MỤC LỤC
BUỔI THẢO LUẬN THỨ BẢY:
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG (phần cụ thể).
I. Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra.
Câu 1: Khi nào cha mẹ phải bồi thường thiệt hại cho con chưa thành niên gây ra? Nêu
cơ sở pháp lí khi trả lời.
Căn cứ vào Khoản 2, Điều 606, BLDS 2005 về Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của cá nhân:
“2. Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ
phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà
con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần
còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi
thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi
thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình”.
Như vậy, cha mẹ phải bồi thường thiệt hại cho con chưa thành niên gây ra khi người
dưới 15 tuổi gây thiệt hại. Còn đối với người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thì cha mẹ
phải bồi thường khi người đó gây thiệt hại nhưng không đủ tài sản để bồi thường cho
người bị thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường của cha mẹ phụ thuộc vào tuổi và tài sản của con. Về độ tuổi,
vấn đề vướng mắc thường gặp trong thực tiễn xét xử liên quan đến trường hợp khi gây
thiệt hại còn chưa đủ 18 tuổi, nhưng khi xét xử vụ án thì người đó đã thành niên. Phải xác
định tuổi của người con vào thời điểm nào? Đối với thời điểm xác định tuổi, có thể có hai
quan điểm. Quan điểm thứ nhất là xác định tuổi vào thời điểm có hành vi gây thiệt hại và
quan điểm thứ hai là xác định vào thởi điểm giải quyết bồi thường thiệt hại.
Thiết nghĩ, khi áp dụng những quy định tại Điều 606 BLDS hiện hành thì cần xác định
tuổi của con vào thời điểm có hành vi gây thiệt hại. Bởi lẽ, BLDS đã quy định “người
chưa thành niên dười mười lăm tuổi gây thiệt hại” hay “người từ đủ mười lăm đến chưa
1
đủ mười tám tuổi gây thiệt hại”. BLDS đề cập đến tuổi khi “gây thiệt hại”. Khi con gây
thiệt hại đã thành niên và không thuộc trường hợp giám hộ thì cha mẹ không phải chịu
trách nhiệm và trong trường hợp này, chúng ta không thể lấy tài sản của cha mẹ để thực
hiện việc bồi thường.
Mặt khác, khi con gây thiệt hại là người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thì viêc sử
dụng tài sản của cha mẹ còn phụ thuộc vào tài sản của con. Do vậy, cần phải xác định
người gây thiệt hại có đủ tài sản để bồi thường hay không. Ngoài ra, trách nhiệm bồi
thường của cha mẹ còn được quy định tại khoản 3 Điều 621 BLDS 2005:
“1. Người dưới mười lăm tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại thì trường
học phải bồi thường thiệt hại xảy ra”.
* Đối với tình huống:
Câu 2: Toà án có thể buộc cha mẹ của Hùng bồi thường cho anh Bình thiệt hại do sức
khoẻ bị xâm phạm không? Nêu cơ sở pháp lí khi trả lời.
- Toà án có thể buộc cha mẹ của Hùng bồi thường cho anh Bình thiệt hại do sức khoẻ bị
xâm phạm.
- Căn cứ vào Khoản 1, Điều 604, BLDS 2005 về Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại:
“1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy
tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Vì Hùng đã xâm phạm đến sức khỏe của anh Bình nên phải bồi thường thiệt hại cho
anh theo như qui định trên.
Và căn cứ vào Khoản 2, Điều 606, BLDS 2005 về Năng lực chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của cá nhân:
“2. …
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi
thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi
thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình”.
2
Trong tình huống trên, Hùng đã gây thiệt hại về sức khoẻ cho anh Bình (tổng thiệt hại là
10 triệu đồng). Do đó, theo Khoản 1, Điều 609, BLDS 2005 về Thiệt hại do sức khoẻ bị
xâm phạm thì Hùng phải bồi thường thiệt hại cho anh Bình. Tuy nhiên, hiện nay Hùng
không có bất kì tài sản nào nên theo quy định tại Khoản 2, Điều 606, BLDS 2005 thì cha
mẹ của Hùng phải bồi thường cho anh Bình.
Câu 3: Toà án có thể buộc cha mẹ của Hùng bồi thường cho anh Bình giá trị chiếc đồng
hồ và chiếc xe đạp không? Nêu cơ sở pháp lí khi trả lời và cho biết hướng giải quyết
trong thực tiễn xét xử đối với hoàn cảnh tương tự.
- Toà án có thể buộc cha mẹ của Hùng bồi thường cho anh Bình giá trị chiếc đồng hồ và
chiếc xe đạp.
- Căn cứ vào Điều 608, BLDS 2005 về Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm:
“Trong trường hợp tài sản bị xâm phạm thì thiệt hại được bồi thường bao gồm:
1. Tài sản bị mất;
2. Tài sản bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng;
3. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản;
4. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại”.
Trong tình huống trên:
+ Đối với chiếc xe đạp: Chiếc xe đạp của anh Bình hiện đang gửi nhà một người bạn
nên khả năng đòi lại tài sản vẫn còn, vì khả năng đòi lại tài sản vẫn còn nên chưa thể coi
là tài sản này đã bị mất, tức là chưa có thiệt hại nên chưa có trách nhiệm bồi thường.
+ Đối với chiếc đồng hồ: Hùng đã bán cho người đi đường không rõ họ tên, địa chỉ nên
không thể thu hồi được, tức là đã xảy ra thiệt hại nên phải có trách nhiệm bồi thường.
