Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận môn triết học ảnh hưởng của nho giáo trong tương lai văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.5 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN

ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRONG TƯƠNG LAI
VĂN HÓA VIỆT NAM

Lớp: KT357
1.Huỳnh Ngọc Mỹ Hạnh
2.Võ Sỹ Lượng
3.Phan Thị Hà Phương
4.Tôn Nữ Thanh Vân
5.Nguyễn Vũ Nhật Ngân

Năm 2016


MỤC LỤC


Trang 3
LỜI MỞ ĐẦU
Trung Hoa cổ đại nổi tiếng là chiếc nôi văn hóa khoa học và triết học cổ xưa,
đây cũng là nơi ra đời hàng loạt các hệ thống triết học cũng như các nhà triết gia vĩ
đại không chỉ của nền văn minh phương Đông mà là còn của cả nhân loại. Nho giáo
là một học thuyết chính trị - đạo đức ra đời và tồn tại đến nay đã hơn 2500 năm ở
thời Xuân Thu do Khổng Tử sáng lập. Nho giáo có một vị thế hết sức to lớn trong
đời sống xã hội Trung Quốc trong nhiều thế kỷ.
Ngay từ khi xâm nhập vào Việt Nam, Nho giáo đã nhanh chóng thích nghi và


phát triển mạnh mẽ, sự ảnh hưởng của Nho giáo đến đời sống của con người Việt
Nam rất sâu sắc và được thể hiện trên nhiều phương diện, đặc biệt là trong lĩnh vực
đạo đức không chỉ trong quá khứ mà còn phát huy đến ngày nay góp phàn làm
phong phú thêm cho nền văn hóa của Việt Nam. Trải qua nhiều biến chuyển xã hội,
văn hóa thế kỷ 20, Nho giáo đã mất đi vị thế độc tôn, chính thống trong dân gian
của nhièu quốc gia, trong đó có Việt Nam. Sự đoán định về tồn tại và sức ảnh
hưởng của Nho giáo trong xã hội Việt Nam thế kỷ 21 là công việc lớn, phức tạp và
luôn đòi hỏi cần bỏ ra nhiều công sức và nỗ lực nghiên cứu chuyên sâu của nhiều
chuyên gia. Với đề tài: "Ảnh hưởng của Nho giáo trong tương lai văn hóa Việt
Nam", nhóm muốn đề cập một vài nét về ảnh hưởng sâu rộng của tư tưởng đạo đức
Nho giáo đối với con người Việt Nam trong quá khứ, từ đó gợi mở những xu hướng
chuyển hóa cũng như nguy cơ với văn hóa dân tộc từ những ảnh hưởng mới của
Nho giáo trong tương lai.


Trang 4
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
I. Quá trình hình thành và phát triển của Nho giáo
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng
góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc,
Khổng Tử (sinh ngày 8/9/479 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu
Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người
đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho giáo.
1. Nho giáo nguyên thủy
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh.
Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận
ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra
sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết
ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau
này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình

thành nên Nho giáo nguyên thủy.
2. Hán Nho
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa
Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư
tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong
kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán
Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của
giai cấp thống trị. Thiên Tử là con của trời, dùng “lễ trị” để che đậy “pháp trị”.
3. Tống Nho
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với
Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống
nho. Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố
"tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho
việc đào tạo quan lại và cai trị.
II. Các sách kinh điển
Sách kinh điển gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư.


