THÔNG TIN CƠ BẢN
VỀ LIÊN HIỆP QUỐC VÀ QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM
Trang web chính thức: www.un.org
I. SỰ HÌNH THÀNH CỦA LIÊN HỢP QUỐC
1. Thành lập:
Tổ chức Liên hợp quốc đã chính thức được thành lập ngày 24/10/1945 với sự tham gia
của 51 quốc gia sáng lập. Tên "Liên hợp quốc" do Tổng thống Mỹ Franklin D.
Roosevelt sử dụng trong Tuyên ngôn của Liên hợp quốc (01/01/1942).
Trước năm 1945 Trước sự yếu kém của Hội Quốc Liên và nguy cơ xảy ra chiến tranh
thế giới thứ ba, và bảo đảm một thế cân bằng mới trong quan hệ quốc tế sau chiến
tranh, ba cường quốc chính của phe Đồng minh là Anh, Mỹ và Liên Xô đã tiến hành hai
hội nghị Thượng đỉnh quan trọng (Tê-hê-ran 11/1943 và I-an-ta 02/1945). Nội dung
trao đổi chính giữa Trớc-trin, Xta-lin và Ru-dơ-ven bao gồm số phận châu Âu và tương
lai của Liên hợp quốc. Việc Liên Xô tán thành thiết lập Tổ chức Liên hợp quốc tại Hội
nghị I-an-ta mở ra khả năng hợp tác giữa các nước đồng minh trong việc xây dựng một
trật tự thế giới mới sau chiến tranh. Tại I-an-ta, ba cường quốc trên đã thống nhất với
nhau về một số điểm then chốt trong việc thiết lập tổ chức Liên hợp quốc: chấp nhận
ghế thành viên riêng rẽ của U-cờ-rai-na và Bạch Nga (nay là Bê-la-rút), dành quyền
phủ quyết cho các thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an, Liên hợp quốc có
quyền giám sát việc tạo dựng trật tự châu Âu. Đến Hội nghị Pốt-xđam từ 17/7 đến
2/8/1945, ba cường quốc nhất trí thoả thuận thành lập cơ chế để giải quyết các vấn đề
sau chiến tranh (bồi thường chiến tranh của Đức; xác định lại biên giới các quốc gia
vv..). Hội đồng Ngoại trưởng 5 nước gồm Nga, Mỹ, Anh, Pháp và Trung Quốc được
thành lập và trên cơ sở thoả thuận tại Hội nghị I-an-ta, đại biểu của 50 quốc gia đã tham
dự Hội nghị Xan Phran-xít-xcô (Mỹ) tháng 4/1945 và dự thảo Hiến chương của Liên
hợp quốc. Sự ra đời của Liên hợp quốc là một sự kiện quan trọng: Liên hợp quốc đã
thay thế Hội Quốc Liên (hoạt động kém hiệu quả), trở thành một tổ chức quốc tế toàn
cầu với mục tiêu hàng đầu là bảo đảm một nền hoà bình và trật tự thế giới bền vững.
2. Tôn chỉ và mục đích:
LHQ hoạt động theo các mục tiêu và nguyên tắc qui định trong Hiến chương Liên hợp
quốc. Điều 1 của Hiến chương nêu rõ bốn (04) mục tiêu cơ bản của Liên hợp quốc là:
(1) Duy trì hoà bình và an ninh quốc tế;
(2) Thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình
đẳng về quyền lợi giữa các dân tộc và nguyên tắc dân tộc tự quyết;
(3) Thực hiện hợp tác quốc tế thông qua giải quyết các vấn đề quốc tế trên các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo trên cơ sở tôn trọng các quyền con người và quyền
tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn ngữ và tôn
giáo;
(4) Xây dựng Liên hợp quốc làm trung tâm điều hoà các nỗ lực quốc tế vì các mục tiêu
chung.
Và 6 nguyên tắc hoạt động chủ yếu của Liên hợp quốc là:
1
(1) Bình đẳng về chủ quyền quốc gia;
(2) Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị quốc gia;
(3) Cấm đe doạ sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế;
(4) Không can thiệp vào công việc nội bộ các nước;
(5) Tôn trọng các nghĩa vụ quốc tế và luật pháp quốc tế; và
(6) Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình.
Các mục tiêu và nguyên tắc hoạt động trên của Liên hợp quốc mang tính bao quát, phản
ánh mối quan tâm toàn diện của các quốc gia. Các quan tâm ưu tiên này thay đổi tuỳ
theo sự chuyển biến cán cân lực lượng chính trị bên trong tổ chức này. Thời gian đầu
khi mới ra đời, cùng với sự tăng vọt về số lượng thành viên, Liên hợp quốc tập trung
vào các vấn đề phi thực dân hoá, quyền tự quyết dân tộc và chủ nghĩa phân biệt chủng
tộc Apácthai. Trong thời kỳ gần đây Liên hợp quốc ngày càng quan tâm nhiều hơn tới
các vấn đề kinh tế và phát triển. Hoạt động của Liên hợp quốc trong gần 60 năm qua
cho thấy trọng tâm chính của Liên hợp quốc là duy trì hòa bình an ninh quốc tế và giúp
đỡ sự nghiệp phát triển của các quốc gia thành viên.
Đặc điểm bao trùm của Liên hợp quốc là tổ chức này không phải là một nhà nước siêu
quốc gia. Liên hợp quốc là tổ chức đa phương toàn cầu đầu tiên có những hoạt động
thực chất và đã có nhiều cố gắng trong việc phối hợp và điều tiết các mối quan hệ giữa
các quốc gia độc lập có chủ quyền trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền bình đẳng của
các quốc gia. Theo Điều 2 mục 7 của Hiến Chương, Liên hợp quốc không được can
thiệp vào các vấn đề thuộc quyền tài phán nội bộ của các nước. Tất cả các quốc gia
tham gia Liên hợp quốc theo nguyên tắc bình đẳng chủ quyền. Nguyên tắc này được
phản ánh triệt để nhất trong cơ chế tham gia bỏ phiếu các quyết định và nghị quyết tại
Đại Hội Đồng Liên hợp quốc (các quốc gia lớn nhỏ đều có một phiếu).
