ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
––––––
NGUYỄN THỊ HẠNH QUYÊN
BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: T.S Trịnh Tiến Việt
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Hạnh Quyên
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH
SỰ Ở VIỆT NAM .............................................................................. 9
1.1.
NHẬN THỨC VỀ QUYỀN CON NGƯỜI ..............................................9
1.1.1.
Khái niệm quyền con người .......................... 9
1.1.2.
Một số quyền con người cơ bản ....................... 12
1.2.
KHÁI NIỆM VÀ CÁC BẢO ĐẢM CỦA VIỆC BẢO VỆ
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM ........................................... 15
1.2.1.
Khái niệm, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra vụ án hình sự ...... 15
1.2.2.
Khái niệm, sự cần thiết và các bảo đảm của việc bảo vệ quyền
con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ............ 18
1.3.
CHUẨN MỰC QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ ............... 27
1.3.1.
Quyền được suy đoán vô tội ...................................................................... 30
1.3.2.
Quyền tự do................................................................................................ 30
1.3.3.
Quyền được thông tin ................................................................................ 31
1.3.4.
Quyền được bảo vệ bởi luật sư ....................... 32
1.3.5.
Quyền được tiếp cận với thế giới bên ngoài ............... 33
1.3.6.
Quyền được kịp thời đưa ra trước một thẩm phán hoặc một quan
chức có thẩm quyền thực hiện chức năng tư pháp và được xét
xử trong thời hạn hợp lý ............................ 34
1.3.7.
Quyền được xem xét về tính hợp pháp của việc giam giữ ...... 34
1.3.8.
Quyền trong khi thẩm vấn .......................... 35
1.3.9.
Quyền về điều kiện sống ........................... 36
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH
SỰ Ở VIỆT NAM ............................................................................. 39
2.1.
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ ................ 39
2.1.1.
Khái quát các quy định pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam
trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về bảo vệ
quyền con người trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự ..... 39
2.1.2.
Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về bảo vệ quyền
con người trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam . 45
2.2.
THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG GIAI
ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM ................ 63
2.2.1.
Khái quát tình hình tội phạm ......................... 63
2.2.2.
Đánh giá thực tiễn thi hành bảo vệ quyền con người trong giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam ............... 66
2.3.
NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG BẤT CẬP VỀ BẢO VỆ
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM ............................................ 88
2.3.1.
Về hệ thống pháp luật bảo vệ quyền con người trong giai đoạn
điều tra các vụ án hình sự ........................... 88
2.3.2.
Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các bộ trong giai đoạn
điều tra còn hạn chế và thiếu hụt về biên chế .............. 89
2.3.3.
Về cơ sở vật chất, kỹ thuật điều kiện làm việc của các cơ
quan tư pháp ................................... 90
2.3.4.
Về cơ chế phối hợp trong hoạt động của các cơ quan trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự .......................... 91
2.3.5.
Ý thức pháp luật, trình độ hiểu biết pháp luật trong nhân dân
còn thấp kém ................................... 92
Chương 3. HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG GIAI
ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM ....... 94
3.1.
CƠ SỞ CỦA VIỆC HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH
SỰ Ở VIỆT NAM .................................................................................... 94
3.2.
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 NHẰM BẢO VỆ
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC
VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM .......................................................... 98
3.2.1.
Hoàn thiện thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can ............ 98
3.2.2.
Hoàn thiện các quy định BLTTHS năm 2003 về thời hạn điều
tra và tạm giam điều tra ........................... 100
3.2.3.
Hoàn thiện các quy định về biện pháp ngăn chặn .......... 103
3.2.4.
Hoàn thiện các quy định bảo đảm quyền bào chữa trong giai
đoạn điều tra .................................. 109
3.2.5.
Kịp thời bổ sung quy định BLTTHS năm 2003 về quyền
được im lặng ................................. 110
3.2.6.
Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS năm 2003 cụ thể hóa
chủ trương gắn công tố với hoạt động điều tra ............ 111
3.3.
NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM ............................................ 112
3.3.1.
Tăng cường hướng dẫn áp dụng thống nhất các quy định của
BLTTHS .................................... 113
3.3.2.
Nâng cao hiệu quả của việc thực hiện cơ chế công tố gắn với
hoạt động điều tra ............................... 114
3.3.3.
Nâng cao năng lực kiểm sát viên và điều tra viên - thước đo
chuẩn mực bảo vệ quyền con người ................... 116
3.3.4.
Nâng cao ý thức pháp luật cho người dân, đặc biệt là pháp luật
về quyền con người .............................. 118
3.3.5.
