HIỆU VỀ PHƯƠNG PHÁP THI CÔNG NATM
1.1. Tổng quan về phương pháp NATM
1.1.1. Lịch sử phát triển
Cho đến giữa thế kỉ XX, trong công nghệ xây dựng hầm, đầu tiên người ta dùng
gỗ và sau đó dùng vòm thép để che chống tạm thời cho đến khi hệ chống cuối cùng
được dựng lên. Hệ chống cuối cùng là một hàng gạch hay bê tông (hình 1).

Hình 1: Phương pháp Áo cũ (phương pháp làm hầm này cũng tương tự với các nước
trên thế giới)
Năm 1944, Giáo sư người Áo L.v.lxabcewicz đã cho xuất ban quvên sách "Áp
lực đất đá núi và xây dụng hầm", trong đó giới thiệu sự cần thiết phải giảm nhỏ biến
dạng với mục đích lợi dụng khả năng chịu tái của khối đất đá và mối quan hệ qua lại
giữa lực chống đỡ và biến dạng. Một số nguyên lí của NATM cũnu được vạch ra trong
quyếu sách đó. Năm 1948, các nguyên lí của NATM đã được công do công của
L.V.Rabcewicz. Tinh thần chính của nội dung là: với một che chống dẻo đầu tiên một
sự cân bằng mới đã đạt được. Việc ấy phải được kiểm soát bằng các đo đạc tại chỗ.
Sau khi đã đạt được sự cân bằng mới đó thì một vòm bên trong sẽ được xây dựng.

Trong những trường hợp riêng, vòm bên trong đó có thế bỏ đi.

HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21

3


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải
Từ năm 1956 đến năm 1958 các hầm kích thước lớn đã được Rabcewicz xây

dựng ở Venezuela theo nguyên lí của NATM.
Năm 1963 “Phương pháp xây dựng hầm Áo mới” được giới thiệu tại hội nghị Cơ
học đất đá tại Salzburg. Phương pháp được gọi là Áo mới vì trước đó đã tồn tại
phương pháp “Áo cũ” và được đặt tên là “Áo mới” đã được các kĩ sư người Áo phát
triển.
Phương pháp đã được phát triển lên dần với các biện pháp đào và che chống mói.
Các phương tiện che chống và biện pháp kèm theo đã được cải thiện với nhiều trang bị
mới. Kĩ thuật diễn giải cùng với tay nghề cao đã mở rộng việc áp dụng NATM cho các
loại đất rất dẻo với biến dạng lớn cho đến đất mềm, với các mặt cắt hầm lớn hoặc hình
thù phức tạp.
Định nghĩa NATM như sau:
Phương pháp xây dựng hầm kiểu Áo mới NATM (the New Australian
Tunnelling Method - NATM) là một phương pháp trong đó các cấu tạo đất đá xung
quanh hầm hợp thành một kết cấu che chống thống nhất hình trụ tròn. Do đó, các cấu
tạo đất đá bản thân sẽ là một bộ phận của kết cấu che chống.
Định nghĩa nói trên với các nguyên lí chủ yếu đã được công bố vào năm 1980.
1.1.2. Quan niệm cơ bản của NATM

Với việc đào một đường hầm trường ứng suất ban đầu trong khối đá bị thay đổi
thành một trường ứng suất thứ sinh ít thuận lợi hơn. Dưới vòm nham thạch đó, phần
lớn các quá trình sắp xếp lại ứng suất theo thời gian sẽ xảy ra, bao gồm cả vùng dẻo
cũng như vùng đàn hồi.
Dưới hoạt động của vòm nham thạch, các hoạt động của chúng ta phải nhằm duy
trì hoặc cải thiện khả năng chịu tải của khối đá, hoặc nhằm lợi dụng khả năng chịu tải
đó và nhằm để gây ra mội sự phát triển trường ứng suất thứ sinh có lợi hơn.
Mục đích của chúng ta là duy trì điều kiện tải trọng theo ba trục cho tất ca các
giai đoạn và đê giảm thiểu các tính hình chịu ứng suất một trục hay hai trục trong
khối đá.

HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21

4


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải
Sau đây là một số hình vẽ thể hiện quan niệm khác nhau giữa xưa và nay về xây

dựng hầm và công trình ngầm.

Hình 2: Khối đá là một bộ phận quan trong nhất của hệ thống\

Hình 3: Trạng thái ứng suất và biến dạng cần phải được bảo vệ

HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21


5


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải

Hình 4: Đề phòng long rời của kết cấu đá

Hình 5: Che chống ban đầu và cuối cùng với các lớp mỏng

HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21

6


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải

Hình 6: Che chống phụ thêm gồm: neo, vòm giá thép, mạng cốt thép

Hình 7: Về cơ bản đường hầm là một cái ống bao gồm kết cấu chống vòng tròn của
khối đất đá bao bọc xung quanh

HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21

7



Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải

Hình 8: Khép kí vành tròn là rất cần thiết

Hình 9: Khép kí vành tròn phải kịp thời, tránh đào hào đỉnh lên quá xa

Hình 10: Huy động hợp lí đúng mức một kết cấu chống đỡ vòng tròn của đất đá bao
bọc xung quanh hầm

HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21

8


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải

Hình 11: Kết cấu che chống ăn khớp với đo đạc kỹ thuật, đo đạc biến dạng và ứng
suất phải bám sát thi công để điều chỉnh che chống kịp thời và đảm bảo an toàn
1.1.3. Nguyên lý cơ bản của NATM
1) Kết cấu hầm là tổ hợp giữa đá núi và vỏ hầm. Hầm được chống đỡ chủ yếu
bằng khối đá xung quanh. Đây là khái niệm cơ bản của phương pháp NATM. Kỹ sư
hầm phải biết vận dụng khái niệm này vào công tác đào hầm. Hệ thống chống đỡ hầm

chỉ nên áp dụng hạn chế và mang tính hỗ trợ hiệu ứng tự ổn định của khối đá.
2) Theo phương pháp NATM, điều quan trọng là phải duy trì cường độ nguyên
thủy của khối đá. Cách chống đỡ truyền thống bằng gỗ hoặc bằng vòm thép không thể
giúp ngăn ngừa sự biến dạng của khối đá xung quanh hầm. Bê tông phải được phun
ngay sau khi đào để có thể ngăn sự biến dạng của khối đá một cách hữu hiệu.
3) Biến dạng của khối đá phải được ngăn chặn hợp lý vì việc khối đá rời rạc sẽ
làm cho cường độ của nó bị giảm đi. Cường độ của khối đá, phụ thuộc chủ yếu vào lực
ma sát của mỗi phân khối đá, sẽ giảm xuống khi ma sát giảm.
4) Khối đá phải được giữ trong các điều kiện ứng suất nén ba trục. Cường độ của
khối đá chịu ứng suất nén đơn trục và hai trục thì thấp hơn cường độ trong điều kiện
ba trục.
5) Biến dạng của khối đá phải được ngăn chặn hợp lý. Phải thiết lập hệ thống
chống đỡ để ngăn chặn sự giãn nở (tơi) hoặc nguy cơ đổ sập của khối đá. Nếu hệ thống
HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21

9


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải
chống đỡ được thiết lập một cách thích hợp thì chất lượng của việc đào hầm sẽ tăng
đồng thời đảm bảo hiệu quả kinh tế.
6) Hệ thống chống đỡ phải được lắp đặt kịp thời. Lắp đặt các hệ thống chống đỡ
quá sớm hay quá muộn sẽ đem lại kết quả bất lợi. Hệ thống chống đỡ cũng không
được quá mềm hay quá cứng. Các hệ thống chống đỡ cần có một độ mềm dẻo thích
hợp để duy trì cường độ của khối đá.
7) Để đánh giá thời gian thích hợp khi lắp đặt hệ thống chống đỡ, cần nghiên cứu
khảo sát đặc tính biến dạng phụ thuộc thời gian của khối đá.

8) Không chỉ dựa vào công tác thí nghiệm trong phòng mà còn phải tiến hành đo
đạc biến dạng đường hầm để đánh giá thời gian thích hợp lắp đặt kết cấu chống đỡ.
Thời gian tự đứng vững của vách hầm, tốc độ của sự biến dạng và loại đá là những
nhân tố quan trọng để tính toán thời gian chống đỡ vách đào của khối đá.
9) Nếu sự biến dạng hoặc sự tơi của khối đá được dự đoán là rất lớn, bề mặt hầm
đã đào phải được phun bê tông kín như là màn che. Kết cấu chống đỡ bằng gỗ và thép
chỉ tiếp xúc với bề mặt tường hầm ở các điểm chèn. Vì thế, đất đá giữa các điểm tiếp
xúc sẽ vẫn còn không được chống đỡ nên sự biến dạng và/hoặc tơi của khối đá sẽ
phát triển.
10) Vỏ hầm phải mỏng và có độ mềm dẻo thích hợp nhằm triệt tiêu mô men uốn
và tránh được phá hoại do ứng suất uốn gây ra. Không chỉ lớp vỏ hầm ban đầu (bêtông
phun) mà cả lớp vỏ hầm hoàn thiện cũng cần phải mỏng.
11) Trong trường hợp hệ thống chống đỡ (ban đầu) cần phải gia cường, các thanh
thép, khung chống thép và neo đá nên được sử dụng. Không nên tăng chiều dày lớp
bê tông vỏ hầm vì sẽ làm giảm diện tích tiết diện khai thác của hầm.
12) Thời gian và phương pháp thi công vỏ hầm được quyết định dựa trên kết quả
quan trắc của thiết bị.
13) Về mặt lý thuyết, cấu trúc của hầm giống như một cái ống hình trụ dày gồm
hệ thống chống đỡ và vỏ hầm cùng với môi trường đất đá xung quanh. Các cấu trúc
này hợp lại với nhau làm cho hầm tự ổn định.
HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21
10


