Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

tieu luan Luc luong san xuat phu họp voi trinh đo phat trien san xuat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.19 KB, 13 trang )

A. LỜI NÓI ĐẦU
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là qui luật hết sức phổ biến trong công cuộc xây dựng đất nước của mỗi
quốc gia. Sự mâu thuẫn hay phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đều
có ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế. Sự tổng hoà mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất tạo nên một nền kinh tế có lực lượng sản xuất phát triển kéo theo
một quan hệ sản xuất phát triển.
Nói cách khác quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất là một điều kiện tất yếu để phát triển một nền kinh tế.
Do vậy, nghiên cứu về quy luật này sẽ giúp cho chúng ta có thêm những hiểu
biết ban đầu và sâu sắc hơn về sự phát triển của nước ta cũng như trên thế giới; hiểu
được quy luật vận động của nền kinh tế từ đó có thể góp một phần nhỏ bé của mình
vào sự nghiệp xây dựng nước nhà sau này.


B. NỘI DUNG
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Với tính cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử phương thức sản xuất
biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn
lịch sử nhất định của xã hội loài người. Dưới sự vận động của lịch sử loài người, cũng
như sự vận động của mỗi xã hội cụ thể, sự thay đổi về phương thức sản xuất bao giờ
cũng là sự thay đổi có tính chất cách mạng. Trong sự thay đổi đó, các quá trình kinh tế,
xã hội được chuyển sang một chất mới. Phương thức sản xuất là cái mà nhờ nó người
ta có thể phân biệt được sự khác nhau của những thời đại kinh tế khác nhau. Mà
phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ
nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Đó cũng chính là quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Do vậy, quy luật trên trước hết là quy luật kinh tế nhưng hơn thế nữa nó còn là
quy luật cơ bản nhất của toàn bộ đời sống xã hội của lịch sử nhân loại bởi vì nó là quy
luật của bản thân phương thức sản xuất. Sự tác động của quy luật này dẫn tới sự thay
đổi của phương thức sản xuất và kéo theo sự thay đổi cua toàn bộ đời sống xã hội.


Với những lý do trên, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa hết sức to lớn. Tuy nhiên, việc nắm bắt
được quy luật này không phải là đơn giản, nhận biết được một quan hệ sản xuất có phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hay không hoàn toàn
phải phụ thuộc vào thực tiễn của sản xuất và kinh nghiệm bản thân. Với những chính
sách, đường lối và chủ trương đúng đắn, nắm bắt tốt quy luật của Đảng và Nhà nước,
nền kinh tế, đặc biệt là kinh tế nhiều thành phần đã phát triển mạnh mẽ, đưa nước ta từ
một nước nông nghiệp lạc hậu phát triển thành nước sản xuất nông nghiệp tiên tiến;
góp phần đẩy nhanh nền kinh tế nước nhà đi sang một hướng khác, sánh vai cùng các
nước trong khu vực và trên thế giới.


II- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
A/ KHÁI NIỆM VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT:

1/ Lực lượng sản xuất:
Để tiến hành sản xuất thì con người phải dùng các yếu tố vật chất và kỹ thuật
nhất định. Tổng thể các nhân tố đó là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất biểu hiện
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nghĩa là trong quá trình thực hiện sản xuất
xã hội con người chinh phục tự nhiên bằng các sức mạnh hiện thực của mình sức mạnh
đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất. Trình
độ lực lượng sản xuất biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Lực
lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người trong quá trình sản xuất tạo nên
của cải cho xã hội đảm bảo sự phát triển của con người.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và kỹ năng lao động và tư liệu sản
xuất. Trong quá trình sản xuất công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo
ra của cải vật chất thì tư liệu lao động được hoàn thiện nhằm đạt được năng suất lao
động cao. Còn trong tư liệu lao động tức là tất cả các yếu tố vật chất mà con người sử
dụng để tác động vào đối tượng lao động thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng
nhất linh hoạt nhất. Bởi vậy khi công cụ lao động đã đạt đến trình độ tin học hoá được