Trang 5
1. Ngũ Kinh
a. Kinh Thi: sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về
tình yêu nam nữ nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách
thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng.
b. Kinh Thư: ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước
Khổng Tử.
c. Kinh Lễ: ghi chép các lễ nghi thời trước Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng
làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự.
d. Kinh Dịch: nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa
trên các khái niệm âm dương, bát quái,...
e. Kinh Xuân Thu: ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử.

f. Kinh Nhạc: do Khổng tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại một
ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký.
2. Tứ Thư
Tứ thư bao gồm Luận Ngữ, Đại Học, Trung Dung và Mạnh Tử. Luận ngữ
ghi lại lời dạy của Khổng Tử do học trò của ông ghi chép lại. Đại học dạy phép làm
người để trở thành bậc quân tử. Trung dung dạy người ta cách sống dung hòa,
không thiên lệch. Mạnh Tử ghi lại lời dạy của Mạnh Tử.
III. Nội dung cơ bản của Nho giáo
1. Tu thân
Người quân tử phải đạt ba điều trong tu thân:
* Đạt Đạo: Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà
người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống.
* Đạt Đức: Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Về sau, Mạnh
Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân, nghĩa, lễ, trí".
Hán nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín".
Năm đức này còn gọi là "ngũ thường".
* Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc: Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa
toàn diện.


Trang 6
2. Hành đạo
Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc hành đạo, tức
là phải làm quan, làm chính trị là hai phương châm là nhân trị và chính danh.
Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người và coi người như bản
thân mình. Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? (sách Luận ngữ)
Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm
đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận
tất việc không thành" (sách Luận ngữ).
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư,

lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không
cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền không có đức gọi là tiểu nhân.
IV. Đặc điểm của Nho giáo
1. Tính du mục phương Bắc
Tính "quốc tế" trong Nho giáo thể hiện ở mục tiêu cao nhất của người quân
tử là "bình thiên hạ". Tính "phi dân chủ" và hệ quả của nó là tư tưởng "bá quyền",
coi khinh các dân tộc khác, coi mình là trung tâm còn "tứ di”. Tính "trọng sức
mạnh" được thể hiện ở chữ "Dũng", một trong ba đức mà người quân tử phải có
(Nhân - Trí - Dũng). Tính "nguyên tắc" được thể hiện ở học thuyết "chính danh".
Tất cả phải có tôn ti, tất cả phải làm việc theo đúng bổn phận của mình.
2. Tính nông nghiệp phương Nam
* Tính "hài hòa" là một đặc tính của văn hóa nông nghiệp, trái ngược với
tính trọng sức mạnh của văn hóa du mục. Biểu hiện cho tính hài hòa là việc đề cao
chữ "Nhân" và nguyên lý "Nhân trị".
* Tính "dân chủ" là đặc tính khác biệt với văn hóa du mục. Khổng Tử nói:
"Dân là chủ của thần, vì thế thánh nhân xưa lo cho việc dân rồi mới lo việc thần"
(Kinh Xuân Thu). Trong các quan hệ đó, đều thể hiện tính hai chiều, bình đẳng: Vua
sáng, tôi trung; cha hiền con hiếu, anh nhường em tốt, bạn bè tin cậy.
* Tính coi trọng văn hóa tinh thần (thi, thư, lễ, nhạc) thể hiện nhiều trong
Kinh Thi. Tính "trọng văn" cũng ngược lại với tính "trọng võ" của văn hóa du mục.


Trang 7
CHƯƠNG II. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐẾN CON NGƯỜI VIỆT
NAM
I. VẤN ĐỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CON NGƯỜI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam giai đoạn hiện nay
Con đường đi lên CNXH của đất nước ta ở thời đại ngày nay có một đặc điểm
lớn là không qua giai đoạn phát triển TBCN. Hiện nay, nền kinh tế thị trường định