Một đặc điểm nổi bật khác của Liên hợp quốc là tổ chức này phản ánh sự dàn xếp và
cân bằng quyền lực giữa các cường quốc thắng trận. Thực tế này được thể hiện trong
cơ chế hoạt động của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc - cơ quan chấp hành có thực
quyền nhất của Liên hợp quốc và đảm nhiệm trách nhiệm hàng đầu của Liên hợp quốc
là duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Chỉ các quyết định của Hội đồng Bảo an mới có
tính cưỡng chế thực hiện. Các nghị quyết tại các cơ quan chính khác của Liên hợp quốc
như Đại hội đồng, Hội đồng Kinh tế–Xã hội, Hội đồng Quản thác, và cả Toà án Quốc
tế chỉ có tính khuyến nghị, đạo lý và tạo sức ép dư luận. Để bảo đảm lợi ích và thu hút
sự tham gia của cho các cường quốc, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc là cơ quan duy
nhất dành cho 5 cường quốc quyền phủ quyết (veto) khi thông qua các nghị quyết,
quyết định của Hội đồng. Quyền hạn của Hội đồng Bảo an tập trung vào hai lĩnh vực
hoạt động chính là giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế và tiến hành các biện
pháp cưỡng chế.
So với Hội Quốc Liên, Liên hợp quốc chứng tỏ đầy đủ hơn tính chất toàn cầu (thành
phần gồm hầu hết các quốc gia độc lập trên mọi châu lục) và đặc biệt là tính toàn diện
của nó: chương trình nghị sự không bó hẹp vào vấn đề duy trì hoà bình, an ninh, mà
bao gồm cả việc thúc đẩy hợp tác vì phát triển kinh tế–xã hội của cộng đồng các dân
tộc; bản thân hệ thống Liên hợp quốc bao gồm hàng loạt cơ quan, chương trình, quỹ, tổ
chức chuyên môn tập trung vào mọi lĩnh vực của đời sống các quốc gia và quan hệ
quốc tế ngoài lĩnh vực chính trị - quốc phòng, từ tiền tệ đến nông nghiệp, văn hoá, khoa
2
học–kỹ thuật...
Tổ chức Liên hợp quốc ra đời thực sự có ý nghĩa to lớn trong đời sống chính trị quốc tế
trong gần 60 năm qua. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu sự xuất hiện của các hoạt
động ngoại giao đa phương hiện đại, một bước ngoặt quyết định trong lịch sử phát triển
của nền ngoại giao đa phương nói chung. Tuy nhiên, sự ra đời của Liên hợp quốc và
bản thân Hiến chương Liên hợp quốc tất nhiên chưa đủ để bảo đảm sự bình đẳng hoàn
toàn và triệt để giữa các quốc gia lớn nhỏ. Sự đóng góp của Liên hợp quốc đối với hoà
bình an ninh quốc tế trong hơn 60 năm qua là rất đáng kể. Tuy nhiên, thực tế cho thấy
trong nhiều vấn đề, nhiều sự kiện, Liên hợp quốc không thể hiện được vai trò của mình
hoặc có thể nói Liên hợp quốc chưa làm tròn sứ mệnh của mình. Các siêu cường vẫn có
vai trò lớn và nhiều khi giữ vai trò quyết định trong quá trình ra quyết định của Liên
hợp quốc, đặc biệt là cơ cấu và cơ chế hoạt động của Hội đồng Bảo an, Hiến chương
Liên hợp quốc và các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc.
II. CƠ CẤU VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA LIÊN HỢP QUỐC
Liên hợp quốc gồm 6 cơ quan chính là: Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng Kinh
tế–Xã hội, Hội đồng Quản thác, Toà án Quốc tế và Ban Thư ký.
1. Đại Hội đồng Liên hợp quốc:
Các qui định của Hiến chương liên quan đến Đại hội đồng được đề cập trong chương
IV (từ Điều 9 đến 22), đã xác định thành phần, chức năng quyền hạn, bầu cử và thủ tục.
Những qui định khác liên quan đến Đại hội đồng còn được nêu ở một số điều khoản
khác.
1.1. Thành viên
Đại hội đồng là cơ quan đại diện rộng rãi nhất của Liên hợp quốc. Từ 51 thành viên ban
đầu (những nướsc có đại diện dự Hội nghị tại Xan Phranxixcô hoặc đã ký Tuyên ngôn
của Liên hợp quốc ngày 1/1/1942, và những nước đã ký và phê chuẩn Hiến chương
Liên hợp quốc), số thành viên Liên hợp quốc cho đến nay là 192. Khác với Hội đồng
Bảo an, các thành viên Đại hội đồng đều là các thành viên bình đẳng, không phân biệt
quốc gia lớn hay nhỏ, mỗi quốc gia thành viên đều được 1 phiếu bầu.
Các nước thành viên được chia theo nhóm khu vực để phân bổ vị trí khi bầu vào các cơ
quan cơ chế Liên hợp quốc. Hiện nay có 5 nhóm khu vực: châu Á, châu Phi, Mỹ La-
tinh và Ca-ri-bê, Đông Âu, Tây Âu và các nước khác.
1.2. Chức năng quyền hạn
1.2.1. Xem xét và kiến nghị về các nguyên tắc hợp tác trong việc duy trì hoà bình và an
ninh quốc tế, kể cả những nguyên tắc liên quan đến giải trừ quân bị và các qui định về
quân bị;
1.2.2. Bàn bạc về các vấn đề liên quan tới hoà bình và an ninh quốc tế, trừ trường hợp
tình hình hoặc tranh chấp hiện đang được thảo luận tại Hội đồng Bảo an, và đưa ra các
khuyến nghị về các vấn đề đó;
1.2.3. Bàn bạc và khuyến nghị về các vấn đề theo qui định của Hiến chương có tác
động đến chức năng, quyền hạn của các cơ quan thuộc Liên hợp quốc;
1.2.4. Nghiên cứu và khuyến nghị để thúc đẩy hợp tác chính trị quốc tế, phát triển và
pháp điển hoá luật pháp quốc tế; thực hiện các quyền con người và các quyền tự do cơ
bản cho mọi người, và hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo
3
dục và y tế;
1.2.5. Khuyến nghị các giải pháp hoà bình cho mọi tình huống có thể làm phương hại
quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc;
1.2.6. Nhận và xem xét các báo cáo của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các cơ quan
khác thuộc Liên hợp quốc;
1.2.7. Xem xét, thông qua ngân sách Liên hợp quốc và phân bổ đóng góp của các nước
thành viên;
1.2.8. Bầu các thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các
thành viên Hội đồng Kinh tế - Xã hội, các thành viên được bầu vào Hội đồng Quản
thác, cùng Hội đồng Bảo an bầu các thẩm phán Toà án quốc tế, và bầu Tổng thư ký
Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 5 năm) theo khuyến nghị của Hội đồng Bảo an.
