Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hơp đồng- một số vấn đề lí luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.85 KB, 20 trang )

Mục Lục
A. PHẦN LÝ LUẬN CHUNG.
I. Khái quát về trách nhiệm và điều kiện phát sinh bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng………………………………………………………………………….…1
1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng……………...…1
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng...……2
2.1 Có thiệt hại xảy ra…………………..…………………………….………...2
2.2 Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật……………………………4
2.3 Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật……...4
2.4 Có lỗi của người gây thiệt hại…………………………………………...….5
3. Phân biệt trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng và trách nhiệm dân sự theo
hợp đồng…………………………………………………………………………….6
II. LỖI TRONG TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.Khái niệm lỗi ………………………………….……………………………..........6
2.Yếu tố lỗi và ý nghĩa của nó trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng………………………………………………………………………………….7
2.1.Hình thức và mức độ lỗi………………………………………………….....5
2.2. Lỗi – căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại………………...6
2.3. Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại…………………………………..7
3. Hai hình thức lỗi: lỗi cố ý và lỗi vô ý…………..………………………………10
III. MỘT SỐ LƯU Ý, KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
LIÊN QUAN ĐẾN YẾU TỐ LỖI...........................................................................11
B. PHẦN LIÊN HỆ THỰC TẾ...............................................................................13
1
Đề bài 12: Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hơp đồng- một số
vấn đề lí luận và thực tiễn.
BÀI LÀM.
Quyền yêu cầu người khác bồi thường thiệt hại từ những hành vi xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, uy tín, danh dự, nhân phẩm của bản thân mình là một quyền cơ


bản của công dân. Qua sự bồi thường thiệt hại sẽ bù đắp được những mất mát, khắc
phục hậu quả và giảm đi nỗi đau về tinh thần của người bị thiệt hại. Đồng thời thấy
được sự cần thiết của những quy định của pháp luật đối với việc bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng do cá nhân gây ra. Hiện nay, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do
hành vi sai trái tuy đã được luật hóa tại Bộ luật dân sự, tại chương “Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng” (từ Điều 604 đến 630 BLDS năm 2005) và một số
văn bản pháp luật dưới BLDS khác. Lỗi là 1 trong bốn điều kiện làm phát sinh trách
nhiệm BTTHNHD, tuy nhiên vấn đề xác định lỗi của chủ thể trong trách nhiệm
BTTHNHĐ luôn luôn đặt ra cho các nhà làm luật, tại điều 604 BLDS 2005 quy
định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý…mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”
nhưng việc xác định lỗi trong BTTHNHD rất phức tạp vì có trường hợp có lỗi
nhưng vẫn phải bồi thường…Để mọi người có thể hiểu rõ và đúng về vấn đề lỗi em
xin chọn đề tài; “Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng -
một số vấn đề lý luận và thực tiễn.”
Đối với đề tài này, em xin đi sâu vào vấn đề năng lực bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng do cá nhân gây ra. Để có thể làm rõ vấn đề trên, ta cần có cơ sở để
tiếp cận vấn đề.
A. PHẦN LÝ LUẬN CHUNG.
I. Khái quát về trách nhiệm và điều kiện phát sinh bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng.
1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
2
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại quan hệ dân sự mà khi
người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do
mình gây ra.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là những yếu
tố, những cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường, người được bồi thường và mức
độ bồi thường. Trong bộ luật dân sự không quy định cụ thể các điều kiện phát sinh