Nâng cao văn hóa tố tụng trong giai đoạn điều tra .......... 120
KẾT LUẬN .................................................................................................. 122
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 125
PHỤ LỤC
TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS
Bộ Luật Tố tụng hình sự
BLHS
Bộ Luật Hình sự
CAND
Công an nhân dân
CQĐT
Cơ quan điều tra
CQCSĐT
Cơ quan cảnh sát điều tra
ĐTV
Điều tra viên
HRC
Hội đồng quyền con người của Liên hợp quốc
ICCPR
Công ước về các quyền dân sự, chính trị
ICCSCR
Công ước về các quyền kinh tế, xã hội văn hóa
KSV
Kiểm sát viên
PLTCĐTHS
Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự
TTHS
Tố tụng hình sự
THTT
Tiến hành tố tụng
TGTT
Tham gia tố tụng
VKS
Viện kiểm sát
VKSNDTC
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1:
Tình hình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm trên phạm vi toàn
quốc từ năm 2008 đến năm 2013 ................................................ 63
Bảng 2.2:
Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định tạm giữ và không phê chuẩn
quyết định gia hạn tạm giam từ năm 2008 đến năm 2013.......... 78
Bảng 2.3:
Số người bị tạm giữ được cơ quan bắt giữ trả tự do từ năm 2009
đến năm 2013 .............................................................................. 79
Bảng 2.4:
Số lệnh tạm giữ Viện kiểm sát không phê chuẩn và hủy bỏ biện
pháp tạm giam từ năm 2009 đến năm 2013 ................................ 82
Bảng 2.5:
Số trường hợp quá hạn tạm giữ, tạm giam trên phạm vi cả nước từ
năm 2007 đến năm 2013 .......................................................................83
Bảng 2.6:
Số người bị tạm giữ chết trong nhà tạm giữ từ năm 2010
đến năm 2013 ........................................................................... 83
Bảng 2.7:
Cơ quan điều tra tạo điều kiện để người bào chữa chỉ định tham
gia vào các hoạt động điều tra liên quan đến người mà mình
nhận bào chữa ............................................................................ 87
Bảng 3.1:
Thời hạn điều tra và thời hạn gia hạn điều tra vụ án hình sự ... 100
Bảng 3.2:
Thời hạn tạm giam và thời hạn gia hạn tạm giam để điều tra vụ
án hình sự .................................................................................. 101
Bảng 3.3:
Thời hạn tối đa điều tra và tạm giam để điều tra vụ án hình sự ...... 102
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ buổi sơ khai của bình minh loài người, ở xã hội cộng sản nguyên
thủy, con người đã luôn được coi là chủ thể của xã hội và cùng với sự phát
triển, khi lựa chọn định hướng phát triển theo xu hướng tiến bộ, các quốc gia
đều cố gắng phấn đấu vì hạnh phúc của con người, vì thế bảo vệ các quyền
của con người là một tất yếu khách quan. Quyền con người là khát vọng và là
thành quả đấu tranh của nhân loại, qua các giai đoạn phát triển nó đã trở thành
giá trị chung.
Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán khẳng định sự quan tâm, chăm lo,
bảo vệ quyền con người; luôn đề cao sự tôn vinh, tôn trọng quyền con người;
đã, đang và sẽ làm hết sức mình để thực hiện quyền con người thông qua việc
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, thông qua việc đẩy mạnh phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội; giữ vững môi trường hòa bình, chăm lo cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, làm cho “dân no, dân yên, dân
tin”. Điều đó thể hiện rất rõ ở sự quyết tâm phấn đấu đến năm 2020, nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; thực hiện tốt
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; tạo cơ sở vững
chắc để thực hiện đầy đủ quyền con người trên đất nước Việt Nam. Ở nước ta,
quyền con người được bảo đảm và thực hiện bằng Hiến pháp và pháp luật, đó
là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tiến trình đấu tranh cách mạng, tiến hành
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đảng, Nhà nước ta luôn đề cao tính nghiêm minh của pháp luật, song pháp
luật của nước ta không phải là cứng nhắc, áp đặt mà nó luôn được kết hợp
chặt chẽ với đạo đức, với tình yêu thương con người và sự khoan dung, nhân
đạo. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã nhấn mạnh những yêu cầu của công
1
dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp
phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con
người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội
chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm.
Bảo đảm tuân thủ và thực hiện nghiêm chỉnh pháp chế xã hội chủ nghĩa
là nguyên tắc chung trong các ngành luật. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự
(TTHS), hoạt động điều tra là giai đoạn đầu tiên và giữ vai trò quan trọng
trong toàn bộ quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án . Thực tiễn đã chỉ
ra rằng: “Những kết quả khả quan cũng như những sai lầm tư pháp nghiêm
trọng nhất bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội…thường bắt nguồn từ giai đoạn
điều tra” [46, tr.45]. Giai đoạn điều tra nhận đảm đương công việc thực chất về
điều tra sự thật phạm tội. Thành công hay thất bại của việc đấu tranh phòng,
chống tội phạm ở một mức độ nào đó là do việc điều tra quyết định. Chỉ có qua
điều tra mới có thể biết rõ tình hình vụ án, xác định có tội phạm hay không.