Theo nghị quyết "Đoàn kết vì hoà bình" (Uniting for Peace) thông qua tại Đại hội đồng
tháng 11/1950, Đại hội đồng có thể hành động nếu Hội đồng Bảo an, vì không đạt được
sự nhất trí giữa các thành viên, không thể có hành động trong một trường hợp có nguy
cơ đe doạ hoà bình, phá vỡ hoà bình hoặc hành động xâm lược. Đại hội đồng được
quyền xem xét vấn đề ngay lập tức để có khuyến nghị với các nước thành viên thực
hiện các biện pháp tập thể, trong trường hợp phá hoại hoà bình hoặc xâm lược, bao
gồm biện pháp sử dụng vũ lực khi cần thiết, để duy trì và khôi phục hoà bình và an ninh
quốc tế.
1.3. Các khoá họp và Cơ cấu:
1.3.1 Các khoá họp: Có các loại là khoá họp thường kỳ, khoá đặc biệt thường kỳ và
khoá họp đặc biệt khẩn cấp của Đại hội đồng Liên hợp quốc.
* Khoá họp thường kỳ: Theo Nghị quyết 57/301 (2002), Đại hội đồng quyết định khoá
họp thường kỳ hàng năm của Đại hội đồng sẽ bắt đầu vào ngày thứ 3 của tuần thứ 3
của tháng 9, tính từ tuần đầu tiên có ít nhất một ngày làm việc. Nghị quyết cũng quy
định buổi thảo luận chung của Đại hội đồng sẽ được tiến hành vào ngày thứ 3 sau khi
khai mạc khoá họp thường kỳ và sẽ kéo dài liên tục trong 9 ngày. Các quy định này
được áp dụng từ khóa họp thường kỳ thứ 58 của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Các khoá
họp sẽ được tổ chức tại trụ sở của Liên hợp quốc ở Niu Oóc, trừ khi tại khoá họp trước
đó Đại hội đồng quyết định hoặc đa số các thành viên Liên hợp quốc yêu cầu tổ chức
họp ở nơi khác. Mỗi khoá họp có một Chủ tịch chủ trì, do các nhóm khu vực luân phiên
đề cử. Sau tuần đầu thống nhất chương trình nghị sự, Đại hội đồng sẽ tiến hành thảo
thuận chung của các trưởng đoàn. Cấp tham gia thường ở cấp cao như Nguyên thủ quốc
gia, Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thứ trưởng ngoại giao... Các nước thành
viên bày tỏ lập trường quan điểm về những vấn đề quốc tế quan tâm. Sau đó, 6 Uỷ ban
của Đại hội đồng bắt đầu nhóm họp song song với Đại hội đồng. Phần lớn các đề mục
được thảo luận tại Uỷ ban trước khi đưa ra Đại hội đồng, một số được thảo luận thẳng
tại Đại hội đồng.
* Khoá đặc biệt thường kỳ: Do Tổng thư ký Liên hợp quốc triệu tập, theo yêu cầu của
Hội đồng Bảo an hoặc đa số các nước thành viên Liên hợp quốc. Khoá họp đặc biệt
thường kỳ sẽ được tổ chức trong vòng 15 ngày kể từ khi Tổng thư ký nhận được yêu
cầu trừ khi Đại hội đồng đã ấn định ngày tổ chức khoá họp đặc biệt từ trước. Sau đó,
Tổng thư ký sẽ thông báo cho các nước thành viên ít nhất 14 ngày trước khi khai mạc
khoá họp đặc biệt, nếu không thì phải trước 10 ngày. Cho tới nay, đã có 27 khoá họp
4
đặc biệt thường kỳ trong đó chủ yếu là theo yêu cầu của Đại hội đồng. Chủ đề của các
khoá họp bao gồm các vấn đề chính trị, kinh tế, môi trường, xã hội. Từ năm 1990 trở
lại đây, các khoá họp đặc biệt thường kỳ của Đại hội đồng chủ yếu xoay quanh các vấn
đề như: hợp tác kinh tế quốc tế, ma tuý, dân số, môi trường, bình đẳng giới, HIV/AIDS.
Điều này cho thấy rõ xu thế của của Liên hợp quốc sau chiến tranh lạnh là tập trung bàn
về vấn đề phát triển.
* Khoá họp đặc biệt khẩn cấp: Có thể được triệu tập trong vòng 24 giờ kể từ khi Tổng
thư ký nhận được yêu cầu của Hội đồng Bảo an, hoặc yêu cầu hoặc thông báo của đa số
các nước thành viên Liên hợp quốc. Khoá họp này phải được thông báo cho các nước
thành viên ít nhất trước 12 giờ. Cho tới nay đã có 10 khóa họp đặc biệt khẩn cấp được
triệu tập, trong đó đa số được triệu tập theo yêu cầu của Hội đồng Bảo an còn lại là của
các nước đặc biệt quan tâm đến tình hình xung đột. Vì mang tính khẩn cấp nên chủ đề
của các khoá họp này cũng có những nét khác so với các khoá họp đặc biệt thường kỳ ở
chỗ các khoá họp đặc biệt khẩn cấp thường bàn về các vấn đề chính trị cụ thể như giải
quyết xung đột khu vực hoặc trong bản thân một nước (vấn đề Trung đông 1956,
Hungary 1956, Trung đông 1958, Congo 1960...).
Khi muốn yêu cầu triệu tập một khoá họp đặc biệt, Hội đồng Bảo an phải có một quyết
định chính thức về vấn đề này được 9 thành viên Hội đồng Bảo an bỏ phiếu ủng hộ.