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải
14) Việc cấu tạo mặt cắt hầm kín bằng vòm ngược tạo nên đường ống hình trụ là


cần thiết vì cấu trúc này có thể chịu ứng suất của đá cao hơn.
15) Hành vi (trạng thái) của khối đá phụ thuộc vào tiến trình đào hầm và sự lắp
đặt hệ thống chống đỡ cho đến khi kết cấu của hầm kín được hình thành. Mômen uốn
bất lợi xuất hiện tại khu vực tiếp giáp của phần trên vòm hầm và tường (bench) giống
như kết cấu dầm hẫng khi khoảng cách giữa các bề mặt gương hầm của phần vòm và
phần tường là quá dài.
16) Từ quan điểm phân bố lại ứng suất, phương pháp đào toàn mặt cắt tốt hơn
các phương pháp khác. Chia gương hầm thành nhiều gương nhỏ sẽ khiến cho
chất lượng khối đá xung quanh hầm giảm đi nhanh chóng do phân bố lại ứng suất.
17)Phương pháp đào hầm có ánh hưởng rất lớn đến khối đá xung quanh, chẳng
hạn chu kỳ và trình tự đào hầm, thời gian thi công vỏ hầm, thời gian đóng kín vỏ
hầm, ... Các nhân tố này cần được kiểm soát để tạo ra tổ hợp kết cấu cũng như thiết lập
sự ổn định của đường hầm.
18 ) Mỗi bộ phận hầm phải duy trì hình dạng tròn nhằm tránh sự tập trung
ứng suất bất lợi.
19) Đối với hầm kết cấu vỏ đôi thì vỏ hầm bên trong phải mỏng. Bất kỳ lực cắt
tác động vào đuờng biên bên ngoài hầm và khối đá sẽ không truyền sang bê tông
vỏ hầm. Chỉ có lực hướng tâm truyền đến kết cấu vỏ đôi của hầm.
20) Kết cấu tổ hợp của khối đá và kết cấu chống đỡ bên ngoài (ban đầu) phải
hình thành trước khi thi công lớp bê tông vỏ hầm bên trong. Lớp vỏ hầm bên trong chỉ
có tác dụng làm tăng hệ số an toàn cho hầm. Tuy nhiên, độ ổn định của kết cấu hầm
cần được xem xét bao gồm cả lớp bê tông vỏ hầm khi hầm gặp một lưu lượng lớn
nước thấm vào và/hoặc dự báo sự ăn mòn của các neo đá.
21) Thiết bị đo đạc, quan trắc đóng vai trò quan trọng đối với công tác thiết kế và
thi công hầm. Việc đo ứng suất tác động lên vỏ hầm và đo đạc sự dịch chuyển của
vách hầm là đặc biệt cần thiết khi thi công hầm.
22) Giải phóng áp lực của nước ngầm xuất hiện trong khối đá bằng hệ thống
thoát nước.
HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21
11



Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải

1.2. Mô tả phương pháp NATM
1.2.1. Đặt vấn đề
Phương pháp đào hầm mới của Áo (the New australian Tunnelling Method NATM) được thế giới biết đến vào năm 1948, khi GS L.v.Rabcewicz đăng ký bản
quyền sáng chế phát minh của mình. Tư tưởng (hay triết lý) chủ đạo của phương pháp
này là: khối đá chứa công trình ngầm (CTN) cần được tận dụng thành một bộ phận
mang tải cơ bản của công trình, khối đá sẽ cùng với các thành phần kết cấu chống khác
giữ ổn định công trình trong giai đoạn thi công cũng như trong giai đoạn sử dụng. Yêu
cầu này chỉ có thể đạt được khi sử dụng một chu trình đào và chống giữ công trình một
cách hợp lý. Song trong thực tế, một điều đã được thừa nhận: Xây dựng các công trình
ngầm là một lĩnh vực mang tính nghệ thuật. Đối tượng tác động của xây dựng ngầm
chính là khối đất, đá với các đặc tính luôn biến đổi theo thời gian và không gian. Do
đó, không thể áp dụng một cách cứng nhắc những giải pháp đã áp dụng thành công tại
một công trình này vào trong một công trình khác. Cũng như vậy, các phản ứng của
đất đá không phải lúc nào cũng được dự kiến trước. Vì lý do đó, những rủi ro hoặc sai
lầm trong thi công là điều không thể tránh khỏi. Mục tiêu của phương pháp NATM là
hạn chế tối đa những rủi ro hoặc sai lầm đó đồng thời tìm cách tối ưu hoá chu trình
đào, chống giữ công trình (xét về yếu tố an toàn và kinh tế). Để làm được, bên cạnh
những biện pháp tương tự như trong các phương pháp khác: áp dụng quy trình đào cẩn
thận, sử dụng kết cấu chống hợp lý, v..v.. một điểm mới trong NATM là sử dụng công
tác quan trắc để đánh giá hiệu quả công tác thiết kế, thi công đã thực hiện tạo nên một
chu trình xây dựng công trình ngầm khép kín (hình 1). Đây chính là yếu tố dẫn đến
phương pháp này đã rất nhanh chóng được áp dụng rộng rãi trên thế giới và đã thu
được nhiều thành công. Tuy nhiên, kèm theo đó là một loạt những vấn đề phức tạp nảy

sinh về kỹ thuật, công tác điều hành quản lý, thiết bị, nguyên vật liệu khi áp dụng, đòi
hỏi phải có sự nghiên cứu, chuẩn bị trước khi làm chủ được phương pháp.
1.2.2. Nguyên tắc cơ bản của thi công theo phương pháp NATM
Nguyên tắc cơ bản của thi công theo phương pháp Áo mới có thể quy nạp như
sau: ít làm lay động, phun neo sớm, chăm chú đo đạc, nhanh chóng khép kín.
HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21
12