tự động hoá thì vai trò của nó lại càng quan trọng. Trong mọi thời đại công cụ sản xuất
luôn là yếu tố đông nhất của lực lượng sản xuất. Chính sự chuyển đổi cải tiến và hoàn
thiện không ngừng của nó đã gây lên những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản
xuất. Trình độ phát triển công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của
con người. Có thể coi yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất chính là con
người. Trong thời đại ngày nay khoa học đã phát triển tới mức trở thành nguyên nhân
trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và đời sống nó đã trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp. Nó vừa là ngành sản xuất riêng vừa thâm nhập vào các yếu tố cấu
thành lực lượng sản xuất đem lại thay đổi về chất cho lực lượng sản xuất.


Khoa học và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản xuất nó hoàn
toàn có thể coi là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
2/ Khái niệm về quan hệ sản xuất:
Để tiến hành quá trình sản xuất, nhất định con người phải có mối quan hệ với
nhau. Tổng thể những mối quan hệ này gọi là quan hệ sản xuất. Nói cách khác quan hệ
sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất.
Trong đời sống xã hội của mình con người dù muốn hay không cũng buộc phải
duy trì những quan hệ nhất định với nhau để trao đổi hoạt động sản xuất cũng như kết
quả lao động những quan hệ sản xuất này mang tính tất yếu. Như vậy quan hệ sản xuất
do con người tạo ra song nó được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc
vào ý muốn của bất kỳ ai. Việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là
vấn đề có tính quy luật tất yếu, khách quan của sự vận động xã hội.
Với tính chất là những quan hệ kinh tế khách quan không phụ thuộc vào ý muốn
của con người, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất của đời sống xã
hội. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất và là cơ sở của đời
sống xã hội.
Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
- Quan hệ sở hữu về tư liêu sản xuất tức là quan hệ giữa người với tư liệu sản
xuất. Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối

với tư liệu sản xuất – Biểu hiện thành chế độ sở hữu. trong hệ thống các quan hệ sản
xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trò quyết định đối với các quan hệ xã
hội khác.
- Quan hệ tổ chức và quản lý kinh doanh sản xuất: Tức là quan hệ giưã người
với người trong sản xuất và trong trao đổi vật chất của cải. Trong hệ thống các quan hệ
sản xuất các quan hệ về mặt tổ chức quản lý sản xuất là các quan hệ có khả năng quyết
định một cách quy mô tốc độ hiệu quả và xu hướng mỗi nền sản xuất cụ thể đi ngược
lại các quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu ảnh hưởng tiêu
cực đến kinh tế xã hội.


- Quan hệ phân phối sản xuất sản phẩm: tức là quan hệ chặt chẽ với nhau cùng
mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu qủa tư liệu sản xuất để làm cho chúng
không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng nâng cao phúc lợi cho
người lao động. Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức quản lý, trong hệ thống quan hệ
sản xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những nhân tố có ý
nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế. Quan hệ phân phối có
thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sản xuất nhưng ngược lại nó có khả năng kìm hãm
sản xuất kìm hãn sự phát triển của xã hội
Nêu xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính chất sở hữu
quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác trong mỗi hình thái kinh tế xã
hội nhất định quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các quan hệ
sản xuất khác, ít nhiều cải biến chúng để chẳng những chúng không đối lập mà phục vụ
đắc lực cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế xã hội mới.

B/ QUY LUẬT VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT:
1/ Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất:
a/ Tính chất:
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tu liệu sản xuất và lao động.

Khi nền sản xuất được thực hiện với những công cụ ở trình độ phổ thông, lực lượng
sản xuất chủ yếu mang tính chất cá nhân. Khi trình độ sản xuất đạt tới trình độ cơ khí
hoá, lực lượng sản xuất đòi hỏi phải được vận động cho sự hợp tác xã hội rộng rãi trên
cơ sở chuyên môn hoá. Tính chất tự cấp tự túc cô lập của nền sản xuất nhỏ lúc đó phải
được thay thế bởi tính chất xã hội hoá.
b/ Trình độ của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là yếu tố có tác dụng quyết định đối với sự phát triển của
phương thức sản xuất: Trình độ của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn của lịch sử
loài người thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của loài người trong giai đoạn đó.


Khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất nói lên khả năng của con người thông qua
việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến tự nhiên nhằm đảm bảo cho
sự sinh tồn và phát triển của mình. Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện ở: Trình độ
công cụ lao động, trình độ quản lý xã hội trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, kinh nghiệm và kỹ năng của con người và trình độ phân công lao động.
Trên thực tế tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất không tách biệt nhau
2/ Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, sự
tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiên mối quan hệ
mang tính chất biện chứng. Chính sự thống nhất và tác động giữa quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất đã hình thành nên quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
tính chất và trìng độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi và phát triển. Ngược lại
quan hệ sản xuất thường có tính ổn định trong một thời gian dài.
Sự biến đội của lực lượng sản xuất có nhiều nguyên nhân:
- Bản thân người lao động thì những kỹ năng và kinh nghiệm không ngừng tích
luỹ và tăng lên.
- Bản thân tri thức khoa học trí thức công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực

tiếp.
- Sự ổn định của quan hệ sản xuất là nhu cầu khách quan để có thể sản xuất
được.
Chính vì vậy mà sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một giới hạn nhất định
sẽ đặt ra nhu cầu xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và hiện có. Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất
cũ thay nó bằng một quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là diệt vong cả một phương
thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của một phương thức sản xuất mới. Những quan hệ
sản xuất cũ và hiện có từ chỗ là hình thức kinh tế cần thiết để đảm bảo duy trì khai


thác, phát triển của lực lượng sản xuất giờ đây trở thành những hình thức kìm hãm sự
phát triển đó. Đó cũng chính là nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
Thực tiễn cho thấy rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có một quan
hệ sản xuất hợp lý đồng bộ phù hợp với nó. quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc tiên tiến
hơn một cách giả tạo cũng sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ gay gắt đòi hỏi phải giải
quyết nhưng còn lực lượng sản xuất người không phát hiện được cũng như mâu thuẫn
được phát hiện mà không giải quyết được hoặc giải quyết một cách sai lầm thì tác dụng
kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản
xuất đối với quan hệ sản xuất song nó cũng chỉ rõ rằng quan hệ sản xuất bao giờ cũng
thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở
lại lực lượng sản xuất , nó là yếu tố quyết định là tiền đề cho lực lượng sản xuất phát
triển khi nó phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nó làm nhiệm vụ
chỉ ra mục tiêu bước đi và tạo quy mô thích hợp cho lực lượng sản xuất hoạt động,
cũng như đảm bảo lợi ích chính đáng cho người lao động phát huy tính tích cực sáng
tạo cho con người là nhân tố quan trọng và quyết định trong lực lượng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản
xuất vì nó quyết định mục đích sản xuất, quy định hệ thống quản lý sản xuất và quản lý

xã hội quy định phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được
hưởng. Do đó nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển của
công cụ sản xuất áp dụng thành tựu khoa học và sản xuất hợp tác phân công lao động.
C. SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỂ
PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM
Thực chất của quy luật là lưc lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ SX phải luôn phù
hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Song do nhiều yếu tố bản thân quan hệ SX chi
phối cho nên QHSX phù hợp hoặc không phù hợp với LLSX. Do vậy, hiểu phù hợp ở