Trong quá trình điều tra xác lập cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự
và thực hiện nội dung quyền công tố. Trong quá trình này, cơ quan điều tra
(CQĐT) có quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn hạn chế tự do hay một số
biện pháp liên quan, ảnh hưởng đến quyền con người. Nếu hoạt động điều tra
đúng pháp luật, sẽ bảo vệ được quyền con người, nếu hoạt động này có bất kỳ
sai lầm nào dù to hay nhỏ, nhiều hay ít đều dẫn tới hệ quả tiêu cực xâm phạm
quyền con người.
Thực tiễn những năm qua ở Việt Nam cho thấy, trong giai đoạn điều tra
các vụ án hình sự vẫn còn xảy ra hành vi xâm phạm đến quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân
như: vụ án ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang, “Kỳ án Vườn Điều” và còn
nhiều vụ án khác thẫm đẫm nước mắt vẫn còn được nhắc đến như là một bài
học đắt giá trong ngành tư pháp của nước ta. Những vi phạm đó xảy ra là do
2
nhiều nguyên nhân, trong đó có bất cập, hạn chế của pháp luật, cơ chế, nhận
thức, thái độ của người tiến hành tố tụng (THTT), các quy định về chế độ
trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, người THTT đối với công dân... Vì vậy,
có thể nói nghiên cứu việc bảo vệ quyền con người trong các giai đoạn THTT
nói chung, bảo vệ quyền con người trong giai đoạn điều tra nói riêng trong
TTHS từ góc độ lập pháp cũng như áp dụng pháp luật có vai trò rất quan
trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa và trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta.
Xuất phát từ những vấn đề như vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Bảo vệ
quyền con người trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam”
làm đề tài luận văn thạc sĩ, là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ta, bảo vệ quyền con người nói chung và bảo vệ quyền con
người trong hoạt động tư pháp nói riêng là vấn đề đã được Đảng, Nhà nước
cùng các nhà khoa học xã hội hết sức quan tâm nghiên cứu, nhất là trong thời
kỳ đổi mới. Bên cạnh việc thành lập Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người
trực thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm Nghiên cứu
Quyền con người trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, hiện nay các công
trình khoa học nghiên cứu liên quan đến đề tài: “Bảo vệ quyền con người
trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam” chưa được công bố
nhiều. Có thể chia các công trình thành ba nhóm chính sau đây:
- Nhóm thứ nhất - những công trình đề cập đến vấn đề quyền con
người nói chung có một số công trình khoa học tiêu biểu sau: a) "Quyền con
người trong thế giới hiện đại" do PGS. Phạm Khiêm Ích và GS. TS Hoàng
Văn Hảo chủ biên, Viện Thông tin Khoa học Xã hội xuất bản năm 1995 ; b)
“Tìm hiểu vấn đề nhân quyền trong thế giới hiện đại” do TS. Chu Hồng
Thanh chủ biên, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1996; c) Trung tâm Nghiên cứu
3
Quyền con người biên tập hai tập chuyên khảo: “Quyền con người, quyền
công dân” của nhiều tác giả, xuất bản năm 1995; d) Báo cáo tổng thuật Đề tài
KX.07- 16 nghiên cứu về “Các điều kiện đảm bảo quyền con người, quyền
công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước” do GS.TS Hoàng Văn Hảo chủ
nhiệm…Đặc biệt, đáng chú ý là cuốn sách: “Giáo trình lý luận và pháp luật
về quyền con người” của tập thể tác giả do GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, T.S
Vũ Công Giao, ThS. Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên) và cuốn sách nhiều tập
“Quyền con người” tiếp cận đa ngành, liên ngành của GS.TS Võ Khánh Vinh
chủ biên, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2010; v.v…
Trong các công trình này, các tác giả đã nghiên cứu khái niệm và các
đặc điểm Nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa nói riêng; nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công
dân; nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền.
- Nhóm thứ hai - các công trình nghiên cứu là các sách chuyên khảo,
các bài viết liên quan đến bảo vệ quyền con người trong giai đoạn điều tra các
vụ án hình sự như: a) “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền”, do TSKH Lê Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên),
Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, 2004; b) “Các tội xâm phạm quyền tự do, dân
chủ của công dân theo luật hình sự Việt Nam” của T.S Trịnh Tiến Việt (chủ
biên), Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2010; c) “Về tự do cá nhân và biện
pháp cưỡng chế tố tụng hình sự” của T.S Trần Quang Tiệp, Nxb. Chính trị
Quốc gia Hà Nội, 2005; d) “Những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự
Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, 2000; đ)
“Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam” của
T.S Trần Quang Tiệp, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2004; e) “Bảo vệ quyền
con người bằng pháp luật tố tụng hình sự” của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí, Tạp
chí Khoa học, chuyên san Luật học, số 23(2)/2009; v.v…
4
- Nhóm thứ ba - các công trình nghiên cứu là các đề tài nghiên cứu
khoa học, luận văn, luận án liên quan đến bảo vệ quyền con người trong giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự như: a) Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia
“ Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình
sự trong giai đọan xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” do GS.TSKH.