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải
Ít làm lay động: khi tiến hành đào mở đường hầm, cần hết sức giam thiêu số lần

lay động đất đá, cường độ lay động, phạm vi lay động và thời gian lay động liên tục
kéo dài. Vì thế nên dùng máy đào đất đá mà không dùng phương pháp khoan nô đê
đào. Khi dùng phương pháp khoan nổ để đào, cần phải nghiêm khắc tiến hành khống
chế nổ phá dùng cách đào tiết diện lớn; căn cứ loại đất đá, phương pháp đào, điều kiện
che chống lựa chọn hợp lý chiều dài đào sâu một tuần hoàn; đối với đất đá tự ổn định
kém chiều dài đào sâu tuần hoàn nên ngắn lại; việc che chống phải khẩn trương theo
kịp mặt đào, rút ngắn thời gian để đất đá bị bong rời không che chống.
Phun neo sớm: sau khi đào xong cần che chống phun neo thời kỳ đầu, làm cho
ứng suấl đất đá đi vào trạng thái khống chế ổn định. Làm như thế, một mặt là ta không
đế cho đất đá biến dạng quá độ mà sinh ra sụt lở mất ổn định, còn một mặt khác làm
cho đất đá phát tricn biến dạng vừa phải, đê phát huy đầy đủ năng lực tự chịu tải của
mình. Khi càn thiết có thc có biện pháp che chống trước.
Chăm chú đo đạc: lấy phương pháp đo đạc bằng máy hoặc trực quan và số liệu
đo đạc bảo đảm để đánh giá trạng thái ổn định của đất đá (hoặc đất đá đã được gia cố
hoặc phán đoán xu thế phát triên động thái của chúng, nhằm để điều chỉnh kịp thời

hình thức che chống, phương pháp đào bới, bảo đám thi công được tiến hành thuận lợi
và an toàn. Đo đạc trắc địa là một tiêu chí quan trọng của lí luận hầm và công trình
ngầm hiện đại. là biện pháp để nắm vững quá trình thay đổi động thái của đất đá và là
căn cứ, số liệu để tiến hành thiết kế, thi công công trình.
Nhanh chóng khép kín: một mặt là chỉ phải dùng biện pháp cho chóng bàng
phun bê tông ngay, tránh cho đất đã bị bóc trần dài ngày bị giảm sút cường độ và tính
ổn định, nhất là đối với địa tầng mềm yếu dễ bị phong hóa, còn mặt khác trọng yếu
hơn là nếu kịp thời che chống bịt kín thì không chỉ ngăn không cho đất đá biến dạn g
mà còn làm cho lớp che chốim và tâng đất ờ vào trạng thái cộng đồng hợp tác chịu lực
tốt với nhau.
1.2.3. Nội dung trình tự thi công theo phương pháp NATM
Phương pháp NATM được định nghĩa là cách để tạo ra không gian công trình
ngầm bằng việc sử dụng tất cả các biện pháp có thể để nâng cao khả năng tự chống giữ
HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21
13


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải
tối đa của công trình. Điều này đạt được thông qua việc áp dụng một lớp vỏ chống
“ban đầu” nhẵn và linh hoạt, kết hợp với một lớp vỏ chống “cuối cùng”. Lớp vỏ chống
“ban đầu” có thể bao gồm bê tông phun, vì thép, neo hoặc bất cứ biện pháp nào khác,
sử dụng độc lập hay kết hợp với nhau. Trong khi đó, lớp vỏ chống “cuối cùng” thường
là bê tông liền khối đổ tại chỗ được thi công sau khi công trình đã được đánh giá là ổn
định, hầu như không còn biến dạng. Tuy nhiên cũng cần hiểu rằng, phương pháp
NATM không chỉ bao gồm việc sử dụng bê tông phun, neo đá, đào vòm ngược khi gặp
đất đá yếu hay gần đây là sử dụng lớp màng chống thấm giữ không cho nước thâm
nhập vào lớp vỏ chống bên trong của công trình mà còn đòi hỏi rất nhiều ở sự linh

hoạt, khéo léo của con người khi xử lý những tình huống gặp phải trong thi công.
Có thể khái quát nội dung cơ bản của phương pháp NATM như sau:
- Xác định, đánh giá kỹ lưỡng các đặc trưng phản ứng địa cơ học của khối đất đá
xung quanh công trình.
- Thiết kế hình dạng, tiết diện công trình phù hợp (trên cơ sở xem xét các yếu tố:
ứng suất xung quanh biên, hệ số diện tích tiết diện sử dụng, v..v..).
- Tránh những ứng suất và biến dạng không có lợi bằng cách sử dụng các biện
pháp gia cố phù hợp, lắp đặt theo trình tự và thời gian hợp lý.
- Tối ưu hoá khả năng mang tải của kết cấu gia cố như một hàm của biến dạng
nằm trong giới hạn cho phép.
- Sử dụng biện pháp quan trắc đánh giá độ ổn định công trình sau khi đào như là
một phần bên trong của chu trình thi công.

HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21
14


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải

Hình 12: Chu trình đào hầm điển hình theo phương pháp NATM
Phương án và sơ đồ thi công đào được thiết lập tuỳ thuộc vào chất lượng khối đá
vây quanh. Quá trình đào công trình ngầm về mặt cơ học là gây ra hiện tượng “giảm
tải” và làm xuất hiện những biến dạng đáng kể trong khối đá. Nhiệm vụ đặt ra là phải
“bảo dưỡng” khối đá đến mức tối đa để có thể chịu được những biến đổi cơ học do quá
trình này gây ra. Sẽ có ít vấn đề nảy sinh khi khối đá cứng vững và các vấn đề sẽ trở
nên phức tạp khi gặp khối đá yếu. Trong trường hợp thứ hai, gương đào nên được chia
thành nhiều phần nhỏ đồng thời có kết cấu chống phía nền hợp lý. Khoảng cách và

thời gian cách quãng giữa mỗi chu kỳ đào tại các gương được xác định trên cơ sở thời
gian ổn định không chống của công trình. Tiêu chuẩn mới của Áo về thi công đường
hầm định nghĩa thời gian ổn định không chống là thời gian bề mặt khối đá có thể giữ
ổn định không cấn chống. Các nhân tố có ảnh hưởng tới thời gian ổn định không
chống là chất lượng khối đá, hình dạng kích thước mặt cắt ngang và tiến độ đào hầm,
độ sâu đặt công trình ngầm.
HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21
15


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải
Hai yếu tố được xác định là quan trọng nhất trong thi công theo phương pháp

NATM là sử dụng biện pháp gia cố tạm bằng bê tông phun trong đường hầm ngay sau
khi đào và sử dụng các thiết bị quan trắc đánh giá độ ổn định đường hầm. Chính vì lý
do này mà trên thế giới, phương pháp NATM còn được biết tới dưới các tên gọi
“phương pháp bê tông phun” hay “phương pháp quan trắc”.


Gia cố tạm vỏ hầm

Sử dụng và lắp dựng các kết cấu chống hợp lý đương nhiên sẽ góp phần làm cho
khối đá xung quanh công trình giữ được khả năng mang tải, đặc biệt là chống lại hiện
tượng “tơi rời“ trong khối đá. Điểm khác biệt cơ bản giữa NATM và các phương pháp
truyền thống là sử dụng lớp vỏ chống bằng bê tông phun thay vì các loại kết cấu chống
nặng như bê tông đúc sẵn, vì thép, v..v.. làm kết cấu chống tạm sơ bộ. Trong NATM,
bê tông phun được coi là thành phần kết cấu chống đóng vai trò quan trọng nhất và

trong nhiều trường hợp nó còn đồng thời giữ vai trò là kết cấu chống vĩnh cửu cho
công trình. Mục đích áp dụng bê tông phun là giữ ổn định bề mặt khối đất đá, liên kết
vùng đất đá gần biên công trình. Bê tông phun có thể được tăng cường bằng lưới thép,
hoặc kết hợp với khung chống thép cũng như neo tuỳ thuộc vào chất lượng khối đá.
Khi đó, vỏ chống đường hầm được xem như một kết cấu hỗn hợp bao gồm khối đá bao
quanh và các thành phần kết cấu chống kể trên. Ưu điểm khi sử dụng bê tông phun so
với các dạng kết cấu chống truyền thống là:
- Có thể áp dụng với công trình có hình dạng kích thước bất kỳ.
- Rút ngắn được thời gian chu kỳ đào chống.
- Có thể linh hoạt thay đổi chiều dài chu kỳ đào và trình tự các công việc phù hợp
với các điều kiện đất, đá phá huỷ.
- Chi phí vật liệu thấp hơn.
- Giảm nhu cầu nhân công cho công tác chống giữ.
- Yêu cầu đầu tư thiết bị phục vụ gia cố thấp.
- Tạo được bề mặt phù hợp để dễ dàng lắp đặt lớp mạng chống thấm có hiệu quả.

HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21
16


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải
Thời điểm lắp dựng kết cấu chống cũng rất được coi trọng trong thi công, điều

này được thể hiện trong quan điểm của NATM là tối ưu hoá khả năng mang tải của kết
cấu chống như một hàm của biến dạng. Rõ ràng tồn tại một thời điểm thích hợp để lắp
dựng kết cấu chống, tại thời điểm đó biên công trình đã bị biến dạng với một giá trị đủ
lớn để khối đá tự hình thành một vòng mang tải bao quanh công trình song lại đủ nhỏ

không để trạng thái ổn định ban đầu và độ bền nén của đá bị “suy yếu” vượt quá mức
độ cho phép dẫn tới quá trình phá huỷ không kiểm soát được. Mặc dù trước đây đã có
nhiều lý thuyết, phương pháp đề cập đến vấn đề này song chỉ trong NATM nó mới
thực sự được xét tới như một trong những yếu tố cơ bản để đem lại thành công khi áp
dụng trong thi công.