hướng XHCN đã thu được những thành tựu lớn, bên cạnh đó, nó cũng đang làm thay
đổi nhiều chuẩn mực đạo đức và định hướng giá trị.
Vì thế, trong giáo dục và đào tạo con người Việt Nam hiện nay nói chung và
con người kế toán nói riêng, phải biết dùng quan điểm hiện đại để soi rọi vào truyền
thống. Nếu chúng ta biết tiếp thu quan điểm tiến bộ, loại trừ những hạn chế trong
Nho giáo đồng thời áp dụng những đường lối mới phù hợp với hoàn cảnh hiện nay thì
chúng ta sẽ xây dựng thành công con người mới XHCN.
2. Quan điểm triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về
giáo dục đào tạo con người Việt Nam hiện nay
Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết quan tâm hơn hết đến bản chất vai trò
của con người. Mác và Ăngghen đã phác hoạ ra những nét chính của con người mới:
đó là những con người đã thực sự làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân; được phát
triển toàn diện; và quan hệ giữa người với người là bình đẳng.
Trong xã hội mới, con người là chủ thể của xã hội, có vai trò to lớn trong sự
nghiệp xây dựng đất nước. Để có con người mới đó Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò
giáo dục đạo đức, nhất là đạo đức cách mạng.
Phương hướng chung của việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa của
Đảng là con người phát triển toàn diện cân đối, có trình độ năng lực. Đảng đã chủ
trương xây dựng con người mới từ con người “truyền thống”.


Trang 8
II. ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CHÍNH TRỊ – ĐẠO
ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ ĐỐI VỚI CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Trong phạm vi xã hội
Cho đến nay, xã hội đã xuất hiện một quan hệ mới: Quan hệ giữa những người
Cộng sản và nhân dân lao động. Để xây dựng quan hệ tốt đẹp không chỉ giữa Đảng
và nhân dân mà cả trong tất cả các mối quan hệ của xã hội, thì chữ nhân, lễ, nghĩa, trí,
tín, dũng… vẫn có nhiều giá trị quan trọng và được giữ gìn đến ngày này.
2. Trong phạm vi nhà trường

Hiện nay nội dung giáo dục đã được thay thế bằng những nội dung mới mang
tính khoa học nhằm phát triển nhân cách toàn diện; thực hiện mục đích rèn luyện
nhân cách cho con người. Đó là tinh thần “Học, học nữa, học mãi” (Lênin); “Tiên học
lễ, hậu học văn”…
3. Trong phạm vi gia đình
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề giáo dục con người trong gia đình đã đạt
được những kết quả đáng kể. Chúng ta chủ trương khôi phục gia đình truyền thống
với những nếp tốt mà Nho giáo đã làm được. Gia đình trong thời hiện nay cũng với
mục đích xây dựng nên những mối quan hệ bằng sự mềm dẻo, khéo léo. Mọi thành
viên bình đẳng trên cơ sở bình đẳng lẫn nhau.
Tóm lại, khi nghiên cứu vấn đề ảnh hưởng tư tưởng triết học của Khổng Tử về
sự nghiệp giáo dục đào tạo con người hiện nay, chúng ta cũng không thể không kể
đến những mặt hạn chế của Nho giáo còn tồn tại trong xã hội. Việc thanh toán những
hậu quả xấu của Nho giáo một cách toàn diện và triệt để là cần thiết.
III. NHO GIÁO TRONG TƯƠNG LAI VĂN HÓA VIỆT NAM
Việt Nam là một quốc gia thuộc vùng chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Trải qua
những chuyển biến xã hội, văn hoá thế kỷ 20, Nho giáo đã mất địa vị độc tôn.
Giống như mọi hiện tượng văn hoá khác, Nho giáo chịu sự quy định của thực tại,
chịu tác động của các điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội, chính trị của Việt Nam cuối
thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, chính sách văn hoá, xã hội của Ðảng cộng sản Việt Nam và
Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cùng nhiều nhân tố khác nhau.


Trang 9
1. Sự giải thể và chuyển hóa của Nho giáo thế kỷ 20
Thế kỷ 20 là thế kỷ biến động sâu sắc và toàn diện. Người ta nhìn nhận sự
biến động lớn đó là đứt gẫy, là sự gián cách văn hoá giữa truyền thống và hiện đại.
Đó là hai quá trình cùng diễn ra, quá trình giải thể và quá trình chuyển hoá, giải thể
để đi tới chuyển hoá, là sự kết thúc của Nho giáo thời kỳ chuyên chế phong kiến và
bắt đầu của Nho giáo thời kỳ cộng hoà, tự do và dân chủ.