đây là bao trùm mâu thuẫn, sự giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX là thường
xuyên và theo yêu cầu phù hợp, thúc đẩy LLSX phát triển : đó chính là nguồn động lực
của sự phát triển phương thức SX, các hình thái KT-XH.
Đảng ta đã nhận thức và vận dụng quy luật này như thế nào ? Ở đây chúng ta có
thể tóm tắt thành 2 thời kỳ lớn : thời kỳ trước Đại hội 6 (Đại hội đổi mới toàn diện của
Đảng) và thời kỳ sau Đại hội 6 đến nay
Trong thời kỳ trước Đại hội 6, Đảng ta đã có những sai lầm thiếu sót trong việc
nhận thức và vận dụng quy luật XH, đặc biệt là sai lầm trong việc nhận thức và vận
dụng quy luật quan hệ SX phù hợp với trình độ của lực lượng SX.
Những sai lầm thiếu sót ấy được biểu hiện tập trung trong quan điểm chỉ đạo và
chính sách cải tạo quan hệ SX cũ, xây dựng quan hệ SX mới. Do nóng vội, nhận thức
chưa đúng quy luật khách quan, Đảng ta đã sai lầm khi cho rằng đối với một nước lạc
hậu, trình độ lực lượng sản xuất còn thấp như nước ta để tiến lên chủ nghĩa xã hội thì
QHSX XHCN tiên tiến có thể đi trước mở đường cho LLSX lạc hậu phát triển nhanh
lên hiện đại. Từ nhận thức sai lầm này, thực tế đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước ta giai đoạn này chỉ chú ý đến việc xây dựng quan hệ SX mới mà không quan
tâm đến việc phát triển lực lượng sản xuất, do đó đã kéo dài quá lâu trình độ SX thấp,
thủ công, đầu tư công nghiệp nặng không đúng hướng, đầu tư dàn đều, tràn lan, không
chú ý đầu tư chiều sâu mà chỉ đầu tư chiều rộng, không phát huy tiềm năng vốn có về
tư liệu sản xuất (đất đai), lợi thế tự nhiên từng vùng … lực lượng sản xuất đặc thù (đa

thành phần), phương thức sản xuất vẫn ở trình độ thủ công, cơ cấu tỷ trọng nông
nghiệp trong GDP còn cao, không phát huy và khôi phục ngành nghề truyền thống
Trong quan hệ sản xuất, Đảng và Nhà nước ta đã đưa QHSX lên quá cao so với
trình độ lạc hậu của LLSX ở nước ta làm cho LLSX không phát triển được và SX bị
đình trệ. Văn kiện Đại hội VI đánh giá như sau: “Trong nhận thức cũng như hành động,
chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu KT nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại
trong một thời gian tương đối dài nên đã nóng vội muốn nhanh chóng xóa bỏ KT tư
bản tư nhân, KT cá thể để sớm có KT XHCN chiếm ưu thế tuyệt đối. Việc xác lập


quan hệ SX còn không đồng bộ và có yếu tố đẩy quá xa, vượt lên trên trình độ của
LLSX thể hiện ở chỗ : không đồng bộ trong các ngành, trong cơ cấu kinh tế, trong bản
thân 3 mặt của quan hệ SX. Trong việc tổ chức hình thức sản xuất, chúng ta đã có xu
hướng tổ chức quá nhanh mô hình sản xuất, tập đoàn, hợp tác xã … với quy mô lớn mà
không tính đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực của cán bộ.
“Về nội dung cải tạo, thường nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất mà không coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối”.
Mặt khác chúng ta cũng không thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ. Do đó không chấp nhận kinh tế thị trường, đa dạng hoá hình thức sở
hữu, quản lý phân phối. Không thấy được đòi hỏi của lực lượng SX đang ở trong tình
trạng đan xen những trình độ, tính chất khác nhau để mà xác lập quan hệ SX. Bỏ qua
tư bản chủ nghĩa nhưng lại không thấy tính chất quá độ là đan xen tồn tại lâu dài của cả
lực lượng SX, quan hệ SX và kiến trúc thượng tầng. Một sai lầm thiếu sót khác là ta đã
duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp vào quan hệ SX vốn đã xác
lập không phù hợp với lực lượng SX, do đó cơ chế này đã làm ngưng động tính sáng
tạo của người lao động, kìm hãm LLSX và đã coi thường tính tất yếu kinh tế của SX
nhỏ đang chuyển sang SX lớn, nghĩa là thông qua SX hàng hoá thị trường mới đi lên
được
Cương lĩnh xây dựng đất nước đã nêu rõ : “Trong cách mạng XHCN Đảng ta đã
có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối xác định đúng mục tiêu và