Lê Văn Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí, Ths. Trịnh Quốc Toản (đồng chủ trì),
Hà Nội, 2004; b) Đề tài trọng điểm cấp Đại học Quốc gia Hà Nội: “Quyền
con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự: Lý luận, thực trạng và hướng hoàn
thiện pháp luật” do GS.TSKH Lê Văn Cảm (chủ trì), Hà Nội, 2013; c) Luận
án tiến sĩ luật học “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng
hình sự” của tác giả Hoàng Thị Sơn, bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội, 2003; d)
Luận án tiến sĩ luật học “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Lại Văn Trình, bảo vệ
tại Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, 2011; v.v…
Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác đã được
đăng trong các tập san, tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Toà án nhân dân, Tạp chí Lập pháp….
Mặc dù đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực quyền
con người, nhưng nhìn chung, những công trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu
đề cập đến những vấn đề lý luận chung về quyền con người, từng lĩnh vực
hoạt động cụ thể về quyền con người, về tổ chức và hoạt động của các bộ
máy Nhà nước, về việc xây dựng pháp luật về bảo đảm quyền con người
nói chung. Trong đó, chỉ có một vài khía cạnh đề cập cụ thể về quyền con
người trong hoạt động tư pháp. Vấn đề bảo vệ quyền con người trong giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam chưa được nghiên cứu một
cách toàn diện và trực tiếp về cả lý luận và thực tiễn. Tuy vậy, các công
trình nêu trên vẫn là những tài liệu tham khảo quan trọng đối với tác giả
trong quá trình thực hiện luận văn.
5
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người trong giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam, đồng thời nghiên cứu thực trạng
quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng, làm sáng tỏ những bất cập
hạn chế, để đưa ra những kiến nghị và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền
con người ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về quyền con người và bảo vệ quyền
con người trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự.
- Phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng hình (BLTTHS) năm 2003
liên quan đến bảo vệ quyền con người trong giai đoạn điều tra các vụ án hình
sự; tìm ra những hạn chế và nguyên nhân của bất cập trong thực tiễn thi hành.
- Nghiên cứu kinh nghiệm của pháp luật quốc tế về việc bảo vệ quyền
con người trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự.
- Kiến nghị hoàn thiện các quy định của BLTTHS và những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người trong giai đoạn điều tra các
vụ án hình sự ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận quyền con người và việc bảo vệ
quyền con người trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam.
Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn
áp dụng để đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ
quyền con người trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam.
6
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn trên những phạm vi sau đây:
- Những vấn đề chung về bảo vệ quyền con người trong giai đoạn điều
tra các vụ án hình sự ở Việt Nam.
- Quy định của BLTTHS hiện hành và thực tiễn bảo vệ quyền con
người trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam.
- Hoàn thiện các quy định của BLTTHS và những giải pháp nâng cao
hiệu quả bảo vệ quyền con người trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự ở
Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác-LêNin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và
các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về bảo vệ quyền con người.
Việc nghiên cứu được thực hiện từ góc độ lý luận về quyền con người
nói chung và từ góc độ TTHS nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng
hợp, lịch sử, so sánh, thống kê, khảo sát…Trong quá trình thực hiện đề tài, tác
giả đã nghiên cứu hồ sơ một số vụ án cụ thể để có cơ sở thực tiễn.
6. Những điểm mới về mặt khoa học của luận văn
Đề tài là một trong những công trình nghiên cứu có tính hệ thống về lý
luận và thực tiễn bảo vệ quyền con người trong giai đoạn điều tra các vụ án
hình sự ở Việt Nam và có những điểm nổi bật như sau:
- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, đặc điểm và nội dung của quyền con
người được bảo vệ trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam.
7
- Xác định rõ vai trò trách nhiệm của CQĐT trong việc bảo vệ quyền
con người.
- Nhận diện việc vi phạm quyền con người trong giai đoạn điều tra các
vụ án hình sự, đánh giá thực trạng quyền con người được bảo vệ trong giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam.
- Đề ra giải pháp trong việc bảo vệ quyền con người trong giai đoạn
điều tra các vụ án hình sự.
7. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Đề tài là một đóng góp khiêm tốn trong việc giải quyết về mặt khoa học
một trong những nội dung cấp thiết hiện nay ở nước ta là bảo vệ quyền con
người. Luận văn sẽ đóng góp một phần lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cho
việc thực hiện có hiệu quả việc bảo vệ quyền con người trong quá trình điều
tra các vụ án hình sự của các cơ quan THTT nói chung và CQĐT nói riêng
trong việc thi hành pháp luật. Kết quả của luận văn có giá trị tham khảo cho
những ai quan tâm đến lĩnh vực này.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục từ ngữ viết tắt, danh mục tài
liệu tham khảo. Nội dung của luận văn kết cấu gồm 3 chương, như sau:
- Chương 1: Những vấn đề chung về bảo vệ quyền con người trong giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam.
- Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành và thực tiễn
bảo vệ quyền con người trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam.
- Chương 3: Hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng hình sự và
những giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người trong giai đoạn
điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM
1.1. NHẬN THỨC VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
1.1.1. Khái niệm quyền con người
“ Sâu thẳm trong tư duy và tâm hồn của nhân loại là niềm tin chắc chắn
rằng mỗi người và tất cả mọi người đều có các quyền, trong đó có quyền tự
do không bị áp bức, quyền tự do lựa chọn và không phải chịu những hành vi
tàn bạo” [55, tr.1]. Theo bản năng, hầu hết mọi người đều cảm nhận như vậy,
ngay cả khi họ không tin là có thể dễ dàng giành được những quyền đó.
Khái niệm quyền con người có nguồn gốc từ thời Hy Lạp dưới dạng
các quyền tự nhiên của con người. Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, người nô lệ
không được coi là con người, họ không có và không được xã hội thừa nhận
các quyền con người. Chế độ phong kiến đã tiến một bước tiến so với chế độ
chiếm hữu nô lệ, bước đầu trong việc giành lại quyền tự do và giải phóng con
người. Đến giai cấp tư sản, quyền con người được đề cập tới một cách trực
tiếp, giai cấp này lần đầu tiên biết nêu cao ngọn cờ nhân quyền, biết lợi dụng
các tư tưởng tự do, bình đẳng, công lý…vốn là yêu cầu cấp thiết của tầng lớp
nhân dân lao động, tuyệt đối hóa tự do cá nhân, đặc biệt nhấn mạnh yếu tố cá
nhân trong khái niệm quyền con người. Theo đó lần đầu tiên các quyền con
người được đề cập từ cuộc Cách mạng tư sản Anh với Luật về các quyền năm
1689, sau đó chính thức ghi nhận trong các văn kiện quan trọng như Tuyên
ngôn độc lập của Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình
đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong
những quyền đó có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc” [16, tr.555]. Đến Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp 1789
9
tiếp tục khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải
luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” [16, tr.555]. Có thể khẳng định
đây là sự kiện đánh dấu “Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, quyền con
người chuyển từ phạm vi thỉnh cầu, yêu sách sang phạm vi thực hiện, từ lĩnh
vực triết học sang lĩnh vực pháp lý thực tiễn” [24, tr.27].
Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, Liên hợp quốc tuyên bố chính thức
về các quyền và tự do của con người bằng Hiến chương Liên hợp quốc 1945
và Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948. Cụ thể hoá quyền con
người trong các văn bản trên, năm 1966, Liên hợp quốc thông qua Công ước
Quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh
tế, xã hội, văn hóa.
Các học giả quốc tế thường viện dẫn khái niệm quyền con người
của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc, Quyền con người là những
bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm
chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân
phẩm, những sự được phép và tự do của con người. [56]
Lịch sử tiến hóa loài người chỉ ra rằng con người là sản phẩm cao nhất
của tự nhiên và của sự tiến hóa giống loài. Sự xuất hiện loài người với đặc
trưng cơ bản là lao động và có tư duy đã xác định vị trí, vai trò, những quyền
năng của con người trước tự nhiên và muôn loài. Con người tự tạo ra quyền
của mình và đương nhiên được hưởng, sử dụng những quyền ấy, quyền sống,
quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc và phát triển là bản chất tự nhiên của
quyền con người.
Con người từ khi xuất hiện đã là sản phẩm xã hội, lịch sử, bản chất của
con người trong tính hiện thực của nó là toàn bộ các quan hệ xã hội. Con
người là sản phẩm của xã hội, chịu sự tác động của các quy luật xã hội khách
quan nhưng con người là chủ thể của các quá trình vận động và phát triển của
10
lịch sử, xã hội. Quyền con người, một giá trị lịch sử, xã hội đương nhiên phải
mang tính xã hội, lịch sử… Học thuyết Mác-Lênin là một chỉnh thể thống
nhất thể hiện những tư tưởng nhân văn chân chính nhất của loài người, là sự
kế thừa một cách biện chứng những giá trị tinh hoa của nhân loại về con
người và quyền con người. C.Mác đã xuất phát từ con người là một thực thể
thống nhất, một: “sinh vật – xã hội”. Do đó quyền con người là sự thống nhất
biện chứng giữa “quyền tự nhiên” (như một đặc quyền vốn có và chỉ con
người mới có) và “quyền xã hội” - sự chế định bằng các quy chế pháp lý
nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Do đó, về bản chất quyền con người không chỉ thuần túy là những
quyền tự nhiên mà nó đặt vào tổng hòa các mối quan hệ xã hội, chịu sự ràng
buộc của xã hội, gắn với quá trình chinh phục tự nhiên và phát triển xã hội.