Quá trình giải thể của Nho giáo thế kỷ 20 đã diễn ra một cách toàn diện, ở cả
phương diện chính thống, học thống và đạo thống. Nó diễn ra mạnh mẽ khi chế độ
giáo dục khoa cử nho học bị xoá bỏ vào năm 1919, được hoàn tất khi cách mạng
dân tộc dân chủ năm 1945 toàn thắng bởi sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản, xoá bỏ
chế độ thực dân nửa phong kiến.
Quá trình giải thể tiếp diễn vào các thập kỷ 60, 70 của thế kỷ 20 và thiên về
chính trị. Quá trình giải thể đã đồng thời gây ra một quá trình chuyển hoá. Nho giáo
đã luân lạc trong dân gian, tuy mất đi phần chính trị, phần ứng dụng của nó Phương diện tôn giáo, triết học và cả tinh thần nhân văn vẫn tiếp tục tồn tại trong
đời sống người Việt Nam. Nó tiếp tục được bảo lưu trong đời sống gia tộc, phong
tục tập quán, nhân cách, lý tưởng, quan hệ nhân tế của con người. Trong định hướng
giá trị của con người Việt Nam, nó vẫn ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc.
Thế kỷ 20, không còn chỗ dựa chính trị, lại không được lưu truyền qua giáo
dục khoa cử, Nho giáo đã mất đi những chỗ dựa hết sức quan trọng. Nho giáo một
cách tự nhiên chuyển sang tìm chỗ dựa ở tâm thức dân chúng, từ chỗ dựa này, nó
vẫn có những cơ hội tái sinh. Tuy nhiên vị trí chủ cán của Nho giáo đối với văn hoá
Việt Nam truyền thống không thực tiêu biểu và rõ ràng như vị trí của nó đối với văn
hoá Trung Quốc, cho nên trong sự chuyển hoá mới, nó cũng rất khó có thể trở thành
chủ cán trong văn hoá Việt Nam hiện đại.
2. Nguy cơ đối với văn hóa dân tộc và ảnh hưởng mới của Nho giáo
Nho giáo được lựa chọn là tư tưởng chủ đạo ở Việt Nam trong thời trung đại
phần quan trọng chủ yếu xuất phát từ nhu cầu xã hội của nhà nước phong kiến trung
ương tập quyền mạnh, từ nhu cầu củng cố khối đoàn kết toàn dân tộc. Nho giáo và
dân tộc, đó là hai vấn đề gắn bó hữu cơ, và có mối quan hệ khăng khít với nhau.


Trang 10
Các nhà Nho Việt Nam vừa sống, tu dưỡng theo những nguyên lý đạo đức
Khổng Mạnh, lại vừa ứng xử với tư cách người quốc dân luôn đặt lợi ích dân tộc lên
trên hết.
Trong quá khứ, mỗi bước chuyển biến của dân tộc đều liên quan tới vận