phương hướng XHCN. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy
luật khách quan, nóng vội cải tạo XHCN, xóa bỏ ngay nền KT nhiều thành phần, có lúc
đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng, duy trì quá lâu, cơ chế quản lý
KT tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền
tệ, tiền lương. Công tác tư tưởng và tổ chức các bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm
trọng”.
Từ những sai lầm đó đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, lạm
phát đạt đến mức khủng khiếp 774% (những năm 80) sản xuất bị đình trệ. Qua thực


tiễn cuộc sống, Đảng ta đã rút ra được những bài học thấm thía là không thể nóng vội,
làm trái với quy luật khách quan.
Để khắc phục những sai lầm trên và vận dụng hiệu quả quy luật này, Đại hội 6
của Đảng đã đề xuất quan điểm đổi mới toàn diện, trong đó đặc biệt chú ý đổi mới
nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, trong đó quy luật quan hệ SX phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng SX. Quan điểm ấy đã được ĐH IX tiếp tục khẳng
định “Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản
xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ
nghĩa” (VK 9-Tr 87)
Như vậy, từ Đại hội VI đến nay, Đảng đã căn cứ vào thực trạng lực lượng sản
xuất hiện có của đất nước ta đối chiếu với lý luận quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất để xây dựng chế độ quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất ở
nước ta. Thực tiễn cho thấy hệ thống trình độ lực lượng sản xuất nước ta nhìn chung
còn thấp, sản xuất nhỏ ở nước ta còn phổ biến. Do đó để bắt đầu xây dựng một chế độ
xã hội mới nhất thiết bắt đầu từ việc đẩy mạnh lực lượng sản xuất phát triển trước rồi
sau đó mới phát triển quan hệ sản xuất theo sự phát triển của lực lượng sản xuất, tuy
nhiên chúng ta không chờ quan hệ sản xuất phát triển một cách tự nhiên mà tạo điều
kiện cho ra đời quan hệ sản xuất mới phù hợp
Cái thiếu lớn nhất của đất nước ta kề từ khi bước vào thời kỳ quá độ hiện nay là

thiếu một lực lượng SX phát triển, hiện đại, đủ đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng
nhanh và bền vững. Việc phát triển lực lượng SX chỉ có thế thực hiện được khi chúng
ta tăng cường tính khoa học và hiện đại vào trong lực lượng sản xuất hiện tại, vì vậy
Đảng đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa và xem đây là trọng tâm
của suốt thời kỳ quá độ. Bởi vì CNH thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
cho CNXH, đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn đổi mới căn bản về công
nghệ, chuyển từ nền SX nhỏ thủ công sang nền SX lớn có trình độ chuyên môn hóa và
công nghiệp hóa cao, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả và lâu bền cho
nền KT quốc dân. Với con đường CNH-HĐH đất nước và chính sách mở cửa về đối


ngoại, chúng ta có thể tận dụng mọi khả năng để tiếp cận, học tập những thành tựu trên
thế giới nhằm đạt được trình độ tiên tiến, hiện đại về khoa học và công nghệ, đặc biệt
là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, từng bước phát triển nền kinh tế tri thức.
Văn kiện Đại hội Đảng lần 9 cũng đã chỉ rõ nước ta đang từng bước xây dựng và phát
triển nền kinh tế tri thức : ”Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả
năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là nghệ công nghệ thông tin và công
nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức độ cao hơn và phổ biến
hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế trí
thức” Trang 91 – VK ĐH Đảng lần IX). Việc phát huy nguồn lực trí tuê và sức mạnh
của lực lượng SX được thực hiện song song với việc coi trọng phát triển giáo dục, đào
tạo, khoa học và công nghệ xem đây là nền tảng và là động lực cho sự nghiệp CNHHĐH đất nước.
Song song đó, do toàn cầu hóa kinh tế đang là xu thế tất yếu trong điều kiện của
cuộc Cách mạng hiện đại ngày nay nên Đảng đã xác định phải kết hợp chặt chẽ việc
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mà mục tiêu trước mắt là hội nhập APTA và là
thành viên chính thức của WTO với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo
những phương hướng “độc lập, tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm
lực kinh tế đủ mạnh, có mức tích lũy ngày càng cao với .từ nội bộ nền kinh tế; có cơ
cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh, kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và có một
ngành công nghiệp nặng then chốt, có năng lực nội sinh về KH-CN..”