Vì vậy, Tòa án chỉ có thể buộc cha mẹ Hùng bồi thường giá trị chiếc đồng hồ theo quy
định của Khoản 2, Điều 606, BLDS 2005 nhưng không thể buộc cha mẹ Hùng bồi
thường giá trị chiếc xe đạp được.
- Hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử đối với hoàn cảnh tương tự:
“Trong một lần đi suối chơi, Tùng (12 tuổi) cố tình trêu đùa và đã đẩy Nga – một bạn
gái cùng lớp ngã xuống suối, không ngờ đầu Nga đập vào đá dẫn đến chấn thương não.
3
Nga phải đi cấp cứu và nằm điều trị trong bệnh viện nhiều ngày. Bố mẹ Nga đã làm đơn
kiện Tùng ra tòa. Tòa án đã xác định Tùng đã xâm phạm đến sức khỏe của Nga nên có
trách nhiệm bồi thường, nhưng do Tùng chỉ mới 12 tuổi nên áp dụng theo qui định tại
Khoản 2 Điều 606 BLDS năm 2005 Tòa quyết định bố mẹ Tùng phải có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho Nga”.
Câu 4: Toà án có thể buộc cha mẹ của Hùng nộp ngân sách nhà nước khoản tiền 7 triệu
đồng mà Hùng có được do lấy trộm tài sản trong chợ không? Nêu cơ sở pháp lí khi trả
lời và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử đối với hoàn cảnh tương tự.
- Tòa án không thể buộc cha mẹ Hùng nộp ngân sách nhà nước khoản tiền 7 triệu đồng
mà Hùng có được do lấy trộm tài sản trong chợ.
Bồi thường thiệt hại là một khoản tiền mà người có trách nhiệm bồi thường giao cho
người bị thiệt hại. Sung quỹ Nhà nước là khi một chủ thể giao một khoản tiền cho một
chủ thể khác là Nhà nước. BLDS chỉ đề cập đến trách nhiệm bồi thường của cha mẹ khi
con chưa thành niên gây thiệt hại chứ chưa quy định việc buộc cha mẹ có trách nhiệm
nộp tiền sung quỹ nhà nước.
- Trong thực tiễn xét xử, hướng giải quyết của TA không đồng ý việc buộc cha mẹ của
người chưa thành niên phạm tội nộp vào ngân sách nhà nước khoản tiền mà người chưa
thành niên chiếm hưởng, lấy hoặc trộm cắp.
Trong Quyết định số 04/HĐTP-HS ngày 23-2-2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối
cao, Võ Tiến Hùng đã gây ra 10 vụ trộm cắp, trong đó có 2 vụ trộm cắp tài sản. Giá trị tài
sản của công dân bị chiếm đoạt trên 28 triệu đồng, tài sản xã hội chủ nghĩa bị chiếm đoạt
là 2.700.000đ. Những tài sản có giá trị bao gồm: 2 xe máy, 1 đầu video, 4 điện thoại
bàn…, Hùng bán cho Phương ở 72 Bà Triệu, thành phố Huế và một số nơi khác được
7.570.000đ. Tại bản án sơ thẩm số 04/HSST ngày 23-2-1995 TAND tỉnh Quảng Trị đã
buộc ông Xuất, bà Xuân phải nộp số tiền 7.570.000đ mà Hùng thu lợi bất chính để sung
quỹ nhà nước. Tuy nhiên, tại bản án phúc thẩm số 265/HSPT ngày 6-6-1995, Tòa phúc
thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng đã nêu: “Hùng khi phạm tội và khi xét xử chưa đủ 18
tuổi và không có tài sản riêng nên buộc bố mẹ bị cáo bồi thường cho những người bị hại
4
là đúng. Tuy nhiên, Toà án các cấp buộc bố mẹ bị cáo phải nộp số tiền 7.570.000 đồng do
bị cáo chiếm hưởng từ việc bán tài sản trộm cắp được là không đúng quy định của pháp
luật dân sự”. Cho nên, ông Xuất bà Xuân không phải nộp 7.570.000đ (là số tiền Hùng thu
lợi bất chính) để sung quỹ nhà nước.
Câu 5: Toà án có thể buộc Hùng và cha mẹ cùng bồi thường cho anh Bình không? Nêu
cơ sở pháp lí khi trả lời và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử.
- Toà án có thể buộc Hùng và cha mẹ cùng bồi thường cho anh Bình.
- Căn cứ vào Khoản 2, Điều 606, BLDS 2005 về Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của cá nhân:
“2. …
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi
thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi
thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình”.
Theo đó, Toà án có thể buộc Hùng và cha mẹ cùng bồi thường cho anh Bình nếu tài sản
của Hùng không đủ để bồi thường cho anh Bình thì cha mẹ của Hùng cũng phải bồi
thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
- Hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử, theo Bản án số 19/2012/DSST ngày 12/6/2012
của TAND huyện Cưm’Gar tỉnh Đăklăk, cháu Hậu (chưa đủ 16 tuổi tại thời điểm gây ra
tai nạn) điều khiển xe máy biển số 47FB-0098 đi trên đường liên xã thì đâm phải xe máy
biển số 47H1-1931 do bà Nam điều khiển làm bà bị đa thương, gãy xương đùi phải, tỷ lệ
thương tích là 30% sức khỏe. Mặc dù Hậu gây thiệt hại nhưng TA chỉ quyết định “buộc
ông Thụ và bà Thêm có nghĩa vụ liên đới bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà Nam”
do Hậu không có tài sản riêng. TA đã theo hướng giải quyết khi cha mẹ phải chịu trách
nhiệm bồi thường khi con gây thiệt hại nhưng không đủ tài sản để bồi thường cho nên có
thể buộc con và cha mẹ cùng bồi thường thiệt hại do con gây ra.