mệnh của Nho giáo. Ðã thành tiền lệ, các vấn đề văn hoá nảy sinh trong xã hội Việt
Nam hầu như không được giải quyết độc lập, đáp ứng những nhu cầu vận động tự
thân của văn hoá, mà thường được giải quyết đồng thời, giải quyết cùng lúc với vấn
đề dân tộc. Vừa giải quyết vấn đề dân tộc mà đồng thời người ta giải quyết các vấn
đề văn hoá.
Chẳng hạn, cuộc kháng chiến chống Minh cứu vong dân tộc thế kỷ 15 với
việc chuyển đổi hệ tư tưởng, thay đổi vận mệnh Nho giáo, hay Cách mạng tháng
tám năm 45, là cách mạng dân tộc, vừa là cách mạng dân chủ, cách mạng văn hoá.
Từ cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20, việc Việt Nam chuyển đổi cơ chế nền kinh tế từ
kinh tế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường và hội nhập thế giới
đã làm nảy sinh những nguy cơ đối với văn hoá Việt Nam. Công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và chuyển đổi cơ chế kinh tế làm phát xuất những nguy cơ từ bên trong và
những nguy cơ bên ngoài kéo đến từ hội nhập quốc tế.
Nguy cơ bên trong thể hiện ở sự xói mòn và băng hoại nhiều giá trị văn hoá
truyền thống. Nguy cơ bên ngoài là việc thâm nhập của văn hoá Âu mỹ, của lối
sống Tây phương hiện đại tấn công vào văn hoá bản địa, đe doạ sự tồn tại của bản
sắc văn hoá dân tộc.
Hai nguy cơ nảy sinh từ bên trong và tác động từ bên ngoài hợp thành môt
nguy cơ lớn đe doạ văn hoá dân tộc. Lúc này nguy cơ đối với dân tộc không phải
chỉ còn ở chỗ độc lập hay không độc lập, mà còn ở chỗ dân tộc có bị hoà tan trong
cộng đồng văn hoá nhân loại hay không, đó sẽ là một thảm hoạ lớn và cũng là một
loại diệt vong đối với nền văn hóa lâu đời của nước ta.
Trước nguy cơ tồn vong của văn hoá dân tộc đó, người Việt Nam đã hướng
về bảo lưu các giá trị truyền thống. Phong trào tái sinh văn hoá đã diễn ra mạnh mẽ.
Tái sinh văn hoá diễn ra một cách tự nhiên trong dân gian và nằm trong chiến lược
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của Ðảng cộng sản và Nhà nước Việt
Nam.


Trang 11

Truyền thống văn hoá được bảo vệ và phát huy theo hướng bảo lưu nhiều giá
trị truyền thống đã tạo ra những cơ hội cho Nho giáo tái sinh. Ðiều đó là đương
nhiên vì Nho giáo đã từng tham gia và là thành phần quan trọng kiến tạo bản sắc
văn hoá. Ðồng thời cũng phải nhận thấy rằng bảo vệ truyền thống văn hoá cũng sẽ
là điều không thể thực hiện được nếu gạt bỏ những gì thuộc về Nho giáo. Vậy là
Nho giáo được lựa chọn, biến thiên, bị giải thể tái sinh thảy đều gắn rất chặt với vấn
đề dân tộc ở Việt Nam. Ðiều này hẳn là việc sẽ còn tiếp diễn lâu dài trong tương lai.
3. Ảnh hưởng hiện đại của Nho giáo về mặt Tôn giáo, Tín ngưỡng
Dẫu có nhiều thăng trầm và không ít sự thay đổi, tục thờ cúng tổ tiên, nhìn
chung vẫn được duy trì suốt thế kỷ 20 đầy biến động vừa qua. Thờ cúng tổ tiên đối
với người Việt không còn là chuyện Nho giáo hay không Nho giáo, nó đã Việt hoá
sâu sắc thành một sinh hoạt, phong tục tập quán và tín ngưỡng quan trọng bậc nhất
của người Việt. Người ta đua nhau truy tìm phần mộ tổ tiên, sưu tập gia phả, nhận
họ, sửa sang nhà thờ, thờ cúng tổ tiên hiện đại có xu hướng thế tục, thực dụng và
nông cạn. Thờ cúng tổ tiên ít còn được hiểu như hành vi luân lý, hành vi đạo hiếu,
là việc giáo dục con cháu. Nho giáo sẽ có chỗ đứng vững chắc cùng hoạt động tâm
linh này, nhưng không đẩy mạnh ý nghĩa giáo dục luân lý, đạo đức, tinh thần uống
nước nhớ nguồn, tục thờ cúng tổ tiên sẽ mất đi nhiều ý nghĩa nhân văn vốn có của
Nho giáo. Nó sẽ là xu hướng không lành mạnh nếu không có sự can thiệp, dẫn dắt
của tri thức, của dư luận xã hội.
Suốt trong khoảng thời gian mười thế kỷ trung đại, đã từng có những giai
đoạn Nho giáo được coi là độc tôn. Thế kỷ 20, khi Nho giáo không còn ảnh hưởng
mạnh trong đời sống chính trị, nó "thất thế" về toàn cục. Lúc này Phật giáo có nhiều
cơ hội hơn trong việc giữ vững vị thế của mình. Chính sự khác nhau trong mối quan
hệ với chính trị giữa Nho giáo và Phật giáo đã khiến cho chúng nhận được những
thái độ khác nhau của chính trị hiện đại.
Tuy nhiên, tham gia vào quá trình kiến tạo và dẫn dắt tư tưởng, văn hoá dân
tộc, giải quyết những nguy cơ dân tộc về mặt văn hoá thì lại là việc mà Nho giáo có
nhiều khả năng hơn hẳn Phật giáo. Trong những điều kiện mới, Nho giáo sẽ tiếp tục
ảnh hưởng mạnh ở giai tầng tri thức. Nó tham gia kiến tạo nhân cách, nhân sinh,