Nói khác đi: “Quyền con người tuy mang đặc tính tự nhiên nhưng có nội dung
xã hội, bị chế ước bởi từng hoàn cảnh lịch sử, từng chế độ xã hội, từng Nhà
nước" [19, tr.28] và được mở rộng và cụ thể hoá cùng với sự phát triển của xã
hội loài người, quyền con người là những vấn đề thuộc về con người, chỉ
được đặt ra đối với con người xuất phát từ chính bản chất xã hội của con
người, không có xã hội con người thì không có khái niệm quyền con người.
Vì thế, có thể đưa ra khái niệm quyền con người như sau: Quyền con
người là những đặc lợi vốn có của tự nhiên mà chỉ con người mới được
hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định.
Quyền con người vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính xã hội; mang
tính phổ biến, nhưng lại mang tính đặc thù; mang tính giai cấp, đồng thời
mang tính nhân loại và thống nhất với quyền dân tộc cơ bản. Quyền con
người là giá trị có ý nghĩa phổ biến, được cộng đồng quốc tế và pháp luật
quốc tế công nhận, bảo hộ. Quyền công dân với nội dung chính trị, pháp lý
hẹp hơn là khái niệm nói lên mối quan hệ giữa cá nhân con người với một
11
Nhà nước cụ thể, phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh và đặc điểm lịch sử, địa lý,
tôn giáo, chủng tộc và trình độ phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, chế độ chính trị
ở từng quốc gia, dân tộc, ở từng thời kỳ và giai đoạn lịch sử nhất định.
1.1.2. Một số quyền con người cơ bản
Quyền con người là một phạm trù lớn, bao trùm lên rất nhiều các vấn
đề, lĩnh vực khác nhau trong xã hội. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn
đề này, khoa học pháp lý đã chia quyền con người theo các lĩnh vực hoạt
động của đời sống con người thành các nhóm: Các quyền dân sự; chính trị và
các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội là hai nhóm quyền cấu thành các quyền
tự do cơ bản của con người. Các quyền này lần đầu tiên được ghi nhận trong
Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền (UDHR) năm 1948 sau đó được cụ
thể hóa trong hai Công ước về các quyền dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội
văn hóa (ICCPR và ICCSCR) năm 1966.
- Nhóm các quyền tự do dân chủ về chính trị, bao gồm: Quyền bầu cử,
ứng cử; quyền tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội; quyền bình đẳng
nam nữ; quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quyền được thông tin; quyền tự
do tín ngưỡng.
- Nhóm quyền về dân sự (quyền tự do cá nhân), bao gồm: Quyền tự do
đi lại và cư trú trong nước; quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước;
quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được pháp luật bảo hộ về tính
mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở;
quyền được an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại, điện báo, quyền khiếu
nại, tố cáo...
- Nhóm các quyền về kinh tế - xã hội, bao gồm: Quyền lao động; quyền
tự do kinh doanh; quyền sở hữu hợp pháp về thừa kế; quyền học tập; quyền
12
nghiên cứu, phát minh, sáng chế; quyền được bảo vệ sức khoẻ; quyền được
bảo vệ hôn nhân và gia đình; quyền trẻ em; quyền người già...
Thế giới hiện đại với sự thay đổi thường xuyên và nhanh chóng trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống chính trị - kinh tế - xã hội, quyền con người được
phát triển không ngừng, phong phú hơn cả về nội dung và hình thức. Cho nên,
trong quá trình phát triển của nhân loại, một số quyền con người mới được
xuất hiện như:
- Quyền phát triển: Đó là quyền của các quốc gia, dân tộc đối với chủ
quyền trên lãnh thổ của mình như: Quyền tự do lựa chọn các thể chế chính trị,
kinh tế, quyền được trợ giúp về kỹ thuật và tài chính từ các tổ chức quốc tế và
các quốc gia khác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ. Quyền phát triển là sự hiện thực hoá quyền con người ở thế hệ thứ ba, khi
mà nhiều quốc gia từng phải gánh chịu các hậu quả nặng nề của các cuộc
chiến tranh và đang gặp phải những khó khăn trầm trọng về kinh tế như đói
nghèo, dốt nát, bệnh tật.... vì vậy họ có quyền được giúp đỡ về kinh tế, tài
chính từ các quốc gia, tổ chức khác.