* Đối với Bản án số 19:
5
Câu 6: Theo Toà án, cha mẹ ly hôn có ảnh hưởng tới việc xác định người phải chịu trách
nhiệm bồi thường không? Cuối cùng, Toà án đã buộc ai phải bồi thường thiệt hại.
- Theo Toà án, cha mẹ ly hôn không ảnh hưởng tới việc xác định người phải chịu trách
nhiệm bồi thường.
- Đoạn của Bản án cho thấy:
“Bà Thêm cho rằng bà và ông Thụ đã ly hôn, Toà án đã giao cháu Hậu cho ông Trực
tiếp nuôi dưỡng nên bà không trắc nhiệm về hành vi của cháu Hậu, lập luận của bà Thêm
không được chấp nhận vì việc ly hôn giữa hai vợ chồng không chấm dứt nghĩa vụ của
cha, mẹ đối với con chung”.
- Cuối cùng, Toà án đã buộc ông Mai Văn Thụ và bà Nguyễn Thị Thêm có nghĩa vụ liên
đới bồi thường thiệt hại.
- Đoạn của Bản án cho thấy:
“Do vậy cần buộc ông Mai Văn Thụ và bà Nguyễn Thị Thêm có nghĩa vụ liên đới bồi
thường thiệt hại về sức khoẻ cho bà Nam là 42.877.000đ, chia theo phần ông Thụ và bà
Thêm mỗi người phải bồi thường là 21.438.500đ, bà Thêm đã bồi thường 3.000.000đ nên
bà Thêm còn phải bồi thường số tiền là 18.438.500đ”.
Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án (từ góc độ văn bản
cũng như so sánh pháp luật).
Hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lí.
Căn cứ vào Khoản 2, Điều 606, BLDS 2005 về Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của cá nhân:
“2. Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ
phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà
con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần
còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi
thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi
thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình”.
6
Căn cứ vào những quy định trên, lúc Hậu gây ra thiệt hại thì Hậu chưa đủ 18 tuổi, cũng
chưa có tài sản riêng. Vì thế bố mẹ Hậu phải có trách nhiệm bồi thường. Và trong BLDS
2005 chỉ nói chung là cha, mẹ phải chịu trách nhiệm bồi thường cho con khi con chưa đủ
18 tuổi chứ không có đề cấp đến vấn đề cha mẹ đã ly hôn thì có phải chịu trách nhiệm bồi
thường cho con nếu con sống với người kia hay không. Do vậy việc chị Thêm nói chị
không có trách nhiệm bồi thường vì chị với chồng đã ly hôn và Hậu sống cùng chồng nên
chồng chị có trách nhiệm bồi thường là không có cơ sở.
Mặc dù đã ly hôn nhưng cả hai vợ chồng vẫn phải có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc,
giáo dục con cái. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra là nghĩa vụ của cả cha và
mẹ, không phân biệt là cha mẹ đã ly hôn hay chưa. Vì vậy hướng giải quyết trên của Tòa
án vừa hợp lý vừa hợp tình, đảm bảo được quyền và lợi ích của các bên.
II. Vấn đề 2: Bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra.
Câu 1: Vì sao đã có quy định của Điều 604 mà BLDS 2005 còn có thêm quy định của
Điều 622?
Về nguyên tắc chung người nào gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường.
Nguyên tắc này đã được thể hiện ở khoản 1 Điều 604 BLDS 2005: “Người nào do lỗi
cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản,
quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp
nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Còn Điều 622 là một chế định đặc thù, theo đó người bồi thường không phải là người
trực tiếp gây ra thiệt hại: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải bồi thường thiệt
hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao
và có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải
hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”.
Quy định của Điều 622 tạo điều kiện tốt hơn cho người bị hại trong việc yêu cầu bồi
thường đồng thời xét đến trách nhiệm của người sử dụng người làm công.
7
Câu 2: Đoạn nào của bản án cho thấy Toà án đã áp dụng các quy định về bồi thường
thiệt hại do người làm công gây ra.
Đoạn của bản án cho thấy Toà án đã áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại do
người làm công gây ra:
“Bị cáo là người lái xe thuê cho Công ty TNHH vận tải Hoàng Long, nên theo quy định
tại Điều 622 và Điều 623 của Bộ luật dân sự thì Công ty TNHH vận tải Hoàng Long phải
có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cao Chí Hùng gây ra trong khi thực hiện công
việc được giao và có quyền yêu cầu Cao Chí Hùng là người có lỗi trong việc gây ra thiệt
hại phải hoàn trả lại một khoản tiền theo quy định của pháp luật”.
Câu 3: Trên cơ sở Điều 622, cho biết các điều kiện để áp dụng các quy định về bồi
thường thiệt hại do người làm công gây ra.
Điều 622, BLDS 2005 về Bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây
ra:
“Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải bồi thường thiệt hại do người làm công,
người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu
người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản
tiền theo quy định của pháp luật”.
Trên cơ sở Điều 622, các điều kiện để áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại do
người làm công gây ra:
- Có thiệt hại trên thực tế.
- Thiệt hại do người làm công gây ra - người làm công là người thực hiện một công
việc thường xuyên hay nhận làm một việc nào đó để nhận một khoản tiền vaf khi đang
thực hiện công việc được giao, tức là nếu người làm công gây ra thiệt hại khi thực hiện
công việc không liên quan đến công việc được giao thì người sử dụng lao động không
phải bồi thường thiệt hại.
- Có lỗi và hành vi trái pháp luật của người làm công.