Về quan hệ SX. Đại hội VII đã nêu : để phù hợp với sự phát triển của LLSX,
chúng ta phải thiết lập từng bước quan hệ SX XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng
về hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đại hội
VIII của Đảng đã đề ra chủ trương : “Nếu CNH, HĐH tạo nên LLSX cần thiết cho
chế độ XH mới thì việc phát triển nền KT nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ
thống QHSX phù hợp”. Các văn kiện Đại hội Đảng cũng đã khẳng định các thành
phần kinh tế là những bộ phận cấu thành phần kinh tế thống nhất, được phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với nhau. Trong xu hướng vận động chung,


thành phần kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, hỗ trợ các thành phần kinh tế
khác phát triển. Chủ trương này đã khơi dậy tiềm năng SX , khơi dậy năng lực sáng
tạo, chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy SX phát
triển. Văn kiện ĐH IX còn xác định “Phát triển LLSX hiện đại gắn liền với xây
dựng QHSX mới phù hợp cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối”. Đảng ta đã thừa
nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu và các loại hình tổ chức kinh tế gắn liền
với các hình thức sở hữu đó do lịch sử để lại, phù hợp với từng thành phần kinh tế.
Về quản lý văn kiện Đại hội VI và Đại hội IX cũng đã nêu chính sách phát triển nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước là mô hình
kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ. Việc quản lý nền kinh tế của Nhà nước phải
bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và sử dụng cơ chế thị
trường. Về phân phối, Đại hội IX cũng đã nhấn mạnh “thực hiện phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp
vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước phát triển”
Tóm lại, nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất cùng các hệ thống, các quy luật KT-XH khác của nền
kinh tế hàng hoá thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước theo định

hướng XHCN, nhất định chúng ta sẽ thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
XH công bằng, dân chủ văn minh. Những thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt được sau
gần 19 năm đổi mới là những minh chứng xác thực nhất cho điều đó.
III/ KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP
1/ KẾT LUẬN:
Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là quy luật hết sức phổ biến. Tuy nhiên không phải bất cứ lúc nào
cũng có sự phù hợp đó. Do vậy, phải nắm bắt tốt quy luật chúng ta có thể áp dụng vào
từng trường hợp cụ thể. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản


xuất còn là quy luật phổ biến trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế phát
triển đi lên của lịch sử loài người từ chế độ công xã nguyên thuỷ qua chế độ chiếm hữu
nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là
do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất. Lực
lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi, ngược lại quan hệ sản xuất lại thường
có tính ổn định song sự ổn định đó chỉ là tạm thời và cũng cần có sự thay đổi cho phù
hợp. Nếu quan hệ sản xuất không có những sự thay đổi cho phù hợp thì nó sẽ kìm hãm
sự phát triển của sản xuất.
Như vậy, trong việc xác lập hoàn thiện, thay đổi quan hệ sản xuất cần phải căn
cứ vào thực trạng của các lực lượng sản xuất hiện có về mặt tính chất và trình độ của
chúng (đây là cơ sở lý luận trực tiếp của việc xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
ở nước ta hiện nay của quá trình cải cách của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay).
2/ GIẢI PHÁP:
Cải tạo xã hội chủ nghĩa phải luôn luôn thấu suốt đặc điểm của quá trình tiến từ
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất luôn luôn gắn bó với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Phải coi trọng những
hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn.
Trên mỗi bước đi phải đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo ra lực lượng sản

xuất mới trên cơ sở đó tiếp tục đưa quan hệ sản xuất lên hình thức, quy mô thích hợp
để cho lực lượng sản xuất phát triển.



×