Mặc dù Hiến chương quy định các khoá họp đặc biệt được triệu tập theo yêu cầu của đa
số thành viên Liên hợp quốc nhưng trên thực tế cho đến nay chưa có một yêu cầu nào
được đưa ra và có chữ ký của đa số nước thành viên. Thay vào đó, một nước thành viên
sẽ trình yêu cầu triệu tập khoá họp đặc biệt lên Tổng thư ký Liên hợp quốc. Tổng thư
ký sẽ ngay lập tức thông báo các nước thành viên khác và hỏi ý kiến của họ về yêu cầu
này. Nếu đa số các nước bỏ phiếu thuận trong vòng 30 ngày thì một khoá họp đặc biệt
sẽ được triệu tập.
* Kết quả của các khoá họp thể hiện bằng các nghị quyết và quyết định được thông qua
(các hình thức thông qua văn kiện được đề cập ở phần thủ tục hoạt động). Các nghị
quyết và quyết định này không có giá trị ràng buộc pháp lý mà chỉ có giá trị khuyến
nghị và đạo lý phản ánh ý chí, nguyện vọng chung của đông đảo các nước thành viên
Liên hợp quốc.
1.3.2. Cơ cấu: Có 6 Uỷ ban chính:
+ Uỷ ban 1: Giải trừ quân bị và An ninh quốc tế
+ Uỷ ban 2: Kinh tế - Tài chính
+ Uỷ ban 3: Văn hoá - Xã hội - Nhân đạo
+ Uỷ ban 4: Chính trị đặc biệt và Phi thực dân hoá
+ Uỷ ban 5: Hành chính - Ngân sách Liên hợp quốc
+ Uỷ ban 6: Luật pháp quốc tế
Ngoài ra còn có các Uỷ ban sau được thành lập theo các nguyên tắc thủ tục của Đại hội
đồng:
* Các Uỷ ban thủ tục;
* Các Uỷ ban thường trực;
* Các cơ quan đặc biệt và phụ trợ.
* Các Uỷ ban thủ tục
+ Uỷ ban chung
5
Uỷ ban này gồm Chủ tịch Đại hội đồng, 21 phó chủ tịch và 6 chủ tịch các uỷ ban chính.
Uỷ ban này xem xét chương trình nghị sự tạm thời và danh sách các vấn đề bổ sung,
xem xét các đề nghị về việc bổ sung các đề mục vào chương trình nghị sự, bố trí sắp
xếp các đề mục vào các uỷ ban và trình báo cáo lên Đại hội đồng để được phê duyệt.
Uỷ ban này giúp Chủ tịch Đại hội đồng vạch ra chương trình nghị sự cho các cuộc họp
toàn thể, quyết định các đề mục trọng tâm, phối hợp công việc giữa các Uỷ ban, và nói
chung làm các việc của Đại hội đồng thuộc thẩm quyền của Chủ tịch. Uỷ ban cũng có
thể đưa khuyến nghị cho Đại hội đồng về thời gian kết thúc của các khoá họp. Tuy
nhiên, Uỷ ban không thể quyết định bất cứ vấn đề gì có tính chất chính trị.
+ Uỷ ban kiểm tra tư cách đại biểu
Uỷ ban này gồm 9 thành viên được bầu ngay lúc bắt đầu mỗi khóa họp theo đề nghị
của Chủ tịch. Uỷ ban xem xét và báo cáo về các uỷ nhiệm thư của các đại biểu. Nếu
một đại diện bị một thành viên Uỷ ban phản đối sẽ tạm thời ngồi trong Đại hội đồng
với các quyền như các đại diện khác cho tới khi Uỷ ban đã báo cáo và Đại hội đồng có
quyết định về vấn đề đó.
* Các Uỷ ban thường trực
Có 2 Uỷ ban thường trực được thành lập, theo qui định thủ tục của Đại hội đồng, để
giải quyết các vấn đề tiếp theo trong và giữa các khoá họp thường kỳ.
+ Uỷ ban tư vấn về các vấn đề hành chính và ngân sách
Uỷ ban này được thành lập tại phiên họp đầu tiên của Đại hội đồng theo Nghị quyết
14A(I)(1946). Uỷ ban có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo về ngân sách thường của
Liên hợp quốc và ngân sách của việc gìn giữ hoà bình và các tài khoản của Liên hợp
quốc, và ngân sách hành chính của các cơ quan chuyên môn. Uỷ ban này cũng tư vấn
cho Đại hội đồng về các vấn đề hành chính và tài chính khác. Số thành viên của Uỷ ban
tăng lên nhiều lần, hiện nay có 16 thành viên (theo Nghị quyết 32/103(1977) của Đại
hội đồng).
Các thành viên của Uỷ ban được Đại hội đồng bầu ra theo khuyến nghị của Uỷ ban 5
trên cơ sở đại diện cho một khu vực địa lý rộng rãi, và có quyền tái cử. Phải có ít nhất 3
thành viên là các chuyên gia tài chính giỏi. Các chuyên gia tài chính này không được
nghỉ hưu cùng một lúc.
+ Uỷ ban đóng góp
Uỷ ban này được thành lập theo Nghị quyết 14(I)(1946) của Đại hội đồng nhằm tư vấn
Đại hội đồng về mức đóng góp của các nước thành viên vào chi tiêu của Liên hợp
quốc, định số tiền đóng góp của các nước thành viên mới, xem xét đề nghị của các
nước thành viên về thay đổi mức đóng, xem xét việc áp dụng Điều 19 Hiến chương
Liên hợp quốc trong các trường hợp chậm đóng niên liễm. Uỷ ban cũng được quyền
khuyến nghị hoặc tư vấn về mức đóng góp cho một tổ chức chuyên môn nếu được tổ
chức đó yêu cầu. Thành viên của Uỷ ban này được tăng lên nhiều lần, hiện nay có 18
thành viên (theo Nghị quyết 31/96 (1976) của Đại hội đồng).
Các thành viên của Uỷ ban được Đại hội đồng chọn theo khuyến nghị của Uỷ ban 5
trên cơ sở đại diện cho một khu vực địa lý rộng rãi và có trình độ và kinh nghiệm.