Ở những mức độ khác nhau, các nước phương Tây đặc biệt là Mỹ, ngần
ngại thừa nhận quyền phát triển của các dân tộc như một quyền con người cơ
bản vì điều này dẫn đến trách nhiệm của họ với tư cách là những nước giàu,
nước phát triển đã từng vơ vét tài nguyên và bóc lột của cải vật chất, sức lao
động của các nước thuộc địa trước kia, nay phải đóng góp, hỗ trợ nỗ lực cho
sự phát triển của các nước đang phát triển và các nước nghèo. Thậm chí một
số nước phương Tây vẫn chủ trương đặt tiến bộ về nhân quyền tại một nước
(theo giác độ của họ) thành điều kiện cho việc cung cấp hay duy trì viện trợ
cho phát triển hoặc những điều kiện thuận lợi cho buôn bán, xuất khẩu… Các
nước đang phát triển khẳng định quyền phát triển là quyền phổ biến, một
13
trong những quyền cơ bản của con người. Họ bác bỏ gắn điều kiện nhân
quyền cho phát triển, đấu tranh chống lại phương Tây lẩn tránh trách nhiệm,
Hội nghị nhân quyền thế giới (Viên - 93) đã khẳng định lại nội dung tích cực
của quyền phát triển và chống việc đặt điều kiện cho viện trợ phát triển.
- Quyền được sống trong hoà bình: Ngày nay nhân loại đang đứng
trước nhiều hiểm hoạ mang tính toàn cầu như: hiểm hoạ chiến tranh hạt nhân,
nạn khủng bố mang tính quốc tế, khủng hoảng nghiêm trọng về lương thực,
thực phẩm, những cuộc xung đột về tôn giáo, chủng tộc,... Thực trạng đó đã
và đang đe doạ đến sự tồn tại và phát triển của loài người. Do đó yêu cầu về
quyền được sống trong một thế giới hoà bình, bền vững đang là vấn đề cấp
bách thật sự của các quốc gia, khu vực và cộng đồng trên thế giới. Chính vì
thế, pháp luật quốc tế ngày càng quan tâm đến các vấn đề liên quan đến cuộc
sống trong hoà bình của con người như vấn đề giải trừ quân bị, loại trừ vũ khí
hạt nhân, ngăn chặn khủng bố, ngăn chặn các cuộc xung đột.
- Quyền sống trong môi trường trong sạch: Sự phát triển bền vững của
đất nước, chất lượng cuộc sống, sức khỏe của dân cư và an ninh quốc gia chỉ
có thể được đảm bảo trong điều kiện bảo tồn và gìn giữ được tình trạng môi
trường trong sạch. Sống trong môi trường trong lành được coi là một quyền
con người cơ bản. Sự ô nhiễm, suy thoái, phá hủy môi trường không chỉ gây
tổn thất cho phát triển kinh tế, có thể phá hủy thành tựu tăng trưởng kinh tế,
dẫn tới sự gia tăng đói nghèo, sự phân hóa và bất bình đẳng xã hội, mà còn
gây ra nhiều bệnh tật nguy hiểm, làm tổn hại đến sức khỏe, đe dọa sinh mệnh
con người, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững của xã hội. Do
đó, tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh tế ổn
định, thực hiện tốt công bằng và tiến bộ xã hội, sử dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên và bảo vệ, nâng cao chất lượng môi trường sống.
14
1.2. KHÁI NIỆM VÀ CÁC BẢO ĐẢM CỦA VIỆC BẢO VỆ QUYỀN
CON NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở
VIỆT NAM
1.2.1. Khái niệm, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra vụ án hình sự
1.2.1.1. Khái niệm điều tra vụ án hình sự
Điều tra là hoạt động có mục đích khám phá sự thật khách quan phục
vụ nhu cầu của con người. Trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm, điều tra là
hoạt động khám phá, phát hiện tội phạm. Hoạt động điều tra được nhìn nhận
và quy định khác nhau ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào quan điểm chính trị,
chính sách hình sự, trình độ và cách thức tổ chức bộ máy phòng, chống tội
phạm ở từng nước.
Ở Việt Nam, theo các từ điển luật học giải thích rằng: “Điều tra là công
tác tố tụng hình sự được tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một cách
khách quan, toàn diện hay đầy đủ” [45, tr.32] hay “điều tra là tìm hiểu, xét hỏi
để biết rõ sự việc” [29, tr.526]. Trong khoa học pháp lý Việt Nam, có nhiều
quan điểm về vấn đề này như: “Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố
tụng hình sự, trong giai đoạn này cơ quan điều tra áp dụng mọi biện pháp do
Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người phạm tội”
[25, tr.34] hoặc “Điều tra là hoạt động tố tụng ở những giai đoạn đầu tiên của
quá trình tố tụng với nhiệm vụ chủ yếu là khôi phục lại vụ án, thu thập chứng
cứ, chứng minh có hay không tội phạm xảy ra” [13, tr.52].