8
Câu 4: Suy nghĩa của anh/chị về việc Toà án vận dụng Điều 622 để buộc Công ty Hoàng
Long bồi thường (đánh giá từng điều kiện nêu ở câu hỏi trên đối với vụ việc được bình
luận).
Việc Tòa án vận dụng Điều 622, BLDS 2005 để buộc Công ty Hoàng Long bồi thường
là hợp lý. Bởi vì Tòa đã dựa vào các điều kiện được qui định tại Điều 622 để áp dụng
buộc công ty Hoàng Long bồi thường như sau:
- Người gây thiệt hại phải là người làm công: ông Hùng là người lái xe thuê cho Công ty
TNHH vận tải Hoàng Long.
- Phát sinh “trong khi người làm công thực hiện công việc được giao”: ông Hùng gây ra
thiệt hại tính mạng của anh Trần Ngọc Hải khi đang thực hiện công việc do công ty
Hoàng Long giao là điều khiển xe ô tô khách BKS 16L – 3411 của Công ty TNHH vận
tải Hoàng Long chở khách đi từ Hải Phòng đến TP.Hồ Chí Minh.
- Người bồi thường thiệt hại là cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác khi người làm
công của các chủ thể này gây ra thiệt hại: Trong vụ việc trên thì chủ thể bồi thường thiệt
hại do ông Hùng gây ra là Công ty TNHH vận tải Hoàng Long.
- Phải có thiệt hại xảy ra: Thiệt hại trong vụ việc trên là làm anh Trần Ngọc Hải chết
ngay tại chỗ.
- Yếu tố lỗi: ông Hùng đã điều khiển xe ô tô khách tham gia giao thông ở đoạn đường
có vạch sơn liền nét nhưng điều khiển xe ô tô lấn qua phần đường bên trái, dẫn đến va
chạm với mô tô đi ngược nhiều gây tai nạn làm chết 1 người. Do đó, anh Hùng có lỗi
trong việc gây ra thiệt hại.
Câu 5: Nếu ông Hùng không làm việc cho Công ty Hoàng Long và xe là của ông Hùng
thì ông Hùng có phải bồi thường không? Vì sao?
- Nếu ông Hùng không làm việc cho Công ty Hoàng Long và xe là của ông Hùng thì ông
Hùng vẫn phải bồi thường.
- Căn cứ theo Khoản 1, Điều 604, BLDS 2005 về Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại:
9
“1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy
tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Theo quy định trên thì ông Hùng đã gây thiệt hại là làm chết một người, do đó hành vi
của ông Hùng với lỗi vô ý đã xâm phạm đến tính mạng của người khác. Vì vậy, ông
Hùng phải bồi thường thiệt hại dựa trên cơ sở Khoản 1, Điều 604 và Điều 610, BLDS
2005 chứ không bồi thường dựa trên cơ sở Điều 622, BLDS 2005.
Câu 6: Đoạn nào của bản án cho thấy, theo Toà án, ông Hùng không phải thực hiện
nghĩa vụ bồi thường cho người bị thiệt hại?
Đoạn của bản án cho thấy, theo Toà án, ông Hùng không phải thực hiện nghĩa vụ bồi
thường cho người bị thiệt hại:
“… theo quyết định của án sơ thẩm mặc dù bị cáo không phải thực hiện nghĩa vụ bồi
thường cho bị hại nhưng đã tự nguyện nộp 5.000.000đ để cùng với Công ty TNHH vận
Hoàng Long khắc phục hậu quả xảy ra, hoàn cảnh gia đình bị cáo hiện nay gặp nhiều khó
khăn, bản thân bị cáo quá trình tạm giam giữ bị đau ốm”.
Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án liên quan đến trách
nhiệm của ông Hùng đối với người bị thiệt hại.
Trong bản án trên, ông Hùng chỉ là người làm công cho Công ty Hoàng Long ( có mối
quan hệ mệnh lệnh và chỉ dẫn).
Theo Điều 622 BLDS 2005 quy định:
“Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải bồi thường thiệt hại do người làm công,
người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao”.
Trong trường hợp này, Công ty Hoàng Long là người sử dụng người làm công (ông
Hùng) nên phải chịu trách nhiệm bồi thường dù công ty không có lỗi, không có hành vi
trái pháp luật. Về nguyên tắc, khi anh Hùng điều khiển xe để chở khách là đang thực hiện
công việc vì lợi ích của công ty, đang nhân danh công ty nên công ty phải chịu trách
nhiệm về hành vi của người này. Đây cũng là xu hướng của pháp luật một số nước.
10
Chẳng hạn như ở Thổ Nhĩ Kì thực tiến xét xử và hướng sửa đổi văn bản pháp luật cũng
theo hướng này. Như vậy việc Tòa án giải quyết theo hướng ông Hùng không phải chịu
trách nhiệm bồi thường cho gia đình nạn nhân, thay vào đó là Công ty Hoàng Long có
trách nhiệm bồi thường là hợp lý.
Mặt khác việc Tòa án yêu cầu ông Hùng là người có lỗi trong việc gây ra thiệt hại thì
phải hoàn trả lại một khoản tiền cho Công ty Hoàng Long theo quy định của pháp luật là
đúng. Theo Điều 622 BLDS 2005, người bồi thường “có quyền yêu cầu người làm công,
người học nghề có lỗi trong việc gây ra thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy
định của pháp luật”. Cũng theo BLDS người sử dụng người làm công được yêu cầu hoàn
trả một khoản tiền khi người làm công có lỗi trong việc gây thiệt hại. Quay lại trường hợp
trên, thiệt hại xảy ra là do lỗi của ông Hùng (do ông Hùng điều khiển xe ô tô lấn sang
phần đường bên trái, va chạm với xe mô tô đi ngược chiều gây ra tai nạn). Như vậy sau
khi bồi thường cho người bị thiệt hại, Công ty Hoàng Long có quyền yêu cầu ông Hùng
hoàn trả một khoản tiền nhất định.