Nhiệm kỳ là 3 năm, và có quyền được bầu lại.
Thêm vào đó, các cơ quan Hiệp định được thành lập bởi các Công ước quốc tế phải
trình báo cáo lên Đại hội đồng về các hoạt động của họ.
6
* Các cơ quan đặc biệt và phụ trợ
+ Các cơ quan liên chính phủ:
Uỷ ban hoà giải cho Palestine (1948); Uỷ ban khoa học của Liên hợp quốc về đánh giá
ảnh hưởng của phóng xạ nguyên tử (UNSCEAR) (1955); Uỷ ban về sử dụng hoà bình
khoảng không vũ trụ (thành lập năm 1959); Uỷ ban đặc biệt về thực hiện Tuyên bố về
Phi thực dân hoá-Uỷ ban 24 (1961); Uỷ ban đặc biệt về các hoạt động gìn giữ hoà bình
(1965); Uỷ ban đặc biệt điều tra các hành động của Israel làm tổn hại các quyền con
người của nhân dân Palestine và các nước Arập khác trên những lãnh thổ bị họ chiếm
đóng (1968); Nhóm làm việc về chi tiêu cho các công việc cứu trợ của Liên hợp quốc
và các cơ quan khác cho tị nạn Palextin vùng Cận Đông (UNRWA) (1970); Uỷ ban
quan hệ với nước chủ nhà (1971); Uỷ ban đặc biệt về Ấn Độ Dương (1972); Uỷ ban
thực hiện các quyền bất khả xâm phạm của nhân dân Palestine (1975); Uỷ ban đặc biệt
về Hiến chương LHQ (1975); Uỷ ban thông tin (1978); Uỷ ban giải trừ quân bị (1978);
Hội nghị giải trừ quân bị (1978); Uỷ ban về các hội nghị (1988); Tiến trình tham vấn
mở không chính thức về đại dương và luật biển (1999); Uỷ ban đặc biệt Công ước quốc
tế về bảo vệ và thúc đẩy các quyền và nhân phẩm của người tàn tật (2001), Nhóm làm
việc đặc biệt của Đại hội đồng về các hoạt động tiến hành sau các hội nghị lớn của Liên
hợp quốc và các cuộc họp thượng đỉnh trong lĩnh vực kinh tế-xã hội (2002).
+ Các nhóm làm việc mở:
-Nhóm làm việc không chính thức về một chương trình nghị sự cho hoà bình, được
thành lập tại Đại hội đồng khoá 47 và ngừng họp từ năm 1996.
-Nhóm làm việc về đại diện bình đẳng và tăng thành viên Hội đồng Bảo an, được thành
lập theo Nghị quyết 48/26 (1993) của Đại hội đồng.
-Nhóm làm việc cấp cao về tình hình tài chính của Liên hợp quốc, được thành lập theo
Nghị quyết 49/143 (1994) của Đại hội đồng và ngừng họp từ năm 1997.
-Nhóm làm việc cấp cao về tăng cường hệ thống Liên hợp quốc, được thành lập theo
Nghị quyết 49/252 (1994) của Đại hội đồng và hoàn thành công việc năm 1997.
-Nhóm làm việc về nguyên nhân xung đột và thúc đẩy một nền hoà bình và phát triển
bền vững ở Châu Phi, được thành lập theo Nghị quyết 54/234 (1999) của Đại hội đồng
và đình chỉ hoạt động năm 2001.
+ Các cơ quan tư vấn:
- Uỷ ban tư vấn về các chương trình viện trợ của Liên hợp quốc về giáo dục, truyền bá
kiến thức về luật quốc tế (1965).
- Ban tư vấn về các vấn đề về giải trừ quân bị (1982).
+ Các cơ quan chuyên gia:
- Ban kiểm toán (1946)
- Uỷ ban luật quốc tế (ILC) (1947)
- Uỷ ban đầu tư (1947)
- Quỹ hưu của nhân viên Liên hợp quốc (1948)
- Toà án hành chính Liên hợp quốc (1949)
- Ban các kiểm toán viên đối ngoại (1959)
- Đơn vị thanh tra chung (JIU) (1966)
- Uỷ ban Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) (1966)
- Uỷ ban quốc tế về dịch vụ dân sự (1972)
7
- Uỷ ban giải quyết vấn đề nhà ở cho con người (UN-HABITAT) (1977)
1.4. Thủ tục hoạt động của Đại hội đồng Liên hợp quốc
Chương trình nghị sự
* Tại các khoá họp thường kỳ, thông thường, chương trình nghị sự của Đại hội đồng
Liên hợp quốc gồm khoảng 150 đề mục, liên quan đến tất cả các lĩnh vực thuộc sự
quan tâm của cộng đồng quốc tế.
* Chương trình nghị sự tạm thời của khoá họp thường kỳ do Tổng thư ký soạn thảo và
chuyển cho các nước thành viên chậm nhất là 60 ngày trước ngày khai mạc, bao gồm:
+ Báo cáo của Tổng thư ký;
+ Báo cáo của các cơ quan chính của Liên hợp quốc, các cơ quan thuộc Đại hội đồng
Liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn thuộc Liên hợp quốc;
+ Các đề mục do Đại hội đồng quyết định tại khoá họp trước;
+ Các đề mục do các cơ quan chính của Liên hợp quốc kiến nghị;
+ Các đề mục do bất cứ thành viên nào đề nghị;
+ Các đề mục liên quan đến ngân sách;
+ Các đề mục thuộc Điều 35, đoạn 2 của Hiến chương do các nước không phải thành
viên đề nghị.
* Bổ sung đề mục
Các nước thành viên, các cơ quan chính của Liên hợp quốc và Tổng thư ký được đưa
đề mục bổ sung 30 ngày trước khi khai mạc khoá họp.
* Thông qua chương trình nghị sự
+ Chương trình nghị sự tạm thời và danh sách đề mục bổ sung cùng báo cáo của Uỷ
ban chung (gồm Chủ tịch và các Phó chủ tịch Đại hội đồng) được chuyển cho Đại hội
đồng thông qua khi khai mạc.
+ Muốn đưa một đề mục phải kèm theo một bản giải thích hoặc dự thảo nghị quyết.