Trang 12
dẫn dắt các quan hệ xã hội, ứng xử xã hội của dân chúng. Sự cải thiện vị trí và
những khả năng ảnh hưởng mạnh của Nho giáo chỉ được thực hiện khi chính trị ưu
ái hơn với Nho giáo và sự nhận thức của trí thức đối với văn hoá truyền thống, đối
với tương lai văn hoá Việt Nam có những điều chỉnh thích hợp.
4. Cái học tâm tính của Nho giáo trong tương lai
Ðã là nhà Nho, đã từng nghiềm ngẫm Nho gia, ai cũng coi tu thân là gốc của
mọi quá trình. Cái học hướng nội điều chỉnh ấy nhà Nho gọi là cái học nội thánh,
hay tâm tính chi học. Từ nội thánh, nhà Nho triển khai ngoại vương. Ðó là đặc sắc
của Nho gia.
Thế kỷ 20, Nho gia ít còn điều kiện và cơ sở xã hội để thực hành đạo ngoại
vương. Nhưng trong thời kỳ dân chủ, tự do, đề cao cá nhân, cái học nội thánh vẫn
còn có chỗ đứng, nó rất cần cho việc tu dưỡng của người hiện đại. Hoàn thiện nhân
cách, truy cầu lý tưởng nhân sinh an lạc hoà hài không mâu thuẫn với cá nhân tự do.
Các học giả tân nho gia đã ra sức khuếch trương cái học tâm tính, kiến lập cái học
nội thánh mới theo hướng dung hợp Nho - Phật. Dung hợp tư tưởng Nho gia và triết
học phương Tây cận hiện đại là trọng tâm của quá trình chuyển hoá hiện đại Nho
học.
Trong sự chuyển giao thời đại, Nho gia sẽ đi vào hiện đại chủ yếu bằng tâm
tính học. Nhưng ở Việt Nam, sự triển khai cái học tâm tính cho thời dân chủ và cá
nhân sẽ gặp những khó khăn nghiêm trọng, do nó là điểm yếu trong truyền thống.
Nếu phát huy mạnh cái học tâm tính, một truyền thống mới rất khác trước diễn ra.
Nếu thiếu chiều sâu của cái học tâm tính, Nho gia sẽ chỉ còn là nông cạn, thiển cận.
Thiếu vắng cái học tâm tính, yếu tố tích cực của Nho giáo sẽ mất đi rất nhiều.