Câu 8: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về khả năng người bị thiệt hại được yêu cầu trực
tiếp ông Hùng bồi thường.
Đối với trường hợp ông Hùng, do điều khiển xe ô tô khách lấn qua phần đường bên trái
va chạm với xe mô tô đi ngược chiều nên đã gây ra tai nạn. Như vậy, ông Hùng tự gây ra
thiệt hại, có lỗi “trực tiếp”. Do đó, phía bên người bị thiệt hại có quyền trực tiếp yêu cầu
ông Hùng bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, nếu người bị thiệt hại mà trực tiếp yêu cầu ông Hùng bồi thường thì khả
năng bồi thường có thể hạn chế hơn so với pháp nhân là Công ty Hoàng Long vì tại thời
điểm này gia đình bị cáo hùng gặp nhiều khó khăn, bản thân bị cáo trong thời gian bị tạm
giam lại bị đau ốm nên việc yêu cầu trực tiếp ông hùng bồi thường là ít khả thi hơn.
Tại Điều 622, BLDS 2005 có quy định:
“Cá nhân, pháp nhân phải bồi thường cho người làm công, người học nghề gây ra
trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu người làm công, người học
11
nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp
luật”.
Như vậy nếu người bị thiệt hại trực tiếp yêu cầu ông hùng bồi thường là vẫn đúng với
quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khả năng yêu cầu bị cáo bồi thường là ít khả thi bởi
điều kiện gia đình bị cáo có nhiều hạn chế nên việc thực hiện nghĩa vụ sẽ gặp nhiều khó
khăn. Do vậy, theo nhóm người bị thiệt hại nên yêu cầu Công ty Hoàng Long bồi thường
để đảm bảo quyền lợi của mình và đúng với quy định của pháp luật.
Câu 9: Lỗi của người làm công trong điều 622 cần được hiểu như thế nào? Vì sao?
Trong Điều 622, BLDS 2005 không có quy định rõ ràng về yếu tố lỗi của người làm
công. Người sử dụng người làm công (người bồi thường) “có quyền yêu cầu người làm
công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo
quy định của pháp luật”.
Lỗi của người làm công theo Điều 622 có thể được hiểu theo 3 hướng sau:
- Thứ nhất, lỗi của người làm công đối với người bị thiệt hại
- Thứ hai, lỗi của người làm công đối với người sử dụng người làm công. Đó là trường
hợp người làm công có lỗi với người sử dụng người làm công (có thể là không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng yêu cầu của người sử dụng người làm công và gây ra thiệt
hại).
- Thứ ba, có thể là lỗi tổng hợp. Tức là lỗi của người làm công có cả lỗi của người bị
thiệt hại và người sử dụng người làm công. Ta thấy, theo tinh thần của điều 622 và theo
hướng có lỗi của người làm công mà ta đã phân tích, người sử dụng người làm công có
quyền yêu cầu người làm công hoàn trả một khoản tiền thì người sử dụng người làm công
là người bồi thường cho bên bị thiệt hại.
Câu 10: Theo Tòa án, ông Hùng có lỗi theo điều 622 không? Vì sao?
- Qua đó có thể thấy theo Tòa án thì ông Hùng có lỗi theo Điều 622. Vì ông Hùng là lái
xe thuê cho công ty Hoàng Long đang vận chuyển khách của công ty. Trong khi đang
12
làm công việc được giao ông Hùng có hành vi lấn chiếm phần đường của xe khác, hậu
quả làm một người bị chết tại chỗ.
- Trong Bản án có đoạn:
“Bị cáo là người lái xe thuê cho công ty TNHH vận tải Hoàng Long, nên theo quy định
tại Điều 622 và Điều 623 của BLDS thì công ty TNHH vận tải Hoàng Long phải có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do Cao Chí Hùng gây ra trong khi thực hiện công việc được
giao và có quyền yêu cầu Cao Chí Hùng là người có lỗi trong việc gây ra thiệt hại phải
hoàn trả lại một khoản tiền theo quy định của pháp luật”.
Câu 11: Theo Tòa án, công ty Hoàng Long có được yêu cầu ông Hùng hoàn trả một
khoản tiền bồi thường cho người bị thiệt hại không? Đoạn nào của bản án cho câu trả
lời.
- Theo Tòa án, công ty Hoàng Long được yêu cầu ông Hùng hoàn trả một khoản tiền đã
bồi
thường
cho
người
bị
hại.
- Theo Bản án số 285/2009/HSPT có nêu:
“Bị cáo là người lái xe thuê của công ty TNHH vận tải Hoàng Long, nên theo quy định
tại Điều 622 và Điều 623 của BLDS thì công ty TNHH vận tải Hoàng Long phải có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do Cao Chí Hùng gây ra trong khi thực hiện công việc được
giao và có quyền yêu cầu Cao Chí Hùng là người có lỗi trong việc gây ra thiệt hại phải
hoàn trả lại một khoản tiền theo quy định của pháp luật”.
Câu 12: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách
nhiệm hoàn trả của ông Hùng.
Theo Khoản 1, Điều 604, BLDS 2005 về Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại:
“1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy
tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
13
Và Điều 622, BLDS 2005 về Bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề
gây ra:
“Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải bồi thường thiệt hại do người làm công,
người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu
người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản
tiền theo quy định của pháp luật”.