Quan trắc đánh giá ổn định

Một thành phần không thể thiếu trong chu trình xây dựng theo NATM là quá
trình quan trắc được tiến hành tại mỗi công đoạn thi công. Quá trình này trước hết để
đo dịch chuyển, biến dạng của khối đá, nhưng đồng thời cũng để xác định các thành
phần ứng suất, các tải trọng tác dụng lên kết cấu chống cũng như các loại tác động
khác. Các kết quả đo được đánh giá, phân tích kịp thời bằng đồ thị, biểu diễn sự phụ
thuộc vào thời gian, cho phép có được nhận định về các biểu hiện biến đổi của ứng
suất, biến dạng theo thời gian. Công tác đo đạc này được thực hiện liên tục trong suốt
thời gian thi công công trình, các kết quả của nó cùng với các số liệu về điều kiện địa
chất, địa chất thuỷ văn thu thập trước đó cho phép chúng ta điều khiển được quá trình
phân bố lại ứng suất trong khối đá theo hướng có lợi, khẳng định tính hợp lý về trình
tự thi công, kích thước gương đào, tiến độ đào cũng như phương án chống đỡ, mức độ
(kích thước) và thời điểm lắp dựng kết cấu chống v..v.. phục vụ cho chu kỳ xây dựng
tiếp theo. Rõ ràng điều này có ý nghĩa rất quan trọng bởi như đã đề cập trong phần I,
không phải lúc nào chũng ta cũng dự kiến được trước và chính xác các đặc tính phản
ứng của đất đá sau khi đào cũng như không thể áp dụng một cách máy móc những giải
pháp đã được áp dụng thành công trong những điều kiện có tính tương tự. Số lượng,
chủng loại thiết bị quan trắc lắp đặt, tần số đo được xác định dựa vào: mức độ ổn định
dự kiến của công trình sau khi đào, tầm quan trọng của công trình, chu kỳ thi công. Do

HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21
17



Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải
tính chất quan trọng nên công tác này phải do những người có đủ kinh nghiệm về địa
chất, địa kỹ thuật và trước hết phải am hiểu về phương pháp NATM thực hiện.
Tư tưởng xuyên suốt trong thi công theo NATM là sử dụng tất cả các biện pháp
có thể nhằm mục đích tối ưu hoá quá trình xây dựng công trình. Có nghĩa là kết hợp
hài hoà giữa cả ba yếu tố: chất lượng công trình, tính an toàn và hiệu quả kinh tế và
điều này được thể hiện trong tất cả các giai đoạn từ khảo sát, thiết kế đến thi công.
Phương pháp NATM không đưa ra đòi hỏi cao nhất đối với công tác thiết kế. Sự thành
công của một dự án phụ thuộc chủ yếu vào những quyết định được đưa ra ngay tại
hiện trường. Các thiết kế ban đầu chỉ nên xem là những chỉ dẫn trong thi công, điều
quan trọng là phải có sự phối hợp giữa các bên: Chủ đầu tư, Tư vấn và Nhà thầu để
đưa ra những thay đổi phù hợp theo điều kiện thực tế.
1.3. Phương pháp đào hầm
1.3.1. Phương pháp đào toàn diện
Theo phương pháp này, gương đào được mở một lần trên toàn tiết diện ngang
của hầm, dựng vì chống tạm rồi xây vỏ hầm vĩnh cửu.

Hình 13: Phương pháp đào toàn tiết diện


Điều kiện ứng dụng

Phương pháp này dùng cho các đường hầm có kích thước tiết diện hầm không
lớn, chiều cao nhỏ hơn 10m, chiều dài không hạn chế.
Thích hợp với điều kiện địa chất công trình là đá cứng, hệ số độ cứng f k ≥4, tiết

diện ngang hầm ≤ 120m2.
HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21
18


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải

 Trình tự thi công
Đổ bê tông vỏ (2) chậm sau gương (1) hoặc sau khi đào xong toàn hầm.
1.3.1.1. Đào toàn tiết diện không cần chống đỡ hoặc chỉ chống đỡ đơn giản
Trong trường hợp này người ta đào hầm một cách tuần tự, tức là khoan và thải đá
không đồng thời. Trong những khối đá cứng, toàn khối f k = 15÷20 không cần phải
chống đỡ. Trong các khối đá nứt nẻ thì dùng các loại vì chống nhẹ như neo kết hợp với
lưới thép, bê tông phun hoặc tổ hợp neo và bê tông phun.
Ưu điểm: Cho phép tận dụng tối đa các thiết bị thi công có công suất lớn, thực
hiện thi công theo tiến độ và tốc độ đào hầm lớn. (150-200m/tháng đối với hầm tiết
diện nhỏ; 100-150m/tháng đối với hầm tiết diện trung bình, 80-120m/tháng đối với
hầm tiết diện lớn).
Nhược điểm: Ứng dụng trong điều kiện địa chất đá cứng toàn khối hoặc nứt nẻ.
1.3.1.2. Đào toàn tiết diện với việc sử dụng vì chống cứng
Khi có hiện tượng tăng áp lực địa tầng làm giảm độ ổn định của nóc hầm, nếu thi
công theo phương pháp đào toàn tiết diện người ta thường dùng vì chống cứng là các
vòm kim loại. Các vòm kim loại được giằng với nhau và chêm vào đá tạo thành hệ
khung cứng. Khoảng trống giữa vòm và nóc hang được chèn bằng các tấm bê tông cốt
thép và lấp đầy bằng gỗ hoặc đá. Vòm kim loại bằng các thanh thép chữ I theo tính
toán, đặt cách nhau 40 đến 80cm đến tận sát gương.
Ưu điểm: Tăng cường ổn định của nóc hầm, giảm áp lực địa tầng.