Trang 13
KẾT LUẬN

Nho giáo là một trong những trường phái triết học chính của Trung Quốc từ
thời cổ đại, tư tưởng triết học Nho giáo của Khổng Mạnh chiếm địa vị đặc biệt quan
trọng trong lịch sử tư tưởng, nó ảnh hưởng sâu sắc trong mọi mặt của đời sống xã
hội Trung Quốc suốt hơn hai ngàn năm lịch sử.
Do vị trí địa lý và điều kiện lịch sử, Nho giáo đã thâm nhập và bén rễ sâu vào
các tầng lớp nhân dân Việt Nam từ hàng ngàn năm nay. Nó ảnh đến hầu như tất cả
các lĩnh vực tâm lý, văn hoá, xã hội.
Dù có những điểm chưa tích cực, chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng
Nho giáo đã góp phần đúc nặn nên diện mạo tinh thần dân tộc và văn hóa dân tộc.
Trãi qua năm tháng sàn lọc những tư tưởng triết học của Nho giáo đã thấm nhuần
trong lòng con người Việt Nam: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín của ngày xưa cho đến
nay vẫn là một nét đẹp đáng trân trọng ở góc nhìn đúng đắn. Trí và Dũng ngày nay
còn được các nhà quản trị tài ba vận dụng vào các chiến lược kinh doanh. Còn
những quan niệm về Nhân, Lễ, Nghĩa thì càng được phát huy theo những mặt tích
cực, xây dựng nên những mặt phát triển góp phần thúc đẩy cho kinh tế phát triển.
Cho đến nay, trong văn hóa của người Việt Nam, tính cộng đồng vẫn luôn được đề
cao, còn trong gia đình hình tượng người phụ nữ mẫu mực, đằm thắm, chịu thương,
chịu khó thì vẫn được coi trọng. Nét đẹp đó đã trở thành nét đặt trưng của văn hóa
Việt Nam.
Người Việt Nam hiện nay đã có một cái nhìn mới, cách hiểu mới thật đúng
đắn đối với Nho giáo, đã biết tiếp thu một cách có chọn lọc, không phủ định sạch
trơn đối với một số khái niệm tưởng chừng như đã cũ. Đó cũng chính là việc kế
thừa và phát huy tinh hoa và bản sắc văn hoá cổ của dân tộc và nhân loại một cách
tích cực theo quan điểm của Đảng ta.
Vì vậy, chúng ta có thể nhận thấy rằng trong tương lai Nho giáo vẫn sẽ ảnh
hưởng mạnh mẽ đến đời sống văn hóa người Việt Nam theo hướng những gì tiêu
cực sẽ tiếp tục bị đào thải, xóa bỏ, những gì tích cực, hợp thời sẽ tiếp tục được
khẳng định và ăn sâu hơn nữa. Tiếp tục nghiên cứu Nho giáo và vạch ra con đường



Trang 14
để có thể phát huy hết những giá trị tích cực của Nho giáo là một việc hết sức cần
thiết mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cần làm.


BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHÓM
Thành viên nhóm gồm:
1/ Huỳnh Ngọc Mỹ Hạnh

- Nhóm trưởng

2/ Võ Sỹ Lượng
3/ Phan Thị Hà Phương
4/ Tôn Nữ Thanh Vân
5/ Nguyễn Vũ Nhật Ngân

TỔNG HỢP KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM:
STT
1
2
3
4
5

Họ và tên
Huỳnh Ngọc Mỹ Hạnh
Võ Sỹ Lượng
Phan Thị Hà Phương
Tôn Nữ Thanh Vân
Nguyễn Vũ Nhật Ngân

Ngày làm việc

Tỷ lệ

Nội dung làm việc

17/07/2016

-

Chọn đề tài
Xây dựng đề cương

24/07/2016

-

Đọc tài liệu, hội ý làm Lời mở đầu và
Chương I: Cơ sở lý thuyết

07/08/2016

-

Đọc tài liệu, hội ý làm Chương II: Ảnh
hưởng của Nho giáo đến con người Việt
Nam

14/08/2016


-

Đọc tài liệu, hội ý làm Chương II: Ảnh
hưởng của Nho giáo đến con người Việt
Nam tiếp theo

21/08/2016

-

Hội ý làm phần Kết Luận
Chỉnh sửa và hoàn chỉnh tiểu luận

1/ H
2/ V
3/ P
4/ T
5/ N
1/ H
2/ V
3/ P
4/ T
5/ N
1/ H
2/ V
3/ P
4/ T
5/ N
1/ H
2/ V

3/ P
4/ T
5/ N
1/ H
2/ V
3/ P
4/ T


5/ N



×