Liên quan đến trách nhiệm hoàn trả của ông Hùng, Tòa án theo hướng buộc công ty
Hoàng Long phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ông Hùng gây ra và có nghĩa vụ
cấp dưỡng cho đứa con nhỏ của người bị thiệt hại. Ông Hùng có lỗi khi lái xe trên đường
có vạch liền nhưng vẫn cố ý lấn đường dẫn đến va chạm với xe máy của anh Hải gây chết
người. Căn cứ vào Khoản 1, Điều 602, BLDS 2005 ông Hùng có trách nhiệm phải bồi
thường thiệt hại.
Tuy nhiên, do ông Hùng là người làm thuê cho công ty Hoàng Long nên phải vận dụng
thêm Điều 622 của BLDS 2005. Trường hợp này công ty Hoàng Long phải bồi thường là
xác đáng.
Việc Tòa án cho phép người làm công có lỗi phải hoàn trả một khoản tiền cho công ty
Hoàng Long là phù hợp với quy định của Điều luật này.
Do đó, hướng giải quyết của Tòa án là thỏa đáng, phù hợp với quy định của pháp luật,
bảo đảm quyền lợi cho người bị hại và người gây ra thiệt hại.
III. Vấn đề 3: Bồi thường thiệt hại do việc xây dựng gây ra.
Câu 1: Trong hai quyết định trên, thiệt hại phát sinh từ nguyên nhân nào?
Trong hai quyết định trên, thiệt hại phát sinh từ việc xây dựng của công trình liền kề gây
ra. Cụ thể:
- Trong quyết định số 322/2011/DS-GĐT, thiệt hại phát sinh từ việc chị Lưu Thị Tuyết
chủ nhà số 12 xây nhà mới và làm cho nhà số 10 (giáp bên) của ông Khanh xuất hiện vết
nứt.
14
- Trong quyết định số 19/2012/DS-GĐT thiệt hại phát sinh từ việc công trình xây dựng
do ông Vũ, bà Vân đứng tên làm chủ sở hữu và trong giấy phép xây dựng, khi thi công
phần móng nhà đã gây ra sự cố lún nứt đối với căn nhà ông Khơi, bà Hoa.
Câu 2: Trong vụ việc thứ nhất, đoạn nào của Quyết đinh cho thấy Tòa án dân sự theo
hướng áp dụng Điều 627 BLDS?
Trong quyết định số 322/2011/DS-GĐT, đoạn cho thấy Toà án theo hướng áp dụng
Điều 627, BLDS 2005.
“Như vậy thiệt hại do chị tuyết gây ra cho gia đình ông khanh là thiệt hại thực tế là có
thật và được xác định thiệt hại là 43.296.400 đồng nhưng Toà án cấp phúc thẩm chỉ chấp
nhận 75% giá trị còn lại của ngôi nhà = 32.472.300 đồng là không đúng với nguyên tắc
bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 605, Điều 627 BLDS và điều 120 Luật xây dựng”.
Câu 3: Suy nghĩ của anh/chị về việc vận dụng Điều 627 BLDS trong những vụ việc như
Quyết định số 322.
Căn cứ vào Khoản 1 và Khoản 2, Điều 267, BLDS 2005 về Nghĩa vụ tôn trọng quy tắc
xây dựng:
“1. Khi xây dựng công trình, chủ sở hữu công trình phải tuân theo pháp luật về xây
dựng, bảo đảm an toàn, không được xây vượt quá độ cao, khoảng cách mà pháp luật về
xây dựng quy định và không được xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu
bất động sản liền kề và xung quanh.
2. Khi có nguy cơ xảy ra sự cố đối với công trình xây dựng, ảnh hưởng đến bất động
sản liền kề và xung quanh thì chủ sở hữu công trình phải cho ngừng ngay việc xây dựng,
sửa chữa hoặc dỡ bỏ theo yêu cầu của chủ sở hữu bất động sản liền kề và xung quanh
hoặc theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường”.
Việc chị Tuyết xây dựng nhà mới làm cho căn nhà bên cạnh của ông Khanh xuất hiện
nhiều vết nứt làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của nhà ông Khanh. Do đó, chị Tuyết
đã vi phạm Khoản 1, Điều 267, BLDS 2005 về Nguyên tắc xây dựng. Mặc dù, đã xảy ra
15
sự cố đối với căn nhà của ông Khanh nhưng chị Tuyết vẫ tiếp tục xây dựng và làm cho
nhà ông Khanh xuất hiện thêm nhiều vết nứt nữa khiến ông phải dời người và tài sản ra
khỏi căn nhà cua mình. Vì vậy, nên theo Khoản 2, Điều 267, BLDS 2005 chị Tuyết phải
bồi thường.
Việc bồi thường thiệt hại do chị Tuyết gây ra cho gia đình ông Khanh là thiệt hại thực tế
là hợp lí nhưng theo Điều 627, BLDS 2005 thì chỉ quy định là phải bồi thường nhưng
không quy định rõ là bồi thường bao nhiêu, bồi thường như thế nào. Vì vậy rất khó để
xác định thực tế thiệt hại là bao nhiêu. Trong vụ án cũng không có căn cứ xác đáng và
hợp lí về khoản chi phí như tiền thuê nhà, chi phí dỡ nhà, tiền di dời mà ông Khanh đã bỏ
ra. Như vậy chị Tuyết bồi thường thiệt hại là hợp lí nhưng bồi thường bao nhiêu thì cần
xác minh lại cho chính xác và đảm bảo quyền lợi giữa các bên.
Câu 4: Nếu hoàn cảnh tương tự trong Quyết định 322 mà phải áp dụng BLDS 2015 thì
hướng xử lí như thế nào? Nêu rõ cơ sở pháp lí khi trả lời.