Trong đời sống xã hội, yêu cầu bảo đảm pháp chế, tôn trọng và tuân thủ
nghiêm chỉnh pháp luật, phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi xâm phạm
đến lợi ích chung của Nhà nước, của xã hội, của cơ quan, tổ chức và công dân
là một đòi hỏi khách quan trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của
bất kỳ Nhà nước nào. Tuy nhiên, khi có bất kỳ hành vi nào xâm phạm đến các
lợi ích nêu trên, để xử lý nhanh chóng, kịp thời, Nhà nước sử dụng các thiết
15
chế tiến hành xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình này,
bắt buộc phải tuân thủ theo đúng các trình tự, thủ tục giải quyết vụ án đã được
pháp luật quy định.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn và có nhiều
hoạt động khác nhau, đồng thời có sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức và
của công dân. Điều tra, với tư cách là một giai đoạn trong quá trình tố tụng,
nhìn chung, pháp luật TTHS các nước đều khẳng định đây là hoạt động có mục
đích khám phá và tìm ra sự thật khách quan, phục vụ yêu cầu đấu tranh phòng,
chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Có thể hiểu, điều tra vụ án hình sự là hoạt động tố tụng, đồng thời là
hoạt động nghiệp vụ do Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra và điều
tra viên hoặc những người khác có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS
tiến hành bằng cách áp dụng các biện pháp điều tra và các biện pháp ngăn
chặn cần thiết để phát hiện, thu thập, củng cố chứng minh tội phạm và người
thực hiện hành vi phạm tội một cách khách quan, toàn diện và chính xác, đảm bảo
cho việc xử lý vụ án được đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tiến hành TTHS,
được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi CQĐT
ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết
định đình chỉ điều tra. Sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự, CQĐT có
quyền tiến hành các hoạt động điều tra và áp dụng các biện pháp ngăn chặn
mà BLTTHS đã quy định để phát hiện, thu thập và củng cố chứng cứ chứng
minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. BLTTHS cũng quy định
trong những trường hợp và điều kiện nhất định, một số hoạt động điều tra và
một số biện pháp ngăn chặn có thể được áp dụng trước khi ra quyết định khởi
tố vụ án hình sự.
Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS có quyền thực hành quyền
16
công tố và kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong quá trình tiến hành các
hoạt động điều tra và áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Trong quá trình thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, VKS có những nhiệm vụ, quyền hạn
cụ thể được quy định trong BLTTHS.
1.2.1.2. Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra
“Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nhiệm vụ chung của CQĐT là
phát hiện, thu thập được đầy đủ hệ thống chứng cứ để chứng minh làm rõ
được những vấn đề cần phải chứng minh” [21, tr.76]. Hoạt động điều tra đảm
bảo cho việc kết luận điều tra vụ án được khách quan, toàn diện và chính xác,
đúng nội dung sự thật, đúng quy định của pháp luật. Trường hợp chứng minh
được bị can đã thực hiện tội phạm thì phải đề nghị truy tố bị can. Kết quả
công tác điều tra là cơ sở để VKS truy tố bị can trước pháp luật. Trường hợp
qua điều tra chứng minh được không có hành vi phạm tội xảy ra, hành vi
không cấu thành tội phạm hoặc có căn cứ khác để đình chỉ điều tra theo quy
định của pháp luật thì phải ra quyết định đình chỉ điều tra, tránh làm oan
người vô tội. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ chung, CQĐT cần:
- Kịp thời áp dụng các biện pháp ngăn chặn cần thiết khi có đủ căn cứ
theo luật định để kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc tiêu hủy chứng
cứ hoặc thông đồng giữa những người phạm tội và với người khác, gây khó
khăn cản trở cho công tác điều tra, thu thập chứng cứ. Thay đổi hoặc hủy bỏ
các biện pháp ngăn chặn đã áp dụng khi không còn cần thiết; thực hiện tốt
việc thông báo về áp dụng biện pháp ngăn chặn cho cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan theo quy định của BLTTHS.
- Áp dụng và tiến hành có hiệu quả các hoạt động điều tra cần thiết theo
các tình huống điều tra cụ thể, vận dụng tốt các chiến thuật điều tra, phối hợp
chặt chẽ với các lực lượng nghiệp vụ có liên quan, sử dụng tốt các phương
tiện kỹ thuật để phát hiện kịp thời, thu thập đầy đủ các chứng cứ cần thiết,
17