+ Việc sửa đổi hoặc gạt bỏ một đề mục phải do Đại hội đồng thông qua bằng bỏ phiếu
với số phiếu quá bán của những nước có mặt và tham gia bỏ phiếu.
Đoàn tham gia
* Mỗi nước thành viên gồm 5 đại biểu chính thức, 5 đại biểu dự khuyết và không hạn
chế số lượng cố vấn.
* Đại biểu dự khuyết có thể trở thành đại biểu chính thức theo bổ nhiệm của trưởng
đoàn.
* Uỷ nhiệm thư và danh sách thành viên phải được người đứng đầu Nhà nước, Chính
phủ hoặc Bộ trưởng Ngoại giao cấp và gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc một tuần
trước ngày khai mạc.
Các hình thức thông qua văn kiện
* Tại các Uỷ ban, các nghị quyết được thông qua bằng đa số thường hoặc thông qua
không cần bỏ phiếu.
* Các quyết định về các vấn đề quan trọng tại Đại hội đồng Liên hợp quốc được thông
qua bằng đa số áp đảo (2/3) của các thành viên có mặt và tham gia bỏ phiếu. Các vấn
đề quan trọng gồm: các vấn đề liên quan đến các khuyến nghị về hoà bình, an ninh
quốc tế, bầu uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an, các thành viên Hội đồng
Kinh tế - Xã hội, Hội đồng Quản thác theo Điều 86, mục 1e của Hiến chương Liên hợp
quốc, kết nạp thành viên mới, treo quyền thành viên, khai trừ thành viên và các vấn đề
8
ngân sách.
* Các vấn đề khác được thông qua bằng đa số thường.
* Khi có nhất trí cao, các nghị quyết có thể được thông qua không cần bỏ phiếu.
Tại Đại hội đồng Liên hợp quốc có các hình thức bỏ phiếu: kín (bầu cử), công khai, ghi
tên, gọi tên.
Cơ chế lãnh đạo
* Bầu Chủ tịch, các phó Chủ tịch: Đại hội đồng bầu 1 Chủ tịch và 21 Phó Chủ tịch cho
từng khoá họp.
* Chủ tịch có thể cử một phó Chủ tịch làm Quyền chủ tịch, có quyền hạn và nghĩa vụ
như Chủ tịch.
* Chủ tịch tuyên bố khai mạc và kết thúc các phiên họp, hướng dẫn thảo luận, cho phép
các đoàn phát biểu, nêu các vấn đề và tuyên bố các quyết định; quyết định về các kiến
nghị thủ tục (points of order), toàn quyền kiểm soát và bảo đảm trật tự các phiên họp.
Khuyến nghị Đại hội đồng về giới hạn thời gian, số lần đại biểu được phát biểu, giới
hạn danh sách đại biểu phát biểu.
* Chủ tịch không tham gia bỏ phiếu.
Vai trò của Ban thư ký
Ban thư ký tiếp nhận dịch, in và phát các tài liệu, báo cáo, nghị quyết, biên bản, các bài
phát biểu tại phiên họp và các công việc khác theo yêu cầu của Đại hội đồng.
Qui trình hội nghị
* Phát biểu
+ Chủ tịch có thể khai mạc phiên họp khi có ít nhất là 1/3 đại biểu.
+ Không đại biểu nào được phát biểu khi chưa được Chủ tịch cho phép. Chủ tịch cho
phép các đoàn phát biểu theo thứ tự đăng ký và có quyền yêu cầu các đại biểu ngừng
phát biểu khi vấn đề không liên quan tới chủ đề đang thảo luận.
+ Khi đã hết thời hạn đăng ký phát biểu, các đại biểu có thể được phát biểu bằng cách
sử dụng quyền trả lời.
* Kiến nghị về thủ tục (points of order)
Trong quá trình thảo luận, đại biểu có thể sử dụng kiến nghị về thủ tục và Chủ tịch sẽ
quyết định ngay về việc này. Đại biểu sử dụng kiến nghị về thủ tục không được phát
biểu về nội dung vấn đề đang thảo luận.
* Thủ tục đưa ra hoặc rút các quyết định
+ Người đưa ra đề nghị (motion) có thể rút lại bất cứ lúc nào trước khi bắt đầu bỏ
phiếu, trừ trường hợp đề nghị đã được bổ sung. Đề nghị đã rút có thể được đưa trở lại
với bất cứ đại biểu nào.
+ Các đề nghị và các bổ sung phải được nộp cho Tổng thư ký bằng văn bản. Theo quy
định chung, không thảo luận và bỏ phiếu các đề nghị khi văn bản chưa được Ban thư ký
xem và gửi cho các đại biểu ngày hôm trước. Chủ tịch có thể cho phép thảo luận và
thông qua các đề nghị và bổ sung mặc dù văn bản sao mới phát cho đại biểu trong ngày
hôm đó.
+ Đề nghị đã thông qua hoặc bác bỏ có thể đem ra xét lại nếu 2/3 đại biểu có mặt đồng
ý. Về đề nghị xét lại quyết định, chỉ 2 đại biểu trong số các nước chống đề nghị đó
được quyền phát biểu.
Thủ tục kết nạp, khai trừ thành viên
9
* Đơn xin làm thành viên
Các quốc gia muốn gia nhập Liên hợp quốc phải nộp đơn cho Tổng thư ký, tuyên bố
chấp nhận các nghĩa vụ ghi trong Hiến chương. Tổng thư ký sẽ sao và gửi đơn cho Đại
hội đồng và các nước thành viên. Hội đồng Bảo an kiến nghị Đại hội đồng kết nạp. Đại
hội đồng sẽ xem xét quốc gia đó có phải là quốc gia yêu chuộng hoà bình và có khả
năng sẵn sàng thực hiện các nghĩa vụ qui định trong Hiến chương hay không, và quyết
định bằng bỏ phiếu đa số áp đảo (2/3).
* Nước thành viên hiện đang là đối tượng bị Hội đồng Bảo an áp dụng các biện pháp
phòng ngừa hoặc cưỡng chế sẽ bị treo quyền thành viên tại Đại hội đồng theo khuyến
nghị của Hội đồng Bảo an. Hội đồng Bảo an có thể khôi phục quyền thành viên cho
nước bị tước quyền thành viên trong trường hợp này.