Căn cứ vào Điều 605, BLDS 2015 về Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây
dựng khác gây ra:
“Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình
xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác đó gây
thiệt hại cho người khác”.
Nếu hoàn cảnh tương tự trong Quyết định 322 mà phải áp dụng BLDS 2015 thì hướng
xử lí là buộc bà Tuyết – là chủ nhà số 12 giáp với nhà số 10 xây dựng nhà mới làm chi
nhà số 10 của ông Khanh xuất hiện các vết nứt, có nguy cơ sụp đổ và phải tháo dỡ nhà
phải bồi thường cho ông Khanh những khoản chi phí dựa vào thiệt hại thực tế.
Câu 5: Trong quyết định số 19, đoạn nào cho thấy Tòa dân sự theo hướng chủ sở hữu và
người thi công liên đới bồi thường thiệt hại?
Trong quyết định số 19, đoạn cho thấy Tòa dân sự theo hướng chủ sở hữu và người thi
công liên đới bồi thường thiệt hại:
16
“Mặt khác, Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm không đưa đơn vị thi công công trình là công
ty Cổ phần đầu tư xây dựng KT&H vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan để làm rõ trách nhiệm gây thiệt hại và trách nhiệm liên đới khi
bồi thường cho ông Khơi, bà Hoa là thiếu sót”.
Câu 6: Trước Quyết định trên, đã có tác giả nào theo hướng chủ sở hữu công trình và
người thi công liên đới bồi thường thiệt hại trong những hoàn cảnh như trong hai Quyết
định được bình luận chưa?
Trước Quyết định trên, đã có tác giả PGS. TS Đỗ Văn Đại theo hướng chủ sở hữu công
trình và người thi công liên đới bồi thường thiệt hai trong hoàn cảnh như trong hai Quyết
định được bình luận. Hướng giải quyết trên được tác giả thể hiện rõ khi dẫn ra bản án
sau:
Theo bản án số 447/2008/DS-PT ngày 8-5-2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh: Bà Nguyễn Ngọc Lan có khiếu nại về việc trong quá trình xây dựng nhà của ông
Nguyễn Đông Hải và bà Huỳnh Ánh Tuyết gây thiệt hại cho nhà của bà Lan, cụ thể: Nhà
bị thấm nước từ trước đến sau. Bà Lan khởi kiện yêu cầu ông Hải bà Tuyết bồi thường
thiệt hại do việc xây dựng nhà của ông Hải bà Tuyết gây ra, bà Lan không đồng ý ông
Nhân bồi thường thiệt hại cho bà vì ông Nhân không phải chủ sở hữu ngôi nhà (ông Nhân
là thầu xây dựng nhà của ông Hải bà Tuyết) mặc dù trước đó có thỏa thuận giữa bà Lan,
bà Tuyết ông Nhân về khắc phục hậu quả thiệt hại nhà bà Lan nhưng do ông Nhân không
thực hiện nên bà Tuyết, ông Hải phải bồi thường.
Theo hợp đồng kí giữa bà Tuyết với công ty TNHH Thương mại – xây dựng QH thì
phía công ty phải chịu trách nhiệm an toàn cho hộ kế bên, nếu có thiệt hại thì phải bồi
thường. Theo Tòa xét thấy thì sự thỏa thuận trên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa bà
Tuyết với công ty. Do đó bà Tuyết có quyền khởi kiện công ty thành vụ kiện khác về
phần trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với các hộ kế bên do việc xây dựng nhà của bà
Tuyết gây ra. Trong vụ việc trên, hai chủ thể liên quan đến bồi thường là chủ sở hữu công
trình (ông Hải, bà Tuyết) và người thi công công trình (chủ thầu ông Nhân). Tòa án chỉ
buộc chủ sở hữu công trình phải bồi thường. Cụ thể theo Tòa án “mặc dù trước đó có sự
17
thỏa thuận giữa bà Lan, bà Tuyết và ông Nhân về việc khắc phục hậu quả của bà Lan,
nhưng do ông Nhân không thực hiện, nên bà Tuyết, ông Hải là chủ đầu tư phải bồi
thường thiệt hại cho nhà bà Lan”. Việc quy trách nhiệm cho chủ đầu tư mà loại trừ cho
người thầu xây dựng có thể được lý giải như sau: ý tưởng xây dựng là của chủ đầu tư và
thầu xây dựng chỉ là người thực hiện công việc của chủ đầu tư.
Tuy nhiên quyết định xây dựng là của chủ đầu tư nhưng công việc của người thầu cũng
có thể ảnh hưởng tới người bên cạnh. Như vậy, chủ sở hữu công trình và người thi công
phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường cùng nhau tránh việc người thi công lơ là, có
trách nhiệm trong việc xây dựng công trình hơn.
Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trách nhiệm liên đới giữa chủ sở hữu
công trình và người thi công công trình (nếu được, hãy đối chiếu với pháp luật nước
ngoài đối với hoàn cảnh tương tự).
Hướng xác định trách nhiệm liên đới giữa chủ sở hữu công trình và người thi công công
trình là hoàn toàn phù hợp với pháp luật cũng như trong đạo đức.
Theo Điều 1386, BLDS Pháp: “Chủ sở hữu công trình xây dựng phải chịu trách nhiệm
về thiệt hại gây ra do công trình bị đổ vì thiếu bảo dưỡng hoặc vì khuyết tật trong khi xây
dựng”. Từ đó cho thấy, chủ sở hữu công trình gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Liên quan đến vấn đề này Điều 717, BLDS Nhật Bản qui định: “Nếu việc xảy ra thiệt
hại đối với người khác vì nguyên nhân sai sót trong xây dựng hoặc bảo quản cấu trúc
trên đất thì người chiếm hữu cấu trúc chịu trách nhiệm về những thiệt hại đối với bên bị
thiệt hại, song nếu như người chiếm hữu đã thể hiện sự quan tâm đúng mức nhằm ngăn
chận việc xảy ra thiệt hại thì chủ của cấu trúc đó phải bồi thường”.