Nhược điểm: Thi công khó khăn, chi phí lớn do hệ vì chống bị mất sau khi đổ bê
tông, chỉ ứng dụng trong những đoạn hầm khi đào trong đá không ổn định.
1.3.1.3. Đào toàn tiết diện sử dụng vì chống liên hợp
Khi fk = 2÷3 người ta sử dụng phương pháp đào toàn tiết diện sử dụng vì chống
liên hợp. Thực chất của phương pháp này là từng bước tạo ra ở xung quanh hang trong
quá trình đào loại vì chống tạm có khả năng đưa khối đá xung quanh vào cùng làm
việc để đơn giản hóa cấu trúc của vì chống. Một trong những bộ phận loại vì chống
này là neo, bộ phận khác của nó là bê tông phun.
HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21
19


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải
1.3.1.4. Đào toàn tiết diện với việc sử dụng vì chống mềm
Phương pháp này ứng dụng khi đào hầm có tiết diện từ 40÷ 90m 2. Theo phương
pháp này, đầu tiên chống bằng vì chống có khả năng biến dạng, chêm chèn chắc vào
đá. Sau đó khi áp lực và độ lún của vì đã ổn định thì tiến hành xây vỏ vĩnh cửu để giữ
vì chống đã dựng ban đầu.

Hình 14: Đào hầm tiết diện lớn, vì chống liên hợp

Ưu điểm: Có thể sử dụng trong những điều kiện địa chất công trình đặc biệt như
phiến sét, sét, đá biến chất hoặc argilit dẻo, tức là các loại đá có tính từ biến tắt dần,
không xuất hiện tải trọng một phía, dễ làm gãy lớp bê tông phun.
Nhược điểm: thi công phức tạp và đòi hỏi phải thường xuyên theo dõi biến dạng
của nóc và vách hang.
1.3.1.5. Đào toàn tiết diện với việc dùng ván khuôn dạng tấm thép di động

Phương pháp này ứng dụng trong các loại đá nứt nẻ mạnh, dễ sụt lở có thể hiện
áp lực địa tầng ở nóc và vách hang, hầm có tiết diện ≤ 70m 2.
Phương pháp này thương dùng bê tông lót mác thấp làm vì chống tạm. Bê tông
này được đổ nhờ những đốt ván khuôn ngắn di động. Đốt ván khuôn có cấu tạo thường
là một hệ vòm liên kết với nhau tạo thành một kết cấu không gian, mặt ngoài có hàn
thép làm tấm ván khuôn, có các cửa sổ để đổ bê tông.
HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21
20


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải

Hình 15: Đưa ván khuôn dạng khiên vào gương

Nhược điểm của phương pháp này là tốc độ đào hầm không cao, mặt khác do cấu
tạo của các tấm ván khuôn di động nên đòi hỏi đào vượt lớn và đôi khi chất lượng của
lớp bê tông lót không đảm bảo do các khối đá nhô ra. Do đó chỉ dùng thi công các
đoạn hầm ngắn.
Áp dụng phương pháp đào toàn tiết diện có sử dụng thiết bị lắp ráp vỏ hầm là
khá khó khăn, nên khi áp dụng phải có luận cứ cẩn thận, chặt chẽ tương ứng với điều
kiện địa chất công trình của tuyến hầm.
1.3.2. Phương pháp đào bậc thang
Phương pháp đào bậc thang là phương pháp phổ biến để xây dựng các hầm lớn
có chiều dài không hạn chế nằm trong điều kiện địa chất công trình thuận lợi (f k ≥ 4)
với hầm có tiết diện lớn hơn 100m2 và chiều cao lớn hơn 10m.
Điều khác nhau căn bản của phương pháp bậc thang và phương pháp đào toàn
tiết diện là ở việc phân chia tiết diện ngang của hang ra làm các mảnh rồi đào tuần tự

ra trên toàn gương. Việc phân chia tiết diện như vậy phải đảm bảo sự ổn định của hang
trong quá trình thi công và việc làm đó sẽ giảm bớt khó khăn cho công tác khoan đào
và xây vỏ hầm bê tông. Đối với phương pháp bậc thang có ba cách mở gương là bậc
thang trên, bậc bên và bậc dưới (hình16).

HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21
21


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải

Hình 16: Thứ tự đào hầm bằng phương pháp bậc thang
a. Phương pháp bậc thang trên, b. Phương pháp bậc thang bên,
c. Phương pháp bậc thang dưới
- Đối với phương pháp bậc thang trên có thể sử dụng hai sơ đồ thi công
Theo sơ đồ I: trong phần dưới hầm tiến hành đào hang dẫn trên suốt chiều dài
hầm. Tiếp theo sử dụng phần hang dẫn này làm mặt thoáng tiến hành đào phần cơ bản
của hầm.
Theo sơ đồ II: đầu tiên đào phần dưới hang trên suốt chiều dài dầm. Từ phần
dưới tiến hành khoan rồi làm sập phần trên. Phương pháp này khi áp dụng có nhiều
nhược điểm nên trong thực tế ít dùng.
- Phương pháp bậc bên:
Được sử dụng để đào bậc trên của hầm nhịp lớn (khi bề rộng hầm 20m hoặc lớn
hơn) trong đá ổn định và khi hầm có bề rộng nhỏ hơn trị số trên nhưng đá nứt nẻ dễ sụt
lở trong quá trình đào.
- Phương pháp bậc thang dưới:
Việc xây dựng hầm được thực hiện một cách tuần tự. Đầu tiên trong suốt chiều

dài hầm người ta đào phần trên của tiết diện (như phương pháp toàn tiết diện). Sau đó
đổ bê tông phần vòm ở khoảng cách kể từ gương là 250 – 300m. Khi chiều dài hầm
nhỏ hơn 300 m thì có thể đào phần trên và chống đỡ tạm trên toàn hầm rồi mới xây vỏ
vĩnh cửu (bê tông). Sau khi đổ bê tông vòm mới tiến hành đào bậc dưới. Cuối cùng
(sau khi đổ bê tông vỏ) mới thi công phần đáy hầm. Khi chiều cao hầm chừng 10m
nếu có thiết bị đổ bê tông cả vòm thì việc xây dựng vỏ hầm có thể tiến hành làm một
bước, sau khi đã đào xong phần dưới.
HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21
22


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải
Ưu điểm: nổi bật của phương pháp bậc thang dưới là cho khả năng gia cố nhanh

phần nóc hang, nhất là trong những đoạn địa tầng phá hoại và có thể chuyển nhanh
sang phương pháp khác khi chuyển vào đoạn địa tầng yếu.
Nhược điểm: cơ bản của phương pháp bậc thang dưới là làm tăng thời hạn thi
công toàn hầm so với phương pháp đào toàn diện.
1.3.3. Phương pháp vòm trước.
Phương pháp vòm trước có một số dạng như: một hang dẫn, hai hang dẫn và toàn
bộ phần vòm vượt trước…
Phương pháp vòm trước có dạng biến tướng; một hang dẫn, hai hang dẫn, và toàn
bộ phần vòm trước v.v…
Với một sơ đồ một hang dẫn, trước tiên người ta đào hang dẫn trên (1), sau đó
mở rộng phần vòm (2) và xây vỏ cho phần vòm. Tiếp theo dưới sự bảo vệ của vòm
tiến hành đào phần giữa (3) và mở rộng phần dưới (4) (5) rồi xây phần tường của vỏ
hầm. Cuối cùng đào và đổ bê tông phần đáy hầm (6).


Hình 17: Đào các bộ phận khi thi công hầm bằng phương pháp vòm trước
a. Sơ đồ một hang dẫn; b. Sơ đồ hai hang dẫn; c. Sơ đồ phần vòm vượt trước;1,2,3…8
thứ tự đào tiết diện

HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21
23


Tiểu luận: Quản lý công nghệ xây dựng

GVHD: PGS.TS. Dương Đức Tiến
PGS.TS. Đinh Tuấn Hải

1.3.4. Phương pháp nhân đỡ
Trong trường hợp đặc biệt phức tạp
người ta dùng phương án đào song song
các tường cùng với việc đổ bê tông các
phần vỏ tương ứng nhờ các hang dẫn bố
trí lần lượt lên nhau, bắt đầu từ đáy hầm
cho đến khi khép kín vỏ hầm.
Phương pháp này ít áp dụng, chủ
yếu để vượt qua những chỗ địa chất yếu
và bề rộng hầm lớn (10m trở lên).

Hình 18: Phương pháp nhân đỡ
1.3.5. Phương pháp phân mảnh đào toàn tiết diện
Phương pháp phân mảnh đào tiết diện
là phương pháp đào toàn bộ không gian của
hầm theo trình tự sau: đầu tiên đào hang dẫn

dưới (1) và hang dẫn trên (2). Đào mở rộng
phần nhỏ (3) và mở rộng phần lớn (4) phần
lõi (5) và mở rộng sang 2 vách (6). Đồng
thời với quá trình đào là quá trình chống.
Đến khi đào xong toàn tiết diện hang cũng là
lúc dựng xong vì chống dạng nan quạt bằng
gỗ. Sau khi đào xong toàn tiết diện thì tiến
hành đổ bê tông vỏ hầm có thể cả phần bản

Hình 19: Phương pháp phân mảnh
đào toàn tiết diện

đáy.
Ngoài các phương pháp trên còn một số phương pháp như phương pháp đào gia
cố trước, phương pháp ximăng hóa để gia cố đất đá…Mỗi loại phương pháp tùy thuộc
vào điều kiện địa hình, địa chất và cách thức tổ chức thi công khác nhau.
HVTH: Đoàn Văn Linh-23QLXD21
24


×