trách nhiệm bồi thường. Nhưng từ những quy định đó ta có cơ sở để xác định trách
nhiệm bồi thường phát sinh khi có các điều kiện sau:
2.1 Có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại xảy ra là điều kiện bắt buộc để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trong trách nhiệm dân sự dù thiệt hại không nghiêm trọng cũng phải bồi thường.
Nếu không có thiệt hại thì không đặt ra vấn đề bồi thường thiệt hại. Thiệt hại là
những tổn thất thực tế được tính thành tiền do việc xâm hại đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức. Từ điều 608 đến điều 611 BLDS
quy định về các loại thiệt hại. Trong đó:
Thiệt hại về tài sản, đó là việc tài sản bị mất, bị hủy hoại, hư hỏng, những chi
phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai
thác công dụng của tài sản.
Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe làm phát sinh thiệt hại về vật chất bao gồm
chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế
bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khỏe.
Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại bao gồm chi phí hợp lý để
ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm hại.
Tổn thất về tinh thần. Đời sống tinh thần là một phạm trù rất rộng, đó là
những tình cảm, cảm xúc của con người khi bị tổn hại sẽ dẫn đến những tác động
3
tiêu cực như đau thương, âu sầu, góa bụa…. Trong quy định của pháp luật dân sự thì
người nào làm người khác bị tổn hại tinh thần thì phải bồi thường nhằm mục đích an
ủi, động viên đối với người bị thiệt hại.
2.2 Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật.
Đó là những hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín,
tinh thần của người khác mà được pháp luật bảo về. Hành vi trái pháp luật là những
hành vi không xử sự theo những quy định của pháp luật, trái với đạo đức xã hội.
Hành vi được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Trong luật hình
sự thì hành động là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình

thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội
phạm qua việc chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm. Không hành động là hình thức
của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng của tội
phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc không làm một việc mà
pháp luật yêu cầu phải làm dù có điều kiện để làm.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp có hành vi gây thiệt hại nhưng không trái pháp
luật. Đó là những trường hợp trong tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện
bất ngờ hoặc có sự đồng ý của người bị thiệt hại. Nếu vượt quá giới hạn của phòng
vệ chính đáng, tình thế cấp thiết thì phải bồi thường thiệt hại.
2.3 Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả được biêu hiện.
Về mặt thời gian, hành vi chính là nguyên nhân gây ra hậu quả đó. Hành vi xảy ra
trước, kết quả xảy ra sau. Hậu quả xảy ra phải chứa đựng khả năng gây thiệt hại của
hành vi. Đồng thời hậu quả chính là sự hiện thực hóa khả năng gây hậu quả của
hành vi. Từ đó, mới xác định được chắc chắn giữa hành vi và hậu quả có có mối liên
hệ hay không.
2.4 Có lỗi của người gây thiệt hại.
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và
đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biêu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
4
Lỗi được biểu hiện dưới hai hình thức cố ý và vô ý. Trong đó lỗi cố ý gây thiệt hại
là trường hợp một người nhận thức rõ được hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho
người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn nhưng vẫn để
mặc cho thiệt hại xảy ra.
Lỗi vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng
gây ra thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước được hành
vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra
hoặc có thể ngăn chặn được.
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói
chung và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng. Trong trách nhiệm dân sự

có nhiều trường hợp được coi là lỗi suy đoán bởi hành vi gây thiệt hại là hành vi trái
pháp luật. Chính vì vậy hành vi đó được coi là có lỗi.
3. Phân biệt trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng và trách nhiệm dân sự theo
hợp đồng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự mà theo
Đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho người
khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường ngoài
hợp đồng có những điểm khác nhau như sau:
Trách nhiệm bồi thường trong hợp đồng chỉ phát sinh khi vi phạm những điều khoản
đã thỏa thuận trong hợp đồng. Có nghĩa là phải có cơ sở là hợp đồng thỏa thuận giữa
các chủ thể.
Chủ thể gây thiệt hại và người bị thiệt hại chính là các bên trong quan hệ hợp đồng
đó. Đây là các chủ thể kí kết hợp đồng. Vì vậy, nếu người thứ ba có lỗi để gây ra
thiệt hại cho một bên trong hợp đồng hoặc một bên trong hợp đồng gây ra thiệt hại
cho người thứ ba thì trách nhiệm dân sự phát sinh chỉ có thể là trách nhiệm ngoài
hợp đồng.
5
Trong khi đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng lại phát sinh trên cơ
sở của pháp luật và sự thỏa thuận giữa các bên. Về chủ thể chịu trách nhiệm: Trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng ngoài việc áp dụng đối với người có hành vi trái pháp
luật thì còn áp dụng đối với người khác như cha mẹ của người chưa thành niên,
người giám hộ đối với người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân,
trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề….
II. LỖI TRONG TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1. Khái niệm lỗi
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biêu hiện dưới hình thức cố ý
hoặc vô ý. Lỗi phản ánh yếu tố tâm lý của con người, có tác động trực tiếp đến hành