Theo qui định trên, nếu công trình đang xây dựng mà gây thiệt hại thì phải xác định lỗi
của người đang thi công. Trường hợp người thi công có lỗi như vi phạm qui trình kỹ
thuật xây dựng, vô ý để tài sản gây thiệt hại cho người khác thì bên thi công phải bồi
thường thiệt hại. Qui định này hoàn toàn phù hợp với thực tế, bởi lẽ xây dựng là công
việc thuộc chuyên môn kỹ thuật cao, người làm nghề xây dựng phải có thẻ hành nghề và
mua bảo hiểm nghề nghiệp, vì vậy nếu trong quá trình xây dựng lỗi của bên thi công thì
18
bên thi công phải bồi thường thiệt hại và bên thi công có quyền yêu cầu doanh nghiệp
bảo hiểm bồi thường thay.
Câu 8: Nếu hoàn cảnh tương tự trong Quyết định 19 mà phải áp dụng BLDS 2015 thì
hướng xử lí như thế nào? Nêu rõ cơ sở pháp lí khi trả lời.
Căn cứ vào Điều 605, BLDS 2015 về Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây
dựng khác gây ra:
“Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình
xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác đó gây
thiệt hại cho người khác.
Khi người thi công có lỗi trong việc để nhà cửa, công trình xây dựng khác gây thiệt hại
thì phải liên đới bồi thường”.
Nếu hoàn cảnh tương tự trong Quyết định 19 mà phải áp dụng BLDS 2015 thì hướng xử
lí là buộc chủ sở hữu của công trình là ông Vũ, bà Vân và đơn vị thi công là Công ty Đầu
tư xây dựng KT & H phải liên đới bồi thường nếu công ty này có lỗi trong việc để công
trình khác gây thiệt hại. Tuy nhiên, BLDS 2015 không nêu được hướng giải quyết trong
trường hợp ông Vũ, bà Vân đã làm thủ tục tặng cho bà Hà nhà đất trên.
Câu 9: Khi có sự thay đổi chủ sở hữu công trình, Tòa án buộc ai phải chịu trach nhiệm
bồi thường? Chủ sở hữu hiện tại hay chủ sở hữu công trình tại thời điểm có sự kiện gây
thiệt hại ?
Khi có sự thay đổi chủ sở hữu công trình, Tòa án buộc chủ sở hữu công trình tại thời
điểm có sự kiện gây thiệt hại phải chịu trach nhiệm bồi thường.
Đoạn của Quyết định cho thấy:
“Tuy nhiên, Toà án cập sơ thẩm và phúc thẩm lại cho rằng: Trong quá trình tố tụng vào
ngày 05-11-2011 và 10-11-2010 vợ chồng ông Vũ, bà Vân đã làm thủ tục tặng cho bà Hà
nhà đất trên để buộc bà Hà là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải bồi thường
thiệt hại cho nguyên đơn là không đúng vì thiệt hại xảy ra trước khi bị đơn làm thủ tục
tặng cho bà Hà”.
19
Theo đó,Tòa án tối cao cho rằng khi thiệt hại xảy ra chủ sở hữu là ông Vũ bà Vân nên
vợ chồng ông chuyển nhượng nhà đất sau thời điểm gây thiệt hại để buộc bà Hà cùng
gánh trách nhiệm là không đúng. Vợ chồng ông cũng không chứng minh được việc
chuyển nhượng nhà đất đang thi công cho bà Hà là tại thời điểm có thiệt hại xảy ra. Trách
nhiệm bồi thường thuộc về chủ sở hữu công trình (ông Vũ bà Vân) tại thời điểm có sự
kiện gây thiệt hại.
Câu 10: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về xác định người bồi
thường trong trường hợp thay đổi chủ sở hữu.
- Về xác định bồi thường thiệt hại do nhà cửa,công trình xây dựng khác gây ra, Điều 627
của BLDS 2005 quy định:
“Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây
dựng khác phải bồi thường thiệt hại, nếu để nhà cửa, công trình xây dựng khác đó bị sụp
đổ, hư hỏng, sụt lở gây thiệt hại cho người khác, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn
toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng”.
- Trong trường hợp của vợ chồng ông Vũ, thời điểm công trình được xây dựng vẫn đang
thuộc quyền sở hữu của ông Vũ bà Vân bởi lẽ thủ tục chuyển nhượng cho bà Hà chưa
hoàn tất và hai vợ chồng ông vẫn đang đứng tên sở hữu nhà đất đang thi công.
Do đó, căn cứ vào Điều 627, BLDS 2005 thì vợ chồng ông phải chịu trách nhiệm bồi
thường khi việc xây dựng đã gây thiệt hại cho ông Khơi, bà Hoa. Ông Khơi bà Hoa
không có lỗi và cũng không có vì sự kiện bất khả kháng mà bị thiệt hại.
Tuy nhiên, nếu xem xét dưới góc độ BLDS 2015, thì phải đưa cả đơn vị thi công vào
tham gia tố tụng,xác định có lỗi hay không để làm rõ trách nhiệm bồi thường liên đới.
Tòa án cũng đã đề cập đến vấn đề này. Xét dưới góc độ pháp luật là hoàn toàn thuyết
phục và hợp lí.
20