* Nước thành viên liên tục vi phạm các nguyên tắc của Hiến chương có thể bị Đại hội
đồng khai trừ khỏi Liên hợp quốc theo khuyến nghị của Hội đồng Bảo an.
* Hiến chương Liên hợp quốc không qui định về việc nước thành viên rút ra khỏi Liên
hợp quốc, thực tế chưa xảy ra trường hợp nào.
2. Hội đồng Bảo an:
Theo Điều 24 của Hiến chương Liên hợp quốc, các nước thành viên Liên hợp quốc trao
cho Hội đồng Bảo an trách nhiệm chính trong việc giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế.
Theo đó, Hội đồng Bảo an có thể áp dụng các biện pháp nhằm giải quyết hoà bình các
tranh chấp, xung đột và khi cần thiết, có thể sử dụng các biện pháp, kể cả cưỡng chế và
vũ lực, nhằm loại trừ các mối đe doạ, phá hoại hoà bình, hoặc các hành động xâm lược.
Các quy định của Hiến chương liên quan đến Hội đồng Bảo an nằm trong các chương
V, VI, VII, VIII và XII.
2.1. Thành viên
Hội đồng Bảo an gồm 15 nước thành viên, trong đó có 5 nước uỷ viên thường trực là:
Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc và 10 thành viên không thường trực do Đại hội đồng
Liên hợp quốc bầu ra với nhiệm kỳ hai năm trên cơ sở phân chia công bằng về mặt địa
lý và có tính tới sự đóng góp của những nước này cho tôn chỉ và mục đích của Liên hợp
quốc và không được bầu lại nhiệm kỳ kế ngay sau khi mãn nhiệm.
10 nước thành viên không thường trực được bầu theo sự phân bổ khu vực địa lý như
sau: 5 nước thuộc châu Phi và châu Á (3 nước châu Phi, 2 nước châu Á); 1 nước thuộc
Đông Âu; 2 nước thuộc vùng Mỹ Latinh và Caribê; 2 nước thuộc Tây Âu và các nước
khác.
2.2. Chức năng, quyền hạn
Là một trong sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc, Hội đông Bảo an được thành lập
nhằm duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Theo Điều 39 của Hiến chương Liên hợp
quốc, Hội đồng Bảo an là cơ quan duy nhất của Liên hợp quốc có quyền quyết định
đánh giá thực tại của các mối đe doạ đối với hoà bình, phá hoại hoà bình hoặc hành
động xâm lược, và sẽ khuyến nghị hoặc quyết định các biện pháp cần được tiến hành
phù hợp với các Điều 41 và 42, để duy trì hoặc khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế.
Trong khi thực thi chức năng này, Hội đồng Bảo an được coi là hành động với tư cách
thay mặt cho tất cả các thành viên Liên hợp quốc. Trên thực tế, những chức năng mà
Hội đồng Bảo an được trao có thể được coi là để nhằm 3 mục tiêu: gìn giữ hoà bình,
10
vãn hồi hoà bình và kiến tạo hoà bình.
Trong khi các cơ quan khác của Liên hợp quốc chỉ có thể đưa ra các quyết định mang
tính khuyến nghị đối với các chính phủ của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc, các
quyết định và nghị quyết của Hội đồng Bảo an, theo chương VII Hiến chương, khi đã
được thông qua đều mang tính chất ràng buộc và tất cả các thành viên của Liên hợp
quốc đều có trách nhiệm phải tôn trọng và thi hành.
Những quyền hạn cụ thể giao cho Hội đồng Bảo an được quy định ở các chương VI,
VII, XII của Hiến chương Liên hợp quốc, song những điều khoản quan trọng nhất có
liên quan tới việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, đặc biệt là việc giải quyết hoà
bình các tranh chấp quốc tế và sử dụng những biện pháp an ninh tập thể cưỡng chế,
được quy định cụ thể và chi tiết nhất ở chương VI và VII.
Theo Hiến chương, Hội đồng Bảo an có thể tiến hành điều tra bất cứ một tranh chấp
nào hoặc bất cứ một tình thế nào có thể dẫn tới những xung đột quốc tế hoặc đe doạ
hoà bình và an ninh quốc tế, và có thể đưa ra những khuyến nghị về các phương thức
cũng như nội dung cụ thể để giải quyết những xung đột đó. Những xung đột và những
tình huống có khả năng đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế có thể do các nước thành
viên Liên hợp quốc, Đại hội đồng hoặc Tổng thư ký Liên hợp quốc nêu ra trước Hội
đồng Bảo an. Một nước không phải thành viên Liên hợp quốc cũng có thể đưa cuộc
tranh chấp, trong đó bản thân nước đó là một bên tham gia tranh chấp, ra trước Hội
đồng Bảo an để cơ quan này xem xét giải quyết, với điều kiện là nước đó phải thừa
nhận trước là sẽ tuân thủ trách nhiệm giải quyết hoà bình cuộc tranh chấp theo quy định
của Hiến chương Liên hợp quốc.
Theo Hiến chương, tất cả các nước thành viên Liên hợp quốc phải cam kết cung ứng
cho Hội đồng Bảo an, căn cứ theo những thoả thuận đặc biệt thông qua thương lượng
đối với những đề xuất của Hội đồng Bảo an, những lực lượng vũ trang, những trợ giúp
và các phương tiện cần thiết khác để duy trì hoà bình và an ninh quốc tế.
2.3. Cơ cấu
Hội đồng Bảo an có các uỷ ban và cơ quan phụ trợ sau:
2.3.1. Các Uỷ ban thường trực: gồm Uỷ ban chuyên gia về các vấn đề thủ tục, Uỷ ban
về các cuộc họp của Hội đồng Bảo an không diễn ra tại trụ sở Liên hợp quốc và Uỷ ban
về việc kết nạp thành viên mới. Các Uỷ ban này đều có đại diện của các nước thành
viên Hội đồng Bảo an.