vi của người đó và thiệt hại xảy ra do hành vi vô ý vì cẩu thả, vô ý vì quá tự tin mà
gây ra thiệt hại đã phản ánh yếu tố tâm lý chủ quan của người đó. Hành vi có lỗi,
theo quy định tại Điều 308 BLDS thì "Người không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ dân sự, thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Khoản 1 Điều
308 nói trên quy định lỗi do hành vi không thực hiện nghĩa vụ dân sự thì người có
hành vi đó bị coi là có lỗi. mặc cho thiệt hại xảy ra.
2. Yếu tố lỗi và ý nghĩa của nó trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng.
2.1.Hình thức và mức độ lỗi.
Điều 308 BLDS 2005 xác định rất rõ về lỗi và hình thức lỗi trong trách nhiệm
dân sự , khoản 1 điều 308 quy định; “Người không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý,
6
trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.” Từ đây ta có
thể khẳng định điều kiện lỗi là không thể thiếu được trong trách nhiệm dân sự nói
chung. Khoản 2 Điều 308 quy định rõ về hình thức lỗi: " Cố ý gây thiệt hại là trường
hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn
thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy
ra.
Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình
có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra
hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại
sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.” Như vậy ta có thể khẳng định lỗi
trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là do pháp luật quy định cả
về cơ sở xác định lỗi, cả về hình thức lỗi. Từ những cơ sở pháp lý trên, có thể nhận
định lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phải do
suy đoán mà là do pháp luật quy định trước. Khi xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải xác định yếu tố lỗi để có căn cứ quy trách nhiệm
cho người có hành vi trái pháp luật – người có hành vi có lỗi phải bồi thường thiệt

hại.
2.2. Lỗi – căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Điều 604. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại: “ Người nào do
lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản
của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.”
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung nhưng lỗi trong trách
nhiệm dân sự có những trường hợp là lỗi suy đoán bởi hành vi gây thiệt hại là hành
vi trái pháp luật nên người thực hiện hành vi đó bị suy đoán là có lỗi. Điều này được
thể hiện rất rõ ở khoản 3, Điều 606 DLDS 2005: “ Nếu người giám hộ chứng minh
được mình ko có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi
7
thường”. Con người phải chịu trách nhiệm khi họ có lỗi, có khả năng nhận thức và
làm chủ được hành vi của mình. Bởi vậy, những người không có khả năng nhận
thức và làm chủ được hành vi của mình sẽ không có lỗi trong việc thực hiện các
hành vi đó. Tuy nhiên, có trường hợp người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi
thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và
lâu dài của họ hoặc thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thì không phải bồi
thường.
2.3. Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
• Trường hợp không có lỗi nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng ( trường hợp do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và ô nhiễm
môi trường). Điều 623. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
“3. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi…” trên nguyên tắc chủ sở hữu,
người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ ( cho thuê,
cho mượn…) phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra kể cả khi
không có lỗi (trách nhiệm nâng cao).
Ví dụ: Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ khi một người điều khiển xe tải

trên đường, chiếc xe nổ lốp làm chết người đi đường, dù người lái xe không có lỗi
với thiệt hại xảy ra nhưng vẫn phải bồi thường thiệt hại.
8

×