2.3.2. Ban Tham mưu quân sự: bao gồm các Tổng chỉ huy quân đội (Chiefs of staff)
của tất cả các nước thành viên hoăc đại diện của họ. Chức năng nhiệm vụ của Ban là tư
vấn cho Hội đồng về tất cả các vấn đề liên quan đến các yêu cầu quân sự để bảo vệ và
duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, việc sử dụng và chỉ huy các lực lượng đặt dưới sự
chỉ đạo của Ban, kể cả các qui định về vũ trang, và giải trừ quân bị nếu có thể.
2.3.3. Uỷ ban chống khủng bố: Uỷ ban này được thành lập theo Nghị quyết 1373
(2001) về một số biện pháp chống lại các mối đe doạ đối với hoà bình và an ninh quốc
tế của các hành động khủng bố, nhằm giám sát việc thực hiện nghị quyết này. Các nước
thành viên Liên hợp quốc phải trình bản báo cáo về các bước tiến hành để thực hiện
Nghị quyết 1373 lên Uỷ ban, lần đầu tiên trong vòng 90 ngày và các lần sau theo thời
gian biểu của Uỷ ban. Uỷ ban gồm tất cả 15 thành viên của Hội đồng Bảo an. Uỷ ban
thành lập 3 tiểu ban, mỗi tiểu ban do một Phó Chủ tịch Uỷ ban làm chủ tịch, để xem xét
11
sơ bộ bản báo cáo của các nước thành viên.
2.3.4. Các Uỷ ban trừng phạt: hiện nay có 10 Uỷ ban trừng phạt đang hoạt động là: Uỷ
ban trừng phạt thành lập theo nghị quyết 751 (1992) về Xô-ma-li; Uỷ ban trừng phạt
thành lập theo nghị quyết 918 (1994) về Ru-an-đa; Uỷ ban trừng phạt thành lập theo
nghị quyết 1132 (1997) về Xi-ê-ra Lê-ôn; Uỷ ban trừng phạt thành lập theo nghị quyết
1267 (1999) về Al Qaida và Taliban; Uỷ ban trừng phạt thành lập theo nghị quyết 1518
(2003) về I-rắc; Uỷ ban trừng phạt thành lập theo nghị quyết 1521 (2003) về Li-bê-ri-a;
Uỷ ban trừng phạt thành lập theo nghị quyết 1533 (2004) về Cộng hoà Dân chủ Công-
gô; Uỷ ban trừng phạt thành lập theo nghị quyết 1572 (2004) về Bờ Biển Ngà; Uỷ ban
trừng phạt thành lập theo nghị quyết 1591 (2005) về Xu-đăng; Uỷ ban trừng phạt thành
lập theo nghị quyết 1636 (2005) về vụ ám sát cựu Thủ tướng Li-băng Rafiq Hariri.
2.3.5. Các hoạt động và lực lượng gìn giữ hoà bình: gồm Tổ chức giám sát ngừng bắn ở
Trung Đông (UNTSO) (1948), Nhóm quan sát viên quân sự ở Ấn Độ và Pakistan
(UNMOGIP) (1949), Lực lượng ở Síp (UNFICYP) (1964), Lực lượng quan sát viên
không can dự (UNDOF) (1974), Lực lượng lâm thời ở Libăng (UNIFIL) (1978), Phái
đoàn quan sát Irắc-Côét (UNIKOM) (1991)…
2.3.6. Các lực lượng chính trị và kiến tạo hoà bình: gồm Văn phòng chính trị ở
Bougainville (UNPOB) (1998), Văn phòng kiến tạo hoà bình ở Cộng hoà Trung Phi
(BONUCA) (1999), Lực lượng trợ giúp ở Ápghanixtan (UNAMA) (2002), Văn phòng
đại diện đặc biệt của Tổng thư ký Liên hợp quốc về vấn đề Irắc (2003)…
2.3.7. Các Uỷ ban khác: gồm Uỷ ban đền bù Liên hợp quốc (UNCC) (1991), Uỷ ban
giám sát, kiểm tra và thanh tra (UNMOVIC) (1999).
2.3.8. Các toà án quốc tế:
* Toà án tội phạm quốc tế Ruanđa được thành lập năm 1994 theo Nghị quyết 955 của
Hội đồng Bảo an, theo chương VII của Hiến chương để xử các cá nhân phạm tội diệt
chủng và các tội ác chống loài người trên lãnh thổ Ruanđa và lãnh thổ các nước láng
giềng trong năm 1994.
* Toà án tội phạm quốc tế về Nam Tư cũ thành lập năm 1993 theo Nghị quyết 808 của
Hội đồng Bảo an để xét xử các cá nhân chịu trách nhiệm cho các vi phạm nghiêm trọng
luật nhân đạo quốc tế gây ra trên lãnh thổ Nam Tư cũ từ 1991.
2.3.9. Các tổ chức khác như Cơ quan chỉ huy của Liên hợp quốc tại bán đảo Triều Tiên
(UNC) (1950) được thành lập theo Nghị quyết 85 (1950) của Hội đồng Bảo an. Cơ
quan này yêu cầu tất cả các thành viên cung cấp lực lượng quân sự ở bán đảo Triều
Tiên cho phép đặt các lực lượng này dưới quyền chỉ huy thống nhất của Mỹ. Các đơn
vị chiến đấu được đưa đến từ 16 nước, phần lớn là phương Tây, ngoài ra có các nước
đang phát triển như Côlombia, Êtiôpia, Philípin, Nam Phi, Thái Lan.
2.4. Thủ tục hoạt động của Hội đồng Bảo an
Theo Hiến chương, Hội đồng Bảo an phải được tổ chức một cách phù hợp để có thể
hoạt động thường xuyên và liên tục nhằm ứng phó với các tình huống liên quan đến
hoà bình và an ninh quốc tế có thể đặt ra ở bất cứ thời điểm nào. Hiện tại, hoạt động
của Hội đồng Bảo an được tiến hành dựa trên Các qui tắc thủ tục tạm thời (gồm 61 qui
tắc) được Hội đồng Bảo an thông qua và liên tục cập nhật tại các phiên họp.
* Các phiên họp: Các hình thức họp của Hội đồng Bảo an bao gồm họp chính thức, họp
kín và trao đổi không chính thức. Hội đồng Bảo an có thể triệu tập phiên họp bất
12